Trong nghiên cứu của chúng tôi, số bệnh
nhân có tình trạng ổ bụng bẩn nhiều giả mạc
chiếm tỷ lệ khá cao. Chúng tôi nhận thấy có liên
quan ý nghĩa giữa thời gian đau bụng càng lâu
thì tình trạng viêm phúc mạc càng nặng (p =
0,01). Tình trạng viêm phúc mạc có thể ảnh
hưởng đến các biến chứng về sau như áp xe tồn
lưu, nhiễm trùng vết mổ, liệt ruột kéo dài,
dính ruột.
Thời gian phẫu thuật trung bình của chúng
tôi tương đương với các tác giả Trần Ngọc
Thông(18), Betleff(1) và Lunevicius(11). Tuy nhiên
các tác giả Siu(17), Karimian(9) có thời gian phẫu
thuật ngắn hơn. Thời gian phẫu thuật dài hay
ngắn có thể do mức độ thành thạo và kinh
nghiệm của phẫu thuật viên. Ngoài ra, qua của
chúng tôi cho thấy ổ bụng sạch thì thời gian
phẫu thuật ngắn, ổ bụng bẩn, nhiều giả mạc thì
thời gian phẫu thuật kéo dài (p = 0,000).
Liên quan đến thời gian trung tiện sau mổ
trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân
phục hồi lưu thông ruột trước 72 giờ chiếm đa
số. Phục hồi lưu thông ruột phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như tuổi của bệnh nhân, tình trạng
viêm phúc mạc, thời gian đau trước phẫu thuật.
Các yếu tố liên quan đến thời gian trung tiện
cho thấy, tuổi của bệnh nhân càng cao thì thời
gian có trung tiện trở lại càng lâu (p = 0,011);
bệnh nhân có thời gian đau bụng kéo dài trước
khi phẫu thuật cũng ảnh hưởng đến thời gian
trung tiện của bệnh nhân (p = 0,000); tình trạng
viêm phúc mạc lan tỏa làm thời gian bệnh nhân
trung tiện chậm hơn (p = 0,014).
Thời gian dùng thuốc giảm đau sau mổ
trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là
3,29 ± 1,08 ngày nhiều và dài hơn so với các tác
giả khác Ngô Minh Nghĩa(12), Trần Ngọc
Thông(18), nguyên nhân có thể do thời gian bệnh
nhân đau bụng kéo dài, tình trạng viêm phúc
mạc nhiều hơn và thời gian phẫu thuật lâu hơn.
Biến chứng sau mổ: các nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước cho thấy tỷ lệ nhiễm
trùng vết mổ trong mổ mở cao hơn so với phẫu
thuật nội soi khâu thủng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khâu thủng ổ loét dạ dày - tá tràng qua phẫu thuật nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 21
KHÂU THỦNG Ổ LOÉT DẠ DÀY - TÁ TRÀNG
QUA PHẪU THUẬT NỘI SOI
Vũ Mạnh Quỳnh*, Trần Thiện Trung**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Thủng ổ loét DD-TT là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Trước đây hầu hết
bệnh nhân được mổ mở để khâu lỗ thủng, ngày nay khâu thủng ổ loét dạ dày – tá tràng (DD-TT) bằng
phẫu thuật nội soi (PTNS) đang được áp dụng rộng rãi tại các bệnh viện tuyến tỉnh, trung ương. Nghiên
cứu nhằm đánh giá tính khả thi và kết quả sớm phẫu thuật nội soi khâu thủng ổ loét DD-TT tại bệnh viện
đa khoa khu vực tuyến huyện.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu gồm 80
bệnh nhân được chẩn đoán và phẫu thuật nội soi khâu thủng ổ loét DD-TT tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Củ
Chi từ tháng 1/2009 đến tháng 12/2010.
Kết quả: Trong 80 bệnh nhân được phẫu thuật nội soi khâu thủng ổ loét DD-TT, chuyển mổ mở 3 trường
hợp, tỷ lệ thành công của phẫu thuật là 96,3%. Tuổi trung bình 47,9, nhỏ nhất 16 tuổi, lớn nhất 80 tuổi. Thời
gian từ lúc bắt đầu đau bụng đến lúc mổ trung bình 11,6 giờ. Thời gian phẫu thuật trung bình 75 phút, nhanh
nhất 45 phút, lâu nhất 190 phút. Đa số bệnh nhân phục hồi lưu thông ruột trước 72 giờ (83,1%). Có 4 trường
hợp nhiễm trùng vết mổ, không có trường hợp tử vong.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi khâu thủng ổ loét DD-TT có nhiều ưu điểm: vết mổ nhỏ tính thẩm mỹ cao,
bệnh nhân ít đau vết mổ sau phẫu thuật, thời gian bệnh nhân có trung tiện ngắn, ít biến chứng và bệnh nhân
xuất viện sớm.
