BưỚC ĐẦU TÌM HIỂU PHAN
THANH GIẢN ( 1796 - 1867)
I. Lý do chọn đề tài
Đến nửa sau thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành một hệ thống với nền kinh tế tư bản phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển này đã chuyển chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh sang tư bản độc quyền với những tổ chức lũng đoạn có vai trò quyết định tới hoạt động kinh tế. Sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đã làm tăng nhu cầu về thuộc địa nhằm đáp ứng nhu cầu về: nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hàng hóa và nhân công lao động. Chính vì vậy, các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa ngày càng được đẩy mạnh. Mục tiêu xâm lược trong thời gian này của chủ nghĩa đế quốc là vùng châu Á rộng lớn giàu tiềm năng. Như chúng ta đã biết quá trình xâm lược thuộc địa tìm kiếm thị trường ở châu Á đã được các nước Anh, Pháp tiến hành từ thế kỷ XVII, nhưng đến thế kỷ XIX quá trình này mới thực sự được đẩy mạnh với cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc, Nhật Bản, Newzeland, Mianma, Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam .Cho đến cuối thế kỷ XIX hầu hết các nước đều bị biến thành thuộc địa, nửa thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, chỉ trừ có Nhật Bản và Thái Lan, một hệ thống thuộc địa trên thế giới đã được hình thành.
Trước xu thế bành trướng phương Đông của các nước tư bản đế quốc, nhiệm vụ đặt ra cho các nước Châu Á là phải bằng mọi cách bảo vệ nền độc lập dân tộc, nhưng bảo vệ bằng cách nào trong điều kiện, hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ - một chế độ phong kiến lỗi thời với nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu? Chính vì vậy, trước sức mạnh của chủ nghĩa phương Tây, hầu hết các nước đều thực hiện chính sách đóng cửa, nhằm ngăn chặn sự xâm lược của bọn đế quốc, ở Việt Nam cũng thế. Chúng ta đã thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng mở cửa hạn chế không giống như
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 7
Nhật Bản và Thái Lan khi bị bọn đế quốc xâm lược hai nước ấy đã nhận thức được tính ưu việt của nền văn minh phương Tây. Bên cạnh việc đi xâm lược, nô dịch bóc lột tàn ác nhân dân lao động nhưng các nước tư bản đã vô hình chung đã cung cấp một thứ vũ khí lợi hại cho các dân tộc mà chúng đi xâm lược là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật chính vì thế mà họ đã định ra con đường đúng đắn cho dân tộc mình phải mở cửa, học tập khoa học kỹ thuật phương Tây để thoát khỏi họa ngoại xâm. Nhờ đó mà Nhật Bản và Thái Lan đã thoát khỏi ách thống trị của tư bản đế quốc. Sự phát triển của chủ nghỉa tư bản là một nhu cầu phát triển khách quan trong qui luật phát triển của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên ta có thể thấy mặt trái của quá trình phát triển này là sự nô địch đàn áp bóc lột những người dân lao động, trước những hành động bóc lột dã man ấy cuộc đấu tranh của các dân tộc, quốc gia với hình thức đấu tranh dân chủ được diễn ra.
Năm 1858 thực dân Pháp cho quân đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng chính thức xâm lược nước ta. Với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh để chiếm lấy Đà Nẵng làm căn cứ bàn đạp, từ đó đánh vào nội địa tiêu diệt sinh lực của triều đình Huế, bóp chết sức kháng chiến của ta buộc chúng ta phải đầu hàng. Trước những âm mưu và hành động xâm lược ấy, ở giai đoạn đầu của cuộc chiến dưới sự lãnh đạo của triều đình Huế phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đãn phát triển mạnh mẽ bước đầu ngăn chặn bước chân xâm lược của thực dân Pháp. Thế nhưng về sau này, với sức mạnh ưu thế về quân sự cuộc đấu tranh ấy đã gặp phải những khó khăn. Trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước trước sự xâm lược ấy nhà Nguyễn có vị trí và vai trò như thế nào? Toàn bộ hệ thống quan lại của triều đình đã làm gì để cùng nhà vua tìm ra sách lược cứu nước? Trong số đó thì Phan Thanh Giản là vị quan có thể nói là trụ cột của triều đình – ông đã làm gì để cùng với triều đình Huế chống Pháp? Vị trí và vai trò của ông trong việc làm này như thế nào? Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đã có cái nhìn mới, khách quan hơn về vai trò, vị trí của nhà Nguyễn cũng như của Phan Thanh Giản trong công cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Chính vì vậy để hiểu rõ hơn về vai trò ấy tôi đã quyết định chọn đề tài này để tìm hiểu, nghiên cứu, ngoài ra còn xuất phát từ sở thích và lòng say mê phương pháp nghiên cứu, nhằm áp dụng những kiến thức đã học trong một bài viết cụ thể, cũng như mong muốn góp phần nhỏ bé hiểu biết của mình về Phan Thanh Giản để mọi người biết thêm về ông, đồng thời làm nguồn tư liệu để thực hiện công việc nghiên cứu sau này. Con người là chủ thể của xã hội, con người chính là nhân tố làm nên lịch sử. Mỗi một người đều hoạt động theo mục đích riêng của mình, nhưng những hoạt động ấy lại chịu sự chi phối của những quy luật phát triển chung của toàn xã hội. Vì vậy, việc học tập, tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử của một thời đại, một quốc gia dân tộc, ta không chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu sự kiện trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau mà còn phải tìm hiểu những con người cụ thể đã góp phần làm nên lịch sử trong các điều kiện khác nhau . Lịch sử là lịch sử của quần chúng nhân dân, nhưng các vĩ nhân cũng có vai trò qua trọng trong sự phát triển của xã hội. Vì vậy việc tạo biểu tượng chính xác về các nhân vật lịch sử có ý nghĩa giáo dục hết sức quan trọng. Bởi mỗi nhân vật lịch sử đều đại diện cho giai cấp nhất định, nhiều đặc điểm cá nhân tiêu biểu là đăc trưng chung cho gia cấp mà cá nhân phục vụ. Cho nên trong học tập lịch sử, cần phải hình dung một cách tương đối đầy đủ và rõ ràng từng nhân vật lịch sử cụ thể, qua đó tìm hiểu bản chất từng giai cấp hay tầng lớp xã hội nhất định. Hoạt động của mỗi nhân vật lịch sử, nhất là những nhân vật đại diện cho quyền lợi dân tộc, của quần chúng nhân dân, có tác dụng cụ thể hóa một sự kiện lịch sử làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản của dân tộc.
Ngoài ra việc tìm hiểu về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản còn có ý nghĩa quan trọng góp phần làm sáng tỏ về con người ông – một nhân vật mà từ trước tới nay đã có rất nhiều những ý kiến khác nhau khi nhận định về ông. Để từ đó khi trở về trường với vai trò là người dạy sử cho những học
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 9
sinh thân yêu của mình tôi có thể phần nào giúp cho các em nhận thức đúng đắn về một con người suốt đời vì dân vì nước vậy mà khi chết đi lại mang tiếng là “ Phan lâm mãi quốc triều đình khí dân”. Đồng thời với vùng đất Nam Bộ ngày nay nơi tôi đang sinh sống và học tập họ đã có những cái nhìn rất thiện cảm về con người Phan Thanh Giản việc nghiên cứu vấn đề này tôi không mong mỏi gì hơn là mọi người chúng ta hãy trả về cho ông những gì mà ông có và mọi người sẽ có tình cảm đặc biệt hơn về con người này.
MỤC LỤC
Phan Thanh Giản ( 1796 - 1867) 1
MỤC LỤC . 2
Lời cảm ơn . 4
Sinh viên: Lê Thị Lành . 4
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG 5
BưỚC ĐẦU TÌM HIỂU PHAN 6
THANH GIẢN ( 1796 - 1867) 6
I. Lý do chọn đề tài . 6
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề . 9
III. Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài 13
IV. Phương pháp nghiên cứu 13
V. Bố cục đề tài 14
PHẦN NỘI DUNG 15
Chương 1 . 15
HOÀN CẢNH QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM Ở NỬA SAU THẾ KỶ XIX . 15
I. Hoàn cảnh quốc tế . 15
II. Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược . 20
1. Chính trị . 21
a. Tổ chức bộ máy nhà nước . 21
b. Luật pháp . 24
c. Quân đội . 25
d. Chính sách đối ngoại 29
2. Kinh tế . 32
a. Nông nghiệp . 33
b. Thủ công nghiệp . 37
c. Hoạt động thương nghiệp 39
3.Tình hình văn hóa – xã hội 46
a. Tình hình xã hội và đời sống nhân dân 46
b. Phong trào đấu tranh của nhân dân . 48
c. Tình hình văn hóa . 50
Chương II 52
PHAN THANH GIẢN – TIỂU SỬ 52
VÀ HÀNH TRẠNG 52
I. Tiểu sử 52
II. Hành trạng . 53
III. Phan Thanh Giản với công cuộc chống Pháp bảo vệ nền độc lập dân tộc 57
1. Đối sách của nhà Nguyễn trước âm mưu xâm lược của thực dân Pháp . 57
a. Âm mưu xâm lược của thực dân Pháp . 57
b. Thái độ của nhà Nguyễn trước những âm mưu xâm lược của thực dân Pháp . 62
2. Đối sách của nhà Nguyễn khi thực dân Pháp xâm lược nước ta 66
a. Hành động xâm lược của thực dân Pháp 66
b. Đối sách của nhà Nguyễn trước những hành động của Pháp . 67
3.Vị trí vai trò của Phan Thanh Giản trong công cuộc chống Pháp bảo vệ nền độc lập dân tộc . 69
CHưƠNG III . 81
CON NGưỜI PHAN THANH GIẢN . 81
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 3
I. Một con người có nhân cách lớn . 81
II. Một nhà yêu nước sớm có tư tưởng canh tân 88
KẾT LUẬN . 101
PHỤ LỤC 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
115 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Bước đầu tìm hiểu Phan Thanh Giản ( 1796 - 1867), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 82
nhận ông là “ Lịch sự tam triều độc khiết thân” và viết một bài thơ điếu
Phan Thanh Giản khi ông giã từ trần thế :
“ Mình trong sạch trải thờ ba chúa
Không ông, ai che chở dân lành...”
