Khóa luận Bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam - Một số biện pháp nhằm hoàn thiện và phát triển

Mục lục LỜI NÓI ĐẦU Chương I: KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GIÁO DỤC I. Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ (BHNT) và sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục (ASGD) 1. Khái niệm 2. Lịch sử ra đời 2.1. Trên thế giới 2.2. Tại Việt Nam 3. Sự cần thiết của BHNT 4. Vai trò và vị trí của BHNT 4.1. Vai trò của BHNT 4.2. Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm 5. Những đặc điểm cơ bản của BHNT 5.1. BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro 5.2. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm 5.3. Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng 5.4. Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp 5.5. BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kế toán xã hội nhất định II. Các loại hình BHNT 1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm 1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong 1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ) 2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm 2.1. Bảo hiểm cá nhân 2.2. Bảo hiểm nhón 3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng III. Sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục trong hệ thống BHNT 1. Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới 2. Bảo hiểm cho trẻ em tại Việt Nam (sản phẩm bảo hiểm ASGD hay Phú tích luỹ, Phú tương lai .) 3. Nội dung cơ bản của An sinh giáo dục 3.1. Một số khái niệm 3.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm 3.3. Bảo tức 3.4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 3.5. Thủ tục bảo hiểm 3.6. Thời điểm pháp sinh hiệu lực, thời hạn, huỷ bỏ, thay đổi chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm 3.7. Chi trả bảo hiểm 3.8. Giải quyết tranh chấp Chương II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GIÁO DỤC TRONG HỆ THỐNG BHNT TẠI VIỆT NAM I. Sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam 1. Ý nghĩa của sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục 2. So sánh sản phẩm bảo hiểm ASGD của các Công ty bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam a. So sánh ASGD của Bảo Việt với Phú tích luỹ Giáo dục của Prudential. b. So sánh ASGD của Bảo Việt với ASGD của Công ty Bảo hiểm nhân thọ AIA c. So sánh ASGD của Bảo Việt với ASGD của Công ty Bảo hiểm Bảo Minh CMG d. So sánh ASGD của Bảo Việt với Giáo dục hỗn hợp của Công ty Manulife II. Tình hình triển khai sản phẩm bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 1. Tình hình phát triển của thị trường BHNT Việt Nam a. Tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam b. Tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm Nhân thọ Việt Nam 2. Tình hình triển khai sản phẩm ASGD tại Việt Nam 2.1. Công tác khai thác 2.2. Công tác đánh giá rủi ro 3. Nhận xét và đánh giá về bảo hiểm ASGD của Việt Nam trong thời gian qua a. Đánh giá chung về nghiệp vụ b. Hiệu quả kinh tế xã hội của bảo hiểm ASGD tại Việt Nam c. Đánh giá chung về kết quả triển khai sản phẩm bảo hiểm ASGD tại Việt Nam Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM BẢO HIỂM ASGD I. Định hướng và dự báo về bảo hiểm ASGD tại Việt Nam II. Kinh nghiệm về bảo hiểm nhân thọ của một số nước trên thế giới 1. Châu âu 2. Mỹ III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển sản phẩm bảo hiểm ASGD 1. Các giải pháp vĩ mô a. Hoàn thiện khung pháp lý cho ngành BHNT b. Xây dựng các biện pháp quản lý cho ngành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế d. Đưa ra một số biện pháp khuyến khích 2. Các giải pháp về phía các Công ty BHNT a. Tăng cường tuyên truyền quảng cáo b. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác c. Đa dạng hoá các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác d. Xây dựng phương pháp khai thác thích hợp với từng phần thị trường e. Công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý cán bộ f. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm 3. Các biện pháp khác a. Ứng dụng thành tựu mới của khoa học công nghệ b. Tăng cường hợp tác c. Mở rộng đầu tư phí KẾT LUẬN CHÚ THÍCH TÀI LIỆU THAM KHẢO Trích dẫn Nội dung Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục tiêu hàng đầu của chế độ xã hội chủ nghĩa ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8, 9 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế nước ta. Kể từ Đại hội VI, Đại hội của Đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế xã hội. Vì thế, nền kinh tế nước ta đang dần khởi sắc và phát triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài, nền kinh tế có những bước tăng trưởng nhảy vọt qua các năm, điều kiện sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đất nước đang trong thời kỳ Đổi mới nên cùng với sự biến chuyển không ngừng về mọi mặt, từ kinh tế xã hội đến chính trị ngoại giao, nền kinh tế mở theo hướng “đa phương hoá - đa dạng hoá” đã và đang tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói riêng phát triển về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều ngành và nghiệp vụ mới ra đời. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT) thuộc ngành bảo hiểm là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ BHNT mang tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nghiệp vụ BHNT bao gồm nhiều loại hình khác nhau như: BHNT có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục . Sau một thời gian lựa chọn đề tài viết khoá luận, mặc dù đề tài còn nhiều khúc mắc và số liệu thực tế chưa nhiều nhưng cùng với sự động viên của thầy giáo hướng dẫn và sự giúp đỡ nhiệt tình của các công ty BHNT em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài với nội dung: “Bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam - Một số biện pháp nhằm hoàn thiện và phát triển”. Sở dĩ em chọn đề tài trên cho khoá luận tốt nghiệp của mình là vì những lý do sau: - Mặc dù BHNT ra đời rất sớm trên thế giới (năm 1583, ở Anh) và không ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất muộn ở Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng vào thực tế triển khai ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa kinh tế lớn. - Do nghiệp vụ “An sinh giáo dục“ mới được triển khai ở nước ta, nên khó tránh khỏi những hạn chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty BHNT phải trả một khoản tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách hàng. Do vậy công ty BHNT cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của công ty. - Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai“ thì chương trình “An sinh giáo dục“ là một biện pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi sau. Khi nghiên cứu đề tài, em đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp luận như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp kết hợp giữa logic và lịch sử, phương pháp tổng hợp thống kê nhằm phân tích tình hình triển khai, thị trường khách hàng tiềm năng, những tồn tại từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh trên thị trường bảo hiểm này trong thời gian tới. Xuất phát từ những nội dung trên đề tài được kết cấu gồm ba phần: ChươngI: Khái quát về bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dụcChươngII: Thực trạng triển khai sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục trong hệ thống BHNT tại Việt NamChương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển sản phẩm bảo hiểm ASGD