Từ khóa: Thủng loét dạ dày-tá tràng; Phẫu thuật nội soi.
ABSTRACT
LAPAROSCOPIC REPAIR FOR PERFORATED PEPTIC ULCER
Vu Manh Quynh, Tran Thien Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 21 – 25
Objective: Perforated gastroduodenal ulcer is a common surgical emergency. In the past few decades, most
of patients were undergone conventional or open repair to suture perforation. However, laparoscopic repair has
been used widely to manage perforated gastroduodenal ulcer in hospitals in recent years. This study has been done
to evaluate the early outcome of laparoscopic repair for perforated peptic ulcer at Cu Chi hospital.
Methods: A retrospective descriptive cross – sectional study. The target group was 80 patients with a
clinical diagnosis and surgical treatment of perforated gastroduodenal ulcer at Cu Chi hospital from January 2009
to December 2010.
Results: Of 80 patients were undergone laparoscopic repair to treat perforated gastroduodenal ulcer, 3 cases
converted into open repair, success rate was 96.3%. The mean age was 47.9 with the youngest and the oldest were
16 and 80 respectively. The median duration between the onset of pain and time of operation was 11.6 hours. The
mean of operative time was 75 minutes (45 – 190 minutes). Almost all of patients recovered intestinal movement
before 72 hours (83.1%). There were 4 cases suffered wound infection, no death had been recorded.
* Khoa Ngoại - Bệnh viện đa khoa khu vực Củ Chi ** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS Trần Thiện Trung ĐT: 0903645659 Email: drtranthientrung@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 22
Conclusions: Laparoscopic repair of perforated gastroduodenal ulcer has been the advantaged procedure. It
was associated with tiny incisions aesthetically. The other benefits were less postoperative pain, earlier return to
normal bowel patients’ function, less complications and a shorter postoperative hospital stay.
Key words: Perforated peptic ulcer, Laparoscopic repair.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thủng ổ loét DD-TT là một cấp cứu ngoại
khoa thường gặp, đứng thứ hai sau viêm ruột
thừa cấp. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài
nước cho thấy mặc dù với điều trị nội khoa khá
hiệu quả nhưng biến chứng thủng ổ loét DD-TT
vẫn còn khá cao(4,10).
Theo quan điểm hiện nay, điều trị chủ yếu là
khâu lỗ thủng đơn thuần kết hợp với điều trị nội
khoa. Trước đây hầu hết bệnh nhân được mổ
mở để khâu lỗ thủng, ngày nay nhiều nghiên
cứu cho thấy PTNS có nhiều ưu điểm như thời
gian nằm viện ngắn, vết mổ ít đau, bệnh nhân
có nhu động ruột và phục hồi sớm sau mổ Vì
vậy PTNS ngày càng được áp dụng rộng rãi, đặc
biệt là trong phẫu thuật đường tiêu hóa và khâu
lỗ thủng qua phẫu thuật nội soi đang là một lựa
chọn của các phẫu thuật viên tại các cơ sở ngoại
khoa được đào tạo và trang bị mổ nội soi.
Liên quan đến phương pháp khâu thủng ổ
loét đơn thuần, theo Đỗ Đức Vân(3), trong các
thập niên của thế kỷ 20 (1960-1990) là 67%. Tuy
nhiên ngày nay theo các tác giả trong và ngoài
nước, tỷ lệ khâu lỗ thủng tăng lên từ 90% –
100%(13,19,16).
Trên thế giới cũng như trong nước, đã có
khá nhiều báo cáo về PTNS khâu thủng ổ loét
DD-TT. Trong nghiên cứu này của chúng tôi,
ngoài việc đóng góp một phần nhỏ về kết quả
sớm của PTNS khâu thủng loét DD-TT, còn là
một điểm mới về tính khả thi khi ứng dụng
PTNS điều trị trong cấp cứu tại một bệnh viện
đa khoa khu vực như bệnh viện Củ Chi, thành
phố Hồ Chí Minh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu những bệnh nhân được
chẩn đoán và điều trị thủng ổ loét DD-TT tại
bệnh viện Đa khoa khu vực Củ Chi từ tháng
01/2009 đến tháng 12/2010.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Thỏa các tiêu chuẩn an toàn của PTNS,
không có bệnh nội khoa nặng, không có tiền căn
phẫu thuật ổ bụng, không hẹp môn vị, không
chảy máu tiêu hóa trên, được phẫu thuật trước
24 giờ tính từ lúc bắt đầu đau bụng.