Ông làm quan cực to, vậy mà sản nghiệp của ông thì không có gì cả. “
Cụ làm quan mà phu nhân ở nhà phải ở cần ăn kiệm, trồng bông dệt vải lấy
mà mặc, cấy lúa tỉa răng lấy mà ăn. Nhà thờ tổ tiên thì bằng cột mắm, phên
tre, đến khi chết thì cụ trong lều tranh một túp. Vua Tự Đức biết cụ làm
quan to mà vẫn nghèo lớn, nên thƣờng hoặc tăng bổng hoặc thƣởng
riêng”62.
Nhƣ vậy, có thể nói Phan Thanh Giản là ngƣời rất thành đạt trong một
hoàn cảnh nghèo khó, là quan đại thần nhƣng cuộc sống của ông lại hết sức
bình dị, khiêm tốn và ân cần với dân. Tuy quyền cao chức trọng nhƣng đối
với ngƣời thầy dạy mình ông luôn giữ đạo học trò. “Mỗi lần có dịp đi qua
Gia Định thì cụ ghé thăm thầy học mà lần nào cụ cũng xuống võng từ đàng
xa rồi đi bộ vò lạy mừng. Thầy có cho vật chi nhƣ khoai bắp thì cụ bổn thân
mang sách, coi quý hơn vàng”63. Ngoài ra đối với những ngƣời đã lo cơm
áo cho ông ăn học tử thuở hàn vi, ông luôn ghi nhớ và tìm cách trả ơn. Đối
với dân tình, có điều gì oan trái thì đƣợc tự nhiên đến gặp ông để kêu cầu,
ông không dùng uy quyền của mình để mƣu danh lợi cho con cháu, họ
hàng.
Nói về đức hạnh của ông còn phải nói về đức tính trung quân, ái quốc,
nói về chữ trung của cụ Phan là Trung Quân, trung với một ngƣời. Song
chúng ta cần biết thời bấy giờ, trung với vua tức là trung với nƣớc, lo cho
vua tức là lo cho dân cho nƣớc. Nói về tấm lòng nhân ái, có rất nhiều những
62 Nguyễn Duy Oanh – Sđd, Tr .417.
63 Nguyễn Duy Oanh – Sđd, Tr.413.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 83
mẩu chuyện đƣợc kể về đức tính này. Trong một chuyến đi thuyền về chịu
tang cha ngang qua đồn Ba Lai, bi cai đồn kêu lại xét hỏi theo chức trách
đƣợc giao, ông không cho đó là sự xúc phạm mà còn khen ngợi ngƣời đó
làm tròn nhiệm vụ và sai khen thƣởng cho họ. Hay trong một chuyến đi
thăm mộ gặp một ngƣời nông dân vác tre đi trƣớc để cành tre quật vào mặt
ông. Ông không những không quở trách mà còn gọi ngƣời nông dân lại chỉ
cách mang loại cây này đi đƣờng sao không bị vƣớng.
Vƣợt trội hơn so với các quan đồng triều là tấm lòng lo lắng cho dân,
yêu thƣơng nhân dân của mình. Ngay từ đầu ra làm quan dƣới triều Nguyễn
với nhiệm vụ Giám thị kỳ thi Hội ở Huế năm 1828, nhân có bão lụt trong
thành, Ông dâng sớ tâu: “ Mƣa to và nạn thủy tai là những triệu trứng
không lành, hạ thần cúi xin thánh thƣợng tự sửa mình làm điều nhân đức và
giảm bớt số cung nữ, phi tần. Nhƣ thế là thánh hoàng làm theo thiên địa,
bách tính sẽ đƣợc sung sƣớng”64.
Với tính cƣơng trực và ý thức trách nhiệm với dân với nƣớc, Phan
Thanh Giản đã nhiều lần can gián vua, nói lên tình trạng của đất nƣớc về
kinh tế, xã hội: “ Ngày nay, lệ khí truyền nhiễm, phát xuất trong hạt Chiêm,
Ngãi, làm phiền cho hoàng thƣợng phải nhọc lòng lo nghĩ tự trách mình,
chẳng dám coi là việc ngẫu nhiên. Rồi giảm bữa ăn, bỏ âm nhạc, thanh
toán nơi ngục thất, đình chỉ những công tác, tìm hỏi dân tình, trông mong
sự uốn nắm của bá quan nội ngoại”65. Ông còn vạch ra những tệ nạn do
giới quan trƣờng gây ra cho dân chúng, nhất là ở Nam Kỳ: “ Dân sứ này sợ
quan nhƣ sợ cọp, nha lại mặc sức thay trắng đổi đen”66. Còn sự thi hành
công vụ thì: “ Nha lại mỗi ngày càng thêm sảo quyệt, nhân dân ngày thêm
khốn cùng”67. Chính vì vậy ông đã đƣa ra các phƣơng thức để cứu chữa:
64 Võ Xuân Đàn – Hãy trả về cho Tiến sĩ Phan Thanh Giản những giá trị và những hạn chế đích thực. Thế kỷ
XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản. NXB Đồng Nai, 2006, tr. 65
65 Nguyễn Duy Oanh – Sđd, Tr.75.
66 Nguyễn Duy Oanh - Sđd, Tr.81.
67 Nguyễn Duy Oanh – Sđd, tr.90.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 84
dựa vào pháp luật để cai trị, nuôi dân chăm cày cấy, cắt giảm tiêu pha
phung phí, nuôi quân trù phƣơng lƣợc, ngăn chặn hối lộ, bổ dụng quan lại
cần chọn những ngƣời thật thà , chính trực, nghĩa khí, ... có nhƣ thế xã hội
mới vững mạnh dân nghèo mới có cuộc sống ám no hạnh phúc, xã tắc mới
vững bền.
Có câu truyện đƣợc truyền tụng vì lo cho dân mà ông phải chịu hàm
oan, bị giáng chức xuống nhiều cấp, từ Tòng nhị phẩm xuống Chánh lục
phẩm lo việc tạp vụ tại công đƣờng tỉnh Quảng Nam. Năm 1835, Minh
Mạng cử ông làm Tổng đốc tỉnh Quảng Nam, và ngỏ ý đến thăm Quảng
Nam vào tháng 6 năm 1836, Phan Thanh Giản đã viết sớ tâu lên vua rằng:
“Tất cả dân chúng trong tỉnh đều vui mừng về việc bệ hạ đi đến thăm tỉnh.
Song vào tháng 5 tháng 6 mọi ngƣời rất bận rộn trong việc cấy lúa chiêm,
thần cho rằng việc nghênh đón bệ hạ sẽ làm lỡ vụ lúa. Vì vậy, thần xin bệ
hã hoãn việc du hành để cho dân chăm lo việc đồng áng”68. Vua không
nghe cứ đi đến Quảng nam, vừa tới nơi, Phan quỳ trƣớc ngự giá cản vua lại,
vì vậy vua phải đình lại việc tuần thú. Qua hành động đó chúng ta thấy
Phan thật đáng đƣợc ca ngợi về tấm lòng thƣơng dân tha thiết, ông không
sợ lụy tới bản thân để đạ đƣợc mục tiêu ích nƣớc, lợi dân ông luôn đặt dân
là gốc: “ Dân vi bổn, xã tắc tứ chi, quân vi khinh” ( Dân là gốc, xã tắc đứng
thứ hai, vua xem nhẹ hơn), trong một lá sớ dâng lên vua ông cũng viết: “
Còn nhƣ may ra bệ hạ hồi tâm xét nghĩ, luôn luôn xem dân là quý, là rƣờng
cột chống đỡ vƣơng triều, nghiệm rằng cuộc sống là cái gì rất thiết thực,
nhu yếu cho dân sinh. Trong trƣờng hợp này, vua chẳng khác chi là thuyền
và dân chẳng khác chi là nƣớc, chỉ có nƣớc chở thuyền chứ chƣa từng nghe
thuyền trở nƣớc bao giờ”. Hay một sự kiện khác vào năm 1838, vì sơ ý
không đóng ấn vào tờ sớ tâu, ông bị giáng xuống chức Lang trung biện lý
hộ vụ hàm Chánh tứ phẩm làm nhiệm vụ đi coi mỏ vàng ở Chiên Đàn –
Quảng Nam. Ông tâu ngay với vua về việc làm này là “ lợi cho dân thì ít,
68 Đại nam liệt truyện, quyển 36, tập 2. Tr 367.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 85
mà khổ cho dân thì nhiều”. Chính vì lỗi lòng lo cho dân cho nƣớc mà dƣới
triều Minh Mạng, ông đã 4 lần bị giáng chức . Song không vì thế mà ông
nản chí, trƣớc sau ông vẫn luôn dấn thân vào con đƣờng quang minh chính
đại vì dân vì nƣớc. Lần dở lại những trang sử dƣới ba triều vua Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức, công đức phục vụ nhân dân và triều đại của Phan Thanh
Giản không ai có thể phủ nhận đƣợc. Cay đắng và vinh quang ở chốn quan
trƣờng của ông không ngoài mục đích là phục vụ nhân dân và tổ quốc. Tấm
lòng yêu nƣớc thƣơng dân của Phan Thanh Giản không chỉ biểu hiện qua
hành động cụ thể mà còn biểu hiện ở những trang thơ đƣợc viết nên từ tận
đáy lòng mình. Ông đã từng thao thức, lo lắng cho đời sống của ngƣời dân
trƣớc thiên tai khắc nghiệt. Ông đã nói nên điều trăn trở đó trong bài thơ “
Thu dạ độc khởi”
“ Tháng tám còn nồng nực
Đồng ruộng kho ráo hoài
Khí tiết hàng năm khác
Trăng sao mở vận vui
Nửa đêm một mình dạy
Ngửa cổ trông lên trời
Mây đen thƣờng lởn vởn
Mƣa gió e chƣa thôi”
Hay bài thơ “ Gần sáng” để nói nên mơ ƣớc của mình đƣợc thấy ánh
bình minh, thấy cuộc đời dân mình đổi mới trƣớc thời cuộc suy tàn của nhà
Nguyễn, nhân dân lầm than khốn khổ cơ cực, đất nƣớc đi trong đêm tối.