doc112 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2091 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam - Một số biện pháp nhằm hoàn thiện và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yêu cầu về khả năng thanh toán ở nước sở tại nhỏ hơn so với chính quốc. Với lý do là nguồn vốn từ bên ngoài vào các công ty bảo hiểm nước ngoài đựơc phép thành lập các công ty bảo hiểm với cơ sở chi phí thấp và tổ chức nhân sự gọn nhẹ. Một công ty BH nhỏ đóng trụ sở tại trung tâm ở nước ngoài có thể được lợi từ việc triển khai một loạt dịch vụ bảo hiểm, phổ biến kinh nghiệm và chuyên gia tư vấn ở những trung tâm này với mục đích đơn giản là thực hiện việc thâm nhập vào thị trường mới. Ví dụ, một số nhà quản lý ở Ailen có kinh nghiệm trong việc thành lập và hoạt động hệ thống quản lý ở hầu hết các nước EU. Trong một số trường hợp cơ cấu tổ chức quản lý ở Luxemburg và Ailen thể hiện pháp chế của EU theo cách mà nó có một sự linh hoạt về những sản phẩm mà nó có thể được phát triển. Theo các hướng dẫn BHNT ở các nước châu Âu, các công ty BH có thể sử dụng sự linh hoạt của sản phẩm để phát triển các sảm phẩm có thể được bán ở các nước khác nơi mà những thị trường này chưa thể hiện mức độ của sự linh hoạt. Có một số vấn đề cần lưu ý khi bán sản phẩm bảo hiểm xuyên biên giới đó là: thương hiệu, phân phối, các vấn đề về văn hóa, luật lệ địa phương và cấu trúc hoạt động. +Những công ty thâm nhập vào thị trường mới thường gặp khó khăn để vượt qua sự thiếu hiểu biết về thương hiệu của công ty đối với người tiêu dùng nơi này. Hơn nữa, nhà phân phối thường quan tâm tới sự cam kết của công ty BH với thị trường mà cụ thể là ủng hộ của công ty BH có thể cung cấp. Các công ty bảo hiểm xuyên biên giới bán bảo hiểm thông qua thị trường môi giới đòi hỏi sự kết hợp của công tác tiếp thị năng động cà sự cải tiến về sản phẩm để tạo nên sự ảnh hưởng mới đến thị trường nước sở tại. +Nhiều công ty BH xuyên biên giới là các ngân hàng và nhà quản lý quỹ tài chính đang hoạt động tại thị trường này. Nếu những công ty BH không có diều kiện như trên, họ phải định hướng cố tìm cho được đối tác sở tại làm chức năng phân phối. Nhưng như vậy, thời gian xâm nhập vào thị trường sẽ chậm và không đảm bảo cho sự thành công. Nếu công ty BH xâm nhập theo con đường môi giới thì họ phải chấp nhận một thức tế là tốc độ phát triển trong những năm đầu là rất chậm. +Việc xâm nhập vào thị trường mới của công ty BH nước ngoài bao gồm việc đảm bảo rằng các sản phẩm và thông tin cho khách hàng được thiết kế phù hợp với từng thị phần riêng biệt. Các công ty BH mong muốn làm khác biệt các sản phẩm bảo hiểm của họ và điều này đảm bảo rằng thị trường sẽ chấp nhận sản phẩm của họ. +Sự thành công của việc xâm nhập vào các thị trường khác nhau của EU còn phụ thuộc vào luật lệ địa phương ở công ty BH định nhằm vào và thái độ của chính quyền đối với công ty BH xuyên biên giới. Vấn đề xử lý thuế ở nước sở tại cũng là điều quan trọng. +Công ty BH xuyên biên giới cũng phải quyết định xem nên bán bảo hiểm xuyên biên giới (tự do về dịch vụ) hay thành lập một chi nhánh (tự do về thành lập) ở từng nước. Một công ty bảo hiểm xuyên biên giới phải có cấu trúc và các hệ thống hoạt động để làm sao có thể cung cấp các dịch vụ bán hàng ít nhất cũng phải tốt như các công ty BH trong nước đang làm. +Các công ty BHNT bán BH xuyên biên giới chủ yếu tập trung vào các sản phẩm BH đầu tư, cụ thể là các sản phẩm BH liên quan đến cá thể. Các sản phẩm BH liên quan đến cá thể, chứng khoán các danh mục đầu tư, và chứng khoán chia lợi tức cá thể. Các sản phẩm BH liên quan đến cá thể thường là sản phẩm trọn gói bảo hiểm- đó là sản phẩm trọn gói tiết kiệm như là một sản phẩm đầu tư liên quan đến cá thể để đạt được những thuận lợi về thuế. Ví dụ, các công ty BH ở Ailen, Luxemburg và đảo Man bán BH vào thị trường Vương quốc Anh bởi vì hiện nay còn thiếu sự liên kết đồng bộ pháp luật được phép ở những nước này. Do vậy điều này cho phép các công ty BH xuyên biên giới có được sự linh hoạt hơn và phạm vi rộng hơn về các sản phẩm đầu tư với các quỹ tài chính liên quan đến cả thể hơn các công ty đang có giấy phép hoạt động tại Vương quốc Anh. Chứng khoán các danh mục đầu tư là một trong những sản phẩm chính mà các công ty BH xuyên biên giới chào bán. Chúng là những chứng khoán loại tốt đơn lẻ liên quan đến cá thể được chào bán với phạm vi rộng về tài sản, trong đó người được BH có thể lựa chọn để đầu tư vào với một mức độ được phép mua. Sự lựa chọn về tài sản đối với chứng khoán đầu tư có thể bị hạn chế đối với nhà đầu tư. Sự lựa chọn cho phép chào bán cho những người sở hữu cá nhân về tài sản như cổ phần, cổ phiếu, chứng khoán, tín thác đầu tư, tín thác cá thể (cao hơn chứng khoán cá thể). Tất cả những nội dung trên là là dịch vụ mua bán cổ phiếu của sản phẩm trọn gói BHNT. Mức độ của việc tự do lựa chọn các hình thức đầu tư phụ thuộc vào quy mô của đầu tư. Bảo hiểm tín dụng cũng trở thành một trong các sản phẩm hàng đầu được các công ty Ailen chào bán. Trong năm 1999, bảo hiểm tín dụng đạt mức trên 50% tổng số dịch vụ BH của Ailen bán ở thị trường Vương quốc Anh (18). 2.Mỹ Tập đoàn quốc tế Hoa Kỳ (American International Group) (AIG) là công ty bảo hiểm lớn tại Hoa Kỳ. AIG sở hữu toàn phần Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ (A.I.A), một công ty bảo hiểm rất có danh tiếng trong khu vực Đông Nam á. Theo AIG sự thành công hay thất bại trong kinh doanh sẽ tỷ lệ thuận với khả năng tìm kiếm khách hàng tiềm năng (KHTN). Và đối với một nhân viên tư vấn bảo hiểm (NVTVBH) thì điều này trở nên quá rõ ràng. Vì vậy NVTV cần có một phương pháp khoa học trong việc tìm kiếm KHTN. Việc tìm kiếm này có thể thông qua các phương pháp sau: +1 Đầu mối liên hệ Cho đến nay phương pháp tốt nhất để sử dụng trong quá trình tìm kiếm KHTN là đầu mối liên hệ. Gía trị của đầu mối liên hệ ở chỗ nó cho phép NVTV tiếp xúc với các người khác một cách thuận lợi nhất mà NVTV sẽ không thể thực hiện được bằng cách khác. Người ta sẽ dễ dàng đồng ý hẹn với NVTV hơn bởi vì NVTV đó không phải là một người hoàn toàn xa lạ, họ có chung một người bạn. Đối với kiểu này có hai thời điểm tốt nhất để xin tên người liên hệ: vào cuối buổi nói chuyện (dù có bán được hay không) và vào lúc trao hợp đồng BH. Trong cả hai trường hợp trên, NVTV đã cung cấp dịch vụ cho người khách hàng đó và NVTV có thể mong được đáp lại. Ngay cả khi không bán được, NVTV đã giúp khách hàng hiểu về tình hình tài chính của họ hoặc đem lại cho họ những ý tưởng và gợi ý mà trước đó có thể họ không biết đến. +2 Các nhân vật ảnh hưởng Trong mọi trường hợp, để có được sự giới thiệu tốt, NVTV cần nhận thức rằng trước hết NVTV phải tạo được một mối quan hệ và một số mối giao hảo tốt với người cung cấp các đầu mối liên hệ. NVTV hãy mở rộng các nhân vật có ảnh hưởng, hoặc những người có thể liên tục cung cấp tên cho mình bởi vì uy tín của họ đối với người khác sẽ giúp NVTV tối đa hoá các cơ hội gặt hái thành công trong nghề BH. Nhân vật ảnh hưởng không nhất thiết phải là bạn thân của NVTV, nhưng người đó phải có một số phẩm chất nhất định như: Người đó muốn NVTV thành công Người đó phải được nhiều người biết đến (nhưng không nhất thiết phải có địa vị cao. Người đó phải sẵn lòng giúp đỡ và có khả năng cung cấp thông tin cho NVTV. Người đó phải tin tưởng vào BHNT Người đó phải bị thuyết phục bởi trình độ chuyên nghiệp của NVTV Người đó phải hoạt đọng trong giới mà NVTV muốn phát triển thành thị phần của mình. Những người thuộc mọi tần lớp xã hội khác nhau đều có thể trở thành những nhân vật có ảnh hưởng tích cực. Sau đây là những nguồn có khả năng cung cấp các nhân vật ảnh hưởng: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp (cũ và hiện tại, những người có mối quen biết rộng, các cán bộ các cơ quan ban ngành, những tổ chức có ảnh hưởng. +3 Tự quan sát Hãy hình tượng hoá một ngày bình thường trong đời của NVTV. Có thể buổi sáng khi ra đường NVTV sẽ chào những người láng giềng của mình. Trên đường đi làm sẽ dừng lại đổ xăng. NVTV vào một cửa hàng để mua thứ gì đó. NVTV nói chuyện với người quen ở góc phố. Đó chính là cơ hội để NVTV tự quan sát thái độ của mình với những người gặp gỡ. “Xin chào, anh có khoẻ không?