Kỹ thuật mổ
Bệnh nhân nằm ngữa, hai chân dạng, phẫu
thuật viên đứng giữa 2 chân bệnh nhân.
Số lượng và vị trí troca: đa số chúng tôi sử
dụng 3 troca, những trường hợp khó, chúng
tôi dùng troca thứ 4 để vén gan. 1 troca 11
mm dưới rốn để đặt scope, 1 troca 11 mm ở
hông phải, lỗ troca này sẽ được sử dụng để
đặt ống dẫn lưu ổ bụng sau khi hoàn tất phẫu
thuật, 1 troca 5,5 mm ở hông trái, trường hợp
cần thêm troca thứ 4, chúng tôi sẽ đặt troca 5,5
mm ở vùng thượng vị.
Hệ thống PTNS ổ bụng đồng bộ của hãng
Karl Storz (Đức).
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát triệu chứng lâm sàng và cận lâm
sàng ở bệnh nhân phẫu thuật nội soi khâu thủng
ổ loét dạ dày- tá tràng.
Đánh giá tính khả thi và kết quả sớm của
phẫu thuật nội soi khâu thủng ổ loét dạ dày-
tá tràng.
Xử lý và phân tích thống kê
Bằng phần mềm SPSS 18.0. Sử dụng các
phép kiểm: Chi bình phương, Independent
sample T test, One Way ANOVA.
KẾT QUẢ
Từ tháng 01/2009 đến tháng 12/2010, có 80
trường hợp được PTNS khâu thủng ổ loét DD-
TT, trong số này có 3 trường hợp chuyển mổ
mở, tỷ lệ thành công 96,3%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 23
Biểu đồ 1: Tuổi
Nhận xét: tuổi trung bình 47,9 ± 16,6, nhỏ
nhất 16 tuổi, lớn nhất 80 tuổi. Nhóm tuổi có tỷ lệ
cao nhất là 31 – 40 tuổi.
Giới: Trong 77 bệnh nhân được mổ nội soi
thành công có 68 nam và 9 nữ.
Nghề nghiệp: lao động chân tay 63,6%, lao
động trí óc 3,8%, khác 32,5%.
Tiền căn viêm loét DD-TT chiếm 42,9%
(33/77).
Bảng 1: Thời gian đau bụng
Giờ Số bệnh nhân Tỉ lệ (%)
< 6 giờ 10 12,9
6 – 12 39 50,6
> 12 – 18 13 16,9
> 18 – 24 15 19,5
Tổng cộng 77 100
Thời gian đau bụng đến khi phẫu thuật
trung bình là 11,6 ± 6,2 giờ, trong đó sớm nhất là
4 giờ và trễ nhất là 24 giờ. Thời gian đau bụng
trước 12 giờ là 63,6%.
Kết quả X quang bụng không sửa soạn: có
66/77 bệnh nhân có liềm hơi dưới cơ hoành, đa
số dưới cơ hoành phải. Sau khi bơm hơi qua ống
thông mũi - dạ dày, có thêm 6 trường hợp có
liềm hơi dưới cơ hoành. Như vậy tỷ lệ cuối cùng
có liềm hơi dưới cơ hoành là 93,5%.
Bảng 2: Số lượng bạch cầu
Bạch cầu Số bệnh nhân Tỉ lệ (%)
≤ 9.000 17 22,1
> 9.000 – 16.000 33 42,9
>16.000 27 35
Tổng cộng 77 100
Số BC trung bình trong máu trước phẫu
thuật là 14.100 ± 5.930.
Vị trí lỗ thủng: thủng hành tá tràng 84,4%,
môn vị 13% và dạ dày 2,6%.
Kích thước lỗ thủng: Có 10/77 trường hợp lỗ
thủng nhỏ < 5 mm, 67/77 trường hợp lỗ thủng 5
– 10 mm.
Tính chất bờ lỗ thủng: đa số bệnh nhân có
bờ lỗ thủng xơ chai (64,9%).
Tình trạng ổ bụng: bệnh nhân có ổ bụng
bẩn, nhiều giả mạc có tỷ lệ khá cao 80,5%.
Thời gian phẫu thuật trung bình 75 ± 29,9
phút, nhanh nhất là 45 phút, lâu nhất là 190
phút.