“Một dãy sông Tƣơng suốt mắt mèo
Thuyền chèo ngƣ phủ thấp cheo leo
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 86
Lằn kêu giục chúa chầu sân phụng
Gà gáy khuyên chồng lấp dấu cheo
Ái soái Thƣờng Quân mới gay chèo
Phƣơng đông vừa ló vầng con ác
Cửa khổng nho sinh nhóm tựa bèo”
Trong những năm làm quan ở Quảng Nam, ông rất lo lắng cho dân mình
khi trời hạn hán, mất mùa đói kém, vì vậy ông đã viết lên những câu thơ:
“ Trông những thửa ruộng cao thấp kia
Mạ lúa đã úa vàng mất nửa
Vụ chiêm này dù có đƣợc mùa
Sang thu này giá gạo rất cao
Huống lại bị hồi hạn giữ
Nông dân thật đáng thƣơng!
Mong trời sớm xuống hạt mƣa xuân
Để kịp thời cho dân tỉnh táo”
Năm 1858 thực dân Pháp tiến hành xâm lƣợc nƣớc ta, trƣớc tình hình ấy
ông rất lo lắng cho dân, không muốn dân mình phải rơi vào cảnh chiến
tranh loạn lạc, gia đình chia lìa:
“ Lỗi lo nƣớc kia cơn phiến biến
Thƣơng bề dân nọ cuộc giao chinh”
Với những phẩm hạnh đức độ ấy, các tầng lớp nhân sĩ trí thức và nhân
dân Nam Bộ tỏ lòng kính trọng ông vì ông là ngƣời có phẩm chất đáng kính
trọng chứ không phải ông làm quan to. Vì vậy trong buổi lễ cúng tế tại đình
làng năm 1902, ông Nguyễn Trọng Tồn đọc bài văn tế có đoạn: “ Lễ tua
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 87
bày tỏ chốn quê mùa, nay chính nhờ ông công cả dựng triều Nam, danh cao
tày sao Bắc. Ông ra tài giúp nƣớc...cây cam đƣờng còn nhớ thật lâu, giữ đạo
làm tôi đến bỏ liều thác, lòng trung thành chói tựa nhựt tinh, việc đạo đức
chẳng ai bì kịp...”. Mặc ông không còn nữa nhƣng với những phẩm chất cao
đẹp nhƣ là ngƣời có tâm, có chí, trọng nghĩa, liêm chính hơn ngƣời, vì dân
vì nƣớc vẫn còn sống mãi nơi trái tim mọi ngƣời.
Đó là tƣ tƣởng căn bản của cụ, là điều mà cụ luôn tha thiết mong đợi
trong cuộc thƣơng thuyết nhằm tránh nƣớc khỏi loạn lạc, dân không bị khổ
ải vì chiến tranh. Có lẽ vì tấm lòng yêu nƣớc thƣơng dân đó là động cơ chi
phối mọi việc làm của ông. Cũng vì động cơ ấy mà ông đã chọn con đƣờng
nghị hòa vì ông sợ dân chúng đau khổ chết chóc, nói cách khác đi là ông vì
thƣơng dân69, theo cách nghĩ của ông việc nghị hòa là phƣơng cách tốt nhất
để có thời gian chuẩn bị sức mạnh về mọi mặt “ phú quốc binh cƣờng”trƣớc
vì ông hiểu rất rõ sức mạnh của tâu phƣơng: “ Ngƣời ta có thể tƣởng tƣợng
ra nhiều cách phòng ngự, nhƣng sự thực là chúng ta không thể chống nổi
với những cuộc tấn công của tây phƣơng”. Có lẽ vì động cơ ấy mà đã nhiều
lần ông đã đƣa ra những chính sách, hay ngƣời ta thƣờng gọi là những “tƣ
tƣởng canh tân” đổi mới phát triển kinh tế của đất nƣớc, muốn dân mình
đƣợc ấm no hạnh phúc, muốn đất nƣớc vững mạnh để tránh đƣợc hiểm họa
ngoại xâm. Phan đã từng nói: “ Dạy dỗ dân chúng cho khỏi u mê, khuyến
khích dân làm lụng cày cấy để thêm lợi tức, khả dĩ mộ thêm binh lính và trả
lƣơng hậu cho họ. Nhƣ vậy, dân tình đỡ khổ, lƣơng thảo dồi dào, quân lính
cũng đƣợc luyện tập tinh nhuệ”. Ngay từ rất sớm Phan Thanh Giản đã có
những tƣ tƣởng mới nhằm đổi mới đất nƣớc, để tìm hiểu rõ hơn những “tƣ
tƣởng canh tân” ấy là gì chúng ta cùng đi tìm hiểu.
69 Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX. NXB Khoa học xã hội, 2002, tr. 401.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 88
II. Một nhà yêu nƣớc sớm có tƣ tƣởng canh tân
Để hiểu rõ hơn vấn đề này chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “ tƣ tƣởng
cải cách” hay còn gọi là “ tƣ tƣởng canh tân” hoặc “tƣ tƣởng đổi mới” ở
Việt Nam trong thời kỳ này.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, thuật ngữ “ cải cách ” đƣợc định nhĩa
nhƣ sau: “Cải cách là sự đổi mới một số mặt của đời sống xã hội mà không
thay đổi căn bản sự vật đó. Sự sửa đổi, cải thiện một số mặt của đời sống
xã hội mà không động tới nền tảng của xã hội hiện hành”.70
Về vấn đề cải cách đổi mới ngƣời xƣa cũng đã đề cập tới khá rõ. Trong
sách Đại học có chép việc vua Thành Thang khắc hàng chữ ở nơi chậu tắm
của mình để cảnh tỉnh là: “ hằng ngày hãy thành thật đổi mới, càng ngày
càng mới, lại luôn luôn ngày nào cũng mới”71. Hay trong thiên Khang cáo
có chép lời Võ vƣơng nói với Khang Thúc : “hãy khuyến khích cho dân đổi
mới”72. Đổi mới ở đay đƣợc hiểu theo nghĩa là đổi mới thay đổi về phong
tục, lối sống cho ngày một tốt đẹp hơn hoàn thiện hơn, nhờ đó góp phần
làm cho xã hội ngày một vững bền.
Ở Việt Nam chúng ta vấn đề đổi mới cũng đã đƣợc nói đến từ rất lâu
trong đó tiêu biểu nhất là tƣ tƣởng đổi mới, cải cách của Hồ Quý Ly, sau
này là của Quang Trung. Tuy nhiên có thể nói những tƣ tƣởng cải cách ấy
vẫn nằm trong khuân khổ của chế độ phong kiến, cải cách nhằm ổn định trật
tự chế độ phong kiến mà chƣa có sự ảnh hƣởng của tƣ bản phƣơng Tây.
Bƣớc sang thế kỷ XIX khi mà ảnh hƣởng của tƣ bản phƣơng Tây có sự xâm
nhập sâu sắc vào nƣớc ta và đặc biệt khi Pháp tiến hành xâm lƣợc nƣớc ta
thì những tƣ tƣởng canh tân, đổi mới đã đƣợc các sĩ phu, các nhà văn thân
yêu nƣớc đề cập tới.
70 Từ điển Bách khoa Việt Nam I, Trung tâm Biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1995, Tr. 335.
71 Đoàn Trung Còn, Đại Học – Trung Dung, Trí Đức tòng thơ, Sài Gòn, 1950, Tr. 9
72 Đoàn Trung Còn, Sđd, , Tr. 11
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 89
Ở trong phần hoàn cảnh nhƣ tôi đã trình bày, dƣới triều Nguyễn, sở hữu
tƣ nhân về ruộng đất đã phát triển hơn các triều đại trƣớc rất nhiều nhƣng
vẫn chƣa chiếm ƣu thế so với sở hữu Nhà nƣớc và trên danh nghĩa, nhà vua
là chủ sở hữu toàn bộ đất đai trong cả nƣớc. Nhà nƣớc phong kiến triều
Nguyễn cho phép ruộng tƣ phát triển nhƣng vẫn duy trì chế độ ruộng công
nên quá trình tƣ hữu hoá ruộng đất bị kìm hãm. Triều Nguyễn triệt để thi
hành chính sách trọng nông ức thƣơng nên đã phục hồi đƣợc nền nông
nghiệp vốn bị sa sút nghiêm trọng, triền miên do các cuộc nội chiến. Song
chính sách này đã kìm hãm sự phát triển của các thành phần kinh tế khác
nhƣ thƣơng nghiệp, tiểu thủ công nghiệp... Cả nội thƣơng và ngoại thƣơng
đều kém phát triển. Các ngành này chỉ đƣợc duy trì ở mức độ thấp, nhằm
đáp ứng nhu cầu tối thiểu của nhân dân và phục vụ cho hoàng gia cũng nhƣ
triều đình.