…Công việc của chị thế nào?…Gia đình bác ra sao?…”. Đó có phải đơn thuần là những ngôn từ “xã giao” không? Hay là NVTV thực sự lắng nghe câu trả lời của họ? NVTV có xem những cuộc gặp gỡ thường ngày là cơ hội để bày tỏ những mối quan tâm chân thành đối với người khác không. Các ý tưởng sau đây rất cần cho NVTV, để có thể liên kết những cuộc gặp gỡ chào hỏi này vào việc xác định KHTN. Câu hỏi Thông tin thực sự muốn tìm Xin chào, anh có khoẻ không Có khả năng trở thành KHTN không Công việc của chị thế nào Có khả năng thanh toán không Gia đình bác thế nào Có thể phát hiện nhu cầu gì Chú làm ca ngày hay ca đêm Khi nào có thể gặp KHTN Công việc của chị ra sao Có sự cải tiến về tài chính không Ý chính là tập thói quen chân thành khi NVTV đặt câu hỏi và ghi nhớ câu trả lời. Những câu trả lời này có thể giúp NVTV xác định lại KHTN mà NVTV đã tìm được qua việc tự quan sát. Nói một cách đơn giản, hãy lưu tâm đến thế giới mà chính NVTV đang sông. Hãy luôn quan sát, tìm kiếm, lắng nghe, và luôn tìm kiếm cácmanh mối của những người có thể trở thành khách hàng tốt. Sau đây là danh sách các mục tiêu trong báo chí có thể cung cấp tên: trẻ mới sơ sinh, thay đổi trong quản trị kinh doanh, thay đổi chức vụ, đính hôn, cưới hỏi, thăng tiến, mua nhà mới, chuyển giao địa ốc, những thông tin khác. Tuy nhiên đây là nguồn cung cấp tên KHTN phổ biến, nên NVTV cũng nên hiểu là tất cả các NVTV khác cũng sẽ biết những tên này. Vì vậy, NVTVhãy chuẩn bị tinh thần nếu họ phản ứng bất lợi. Một nguồn khách hàng khác là những người mà NVTV trả tiền cho họ. Tất cả mọi người đều phải trả tiền cho một dịch vụ nào đó, chẳng hạn, mua tạp hoá. Những người này có thể sẵn sàng nói chuyện với NVTV về dịch vụ mà NVTV có thể cung cấp. NVTV trả tiền cho họ, vì sao lại không cho họ một cơ hội trả tiền cho NVTV? Tóm lại tìm kiếm KHTN là một quá trình có tổ chức và liên tục. Việc tìm kiếm KHTN qua các phương pháp trên giúp NVTV có một nguồn KHTN dự trữ, giúp xác định được loại thị trường mà NVTV sẽ nhắm tới và bán hàng, giúp xác định được khách hàng có chất lượng hơn là xác định số lượng những người còn mơ hồ. III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM BẢO HIỂM ASGD 1.Các giải pháp vĩ mô a. Hoàn thiện khung pháp lý cho ngành BHNT Tại Việt Nam, trong thời gian qua, môi trường pháp lý nói chung và môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói riêng ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, từng bước thiết lập và duy trì một thị trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Tuy vậy, cho tới nay hệ thống pháp luật ở Việt nam còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa nhất quán, nhiều văn bản còn chồng chéo, một số quy định chưa rõ ràng, chưa phù hợp với thực tế, lại có những quy định “đá nhau” làm cho việc kinh doanh ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sự phát triển nền kinh tế. Kinh doanh bảo hiểm cũng không phải là trường hợp ngoại lệ của thực trạng kể trên. Ngày 01/04/2001, Luật Kinh doanh bảo hiểm bắt đầu đi vào đời sống thường nhật của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường BHNT nói riêng, đặt nền móng cho quá trình hoàn thiện môi trường pháp lý trong kinh doanh BHNT. Một năm hiệu lực, việc thi hành luật này về cơ bản đã đạt được mục đích “bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm; góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân; tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm”. Tuy nhiên, sau một năm kiểm chứng cũng có thể nhận thấy để đảm bảo tính hiệu lực của Luật trong kinh doanh BHNT cần làm rõ một số điều khoản. Thứ nhất, Điều 16 quy định: “1.điều khoản loại trừ trách nhiệm quy định trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 3, Khoản 10 “Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thụân hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm”. Điểm mấu chốt ở đây là thuật ngữ “sự kiện bảo hiểm” khác với thuật ngữ “sự kiện” nói chung. Sự kiện bảo hiểm là sự kiện thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Đúng ra, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm là quy định các trường hợp doanh nghiệp BH không phải bồi thường hoặc trả tiền cho dù có xảy ra sự kiện có tác động đến đối tượng bảo hiểm hay không. Các trường hợp đó có thể chỉ loại sự kiện, hoặc nguyên nhân, loại hậu quả của sự kiện bị loại trừ. Thứ hai, Điểm a, Khoản 1, Điều 39 quy định doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải trả tiền bảo hiểm trong các trường hợp “Người được bảo hiểm chết do tự tử trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ ngày hợp đồng tiếp tục có hiệu lực,...”. Tuy nhiên, cần quy định cụ thể về “ngày hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực”. Thứ ba, đối với quy định về đại lý bảo hiểm (ĐLBH) nhân thọ, do hoạt động (ĐLBH) nhân thọ có những điểm khác biệt so với các đại lý thương mại nói chung nên pháp luật cần có quy định chặt chẽ và cụ thể hơn. Chẳng hạn, Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định loại tổ chức được tiến hành ĐLBH, mô hình tổ chức đại lý bảo hiểm và các yêu cầu đối với người điều hành (giám đốc) tổ chức ĐLBH. Như vậy, chúng ta nên hiểu mô hình đại lý bảo hiểm là tổ chức như thế nào? Theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, tồn tại hai mô hình: Là một tổ chức độc lập không thuộc doanh nghiệp bảo hiểm có cá nhân hoạt động ĐLBH bán chuyên nghiệp; Là một đơn vị hoạt động đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp trực thuộc doanh nghiệp bảo hiểm. Trong đơn vị có cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp và cá nhân quản lý hoạt động của đại lý. Đối với cá nhân quản lý đại lý không nhất thiết phải có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm. Và do những qui định của pháp luật về đại lý bảo hiểm và về hợp đồng đại lý bảo hiểm còn sơ sài nên chưa tạo cơ sở hoạt động cho đại lý bảo hiểm có tính chuyên nghiệp. Khi một bộ phận đại lý đã hoạt động với tính chất như một nghề chuyên nghiệp thì quá trình hoạt động đại lý sẽ có nhiều vấn đề phát sinh như: Trường hợp đại lý phải nghỉ vì lý do thai sản thì doanh nghiệp bảo hiểm trả hoa hồng cho đại lý như thế nào? Có chế độ gì cho đại lý đó? Nếu có thì cần theo quy định nào? Đại lý do đau ốm mà không hoàn thành chỉ tiêu khai thác bảo hiểm có bị doanh nghiệp xử lý vi phạm hợp đồng? Ngoài ra, trong luật bảo hiểm quy định khi đại lý vi phạm trách nhiệm nghề nghiệp, doanh nghiệp bảo hiểm là người chịu trách nhiệm về hoạt động đại lý bảo hiểm có quyền xử lý hành