Thời gian trung tiện sau mổ: đa số bệnh
nhân trung tiện trong vòng 72 giờ sau mổ
(83,1%).
Thời gian dùng thuốc giảm đau trung bình
3,29 ± 1,08 ngày, ít nhất là 1 ngày và nhiều nhất
là 6 ngày.
Có 4 trường hợp nhiễm trùng lỗ troca,
những trường hợp này đã được điều trị nội
khoa ổn định sau đó. Không có trường hợp tử
vong.
Thời gian nằm viện trung bình 6,9 ± 2,3
ngày, ít nhất 4 ngày, nhiều nhất 17 ngày.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh
nhân có tuổi trung bình 47,9 tuổi, tương
đương với các tác giả Ngô Minh Nghĩa(12),
Nguyễn Tùng Sơn(15), và Đoàn Văn Trân(2).
Đây là độ tuổi lao động, cho nên chất lượng
và phương pháp điều trị sẽ ảnh hưởng đến
bản thân gia đình và xã hội.
Đa số bệnh nhân lao động chân tay chiếm
63,6%. Tỷ lệ thủng ở nhóm này cao có thể do
hoàn cảnh kinh tế, thói quen sinh hoạt hàng
ngày, chế độ ăn thất thường và ý thức vệ
sinh kém.
Hình ảnh X quang bụng không sửa soạn có
độ nhạy rất cao trong chẩn đoán thủng loét DD-
TT. Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết
bệnh nhân được chụp X quang đều có hình ảnh
liềm hơi dưới hoành, do đó không cần làm thêm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 24
những chẩn đoán hình ảnh khác gây tốn kém
cho bệnh nhân.
Liên quan đến xét nghiệm máu trong nghiên
cứu của chúng tôi, số bạch cầu trung bình trước
phẫu thuật khoảng 14.000. Số bệnh nhân có BC >
9000/mm3 là 77%. Số lượng bạch cầu tăng có liên
quan đến tình trạng viêm phúc mạc, đây sẽ là
dữ liệu quan trọng để đánh giá tình trạng viêm
phúc mạc trước khi phẫu thuật.
Thời gian từ lúc đau đến khi phẫu thuật
(thời gian thủng) ảnh hưởng đến thời gian phẫu
thuật và hậu phẫu của bệnh nhân. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, thời gian thủng trung bình
11,6 giờ. Theo Nguyễn Cường Thịnh(14), Đỗ Sơn
Hà(5), phần lớn bệnh nhân đến trước 6 giờ. Lý
giải về vấn đề này chúng tôi cho rằng, địa bàn
nghiên cứu của chúng tôi là vùng nông thôn,
điều kiện kinh tế khó khăn có thể ảnh hưởng
đến thời gian nhập viện của bệnh nhân.
Liên quan đến vị trí lỗ thủng trong nghiên
cứu của chúng tôi: thủng hành tá tràng gặp
84,4%, môn vị 13% và thủng dạ dày là 2,6%.
Theo các tác giả Hoàng Thanh Bình(1), Hồ Hữu
Thiện(6), Nguyễn Cường Thịnh(9), Trần Thiện
Trung(20) và Siu(20), đa số bệnh nhân có lỗ thủng ở
mặt trước hành tá tràng.
Thủng trên nền ổ loét xơ chai trong nghiên
cứu của chúng tôi chiếm 64,9%, tương đương
với các tác giả khác như Đỗ Đức Vân(4), Trần
Thiện Trung(20). Liên quan giữa kích thước lỗ
thủng và ổ loét xơ chai, chúng tôi thấy những ổ
loét xơ chai thủng thường có đường kính lỗ
thủng lớn hơn ổ loét mềm mại (p = 0,00).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số bệnh
nhân có tình trạng ổ bụng bẩn nhiều giả mạc
chiếm tỷ lệ khá cao. Chúng tôi nhận thấy có liên
quan ý nghĩa giữa thời gian đau bụng càng lâu
thì tình trạng viêm phúc mạc càng nặng (p =
0,01). Tình trạng viêm phúc mạc có thể ảnh
hưởng đến các biến chứng về sau như áp xe tồn
lưu, nhiễm trùng vết mổ, liệt ruột kéo dài,
dính ruột...