Những quy định khắt khe mang tính đẳng cấp về tiêu dùng mà triều
Nguyễn đặt ra càng làm hạn chế sức sản xuất trong nhân dân. Chế độ quản
lý ruộng đất nhƣ đã nói cùng với chính sách trọng nông ức thƣơng là hai
yếu tố cơ bản khiến cho nền kinh tế dƣới triều Nguyễn vẫn mang đặc trƣng
chủ yếu là nền kình tế tiểu nông lạc hậu. Sở hữu tƣ nhân tồn tại từ trƣớc đó
và tiếp tục đƣợc duy trì dƣới triều Nguyễn nhƣng không đƣợc khuyến khích
phát triển, vì vậy, ở thời kỳ này, các nhân tố tƣ bản chủ nghĩa chƣa nảy
sinh, kinh tế hàng hoá chƣa phát triển. Một xã hội với nền kinh tế thuần
nông, tự cấp tự túc, khép kín nhƣ thế cộng với chế độ chính trị phong kiến
trung ƣơng tập quyền chuyên chế thì tự nó không thể nảy sinh nhu cầu cải
cách. Nhƣ vậy, xét các nhân tố khách quan nội tại của xã hội Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XIX, chúng ta thấy các tƣ tƣởng cải cách chƣa thể xuất hiện vào
thời gian này do nhu cầu cải cách chƣa xuất hiện. Do đó, mặc dù Minh
Mệnh - một vị vua đƣợc coi là sáng suốt và cứng rắn nhất triều Nguyễn đã
nhận thức đƣợc tính bất cập của nền giáo dục và đào tạo nhân sự đối với
quản lý, điều hành đất nƣớc nhƣng cũng chƣa đƣa đƣợc ra đƣợc một biện
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 90
pháp nào nhằm khắc phục mặt yếu kém đó của nền học thuật nƣớc nhà.
Nhận định nêu trên của Giáo sƣ Trần Văn Giàu cho chúng ta thấy rằng chỉ
khi Pháp tiến hành xâm lƣợc Việt Nam, khi nguy cơ mất nƣớc xuất hiện thì
nhu cầu đổi mới, nhu cầu tự cƣờng mới trở nên cấp bách. Vậy đáp ứng nhu
cầu đó ra sao?
Năm 1847, Pháp nổ súng lần đầu tiên ở cửa biển Đà Nẵng, đánh chìm 5
chiếc tàu của Việt Nam rồi bỏ đi, mở đầu một đƣờng lối ngoại giao pháo
kích. Âm mƣu Pháp can thiệp vào Việt Nam đã rõ ràng, nhƣng do nhiều
nguyên nhân nên mãi đến năm 1858 Pháp mới chính thức tiến hành cuộc
xâm lƣợc Việt Nam. Từ năm 1847 đến năm 1858 là khoảng thời gian không
ngắn mà triều Nguyễn vẫn chƣa có những chuẩn bị tích cực cũng nhƣ
những đối sách có hiệu quả nhằm chống lại âm mƣu đó. Đến khi Pháp
chiếm đứt ba tỉnh miền đông Nam Kỳ là Biên Hoà, Gia Định, Định Tƣờng
rồi dần dần mở rộng vùng chiếm đóng ra các phần lãnh thổ Việt Nam mà
Tự Đúc và triều thần vẫn không xác định đƣợc đƣờng lối giữ nƣớc, không
biết là nên chiến hay nên hoà (thực chất là hàng). Sự chậm trễ và sai lầm
trong nhận thức và đánh giá kẻ thù, sự bế tắc trong việc hoạch định chiến
lƣợc giữ nƣớc đã chứng tỏ năng lực hạn chế của nhà vua và đa số triều thần
lúc bấy giờ. So sánh Việt Nam với một số nƣớc trong khu vực cùng thời kỳ,
chúng ta sẽ thấy vai trò quyết định của nhân tố chủ quan, của ngƣời lãnh
đạo đối với vận mệnh đất nƣớc. Năm 1853, mƣời chiến hạm đen của Mỹ do
đô đốc Mathew C.Perry đến cảng Uraga trong vịnh Tokyo đe doạ trực tiếp
nền độc lập của Nhật Bản. Sự kiện đó thức tỉnh tinh thần quốc gia của
ngƣời Nhật Bản và đƣợc coi là điểm mốc lịch sử đánh dấu sự chấm dứt
chính sách đóng cửa, mở đầu cho tiến trình cải cách của Nhật Bản. Kể từ
năm 1853 -1868, Nhật Bản đã tiến hành những bƣớc vững chắc, chuẩn bị
các tiền đề cơ bản cho công cuộc cải cách Minh Trị, để rồi chỉ hơn ba chục
năm sau đó đã trở thành một cƣờng quốc ở Đông Á. Còn ở Việt Nam, phải
mất hơn mƣời lăm năm sau khi xuất hiện nguy cơ thực dân Pháp xâm lƣợc
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 91
mới ra đời những đề nghị cải cách đầu tiên. Nhƣ vậy, chỉ sau khi nguy cơ
mất nƣớc đã hiển hiện rõ ràng do sự chiếm cứ ba tỉnh miền đông Nam Kỳ
của Pháp mới có sự lên tiếng của các chí sĩ tiên tiến - khi họ nhận thức đƣợc
yêu cầu cấp bách phải đổi mới, phải tự cƣờng đất nƣớc.
Sự trì trệ của trí tuệ Việt Nam thế kỷ XIX có nhiều nguyên nhân. Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng nguyên nhân chính của tình trạng này là sự độc tôn
Nho giáo của các vua Nguyễn. Quan điểm Nho giáo cho rằng lịch sử xã hội
phát triển theo vòng tuần hoàn, thời trị và thời loạn kế tiếp nhau, đắp đổi
nhau theo vận hội, thời đại bình trị lý tƣởng của loài ngƣời là các vua
Nghiêu Thuấn nên các triều đại sau phải tuân thủ nguyên tắc "pháp tiên
vƣơng". Quan điểm đó đã tạo ra sự thụ động và trì trệ trong nhận thức thời
cuộc của ngƣời Việt Nam. Đồng thời, sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng "nội hạ
ngoại di" của Trung Hoa phong kiến đã tạo ra rào cản ngăn trở tầng lớp trí
thức Nho giáo và vua quan triều Nguyễn mở cửa đối với văn minh phƣơng
Tây. Chúng ta có thể phân tích sâu hơn tình trạng nói trên bằng việc lý giải
hiện tƣợng các vua Nguyễn độc tôn Nho giáo. Nhận thức đƣợc công cụ
thống trị về tu tƣởng của Nho giáo, đặc biệt trong việc củng cố vƣơng
quyền, Gia Long đã đƣa Nho giáo lên địa vị quốc giáo. Điều này không
khác so với triều Lê, song, với việc nhà vua đã biết đến các thành quả của
nền văn minh Tây phƣơng thì đây là một bƣớc lùi về mặt tƣ tƣởng. Chính
sách đối ngoại sai lầm của các vua Nguyễn, bắt đầu từ Gia Long, đƣợc hoàn
thiện và củng cố bởi Minh Mệnh, đƣợc duy trì bởi Thiệu Trị và Tự Đức là
một nguyên nhân quan trọng làm cho Việt Nam trở nên lạc hậu so với nhiều
nƣớc đƣơng thời. Nói các khác, chính sách đóng cửa, bế quan toả cảng, tự
cố thủ trong nền văn hoá Nho giáo đã đƣa Việt Nam tới tình trạng trì trệ về
mọi mặt. Mặc dù các vua Nguyễn luôn cử tàu thuyền đi thám sát tin tức các
nƣớc xung quanh, mặc dù Minh Mệnh đã tiếp xúc với báo tiếng Anh ở
Hƣơng Cảng, mặc dù các vua và triều đình luôn sử dụng hàng hoá mua của
phƣơng Tây và các nƣớc lân cận, nhƣng tinh thần tự tôn dân tộc, tƣ tƣởng
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 92
nội hạ ngoại di đã khiến họ cự tuyệt việc tiếp thu, học tập, phổ biến các tri
thức văn hoá phƣơng Tây ngay từ đầu. Tƣ tƣởng phòng thủ thụ động, tiêu
cực đối với sự xâm nhập của văn hoá, văn minh phƣơng Tây nhằm phòng
tránh nguy cơ xâm lƣợc từ hƣớng này đã chứng tỏ sự bất cập của giai cấp
lãnh đạo nhà Nguyễn trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.
Nhìn sang Thái Lan cùng thời kỳ đó, chúng ta thấy một thực tiên khác
hẳn. Đầu thế kỷ XIX, Thái Lan - lúc đó là Xiêm có nhiều đặc điểm kinh tế
tƣơng tự Việt Nam. Ở Xiêm lúc này cung là xã hội có nền kinh tế tiểu nông,
tự cấp, tự túc. Yếu tố kinh tế hàng hoá đã có nhƣng chƣa phát triển và hoàn
toàn do ngƣời Hoa đảm nhiệm. Nội, ngoại thƣơng đều do ngƣời Hoa quản
lý. Tuy nhiên, ngay từ nửa đầu thế kỷ XIX, trong nền kinh tế - văn hoá
Xiêm đã xuất hiện một số dấu hiệu đầy triển vọng: "... việc buôn bán của
Xiêm với các nƣớc phƣơng Tây còn rất hạn chế. Tuy vậy, ảnh hƣởng của
phƣơng Tây đối với một số lĩnh vực văn đƣợc duy trì... Phƣơng pháp chữa
bệnh của phƣơng Tây đƣợc áp dụng nhƣ tiêm chủng, giải phẫu... Năm 1837
nhà máy in đƣợc xây dựng, tờ báo bằng tiếng Anh đầu tiên đƣợc xuất bản,
tờ Bangkok Recorder". Nhƣng thập kỷ đầu thế kỷ này khi Anh, Mỹ yêu cầu
vua Xiêm cho đặt quan hệ buôn bán thì đều đạt đƣợc những Hiệp ƣớc
thƣơng mại có lợi nhất định. Chấp nhận hy sinh một số chủ quyền, mở rộng
cửa với các nƣớc tƣ bản, thi hành chínhsách ôn hoà với các tôn giáo khác
ngoài Phật giáo, tận dụng thời gian gấp rút thực hiện chƣơng chƣơng trình
âu hoá đất nƣớc, vua Xiêm quyết tâm đƣa nƣớc mình nhanh chóng tiến kịp
các nƣớc phƣơng Tây. Thực tế lịch sử cho chúng ta thấy, Việt Nam và
Xiêm có cùng một xuất phát điểm về kinh tế vào nhƣng thập kỷ đầu thế kỷ
XIX, nhƣng với hai đƣờng lối, hai quan niệm đối lập về ngoại giao của các
nhà cai trị đất nƣớc đã tạo ra hai hƣớng lịch sử khác hẳn nhau. Thái Lan bắt
đầu chấp nhận một số Hiệp ƣớc bất bình đẳng nặng nề để tranh thủ thời
gian bƣớc vào quá trình canh tân, phát triển đất nƣớc, tránh khỏi hoạ xâm
lăng, rồi sau đó dần dần giành lại từng bƣớc những chủ quyền đã mất, và
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 93
trở thành một nƣớc phát triển ở Đông Nam Á. Trong khi đó, các vua
Nguyễn ở Việt Nam tiếp tục thi hành chính sách đóng cửa, thụ động trƣớc
tiến trình xâm lƣợc của thực dân pháp, để rồi lần lƣợt để mất từng phần và
cuối cùng là toàn bộ lãnh thổ vào tay quân xâm lƣợc.