vi vi phạm đó nhưng pháp luật lại không qui định về các biện pháp chế tài doanh nghiệp bảo hiểm được sử dụng. Thứ tư, trong bảo hiểm nhân thọ, chính sách hoa hồng đóng một vai trò rất quan trọng. Do vậy khi qui định mức hoa hồng tối đa áp dụng cho toàn thị trường, cần xác định mức hoa hồng của các nghiệp vụ sao cho đảm bảo tính hợp lý trong tương quan giữa các sản phẩm bảo hiểm, các phương thức đóng phí, thời hạn bảo hiểm, bảo đảm sự linh hoạt cho các doanh nghiệp có thể phát triển được đội ngũ đại lý chuyên nghiệp trong bảo hiểm nhân thọ. Trong giai đoạn hiện nay có thể quy định mức hoa hồng theo tỉ lệ tối đa của tổng hoa hồng trên tổng phí của hợp đồng (chẳng hạn , với bảo hiểm hỗn hợp thời hạn bảo hiểm dưới 10 năm tỷ lệ hoa hồng tối đa bằng 7% nhằm tạo sự linh hoạt tối đa cho các doanh nghiệp trong việc trả hoa hồng vì cùng thời hạn bảo hiểm mỗi sản phẩm lại có cách thức tính phí khác nhau và mỗi doanh nghiệp có cách trả hoa hồng khác nhau. Tuy nhiên, để điều tiết cạnh tranh khi thị trường mới hình thành có thể quy định thêm tỉ lệ hoa hồng tối đa trong năm hợp đồng thứ nhất. Trong giai đoạn tiếp theo, khi thị trường đã thiết lập được sự cạnh tranh tương đối lành mạnh và đạt đến trình độ phát triển nhất định, Nhà nước có thể thực hiện tự do hoá hoa hồng để tăng cường hiệu quả hoạt động của thị trường. Tóm lại, với sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, môi trường pháp lý trong ngành BHNT đã đầy đủ hơn và hoàn thiện hơn so với trước đây. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế và thiếu sót, chẳng hạn một số hạn chế, thiếu sót đã nêu ở trên. Trong khi không thể một sớm một chiều sửa đổi ngay Luật kinh doanh bảo hiểm, thì về phía Chính phủ và Bộ Tài chính cần có những quy định bổ sung và chi tiết hơn trong các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành Luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngành BHNT. Từ đó, bảo hiểm An sinh giáo dục mới có nền móng vững chắc để phát triển. Cũng từ đó mới có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm và công ty BH. b. Xây dựng các biện pháp quản lý cho ngành kinh doanh bảo hiểm Nhân thọ Bảo hiểm nhân thọ là ngành kinh doanh mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, Nhà nước cần phải nâng cao hiệu lực quản lý đối với hoạt động kinh doanh này. *Về vấn đề đào tạo đại lý Đại lý là kênh phân phối chính của bảo hiểm An sinh giáo dục nói riêng và bảo hiểm Nhân thọ nói chung. Công việc đào tạo đại lý bảo hiểm Nhân thọ do doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Chương trình đào tạo phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh, cách thức sử dụng đại lý lâu dài hay tạm thời. Do đó, chất lượng đào tạo tại các đại lý không đồng đều. Chứng chỉ đại lý bảo hiểm không phải do cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cấp nên giá trị pháp lý không cao. Vì vậy, để tiêu chuẩn hoá đội ngũ đại lý bảo hiểm nhân thọ Việt Nam ngang tầm với khu vực và thế giới, Bộ Tài chính cần quy định rõ nội dung đào tạo, đồng thời tiến hành tổ chức thi sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề đại lý, không nên giao hoặc uỷ quyền việc kiểm tra sát hạch và cấp chứng chỉ hành nghề đại lý cho các doanh nghiệp như hiện nay. Ngoài ra, trong bảo hiểm nhân thọ chính sách hoa hồng đóng vai trò rất quan trọng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của bảo hiểm nhân thọ, do đó, cần thiết lập một cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với việc sử dụng hoa hồng của các doanh nghiệp trong thực tế. Nếu vậy sẽ tránh được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm nhân thọ trong việc lôi kéo các đại lý giỏi về phía mình bằng cách tăng tỷ lệ hoa hồng. Đồng thời, tránh sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các đại lý trong việc thu hút khách hàng mua bảo hiểm cho công ty mình làm đại lý. * Nhanh chóng thiết lập hệ thống cảnh bảo về các vấn đề tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ Vấn đề tài chính cũng là một trong những vấn đề rất quan trọng đối với ngành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ để giúp ngành này “hoạt động trơn tru”. Vấn đề này ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại của các công ty bảo hiểm nhân thọ, vì nó liên quan đên khả năng thanh toán và khả năng chi trả cho người thụ hưởng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ví dụ, khi hợp đồng An sinh giáo dục đáo hạn thì phải trả cho người thụ hưởng số tiền bảo hiểm được quy định trong hợp đồng, hoặc khi người được bảo hiểm chết thì phải hoàn phí hoặc thanh toán một số tiền nhất định theo thoả thuận cho người tham gia. Như vậy, nếu không có khả năng chi trả thì doanh nghiệp sẽ không hoạt động bình thường. Luật Kinh doanh bảo hiểm, các nghị định, các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính đã điều chỉnh về vấn đề này như sau: “doanh nghiệp phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động (khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ theo quyđịnh và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn biên thanh toán tối thiểu của Bộ Tài chính quy định. Biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm là phần chênh lệch giữa giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp bảo hiểm). Trong trường hợp mất khả năng thanh toán phải báo ngay cho Bộ Tài chính, thực trạng tài chính, nguyên nhân và các biện pháp khăc phục. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không khôi phục khả năng thanh toán theo phương án đã được chấp thuận, Bộ Tài chính quyết định Ban kiểm soát khả năng thanh toán để khắc phục khả năng thanh toán của doanh nghiệp”. Tuy nhiên, đợi đến khi xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán mới báo cao lên Bộ Tài chính để tìm biện pháp khắc phục thì quá muộn sẽ gây tác động khó lường tới đời sống kinh tế xã hội. Nhờ hệ thống cảnh báo các vấn đê tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính có thể kiểm soát được khả năng tài chính của doanh nghiệp BHNT tạo điều kiện cho BHNT nói chung và sản phẩm An sinh giáo dục nói riêng phát triển một cách bền vững giảm thiểu các tác động xấu đến đời sống kinh tế xã hội. *Vấn đề lãi suất kỹ thuật Được giả định cho một thời gian rất dài, lãi suất kỹ thuật áp dụng cho tính phí Bảo hiểm nhân thọ và An sinh giáo dục là một yếu tố “đầu vào” vô cùng quan trọng, quyết định sự an toàn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và việc đảm bảo quyền lợi của khách hàng tham gia bảo hiểm. Thực tiễn vừa qua cho thấy, sự sụp đổ của hàng loạt công ty bảo hiểm nhân thọ Nhật Bản như Nissan, Kyoel, Daichi,... chủ yếu là do lãi suất kỹ thuật được đưa vào quá cao. Do vậy, Nhà nước cũng cần quan tâm thích đáng về vấn đề này (như đưa ra mức lãi suất kỹ thuật tham khảo) để giúp các doanh nghiệp xác định được lãi suất thích hợp đảm bảo khả năng thanh của doanh nghiệp bảo hiểm trong tương lai. * Vấn đề phân định chức năng của cơ quan quản lý bảo hiểm với Hiệp hội bảo hiểm Thực tế đòi hỏi phải phân định chức năng của cơ quan quản lý bảo hiểm với Hiệp hội bảo hiểm một cách rõ ràng, hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế theo hướng: cơ quan quản lý bảo hiểm chủ yếu tập trung vào việc xây dựng môi trường kinh doanh và công tác kiểm tra; Hiệp hội bảo hiểm tập trung vào công tác bảo vệ, điều hoà lợi ích giữa các doanh nghiệp bảo hiểm thành viên, đồng thời củng cố, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý bảo hiểm. Như vậy, do chỉ tập trung vào một lĩnh vực như trên thì công tác quản lý sẽ có hiệu quả hơn. c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Chúng ta đều biết Bảo hiểm nhân thọ nói chung và An sinh giáo dục nói riêng chỉ ra đời và phát triển trong môi trường kinh tế, pháp lý nhất định. Những điều kiện kinh tế bao gồm: tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân trên một đầu người, mức thu nhập hợp pháp của dân cư, tỷ lệ lạm phát của đồng tiền, tỷ giá hối đoái...Những điều kiện xã hội gồm: dân số, tuổi thọ bình quân của người dân, trình độ học vấn, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh...Ở Việt Nam, Bảo hiểm nhân thọ và An sinh giáo dục ra đời và phát triển được hơn 5 năm, do đã đáp ứng được những điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta luôn đạt được mức tăng trưởng cao (dao động ở mức tăng trưởng 7% GDP/năm (d), chỉ số giá cả hàng tiêu dùng tăng nhẹ ở mức một con số. Mức tăng trưởng kinh tế tăng kéo theo thu nhập bình quân đầu người/ tháng và thu nhập bình quân hộ gia đình/ năm tăng. Chẳng hạn, thu nhập bình quân lao động/ tháng ở Hà Nội năm 1999 là 533000VND/ tháng, ở thành phố Hồ Chí Minh là 934500/tháng; năm 2000 Hà Nội là 610500VND/tháng và thành phố Hồ Chí Minh là1057900VND/tháng (e). Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, với tốc độ tăng trưởng hiện nay chỉ mới tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Bảo hiểm nhân thọ và An sinh giáo dục ra đời còn để phát triển thì cần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn nữa. Khi đó, người dân sẽ không còn tâm lý lo lạm phát làm mất giá đồng tiền và có tiền nhàn rỗi để đầu tư cho tương lai của con em. Và khi kinh tế phát triển, đi đôi với nó là rủi ro cũng tăng và yêu cầu của thị trường đối với người lao động ngày càng khắt khe hơn, khó tính hơn, người lao động của tương lai buộc phải đầu tư lớn hơn như đầu tư học đại học, cao học, nghiên cứu sinh hoặc du học... Vì vậy, sẽ làm tăng nhu cầu mua sản phẩm An sinh giáo dục để có sự đảm bảo tài chính chắc chắn cho con em khi người chủ hợp đồng gặp rủi ro và để có món tiền lớn đáp ứng nhu cầu trong tương lai của con em. d. Đưa ra một số biện pháp khuyến khích Bảo hiểm nhân thọ và ASGD có vai trò to lớn trong việc khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống, tạo công ăn việc làm cho nhiều người và là kênh huy động vốn lớn cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Vì vậy, nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành BHNT nói chung & ASGD nói riêng phát triển. Trước hết, đầu tư là một lĩnh vực hoạt động có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì khả năng thanh toán theo hợp đồng ASGD của công ty bảo hiểm, bởi vì chắc chắn rằng dù người được bảo hiểm chết trước khi hợp đồng đáo hạn hay sống cho tới khi hợp đồng đáo hạn công ty bảo hiểm đều phải thanh toán một số tiền nhất định cho người thụ hưởng. Cho nên trong chính sách về đầu tư của nhà nước cần ưu tiên các doanh nghiệp BHNT chẳng hạn, đầu tư vào các công trình dự án an toàn vốn , lợi tức đầu tư cao để doanh nghiệp bảo hiểm có thể bảo toàn vốn và có lãi khi kinh doanh BHNT. Ngoài ra, để tạo cho các DNBH một công cụ nữa trong việc thu hút khách hàng, nhà nước nên có chính sách ưu đãi thuế thu nhập đối với những người tham gia BHNT (giống như ở các nước khác). Với chính sách ưu đãi về thuế đối với người tham gia BHNT, nhà nước có thể thực hiện chính sách khấu trừ phần phí BHNT nói chung và phần phí ASGD nói riêng mà các cá nhân đóng ra khỏi thu nhập chịu thuế, miễn thuế (một phần hoặc toàn bộ) đối với số tiền BH mà người tham gia BH được nhận, cho phép tính (một phần hoặc toàn bộ) số phí BH mà doanh nghiệp đóng BHNT vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Bằng cách này sẽ thu hút được rất nhiều người tham gia BH, đặc biệt là khách hàng có thu nhập cao bởi vì thuế thu nhập mà khách hàng phải đóng có thể sẽ rất cao nếu thu nhập của họ quá cao so với mức bình thường. Với ưu tiên này mà người bảo hiểm sẽ quyết định tham gia BHNT thay cho hình thức tiết kiệm, như vậy đã tạo được lợi thế cho DNBH khi cạnh tranh liên ngành xảy ra. Thêm vào đó, để có thể phát triển nghề đại lý như một nghề chuyên nghiệp khi xác định thuế thu nhập cho đại lý cũng cần có cách tính phù hợp bởi để đạt được hợp đồng đại lý BHNT phải bỏ ra khá nhiều chi phí như chi phí đi lại, tiếp thị...(mỗi đại lý có thể coi là một “doanh nghiệp”). 2. Các giải pháp về phía các công ty BHNT Tăng cường tuyên truyền quảng cáo Trong nền kinh tế thị trường, quảng cáo là hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp. Quảng cáo nhằm tạo lập và củng cố sự thiện cảm, lòng tin, uy tín, sự gắn bó của khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng đối với doanh nghịêp, phân biệt doanh nghiệp với các doanh nghiệp cạnh tranh, giúp thông tin cho công chúng về sản phẩm, so sánh và phân biệt sản0 phẩm của doanh nghiệp với các sản phẩm cạnh tranh, xây dựng nhãn hiệu hàng hoá cũng như hỗ trợ khách hàng. Do vậy, quảng cáo có vai trò hết sức quan trọng trong việc xúc tiến thương mại. Điều dễ thấy là, một sản phẩm dù được thiết kế hoàn hảo đến mấy nhưng nếu khách hàng không biết đến sự tồn tại của nó thì mãi mãi chỉ là sản phẩm tồn kho, không thể trở thành thương phẩm. ASGD là một sản phẩm khá phức tạp và có tính trừu tượng cao, người mua không thể hình dung hết về sản phẩm. Thêm vào đó, nhu cầu về sản phẩm này là nhu cầu thụ động, khách hàng ít khi chủ động tìm doanh nghiệp để mua ASGD mà thường chỉ mua sau khi được người bảo hiểm thuyết phục, vận động. Vì vậy, DNBH càng cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo. Có rất nhiều cách để quảngcáo ASGD. Trước hết phải phổ biến đối với mọi ngành, DNBH có thể quảng cáo về sản phẩm ASGD trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, tivi đặc biệt là Internet. Thứ hai, các công ty có thể tìm sự thừa nhận của công chúng bằng cách tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, nhất là các hoạt động có khả năng thu hút sự quan tâm lớn của công chúng, dễ chinh phục lòng người như tài trợ thể thao, tham gia giữ gìn môi trường. Tham gia các hoạt động từ thiện.. tài trợ các chương trình hoạt động của trẻ em như vẽ, cắm trại, hỗ trợ quỹ học bổng cho trẻ em nghèo vượt khó.. là những biện pháp có ảnh hưởng lớn đến việc quảng bá sản phẩm ASGD. Thứ ba, để khách hàng đặt trọn niềm tin vào công ty, công ty cần gửi thư trực tiếp cho khách hàng cảm ơn khách hàng đã tham gia sản phẩm ASGD để từ đó mối quan hệ giữa công ty và khách hàng ngày một gần gũi. Bên cạnh đó, ngoài việc tư vấn trực tiếp công ty có thể ghi âm, ghi hình về sản phẩm ASGD cũng như lợi ích của ASGD gửi cho khách hàng tiềm năng của mình để khách hàng có thời gian xem xét, cân nhắc. Cuối cùng, các công ty có thể tổ chức các buổi họp giới thiệu về sản phẩm của ASGD nhằm giúp người dân hiểu được sâu sắc hơn tác dụng của nó, giải đáp các thắc mắc của khách hàng. Ngoài các biện pháp trên, công ty có thể có rất nhiều biện pháp khác như in các tờ rơi quảng cáo dưới nhiều hình thức, tổ chức các buổi trả tiền bảo hiểm hàng loạt...để xúc tiến sản phẩm ASGD. b. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác Hiện nay, sản phẩm ASGD được phân phối qua 2 kênh: kênh trực tiếp và kênh gián tiếp. Tuy nhiên, số hợp đồng được ký kết thông qua kênh trực tiếp chiếm tỷ lệ nhỏ mà chủ yếu là qua kênh trung gian gồm: đại lý BHNT, môi giới bảo hiểm... Trong đó, hình thức có hiệu quả nhất hiện nay là đại lý BHNT. Bởi ASGD đối với khách hàng không phải là mối quan tâm thường trực, do vậy để thông tin đến được với khách hàng và để nắm bắt được nhu cầu thì cần thiết phải có sự tiếp cận và tư vấn mà lượng khách hàng cần tiếp cận là rất đông nên đại lý BHNT tỏ ra có ưu thế trong việc giải quyết tư vấn, trao đổi thông tin. Vì đại lý BHNT có nhiều thế mạnh như vậy, các công ty cần mở rộng mạng lưới đại lý thông qua tăng số lượng cán bộ đại lý khai thác và phân bố đều các phòng khai thác ra các tỉnh thành trong cả nước. Nhờ đó có thể đi sâu được vào các thị trường tiềm năng như ở các tỉnh thành phố có số lượng lớn dân cư làm nghề buôn bán và lao động tự do còn chưa biết về ASGD nếu mở rộng vào thị trường này sẽ đem lại kết quả khai thác khả quan. c.Đa dạng hoá các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác Biện pháp để khai thác ASGD hiện nay là qua các đại lý BHNT nhưng còn một kênh mà hiện nay các nước phát triển trên thế giới đang áp dụng để hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh BHNT& ASGD đem lại kết quả cao mà ở Việt Nam chưa khai thác mạnh đó là thiết lập hệ thống ngân hàng bảo hiểm (chẳng hạn ở Tây Ban Nha trong năn 2000, hoạt động ngân hàng bảo hiểm chiếm khoảng 60% phí BHNT).Theo kênh phân phối này thì các công ty bảo hiểm ký hợp đồng thoả thuận với các ngân hàng trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, các ngân hàng có nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng tiềm năng và ký hợp đồng bảo hiểm, còn các công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả hoa hồng trên tổng doanh thu phí bảo hiểm khai thác được. Kênh phân phối này có lợi thế ở chỗ tận dụng được đội ngũ nhân viên của ngân hàng, trụ sở giao dịch khang trang to lớn, chi phí hoạt động thấp, tận dụng được các nguồn thông tin và khách hàng sẵn có, các khách hàng ở đây thường là người có thu nhập cao trong xã hội, có khả năng tài chính để ký kết hợp đồng có giá trị lớn. Hiện nay, một số công ty bắt đầu thiết lập quan hệ đại lý với một số ngân hàng nhưng số lượng NH còn ít, các công ty cần đẩy mạnh hơn nữa trong việc khai thác kênh này. Bên cạnh đó, một biện pháp khai thác tương đối phổ biến đối với các loại sản phẩm thông thường mà chưa được áp dụng rộng rãi trong nghiệp vụ ASGD đó là các hình thức khuyến mãi, tặng quà cho khách hàng. Hiện nay mới chỉ có Manulife tặng món quà tốt nghiệp cho khách hàng còn các công ty khác thì chưa. Khuyến mại có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức như tặng quà cho người tham gia bảo hiểm, giảm phí cho người tham gia hợp đồng có số tiền bảo hiểm lớn, tặng quà cho khách hàng giới thiệu được nhiều khách hàng mới tham gia bảo hiểm...Đây là những hoạt động cần thiết và trong thực tế đã làm nên thành công cho nhiều doanh nghiệp ngoài ngành. Để xúc tiến thương mại đối với ASGD, bên cạnh việc đa dạng hoá các biện pháp khai thác, các doanh nghiệp cần ngày càng nâng cao chất lượng khai thác, giảm đến mức tối đa tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng. Để nâng cao chất lượng khai thác sản phẩm ASGD cần rút kinh nghiệm giữa các cán bộ khai thác, giữa các phòng khai thác. Những cán bộ khai thác có hợp đồng đã ký rồi mà khách hàng yêu cầu huỷ bỏ thì nên tìm hiểu rõ nguyên nhân và thuyết phục khách hàng tiếp tục duy trì hợp đồng. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng khai thác thì các công ty cần phải hoàn thiện sản phẩm ASGD của mình sao cho phù hợp với nhu cầu của người dân, đảm bảo phân biệt sản phẩm của công ty mình với đối thủ, đảm bảo sản phẩm của mình cung cấp nhiều quyền lợi cho khách hàng mà vẫn có lợi nhuận. Để làm được điều này các công ty phải tiến hành điều tra nghiên cứu nhu cầu của thị trường thông qua các biện pháp nghiên cứu thị trường như điều tra trực tiếp, nghiên cứu sản phẩm của đối thủ cạnh tranh về cả mặt thiết kế lẫn triển khai, nghiên cứu sản phẩm của các nước có nét tương đồng về trình độ phát triển, về văn hoá truyền thống. Thêm vào đó phải không ngừng học hỏi kinh nghiệm tính phí hợp lý, phí phải có tính cạnh tranh cao mà công ty vẫn có lãi. Hiện nay, có một số quyền lợi bảo hiểm ở một số công ty BHNT cung cấp sản phẩm ASGD mà tác giả thấy là các công ty khác cần học hỏi khi đưa ra sản phẩm ASGD mới trong tương lai. Đó là: Cho phép người tham gia bảo hiểm ASGD có quyền chuyển nhượng hợp đồng BH ASGD của Prudential. Điều này làm tăng tính thanh khoản của hợp đồng ASGD. Tặng một “món quà tốt nghiệp” trị giá 20% số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm vào ngày kỉ niệm hợp đồng bảo hiểm khi trẻ 22 tuổi dù không vào đại học của Manulife. Điều này giúp mở rộng quyền lợi người tham gia bảo hiểm. Cung cấp sản phẩm bổ sung: “quyền lựa chọn đảm bảo thời giá” cho khách hàng khi mua ASGD của Manulife. Điều này rất có ý nghĩa khi người dân VN luôn có tâm lý e ngại lạm phát và mất giá đồng tiền. Cho phép “bảo hiểm tạm thời” của AIA Cho vay theo hợp đồng ASGD của Bảo Việt Tặng thẻ ưu đãi, thẻ giảm giá của Bảo Việt, Prudential Bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn do rủi ro được bảo hiểm của Prudential, Bảo Việt. Tức các doanh nghiệp nên hoàn thiện theo hướng “cung cấp sản phẩm dịch vụ tổng hợp” cho khách hàng. d. Xây dựng phương pháp khai thác thích hợp với từng phần thị trường Thời gian tới các công ty cần có kế hoạch tập trung vào phân loại, đánh giá từng khu vực thị trường để có phương pháp khai thác thích hợp. Việc phân loại đánh giá này nhằm giúp nhận biết được đặc điểm, đặc trưng riêng của từng khu vực về thu nhập, về nhu cầu bảo hiểm, về nhận thức của người lao động, từ đó đưa ra các phương pháp khai thác khác nhau. Ví dụ, đối với thị trường các tổ chức tại cơ quan, công ty, trụ sở làm việc...cán bộ khai thác nên sử dụng phương pháp “vết dầu loang”. Phương pháp này thực hiện bằng cách tiếp xúc và kích thích nhu cầu tham gia bảo hiểm của các lãnh đạo tổ chức đó. Từ đó tiếp tục khai thác các cán bộ trong tổ chức bằng cách lấy các vị lãnh đạo đó là những tấm gương để khuyến khích, giải thích với nhân viên của họ về nghiệp vụ An sinh giáo dục này. Nghiệp vụ An sinh giáo dục là một nghiệp vụ rất thích hợp với các cán bộ, nhân viên công tác trong các tổ chức, cơ quan Nhà nước vì nó mang tính tiết kiệm, dành dụm, lo lắng cho tương lai. Một khi các vị lãnh đạo tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này tức là họ thấy được lợi ích và ưu việt của nó, điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc triển khai tiếp theo trong tổ chức này. Nhiều khi phương pháp này cũng cần áp dụng linh hoạt. Giả sử trước khi thực hiện kế hoạch khai thác ở một tổ chức, cán bộ khai thác tìm hiểu về lãnh đạo ở tổ chức này và biết được đó là một người rất bận rộn, hay phải đi công tác và rất khó gặp được. Lúc này, người cán bộ khai thác lại phải tìm cách tiếp cận với thu ký, trợ lý hay cán bộ cấp dưới của vị lãnh đạo đó, thuyết phục họ tham gia bảo hiểm. Sau khi đã thuyết phục được họ tham gia bảo hiểm, cán bộ khai thác sẽ có cơ hội để nắm rõ về vị lãnh đạo, về lịch công tác, có cơ hội để gặp gỡ và trò chuyện, từ đó mời tham gia bảo hiểm. Ngoài ra do tính chất của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, vào thời điểm bán sản phẩm mà nhà bảo hiểm cung cấp ra thị trường chỉ là lời hứa, lời cam