Thời gian phẫu thuật trung bình của chúng
tôi tương đương với các tác giả Trần Ngọc
Thông(18), Betleff(1) và Lunevicius(11). Tuy nhiên
các tác giả Siu(17), Karimian(9) có thời gian phẫu
thuật ngắn hơn. Thời gian phẫu thuật dài hay
ngắn có thể do mức độ thành thạo và kinh
nghiệm của phẫu thuật viên. Ngoài ra, qua của
chúng tôi cho thấy ổ bụng sạch thì thời gian
phẫu thuật ngắn, ổ bụng bẩn, nhiều giả mạc thì
thời gian phẫu thuật kéo dài (p = 0,000).
Liên quan đến thời gian trung tiện sau mổ
trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân
phục hồi lưu thông ruột trước 72 giờ chiếm đa
số. Phục hồi lưu thông ruột phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như tuổi của bệnh nhân, tình trạng
viêm phúc mạc, thời gian đau trước phẫu thuật.
Các yếu tố liên quan đến thời gian trung tiện
cho thấy, tuổi của bệnh nhân càng cao thì thời
gian có trung tiện trở lại càng lâu (p = 0,011);
bệnh nhân có thời gian đau bụng kéo dài trước
khi phẫu thuật cũng ảnh hưởng đến thời gian
trung tiện của bệnh nhân (p = 0,000); tình trạng
viêm phúc mạc lan tỏa làm thời gian bệnh nhân
trung tiện chậm hơn (p = 0,014).
Thời gian dùng thuốc giảm đau sau mổ
trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là
3,29 ± 1,08 ngày nhiều và dài hơn so với các tác
giả khác Ngô Minh Nghĩa(12), Trần Ngọc
Thông(18), nguyên nhân có thể do thời gian bệnh
nhân đau bụng kéo dài, tình trạng viêm phúc
mạc nhiều hơn và thời gian phẫu thuật lâu hơn.
Biến chứng sau mổ: các nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước cho thấy tỷ lệ nhiễm
trùng vết mổ trong mổ mở cao hơn so với phẫu
thuật nội soi khâu thủng.
Bảng 3: So sánh tỷ lệ nhiễm trùng giữa mổ mở và
mổ nội soi
Tác giả Mổ mở (%) PTNS (%)
Hồ Hữu Thiện(8) 12,6 1,8
Trần Ngọc Thông(18) 11,8 0,8
Betleff(1) 6,12 0
Siu(17) 12,1 3,4
Chúng tôi ghi nhận có 5,2% (4/77) trường
hợp nhiễm trùng lỗ troca, và đều được điều trị
nội khoa ổn định.
Không có trường hợp tử vong.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 25
Thời gian nằm viện trong nghiên cứu của
chúng tôi trung bình 6,9 ngày, tương đương với
các tác giả trong và ngoài nước như Hoàng
Thanh Bình(6), Hồ Hữu Thiện(8), Betleff(1). Chúng
tôi nhận thấy bệnh nhân càng lớn tuổi thì thời
gian nằm viện sẽ lâu hơn (p = 0,009), ổ bụng
càng bẩn cũng làm kéo dài thời gian nằm viện
của bệnh nhân (p = 0,007).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về tính khả thi của PTNS
khâu thủng ổ loét DD-TT ở bệnh viện đa khoa
khu vực Củ Chi thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ
thành công của PTNS là 96,3%.
Đặc điểm bệnh nhân thủng loét DD-TT chủ
yếu gặp ở nam, thường gặp trong độ tuổi lao
động, khoảng phân nửa bệnh nhân có tiền căn
viêm loét DD-TT. Kết quả chụp X quang bụng
đứng không sửa soạn hầu hết có liềm hơi dưới
hoành và không cần thiết sử dụng các phương
tiện chẩn đoán hình ảnh khác gây tốn kém cho
người bệnh.
Phẫu thuật nội soi có nhiều ưu điểm: vết mổ
thẩm mỹ, bệnh nhân ít đau sau phẫu thuật, thời
gian có trung tiện trở lại ngắn, biến chứng sau
mổ thấp và bệnh nhân được phục hồi sức khỏe
nhanh và xuất viện sớm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bertleff MJOE, Halm JA et al (2009). “Randomized clinical trial
of laparoscopic versus open repair of the perforated peptic ulcer:
the LAMA trial”. World J Surg, 33, 1368–1373.
2. Đoàn Văn Trân (2007), “Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật
khâu thủng ổ loét dạ dày tá tràng qua ngả soi ổ bụng”, Luận văn
thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
3. Đỗ Đức Vân (1995), “Vị trí của phẫu thuật cắt dây thần kinh X
trong điều trị ổ loét tá tràng thủng tại bệnh viện Việt Đức (thống
kê 2481 trường hợp trong 31 năm 1960-1990)”. Ngoại khoa, 9,
tr. 32-39.