Nhƣ chúng ta đã biết, các yếu tố văn hóa, văn minh phƣơng Tây đã xuất
hiện ở Việt Nam từ rất lâu trƣớc khi quân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh
xâm lƣợc nƣớc ta. Do thái độ và những đƣờng lối sai lầm của vua chúa nhà
Nguyễn nên các yếu tố này không có điều kiện phát huy ảnh hƣởng trong
đời sống xã hội. Chỉ đến khi Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ,
tiến hành xây dựng cơ sở vật chất của khu vực thuộc địa này nhằm làm bàn
đạp cho tiến trình xâm lƣợc toàn bộ đất nƣớc Việt Nam thì các yếu tố văn
hoá; văn minh đó mới có điều kiện ảnh hƣởng mạnh hơn tới xã hội Việt
Nam. Năm 1868, Pháp khánh thành Sở Bƣu điện Sài Gòn. Trƣờng học tiếng
Pháp và đào tạo thông ngôn đƣợc thành lập năm 1864. Cũng trong năm đó,
thực dân Pháp phát hành cả báo tiếng Pháp và báo tiếng Việt. Các thiết chế
mới của xã hội thực dân lần lƣợt đƣợc thiết lập ở ba tỉnh bị chiếm đóng này
và dần dần lan toả theo bƣớc chân xâm lƣợc của Pháp. Cũng trong thời gian
này, Tự Đức thực hiện lại việc cử ngƣời tới các nƣớc lân cận khảo sát tình
hình và cử các phái đoàn đi thƣơng thuyết với Pháp nhằm chuộc lại ba tỉnh
đã mất. Điều này đã tạo điều kiện cho một số quan chức của ta đƣợc tiếp
xúc với văn hoá, văn minh Tây phƣơng. Chính nhờ các cuộc khảo sát và
thƣơng thuyết này mà một số quan lại của triều đình mới nhận thức đƣợc
tình thế hiểm nghèo nhƣ ngàn cân treo sợi tóc của vận mệnh dân tộc, nhận
thức đƣợc con đƣờng tất yếu phải canh tân, tự cƣờng đất nƣớc để mong
thoát khỏi họa vong quốc. Các đề nghị cải cách ở Việt Nam thời kỳ này đã
ra đời trong bối cảnh nhƣ vậy. Nghiên cứu sự xuất hiện các tƣ tƣởng canh
tân thời kỳ này, chúng tôi nhận thấy hầu hết các bản điều trần đều do các
chí sĩ đã đƣợc tiếp xúc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với văn minh, văn hoá
phƣơng Tây đề xƣớng. Nhƣ vậy, một trong những nhân tố khách quan
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 94
mang tính quyết định đối với sự xuất hiện các tƣ tƣởng canh tân thế kỷ XIX
là ảnh hƣởng của văn hoá, văn minh phƣơng Tây. Ảnh hƣởng này sẽ ngày
một mạnh mẽ, ngày một sâu rộng trong xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, góp phần làm dấy lên phong trào duy tân sôi nổi trên
khắp cả nƣớc.
Nhƣ vậy ta có thể khẳng định phải cho tới mãi những năm 60 của thế kỷ
XIX, sau khi hòa ƣớc Nhâm Tuất đƣợc ký kết, thấy đƣợc nguy cơ thất bại
trong cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc đã đến gần. Nhận thức
đƣợc tình thế ngàn cân treo sợi tóc của đất nƣớc, vì vậy một số nhân sĩ,
quan lại của triều đình đã dâng lên những bản điều trần nhằm sửa đổi các
chính sách về quân sự, kinh tế, ngoại giao...theo hƣớng khác hẳn với truyền
thống Nho giáo nhằm củng cố và tăng cƣờng sức mạnh về mọi mặt nhằm
giữ vững nền độc lập dân tộc. Trong Nghiên cứu thực trạng kinh tế, chính
trị, xã hội Việt Nam trƣớc khi Pháp xâm lƣợc, Giáo sƣ Trần Văn Giàu cũng
khẳng định:"Biết rằng thủa ấy xã hội Việt Nam chƣa cấp bách đòi hỏi phải
phát triển tƣ bản chủ nghĩa nhƣng công cuộc chống ngoại xâm lại cấp bách
đòi hỏi phải duy tân, tự cƣờng, bằng không, bằng trễ thì mất nƣớc”. Có thể
nói những đề nghị cải cách của các sĩ phu văn thân yêu nƣớc đã thể hiện
một lối tƣ duy mới trong xử lý tình hình thực tiễn của đất nƣớc, chứa đựng
những tƣ tƣởng mới trong nhận thức thực hiện. Chúng ta gọi những tƣ
tƣởng nhằm sửa đổi, canh tân đƣờng lối, chính sách cai trị đất nƣớc, thay
thế chúng bằng những đƣờng lối, chính sách tiến bộ hơn nhằm khắc phục
tình trạng lạc hậu, lỗi thời, đáp ứng yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc và phát
triển của đất nƣớc thời kỳ này là tƣ tƣởng cải cách, tƣ tƣởng canh tân đổi
mới.
Có thể nói những tƣ tƣởng cải cách đã xuất hiện vào những năm 60 của
thế kỷ XIX, đến cuối thế kỷ XIX, những đề nghị cải cách ấy đƣợc đƣa lên
triều đình làm thành một xu hƣớng mới trong lịch sử tƣ tƣởng của dân tộc.
Đại biểu cho xu hƣớng này là các sĩ phu, quan lại: Nguyễn Trƣờng Tộ,
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 95
Phạm Phú Thứ, Trần Đình Túc...họ đƣợc coi là những ngƣời trồng mần
khai hóa đầu tiên.
Tuy nhiên trong thực tế lịch sử chúng ta thấy, trong suốt thời kỳ phong
kiến, đã có biết bao trí thức tiến bộ, gồm các quan lại, văn thân, sĩ phu giàu
lòng yêu nƣớc, thƣơng dân, có tinh thần trách nhiệm cao với dân, với nƣớc,
luôn trăn trở về tình trạng của đất nƣớc về tình hình quan liêu của bộ máy
công quyền các cấp, về tình trạng lạc hậu về kinh tế, quân sự...Một trong
những tác nhân quan trọng làm giảm nhịp độ phát triển của đất nƣớc, nên đã
chủ động đóng góp các ý kiến thông qua các tờ khải, tờ sớ, lời tâu…với các
nhà cầm quyền, để cải cách nền hành chính nƣớc nhà đƣa đất nƣớc tiến lên.
Một trong những tờ sớ mang nội dung cải cách đó Tiến sĩ Phan Thanh Giản
dâng lên từ rất sớm ngay dƣới triều Vua Minh Mạng. Chính vì vậy mà ta
có thể nói ông là ngƣời sớm có tƣ tƣởng canh tân.
Dƣới thời vua Minh Mạng ông đã đƣa ra một chân lí trị nƣớc, đó là
phải “an dân”. Muốn cho an dân, ông “hối thúc” vua phải trị bọn hại dân:
“...ý niệm an dân, sau trƣớc chuyên cần. Để cho luân thƣờng rộng khắp,
hành hóa lớn lao, sáng láng trị bình, chỉ mong Hoàng thƣợng một lòng thi
hành, nghĩ cũng không phải khó”.