kết, người bán không chỉ ra được kích thước, màu sắc.. người mua không cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Điều này gây trở ngại cho hoạt động khai thác sản phẩm. Để khắc phục, cán bộ khai thác cần có các biện pháp để củng cố lòng tin với khách hàng, tăng tính hữu hình cuả sản phẩm. Nên mời những người nổi tiếng có uy tín giới thiệu về sản phẩm hoặc những người này mới nhận được tiền trả bảo hiểm để tuyên truyền về sản phẩm. Từ đó để thấy phương pháp khai thác phù hợi với thị trường, công tác phân loại, đánh giá từng khu vực thị trường cần chính xác, cụ thể, kịp thời để nâng cao hiệu quả khai thác đối với nghiệp vụ “An sinh giáo dục”. e. Công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý cán bộ Các doanh nghiệp cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ bảo hiểm. Trước hết, công tác tuyển chọn cán bộ khai thác cần được tiến hành khoa học, nghiêm túc và đảm bảo chất lượng ngay từ ban đầu. Chất lượng nội dung đào tạo phải luôn được nâng cao. Đồng thời công tác sát hạch kiểm tra cần được duy trì thường xuyên. Từ đó tránh tình trạng cán bộ khai thác đi tư vấn mà không biết tư vấn gì, tư vấn như thế nào. Đồng thời phải nâng cao phong cách phục vụ của cán bộ bảo hiểm như cán bộ bảo hiểm phải luôn kiên nhẫn và coi “khách hàng luôn luôn đúng”, “khách hàng là thượng đế”, cần phải nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhằm xoá bỏ hoàn toàn các hiện tượng tiêu cực như ăn chặn tiền bảo hiểm của khách hàng, đồng loã với khách hàng để trục lợi bảo hiểm, vì lợi ích bản thân mà tư vấn bất lợi cho khách hàng, tranh giành khách hàng với đại lý cùng công ty hoặc tranh với đối thủ bằng cách sử dụng biện pháp cạnh tranh không lành mạnh như tung tin gây thất thiệt cho đối thủ, chỉ chạy theo số lượng của hợp đồng... f.Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm Công tác giám định - Các công ty nên tổ chức các khoá đào tạo giám định về các kiến thức y học, kiến thức luật để các cán bộ giám định hiểu sâu hơn về lĩnh vực này, tạo điều kiện hoàn thành tốt công việc. -Điều kiện cho các cán bộ giám định được đi học ở các công ty BHNT nước ngoài, gặp gỡ các chuyên gia về giám định trong công ty BHNT Đề nghị Bộ Tài chính cùng các cơ quan hữu quan quan tâm giúp đỡ tạo. Công tác trả tiền BH Khách hàng tham gia BH ASGD mong đợi gì ở doanh nghiệp bảo hiểm? Câu trả lời là: giải quyết quyền lợi bảo hiểm nhanh chóng, thoả đáng, giữ đúng cam kết với khách hàng. Vì vậy, khi tiến hành chi trả cho khách hàng theo hợp đồng các doanh nghiệp nên đáp ứng yêu cầu trên. Chỉ có như vậy thì niềm tin của khách hàng đối với công ty mới tăng, uy tín của công ty được củng cố. Từ đó một hình ảnh tốt về công ty được quảng bá, “tiếng lành đồn xa” sẽ giúp thu hút được khách hàng. Để đạt được điều đó các công ty nên quy định cụ thể về trách nhiệm của các cán bộ khai thác trong việc hướng dẫn khách hàng làm thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Nếu có bất cứ khiếu kiện nào của khách hàng về thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm, cán bộ khai thác thu phí của khách hàng đó sẽ phải chịu trách nhiệm. 3. Các biện pháp khác a. ứng dụng thành tựu mới của khoa học công nghệ Các doanh nghiệp cần nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin vào qúa trình khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí quản lý, hạ thấp phí bảo hiểm, tăng cường khả năng cạnh tranh, chuẩn bị tốt các điều kiện để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh mới, hội nhập vào tiến trình toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức. b. Tăng cường hợp tác Các doanh nghiệp cũng nên tăng cường hợp tác với nước ngoài nhằm học hỏi kinh nghiệm và tăng cường hợp tác với nhau để cùng phát triển và khai thác thị trường. Sự hợp tác nội bộ này có thể thực hiện trên các mặt như: đào tạo thị trường, phòng chống trục lợi BH, tạo nguồn cán bộ, đại lý, xây dựng và tăng cường uy tín, hình ảnh tốt đẹp của ngành, tạo lập và duy trì sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, thu thập và sử dụng số liệu liên quan. Đồng thời, tăng cườngvai trò của hiệp hội bảo hiểm trong các lĩnh vực hợp tác nêu trên. c. Mở rộng đầu tư phí Đối với một doanh nghiệp BHNT thì đầu tư phí có vai trò vô cùng quan trọng nó quyết định đến sức cạnh tranh và lợi nhuận của từng doanh nghiệp, tức sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi thứ nhất, trong rất nhiều nghiệp vụ BHNT, đặc biệt là trong sản phẩm ASGD việc chi trả là chắc chắn chỉ có điều là không biết chính xác tại thời điểm nào trong tương lai thôi. Vậy thì doanh nghiệp BHNT phải làm thế nào để bảo toàn vốn và có lãi để chi trả cho người được bảo hiểm. Thứ hai, nếu đầu tư có lãi sẽ giúp bù đắp lãi suất kỹ thuật đã giả định và có cơ hội giảm phí để tăng cạnh tranh trong tương lai. Vậy thì về phía chủ quan, các doanh nghiệp BHNT phải chủ động trong việc mở rộng tìm kiếm các cơ hội đầu tư, một trong những kênh đầu tư hợp lý hiện nay là tham gia góp vốn vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng của nhà nước, kênh này độ an toàn cao. Ngoài ra nếu công ty BHNT có đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi thì có thể đầu tư vào những kênh có độ rủi ro cao hơn. Còn về phía Nhà nước cũng cần tạo ra nhiều cơ hội đầu tư phí BH cho các doanh nghiệp BHNT hơn bởi ngành này có rất nhiều tác động tích cực đến đời sống kinh tế xã hội. Chẳng hạn như mở rộng kênh đầu tư phí vào thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp BHNT thông qua những biện pháp phát triển thị trường chứng khoán, đó là đa dạng hoá các công ty niêm yêt và hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Thực tế cho thấy chứng khoán là công cụ đầu tư quan trọng thứ hai của các công ty BHNT nhưng hiện nay tỷ trọng của đầu tư vào thị trường chứng khoán trong tổng đầu tư của các doanh nghiệp BHNT VN còn nhỏ hơn nhiều so với các nước trên thế giới (hầu hết các nước coi đó là công cụ quan trọng số một). KẾT LUẬN Người Việt Nam chúng ta có câu: “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan”, một đặc tính của người Việt là rất yêu trẻ con, vì thế mà cha mẹ thường dành cho con cái những gì tốt đẹp nhất của họ, mong muốn rằng con cái sau này sẽ có một tương lai được bảo đảm vững chắc cho dù có vấn đề gì xảy ra với bản thân họ đi nữa. An sinh giáo dục là chương trình Bảo hiểm trẻ em đã ra đời và được đón nhận nồng nhiệt bởi lẽ nó không chỉ mang tính tiết kiệm, bảo vệ cho đối tượng trẻ em mà cho cả phụ huynh - người chủ hợp đồng, nếu có rủi ro xảy ra đối với chủ hợp đồng trẻ em đó vẫn được bảo đảm. Nghĩa là chương trình này đã đáp ứng được nguyện vọng của nhiều người, thể hiện được tình cảm với con cái, xây dựng quỹ tài chính độc lập để các khoản chi không ảnh hưởng đến nhau, là hành trang để cho con vững bước vào đời, An sinh giáo dục không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội đó là tính nhân văn cao cả. Bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành, tạo dựng cho con cái mình một tương lai vững chắc về mặt tài chính, thể hiện được tình thương yêu đối với con cái đó chính là mong muốn của các bậc cha mẹ - điều này giải thích tại sao An sinh giáo dục luôn là sản phẩm được bán chạy nhất trong các công ty bảo hiểm. CHÚ GIẢI (1), (3), (4) theo Tạp chí Tài chính số 5 năm 2000, T4 (2), (5) theo Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2000 – 2001 Việt Nam & Thế giới, T38, T39 (6), (7) theo Tạp chí Tài chính số 1+2, năm 2002, T89 (8), (9) theo Thời báo kinh tế Việt Nam số 96, T2, ngày 12/8/2002 (a), (b) theo Thời báo kinh tế Việt Nam số 99, T9, ngày 19/8/2002 (10), (11) theo Tạp chí Tài chính số 1 năm 2001, T68 (12) theo Thời báo kinh tế Việt Nam số 57, T2, ngày 13/5/2002 (13) theo Thời báo kinh tế Việt Nam số 99, T9, ngày 19/8/2002 (14) theo Tạp chí Tài chính số 9 năm 2002, T42 (15) theo Tạp chí Tài chính số 4 năm 2002, T41 (c) theo Tạp chí bảo hiểm số 2, T17, năm 2002 (20), (21), (22), (25) (26) (27) theo Báo cáo năm 2000, 2001, và Báo cáo sơ kết nửa năm 2002, Báo cáo Quý 3 năm 2002 của các công ty BHNT gửi lên Hiệp hội bảo hiểm (23) theo Báo cáo sơ kết nửa năm, Báo cáo quý 3 và Tài liệu kinh doanh của Tổng công ty Bảo Việt (24) theo Báo cáo sơ kết nửa năm của Prudetial năm 2002 (d), (e) theo Tạp chí Tài chính số 9/2002, T43 (16) theo Asia Insurance Review 9/2001 (17), (18) Insurance Finacial Service Review 8/2001 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng 1996 2. Giáo trình kinh tế Bảo hiểm - Nhà xuất bản thống kê năm 2000 3. Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm - Nhà xuất bản Thống kê năm 2000 4. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành - Tiến sỹ: David Bland – Học viện bảo hiểm Hoàng gia Anh, 1993 - Nhà xuất bản tài chính 5. Tài liệu giới thiệu sản phẩm của Bảo Việt, AIA, Prudential, Bảo Minh – CMG, Manulife, tài liệu giảng dạy và đào tạo đại lý của AIA, Manulife năm 2002 6. Các số liệu thống kê của Bảo Việt, Prudential trong báo cáo tổng kết năm và sơ kết nửa năm của năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001 và 2002 7. Bản tin Thị trường bảo hiểm của Bảo Việt tháng 7, 8,9, 10/2002 8. Thời báo kinh tế Sài gòn số 15 tháng 11/2001 9. Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2000- 2001 Việt Nam & Thế giới 10. Thời báo kinh tế Việt Nam số 19 tháng 11/2001 11. Thời báo kinh tế Việt Nam các số 15, 17, 36, 42, 57, 96, 99, 105, 117 năm 2002 12. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 3 tháng 8/2001 13. Tạp chí Bảo hiểm số 1, 2, 3 năm 2002 14. Tạp chí Tài chính số 1, số 2, số 4, số 5, số 6 năm 2000 15. Tạp chí Tài chính số 1, số 2, số 5, số 6 năm 2001 16. Tạp chí tài chính số 1+2, số 3, số 4, số 7, số 9 năm 2002 17. Công báo số 33, ngày 8 - 9 - 2001 Asia 18. Insurance Review 9/2001 19. Insurance Finacial Service Review 8/2001 21. Kết quả điều tra của Bộ Tài chính phối hợp với New York Life International Việt nam năm 2001 Kết quả nghiên cứu của ACE INA International Holdings Ltd., năm 2002 Dự báo kinh doanh bảo hiểm của Vinare 2001 Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh - NXB Khoa học và kỹ thuật năm 2002 - Tác giả: Hoàng Văn Châu, TS. Vũ Sĩ Tuấn, NGƯT-PTS. Nguyễn Như Tiến MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Chương I: KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GIÁO DỤC 1 I. Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ (BHNT) và sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục (ASGD) 1 1. Khái niệm 1 2. Lịch sử ra đời 2 2.1. Trên thế giới 2 2.2. Tại Việt Nam 4 3. Sự cần thiết của BHNT 6 4. Vai trò và vị trí của BHNT 8 4.1. Vai trò của BHNT 8 4.2. Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm 11 5. Những đặc điểm cơ bản của BHNT 12 5.1. BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro 12 5.2. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm 12 5.3. Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng 13 5.4. Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp 13 5.5. BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kế toán xã hội nhất định 14 II. Các loại hình BHNT 15 1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm 15 1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong 15 1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ) 17 2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm 18 2.1. Bảo hiểm cá nhân 18 2.2. Bảo hiểm nhón 18 3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng 19 III. Sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục trong hệ thống BHNT 19 1. Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới 19 2. Bảo hiểm cho trẻ em tại Việt Nam (sản phẩm bảo hiểm ASGD hay Phú tích luỹ, Phú tương lai...) 20 3. Nội dung cơ bản của An sinh giáo dục 21 3.1. Một số khái niệm 21 3.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm 26 3.3. Bảo tức 29 3.4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 30 3.5. Thủ tục bảo hiểm 3.6. Thời điểm pháp sinh hiệu lực, thời hạn, huỷ bỏ, thay đổi chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm 35 3.7. Chi trả bảo hiểm 37 3.8. Giải quyết tranh chấp 38 Chương II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GIÁO DỤC TRONG HỆ THỐNG BHNT TẠI VIỆT NAM I. Sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam 39 1. Ý nghĩa của sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục 39 2. So sánh sản phẩm bảo hiểm ASGD của các Công ty bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam 41 a. So sánh ASGD của Bảo Việt với Phú tích luỹ Giáo dục của Prudential. 42 b. So sánh ASGD của Bảo Việt với ASGD của Công ty Bảo hiểm nhân thọ AIA 44 c. So sánh ASGD của Bảo Việt với ASGD của Công ty Bảo hiểm Bảo Minh CMG 46 d. So sánh ASGD của Bảo Việt với Giáo dục hỗn hợp của Công ty Manulife 47 II. Tình hình triển khai sản phẩm bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 49 1. Tình hình phát triển của thị trường BHNT Việt Nam 49 a. Tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam 49 b. Tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm Nhân thọ Việt Nam 54 2. Tình hình triển khai sản phẩm ASGD tại Việt Nam 63 2.1. Công tác khai thác 63 2.2. Công tác đánh giá rủi ro 66 3. Nhận xét và đánh giá về bảo hiểm ASGD của Việt Nam trong thời gian qua 67 a. Đánh giá chung về nghiệp vụ 67 b. Hiệu quả kinh tế xã hội của bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 68 c. Đánh giá chung về kết quả triển khai sản phẩm bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 71 Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM BẢO HIỂM ASGD 77 I. Định hướng và dự báo về bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 77 II. Kinh nghiệm về bảo hiểm nhân thọ của một số nước trên thế giới 79 1. Châu âu 79 2. Mỹ 85 III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển sản phẩm bảo hiểm ASGD 87 1. Các giải pháp vĩ mô 87 a. Hoàn thiện khung pháp lý cho ngành BHNT 87 b. Xây dựng các biện pháp quản lý cho ngành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ 91 c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 93 d. Đưa ra một số biện pháp khuyến khích 94 2. Các giải pháp về phía các Công ty BHNT 95 a. Tăng cường tuyên truyền quảng cáo 95 b. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác 97 c. Đa dạng hoá các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác 97 d. Xây dựng phương pháp khai thác thích hợp với từng phần thị trường 99 e. Công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý cán bộ 101 f. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm 101 3. Các biện pháp khác 102 a. Ứng dụng thành tựu mới của khoa học công nghệ 102 b. Tăng cường hợp tác 102 c. Mở rộng đầu tư phí 102 KẾT LUẬN CHÚ THÍCH TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB7843o hi7875m An sinh gio d7909c t7841i Vi7879t Nam M7897t s7889 b.DOC
Tài liệu liên quan