4. Đỗ Đức Vân (1995), “Kết quả điều trị phẫu thuật ổ loét tá tràng
thủng trong cấp cứu tại bệnh viện Việt Đức”, Ngoại khoa 9-
1995, tr. 32-39.
5. Đỗ Sơn Hà, Nguyễn Văn Xuyên (1995), “Đặc điểm lâm sàng và
xử trí thủng ổ loét dạ dày tá tràng qua 189 trường hợp (1984-
1993) tại khoa phẫu thuật bụng viện 103”, Ngoại khoa 9-1995, tr.
46-55.
6. Hoàng Thanh Bình, Nguyễn Hồng Minh và cộng sự (2008),
“Nhận xét kết quả phẫu thuật nội soi khâu lỗ thủng ổ loét dạ dày
tá tràng tại Bệnh viện 175”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập
12, Phụ bản của số 4, tr. 209-214.
7. Hồ Hữu Thiện, Phạm Như Hiệp, Tô Văn Tánh và cộng sự, “Xu
hướng phẫu thuật thủng ổ loét dạ dày tá tràng hiện nay tại bệnh
viện Trung ương Huế”.
8. Hồ Hữu Thiện, Phạm Như Hiệp, Lê Lộc và cộng sự (2006) “Kết
quả điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng bằng phẫu thuật nội
soi”. Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập 10, Phụ bản của số 4.
9. Karimian F, Aminian A et al (2009), “Perforated peptic ulcer,
comparison between laparoscopic and open repair”, Shiraz E-
Medical Journal. Vol. 10, No. 1.
10. Lau JY, Sung J et al (2011), “Systematic review of the
epidemiology of complicated peptic ulcer disease: incidence,
recurrence, risk factors and mortality”, Digestion, 84(2):102-113.
11. Lunevicius R, Morkevicius M (2005), “Comparison of
laparoscopic venus open repair for perforated duodenal ulcer”,
Surg Endosc, 19(12): 1565-71.
12. Ngô Minh Nghĩa (2010), “Đánh giá kết quả sớm khâu thủng ổ
loét dạ dày tá tràng bằng phẫu thuật nội soi”, Luận án Bác sĩ
chuyên khoa 2, Trường đại học Y Dược Đại học Huế.
13. Nguyễn Anh Dũng, Đỗ Đình Công và cộng sự (2000), “Nhận
xét khâu thủng ổ loét dạ dày tá tràng qua ngả soi ổ bụng”, Ngoại
khoa, XL, 2, tr. 40-45.
14. Nguyễn Cường Thịnh, Phạm Duy Hiển và cộng sự (1995),
“Nhận xét qua 163 trường hợp thủng ổ loét dạ dày tá tràng”
Ngoại khoa 9-1995, tr. 40-45.
15. Nguyễn Tùng Sơn (2004), “Đánh giá kết quả khâu đơn thuần
trong điều trị phẫu thuật thủng loét dạ dày- tá tràng”, Luận án
Bác sĩ chuyên khoa II, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
16. Rodríguez-Sanjun JC, Fernndez-Santiago R et al (2005),
“Perforated peptic ulcer treated by simple closure and
Helicobacter pylori eradication”, World J Surg, 29, 849-825.
17. Siu WT, Leong HT, Law BKB et al (2002), “Laparoscopic repair
for perforated peptic ulcer a randomized controlled trial”, Ann
Surg, 235(3), 313–319.
18. Trần Ngọc Thông, Hồ Hữu Thiện và cộng sự (2008), “Đánh giá
kết quả khâu lỗ thủng loét dạ dày tá tràng bằng phẫu thuật nội
soi và phẫu thuật mở”, Ngoại khoa, Tập 12, Phụ bản số 4, tr.
320-324.
19. Trần Thiện Trung (2000). “Kết quả bước đầu của phẫu thuật
khâu thủng loét dạ dày tá tràng kết hợp với điều trị tiệt trừ
Helicobacter pylori”. Ngoại khoa, XL, (4).
20. Trần Thiện Trung (2008), “Thủng loét DD-TT và điều trị tiệt trừ
Helicobacter pylori”, trong Bệnh dạ dày tá tràng và nhiễm
Helicobacter pylori, Nhà xuất bản Y học chi nhánh thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 201 – 226.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khau_thung_o_loet_da_day_ta_trang_qua_phau_thuat_noi_soi.pdf