Trong tờ sớ dâng lên Thiệu Trị, Phan đã đề xuất nhằm yêu cầu cải cách
chốn quan trƣờng, bằng cách dựa vào dân, lấy ý dân để sửa đổi chính pháp:
“ Xin vua xuống một đạo Dụ nói rõ: bên trong thì đại thần ngôn quan, bên
ngoài thì các viên chức lớn phải đem hết trí nghĩ ra và mối chân tình trung
quân ái quốc đối với các điều lợi hại về đời sống của dân không kể lớn nhỏ,
không cần kiêng nể, đều phải bày tỏ không nên giấu giếm để cho kẻ có tấm
lòng chân thực và có chƣớc lạ, mƣu cao sẽ đƣơc cơ hội đạo đạt lên trên, thì
bao nhiêu vụ hƣ thực ở chốn dân gian và các quan lại ai hay, ai dở, đều soi
thấu hết. Chừng ấy hoàng thƣợng sẽ chọn điều tốt đem ra thi hành, còn bao
nhiêu điều dở sẽ bỏ đi, miễn sao cho những tình tệ của qua lại phải đƣợc
tạo thành, quân sĩ phải có thực số, xóm làng ấm no, yên ổn, biên phòng sẽ
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 96
vững chắc, rồi sau thế nƣớc sẽ đƣợc tôn trọng lâu dài”73. Trong suốt quá
trình làm quan trong triều Phan Thanh Giản đã nhận thức rất rỏ tầm quan
trọng của bộ máy quan lại sự tồn tại của bộ máy công quyền nhà nƣớc có
ảnh hƣởng tích cực, tiêu cực đến sự phát triển của đất nƣớc, vì vậy ông đã
đề nghị tiến hành cải cách ở trốn quan trƣờng , ngoài ra dƣới triều Tự Đức,
ông còn đƣa ra 8 điều khuyên can trong đó có đề xƣớng cải các việc tuyển
dung quan lại: lựa ngƣời trung lƣơng, đừng cho kẻ ham muốn quyền lợi
kiếm đƣờng lo lót, xim thêm lƣơng bổng cho hậu để các qua trau dạ thanh
liêm”74. Về mặt quân sự : Xin bớt công việc cho lính rảnh rang để thƣờng
thƣờng rèn luyện trận đồ...còn về kế sách giữ nƣớc: Cốt nhất nuôi dân
chăm cày cấy, nuôi lính đủ ăn, lƣu ý nhƣ thế thì sức dân đƣợc thƣ thả mà
quân có chỗ dạy, sức đất không bỏ phí mà lƣơng có chỗ ra. Quân giỏi,
lƣơng đủ nhƣ nƣớc chảy cuồn cuộn không hết”75. Ngoài ra ông còn đƣa ra
vấn đề nhằm hạn chế nạn tham nhũng, ăn chơi xa đọa trong tầng lớp vua,
quan lại: “Xin vua cẩn thận các việc chơi bời; Xin đừng ham coi hát xƣớng,
cần lo chánh nƣớc là hơn; Xa tránh những kẻ thấp hèn lanh lợi; Xin vua
chuộng điều tiết kiệm, bớt việc lãng phí xa hoa mà thƣơng xót cho dân, giữ
gìn đất nƣớc; Xin bớt kẻ cận thần và giữ theo phép tiền triều thuở trƣớc;
Xin vua thêm lƣơng bổng cho hậu để các quan trau dạ thanh liêm, giữ lẽ
công bằng, không ham hối lộ cho khỏi hại dân lành”. Đó không chỉ là điều
khuyên cho vua mà còn là bài học cho chúng ta ngày nay. Trong một xã hội
mà tệ tham ô, hối lộ, lãng phí đã đến mức có thể gọi đƣợc là “quốc nạn” thì
rất cần những ngƣời lãnh đạo cấp trên biết nghe và những lãnh đạo cấp dƣới
có tấm lòng và nhân cách thẳng thắn nhƣ ông. Tâm sáng này ở Phan Thanh
Giản đáng để hậu thế lƣu danh.
73 Nguyễn Duy Oanh – Sđd, Tr. 95
74 Nguyễn Duy Oanh – Sđd, Tr. 108.
75 Nguyễn Duy Oanh – Sđd, Tr. 109.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 97
Tƣ tƣởng canh tân của Phan Thanh Giản càng hoàn thiện và có tính
thực tiễn hơn khi cụ cùng phái đoàn sang Pháp. Sau khi ký hòa ƣớc 1862 ,
cắt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, Tự Đức sai sứ bộ sang Pháp để điều đình
với Pháp để chuộc lại 3 tỉnh đã mất. Chuyến đi của sứ bộ đƣợc ghi lại trong
nhật ký với tiêu đề “ Tây hành nhật ký” là báo cáo của sứ bộ Phan Thanh
Giản lên vua Tự Đức do Phạm Phú Thứ thảo và Phan Thanh Giản duyệt lại.
Cuốn nhật ký đã ghi lại đầy đủ chi tiết từng hƣớng đi của con tàu, tên các
vùng miền đã đi qua với nững tri thức về địa lý, lịch sử, những con số rất
cụ thể. Qua chuyến đi sứ Phan Thanh Giản đã nhận thấy rất nhiều điều kỳ
thú, mới lạ: những tòa nhà cao tấng, những con đƣờng thủy bộ đƣợc đào
xuyên qua để đi cho thẳng, mọi việc đều có máy làm, từ việc làm thừng,
bện kính, nấu quặng, làm đạn, súng ống...Điều đặc biệt hơn cả là sứ bộ còn
đƣợc ngồi trên xe lửa đi trên hai đƣờng ray bằng sắt, chúng chạy bon bon
mà không cần đến voi hay ngựa kéo, còn nữa khi đến sứ châu Âu sứ bộ
không thấy đèn dầu, không thấy bấc đèn, mà ngọn lửa từ trên cao quay
xuống, ánh sáng lại rực hơn, không hiểu tại sao họ lại sáng chế đƣợc kỳ lạ
vậy. Đến lỗi Phan phải thốt lên trong một bài thơ:
“ Trăm nghề khéo léo bằng trời đất
Chỉ còn việc sống chết là của tạo hóa”
Khi về nƣớc, sứ bộ đã thuật lại mọi chuyện nhƣ đèn thắp sáng ngƣợc,
ngọn lửa chiếu xuống đất cho mọi ngƣời nghe họ cho đó là chuyện không
có thật. Với tầm mắt của cụ ngày một mở rộng “ Đi một ngày đàng học một
sàng khôn” của mình sau khi đi Pháp về cụ đã kêu gọi đồng bào mau thức
tỉnh canh tân đất nƣớc và khuyên vua : “Nên giao thiệp với các nƣớc bạn,
cho dân xuất dƣơng du học, giao thƣơng với nƣớc ngoài... ”76. Tuy nhiên
những lời đề nghị của ông đã không đƣợc chấp nhận, vì vậy ông đã viết nên
bài thơ:
76 Nguyễn Duy Oanh – Sđd, Tr. 129
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 98
“ Từ ngày đi sứ tây kinh
Thấy việc châu Âu phải giật mình
Kêu rủ đồng bào mau thức dậy
Hết lời năm nỉ chẳng ai tin”77
Những tƣ tƣởng cải cách của ông sau này các nhà cải cách nhƣ Nguyễn
Trƣờng Tộ và Phan Châu Trinh cũng đề xƣớng và phát huy và hoàn thiện tƣ
tƣởng ấy. Tƣ tƣởng cải cách của Nguyễn Trƣờng Tộ đƣợc thể hiện rất rõ
qua 58 bản di thảo, qua đây ông đã yêu cầu cải cách trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế ( công nghiệp, nông nghiệp, tài chính), văn hóa ( giáo dục, ngôn
ngữ), xã hội ( cải thiện cuộc sống xã hội), chính trị ( nội trị, ngoại giao,
quốc phòng). Nhìn chung các đề nghị cải cách của Nguyễn Trƣờng Tộ đều
chứa đựng tinh thần yêu nƣớc, ý chí tự lập, tự cƣờng, tấm lòng tự tôn, tự
hào dân tộc, coi trọng việc phát huy trí thông minh, lòng ham học, tinh thần
cầu tiến bộ của thanh niên, nhân dân ta, với mong muốn làm cho dân giàu,
nƣớc mạnh, đất nƣớc độc lập tự do.
Đối với Phan Thanh Giản cũng thế tuy những tƣ tƣởng cải cách của ông
chƣa đề cập tới mọi vấn đề nhƣng ông đã phần nào đề cập tới vấn đề nội trị,
việc tuyển chọn quan lại, ngoại giao, kế sách đánh giặc... những tƣ tƣởng ấy
mặc dù ông chƣa đƣa ra những vấn đề cụ thể nhƣ của Nguyễn Trƣờng Tộ
nhƣng ông đã mƣờng tƣợng đƣợc các việc ấy nó là gì? Và phải làm gì? Qua
đây ta có thể khẳng định ông chính là một trong những nhà yêu nƣớc sớm
có tƣ tƣởng canh tân và là ngƣời mở đƣờng cho xu hƣớng canh tân sau này.
Những tƣ tƣởng canh tân ấy của ông cho tới tận bây giờ đối với đất nƣớc ta
trong tình thế hiện nay vẫn còn có giá trị nhƣ: việc giao lƣu với các nƣớc
bên ngoài, hay vấn đề hạn chế nạn tham nhũng... Trong thời kỳ mở cửa
77 Nguyễn Duy Oanh – Sđd, Tr. 178
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 99
ngày nay khi mà toàn thế giới đều trong quá trình hội nhập quốc tế việc
giao lƣu với thế giới bên ngoài là điều hết sức quan trọng góp phần phát
triển đất nƣớc về mọi mặt, đây là điều mà đƣợc Phan Thanh Giản đề cập tới
từ lâu.
Nhƣ vậy với nhận thức sâu sắc về thời cuộc Phan Thanh Giản đã sớm đề
sƣớng những tƣ tƣởng nhằm canh tân, đổi mới nhằm phát triển đất nƣớc
đƣa đất nƣớc thoát khỏi tình trạng khủng khoảng của chế độ phong kiến
đang ngày một lỗi thời so với su thế phát triển ở bên ngoài. Tuy nhiên có
thể nói Phan Thanh Giản là ngƣời “ biết” quá sớm, nhƣ Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã nói: “khôn chết, dại chết, biết sống”. Cái “ biết” của Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã nâng ông lên hàng quân sƣ của ba họ: họ Mạc, Lê, Trịnh.
Ông sớm tách ra khỏi sự tranh đoạt quyền lực của ba dòng họ để trở thành
vị phu tử của 3 triều: Mạc, Lê – Trịnh, Nguyễn. Nhờ đó danh tiếng của ông
còn “ sống” mãi đời đời. Đối với cái biết của Phan Thanh Giản, ông biết
nhƣng ông không thể xoay đổi đƣợc tình thế, ông đã chấp nhận thua thời
cuộc và chấp nhận thiên mệnh:
“Trời thời, đất lợi, lại ngƣời hòa
Há dễ ngồi coi chẳng nói ra”
Cái “biết” về thế và lực của nƣớc Pháp ở châu Âu đã giúp ông mở rộng
tầm mắt vì vậy ông đã muốn đổi mới đất nƣớc. Chính vì vậy, ông đã gửi
nhiều biểu chƣơng lên vua Tự Đức đề nghị đổi mới, cử ngƣời đi học, mở
rộng giao thƣơng với các nƣớc bên ngoài. Những đề nghị ấy đã không đƣợc
Tự Đức và triều thần chấp nhận, kể cả các bài điều trần của Nguyễn Trƣờng
Tộ gởi lên vua Tự Đức từ năm 1863 cũng không đƣợc lƣu ý. Tại sao những
tƣ tƣởng cải cách của các sĩ phu văn thân yêu nƣớc trình lên vua mà không
đƣợc thực hiện? Nhƣ chúng ta đã biết trong thời kỳ này triều Đình Huế và
Tự Đức đang thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng, cấm đạo, không quan
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 100
hệ với phƣơng Tây, chính vì vậy chủ trƣơng mở cửa và đổi mới của Phan
Thanh Giản là ngƣợc lại với chính sách của triều đình Huế, nên những yêu
cầu đổi mới đã không đƣợc chấp nhận.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 101
KẾT LUẬN
Lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX với nhiều biến cố thăng trầm. Mở đầu là
sự xác lập của vƣơng triều Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của chế
độ phong kiến Việt Nam. Vƣơng triều Nguyễn đƣơc xây dựng chẳng bao
lâu dƣới móng vuốt của bọn xâm lƣợc thực dân Pháp đất nƣớc ta dần rơi
vào tay giặc, biến đất nƣớc từ một nƣớc phong kiến độc lập trở thành nƣớc
nửa thuộc địa.
Trách nhiệm để mất nƣớc chính là do vƣơng triều Nguyễn, tuy nhiên
chúng ta cũng không nên phủ nhận những cố gắng, công lao đóng góp của
vƣơng triều này trong việc tìm kiếm và thực hiện những biện pháp nhằm
củng cố triều đại và bảo vệ quốc gia. Trên thực tế, các vua Nguyễn đã có
những đóng góp nhất định vào quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Nhƣng do sự lựa chọn đƣờng lối trị nƣớc của các vua triều Nguyễn cơ bản
không phù hợp với xu thế và yêu cầu của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX,
nên cuối cùng tiềm lực không đƣợc bồi dƣỡng, an ninh chính trị không
đƣợc đảm bảo, sức đề kháng của dân tộc suy giảm chính vì vậy đã để nƣớc
ta rơi vào tay thực dân Pháp.
Nhƣ chúng ta đã biết, sau một quá trình chuẩn bị lâu dài, ngày 1/9/1858
thực dân Pháp đã nổ súng tiến hành xâm lƣợc nƣớc ta. Trƣớc tình hình đó
toàn thể dân tộc đã đứng lên ra sức chống Pháp xâm lƣợc nhằm bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ, độc lập và chủ quyền dân tộc. Là vị quan trong triều, Phan học
sĩ - Phan Thanh Giản, đã hết sức lo lắng trƣớc âm mƣu xâm lƣợc của thực
dân Pháp, cả cuộc đời làm quan của ông đã dốc hết tài lực, suốt đời vì dân ,
vì nƣớc.
Phan Thanh Giản – ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, mẹ
mất sớm nhƣng với lòng ham học, chăm chỉ cần cù năm 1826 ông đã trở
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 102
thành vị tiến sĩ đầu tiên cũa đất Nam Kỳ, mở đầu cho sự nghiệp trong chốn
quan trƣờng.
Trong suốt 41 năm cống hiến cho đất nƣớc dƣới 3 triều vua Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức ông đã cống hiến hết tài năng và sức lực của mình, đảm
đƣơng nhiều trọng trách, trải qua nhiều bƣớc thăng trầm, nhƣng trong ông
luôn toát nên những phẩm chất cao đẹp. Một tấm gƣơng sáng về đạo đức,
lối sống và sự hiếu học, trong đó điều đặc biệt đó chính là tấm lòng yêu
thƣơng dân mình sâu sắc. Với tính cƣơng trực, trung chính, lo cho dân cho
nƣớc mà dƣới triều Minh Mạng ông đã 4 lần bị giáng chức. Song không vì
thế mà ông nản chí, trƣớc sau vẫn luôn giấn thân vào con đƣờng quang
minh chính đại vì nƣớc vì dân.
Là một trí thức đƣơng thời, Phan Thanh Giản có cái nhìn bao quát và
sâu sắc các mặt của đời sống xã hội. ở mỗi cƣơng vị, ông đều có những
cống hiến. Khi làm kinh lƣợc phó sứ ở miền Tây Nam bộ cũng nhƣ về kinh
đô Huế giữ chức Lễ bộ thƣợng thƣ, ông luôn chăm lo đến việc khai khẩn
đất hoang, phát triển sản xuất, mở mang trƣờng học, nhà thƣơng, với mong
muốn mở mang dân trí, chấn hƣng đất nƣớc mong sớm phú cƣờng để chống
đỡ cuộc xâm lăng của thực dân Pháp. Dƣới chế độ phong kiến đặc biệt là ở
thời điểm suy tàn, đại bộ phận quan lại dựa vào quyền thế mà đục khoét
nhân nhân, mƣu sinh vinh thân phì gia, chúng ta có đƣợc một vị đại thần
nhƣ ông là một điều hiếm hoi.
Đối với chúng ta ngày nay, lòng yêu nƣớc thƣơng dân, những nội dung
đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tƣ, khoan nhân đại độ thì ở
ngay trong bản thân của những đức tính ấy bất cứ ở đâu, trong giai đoạn
nào cũng đáng đƣợc trân trọng và kính phục. Đặc biệt những tƣ tƣởng đổi
mới của ông nhƣ: Uqn hệ với các nƣớc bên ngoài, mở mang xây dựng phát
triển nền dân trí của đất nƣớc.. lúc bấy giờ chúng vẫn còn có ý nghĩa cho tới
ngày nay. Trong thời kỳ hội nhập ngày nay, bên cạnh việc phát triển nền
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 103
kinh tế trong nƣớc, huy động nguồn nội lực, chúng ta cũng cần phải giao
lƣu học hỏi, tiếp thu những tri thức có chọn lọc ở bên ngoài, đồng thời việc
mở cửa nhƣ thế chúng ta sẽ thu hút đƣợc vốn đầu tƣ của nƣớc ngoài, nhằm
thúc đẩy, kích thích nền kinh tế trong nƣớc phát triển. Đó là tƣ tƣởng khá
tiến bộ mà ngày nay chúng ta còn áp dụng. Chúng ta cần đánh giá cao ở
mặt này, trả lại cho ông những giá trị đích thực, nhửng giá trị mà nhân dân
đã lƣu giữ, mếm mộ hàng trăm năm nay đối với ngƣời trí thức đầu tiên của
đất Nam Kỳ.
Tuy nhiên một vấn đề đặt ra ở đây đến những năm cuối thế kỷXIX đất
nƣớc ta rơi vào tay giặc, vậy nguyên nhân này do đâu? Trách nhiệm này
thuộc về ai? Việc ký hiệp ƣớc năm 1862 và để mất 3 tỉnh miền Tây chúng
ta hoàn toàn không thể quy hết trách nhiệm cho Phan Thanh Giản. Vốn
nặng tƣ tƣởng Nho giáo, Phan không thể không làm trái lệnh thiên tử. Vả
lại trƣớc khi đi nghị hòa, Tự Đức và các quan đại thần ở Viện Cơ mật cũng
có sự luận bàn, cử các sứ thần đi nghị về việc hòa, thì các khả năng để đƣa
đến hòa hoãn, kể cả khả năng cắt đất và bồi thƣờng cho giặc, do đó Phan
không thể và không có quyền thực hiện những điều mà nhà vua không chỉ
dụ. Nhƣ vậy việc làm đó của ông chính là việc thừa hành một đƣờng lối sai
lầm dẫn đến việc mất đất, Phan Thanh Giản không phải là ngƣời duy nhất
có tội mà chỉ chịu một phần trách nhiệm trong việc thực hiện đƣờng lối sai
lầm này. Ngƣời có tội với dân với nƣớc chính là Tự Đức. Tƣ tƣởng trung
quân của đạo nho không cho phép ông làm trái với lƣơng tâm và tấm lòng
yêu nƣớc thƣơng dân của mình. Chính vì vậy ông tự thấy mình có tội với
dân, với nƣớc nên ông đã tự kết liễu đời mình, bày tỏ nỗi lòng để hậu thế
phán xét. Ngày nay chúng ta không kết tội tiền nhân nhƣng qua nghiên cứu
để nhận thức đúng những đóng góp của ông cha ta vào sự nghiệp dựng
nƣớc, giữ nƣớc để phát huy và không để lịch sử phải lặp lại những sự kiện
dù chủ quan hay khách quan mang lại thảm họa cho dân tộc.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 104
Trong sự phát triển của lịch sử xã hội, ngày nay chúng ta càng có cái
nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản khoa học, chính xác và tiếp cận
gần hơn với chân giá trị của ông, một con ngƣời mà lẽ sống, đạo đức, tƣ
cách và học vấn là cả một niềm tự hào của xứ sở, quê hƣơng vùng đất Nam
bộ.
Để tƣởng nhớ một con ngƣời đã có những cống hiến tích cực cho tổ
quốc, để đáp lại lòng ngƣỡng mộ của nhân dân, ngày nay chúng ta đã và
đang bảo vệ, tôn tạo các di tích có liên quan tới ông, đồng thời sƣu tầm
những tài liệu nghiên cứu để có một bộ sách viết về ông. Nhằm trả lại cho
ông những giá trị và những hạn chế đích thực. Đáp ƣớng lòng mong mỏi
của nhân dân cả nƣớc và nhân dân Bến Tre – Vĩnh Long là quê hƣơng của
Phan Thanh Giản.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 105
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Niên biểu Phan Thanh Giản
Năm Tuổi Sự kiện
1796 1 Chào đời tại Việt Nam, thế kỷ XVIII
1826 30
Đỗ đầu tiến sĩ Nam Kỳ, Hàn lâm viện biên
tu, lang trung bộ hình, Tham hiệp Quảng Bình
1829 33
Phủ doãn Thừa Thiên, Thị lang bộ Lễ, Hiệp
trấn Ninh Bình.
1831 35
Vào Quảng Nam, đánh dẹp Mọi, thất bại bị
cách chức, nhƣng cho đoái công chuộc tội.
1832 36
Phục hàm kiểm thảo, sung chức hành tẩu
Nội các, thăng viên ngoại lang bộ hộ, chức phủ
doãn thừa Thiên, thăng Hồng lô tƣ khanh, Phó
sứ sang tàu. Khi về thăng Đại lý tự khanh, sung
cơ mật viện đại thần.
1835 39
Bố chính Quảng Nam, quyền ấn Tuần phủ
quan phòng.
1836 40
Can vua ngự giá Quảng Nam, bị phát giác
bê trễ, quan lại nhũng tệ ở Quảng Nam, giáng
làm lục phẩm thuộc viên tại chỗ, lại Thăng
thừa chỉ Nội các rồi sung cơ mật viện đại thần.
1838 42
Đi duyệt binh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh
Hóa về lo việc bộ hộ, bị giáng làm lang trung
bộ này, vì sót việc đóng ấn vua, đi khai mỏ bạc
ở Thái Nguyên.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 106
1839 43
Thống chính sứ ty Phó sứ rồi thị lang bộ hộ,
xử nhẹ tội tên Hữu Quang, bị sụt chức.
1840 44
Phó chủ khảo thừa thiên, chấm bài không
tinh bị giáng một bậc, lại thăng thị lang bộ
Binh.
1841 45 Thăng tham tri, kiêm việc cơ mật.
1848 52
Thăng hình bộ thƣợng thƣ kiêm Cơ Mật
viện đại thần.
1849 53
Giảng quan tòa Kinh Diên, xung chức tả kì
kinh lƣợc đại sứ, lãnh tổng đốc Bình Phú
1851 55
Nam kỳ kinh lƣợc phó sứ, chức tuần phủ
Gia Định.
1852 56
Cùng với chánh phó Nguyễn Tri Phƣơng
dâng sớ điều trần.
1853 57
Về kinh thăng hiệp biện đại học sĩ, lãnh
thƣợng thƣ bộ binh, sung chức Kinh Diên và
cơ mật.
1856 60
Tổng tài soạn bộ Việt sử thông giám cƣơng
mục
1859 63
Hải quân Pháp quấy rối Đà Nẵng, Định
Tƣờng và Biên Hòa.
1861 65
Liên quân Pháp - Tây Ban Nha đánh đồn
Kỳ Hòa, chiếm Sài Gòn, Định Tƣờng, Biên
Hòa, hạ thành Vĩnh Long.
1862 66
Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký hòa
ƣớc Nhâm tuất. Phan bị khiển trách, đổi làm
tổng đốc Vĩnh Long.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 107
1863 67 Về kinh, sung chức chánh sứ sang Pháp.
1864 68
Ở Pháp về, tâu xin sửa đổi việc nƣớc, vua
không y tấu.
1865 69
Dâng sớ xin về hƣu, vua không cho. Sung
chức kinh lƣợc đại thần trông coi 3 tỉnh miền
tây.
1866 70 Lấy cớ bệnh già xin nghỉ vua không cho.
1867 71
Mất 3 tỉnh miềm tây. Nhịn đói không chết,
uống độc dƣợc tuẫn tiết ngày 01.08.1867
1868
1
năm
mất
Bị truy tƣớc chức hàm, xóa tên trong bia
tiến sỹ.
1886
19
năm
mất Khai phục nguyên hàm, dựng bia nhƣ cũ.
1956 Hội thảo Phan Thanh Giản tại Hà Nội.
1966
100
năm
mất
Nhân dân Vĩnh Long dựng tƣợng đồng tại
Hùng Vƣơng - Lê Lai.
1996
130
năm
mất Hội thảo tại Vĩnh Long
2003
Tọa đàm "thế kỷ 21 nhìn về Phan Thanh
Giản".
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 108
Phụ lục 2: Một vài hình ảnh về Phan Thanh Giản
Phan Thanh Giản vị tiến sĩ đầu tiên của đất Nam kỳ
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 109
Lễ rƣớc tƣợng cụ đặt tại văn thánh miếu Vĩnh Long
Bức tƣợng đồng đặt tại văn thánh miếu
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 110
Đền thờ Phan Thanh Giản
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 111
Trƣờng học mang tên Phan Thanh Giản ở Cần Thơ
Cựu học sinh học trƣờng mang tẹn Phan Thanh Giản
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 112
Đƣờng Phan Thanh Giản xƣa, nay là đƣờng Điện Biên Phủ
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu gốc
1. Quốc sử quán triều Nguyễn - Châu bản triều Tự Đức. NXB Khoa
học xã hội năm 1987.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam Thực Lục. NXB Khoa học xã
hội năm 1970. Tập 32-37
3. Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại nam thực lục (chính biên). NXB
Khoa học xã hội năm 1971 Tập 31
4. Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại nam chính biên liệt truyện. NXB
Thuận Hóa – 2002. Tập 4, tr 37-42
5. Quốc sử quán triều Nguyễn - Khâm định việt sử thông giám cƣơng
mục. Tập 1
6. Quốc sử quán triều Nguyễn - Khâm định việt sử thông giám tiền
biên. Tập 1.
Tài liệu sách, báo, tạp chí
7. Cuộc tấn công quân sự đầu tiên của Pháp vào Việt Nam.
HenryMacleavuy – Ngô Bắc dịch.
8. Đinh Xuân Lâm ( chủ biên) - Đại cƣơng lịch sử Việt Nam. NXB
Giáo Dục. Tập 2
9. Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ vào thế kỷ XVII, XVIII, XIX-
NXB Khoa học xã hội- 2003
10. Kỷ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế
kỷ XVII- XIX. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ĐHSPTp. Hồ Chí Minh. 5-2002
11. Nhiều tác giả - Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới. - NXB
ĐHSP Thành Phố Hồ Chí Minh – 2005.tr 386- 458.
12. Nguyễn Phan Quang – Việt Nam thế kỷ XIX ( 1802 - 1884). NXB
Tp. Hồ Chí Minh năm 2002.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 114
13. Nguyễn Phi Hùng, Buasichalơnsúc – Lịch sử Lào hiện đại. NXB
Chính trị quốc gia. Tháng 2-2006.
14. Những vấn đề về triều đại cuối cùng ở Việt Nam. Tạp chí xƣa và nay
xuất bản năm 2002.
15. Nguyễn Thế Long - Bang giao Đại Việt triều Nguyễn. NXB Thuận
Hóa – 2003. (tr 109- 139).
16. Nguyễn Thế Anh – kinh tế xã hội Việt Nam dƣới các triều Nguyễn.
NXB Lửa Thiêng – Sài Gòn 1971
17. Nguyễn Thế Long - Chuyện đi xứ tiếp xứ thời xƣa.– NXB Văn Hóa
Thông Tin - 2001
18. Nguyễn Duy Oanh – Chân dung Phan Thanh Giản. Tủ sách bộ Giáo
dục và thanh niên, năm 1973
18. Nguyễn Duy Anh – Phan Thanh Giản cuộc đời và tác phẩm. Hội
khoa học lịch sử Việt Nam – Đại học Hồng Bàng. Năm 2003
19. Phan Thanh Giản con ngƣời, sự nghiệp và bi kịch cuối đời. Lịch sự
sự thật và sử học – NXB Trẻ Tp. Hồ Chí Minh
20. Phan Thị Minh Lễ, Chƣơng Thâu - Thơ văn Phan Thanh Giản.. NXB
Hội nhà văn. 2005
21. Tây hành nhật ký. Di thảo của cụ Phạm Phú Thứ. NXB Văn nghệ
Tp. Hồ Chí Minh. 2000.
22. Trần Thị Kim Dung – Tri thức Nam kỳ đối mặt với cuộc chiến tranh
xâm lƣợc của thực dân Pháp trong nửa sau thế kỷ XIX ( qua các trƣờng hợp
Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông, Trƣơng Vĩnh Ký).
Luận án tiến sĩ, trƣờng ĐHKHXH&NV. 2003.
23. Trần Văn Giàu – Tổng tập. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội 2006.
24. Tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc dƣới triều Nguyễn – NXB Huế. Năm
1999.
25. Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam từ 1737 – 1945. NXB Phủ quốc
vụ khanh đặc trách văn hóa. Năm 1971
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Thầy Trịnh Thành Công
SVTH: Lê Thị Lành Trang 115
26. Thế kỷ XIX nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản. Hội khoa
học lịch sử Việt Nam. Tạp chí xƣa và nay – NXB Đồng Nai. 2006
27. Trần Thị Thanh Thanh – Tài liệu tham khảo một số vấn đề Triều
Nguyễn.
28. Trƣơng Hữu Quýnh – Tìm hiểu một vài điểm về thủ công nghiệp
quan xƣởng Việt Nam thời phong kiến. NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp. Năm 1992.
29. Trƣơng Bá Cần - Phan Thanh Giản với việc mất 3 tỉnh Miền Tây kỷ
niệm 100 năm ngày Pháp chiếm Nam Kỳ.
30. Trần Trọng Kim – Việt Nam sử lƣợc. NXB Tân Việt năm 1951.
31. Vũ Huy Phúc (chủ biên) Phạm Quang Trung- Nguyễn Ngọc Cơ -
Lịch sử Việt Nam 1858-1896. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
Quốc Gia- Viện sử học
32. Quê hƣơng Bến Tre với nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản. Ban
tuyên huấn tỉnh ủy Bến Tre. Tham luận số 2 trong kỷ yếu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lethilanh.pdf