Khóa luận Các qui định pháp lý về hàng hoá trên thị trường Nhật Bản và khả năng thâm nhập của hàng hoá Việt Nam

Đây là ngành có nhiều tiềm năng, nhưng kim ngạch xuất khẩu còn thấp, mặc dù thị trường Nhật bản là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt nam. Trên thị trường Nhật bản, hàng thuỷ sản Việt nam bước đầu đã có chỗ đứng, đặc biệt mặt hàng tôm đông lạnh được nhiều người Nhật bản ưa thích. Tuy nhiên còn rất nhiều hạn chế khiến cho tỉ trọng xuất khẩu mặt hàng này không thể tăng cao, nhiều chuyến hàng bị vướng mắc với hải quan Nhật bản do không đảm bảo các qui định, thậm chí có trường hợp trong tôm lẫn cả đinh, đất bùn Người ta cũng tiến hành kiểm tra gắt gao xem trong thuỷ sản có chất tẩy trắng hay chất khoáng sinh khoáng khuẩn thừa hay không. Vì thế các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa nâng cao chất lượng mặt hàng này, giữ uy tín bằng cách tăng cường thanh sát kiểm tra, triệt để thực hiện không đưa hoá chất vào các khâu nuôi, bảo quản và chế biến, không sử dụng các chế phẩm trong danh mục cấm sử dụng. Cần thống nhất phương pháp quản lý vệ sinh và chất lượng sản phẩm trong các hoạt động quản lý, công nghệ, thị trường, gắn kết từ nguyên liệu đến thị trường nhập khẩu, kết hợp với các doanh nghiệp khác, với cộng đồng ngư dân và các cơ sở chế biến xuất khẩu, áp dụng các chương trình an toàn vệ sinh thực phẩm trên cơ sở tiếp cận HACCP được coi là bắt buộc với buôn bán thuỷ sản trên thế giới. Trong đó, việc lấy xác nhận trước về chất lượng (pre- certification) đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó góp phần rất lớn vào việc giảm chi phí phát sinh trong quá trình lưu thông hàng hoá tại Nhật. Chi phí lưu kho lậnh tại Nhật có thể lên tới 80 USD/ngày cho 01 container, chi phí giám định khoảng 130 USD .Nếu không có giấy xác nhận của hệ thống pre-cetification, hàng hoá có thể phải lưu kho bãi tới 7 ngày,trong khi đó, nếu có giấy xác nhận, hàng hoá có thể được thông quan trong ngày, tiết kiệm ít nhất hơn 500 USD cho một container 20 feet.

doc99 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các qui định pháp lý về hàng hoá trên thị trường Nhật Bản và khả năng thâm nhập của hàng hoá Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biện pháp để đảm bảo an toàn vệ sinh, hướng dẫn không sử dụng thuốc trừ sâu, các chất hoá học bị cấm. Hiện nay mỗi năm trung bình Việt nam xuất khẩu hơn 200 triệu USD rau quả, trong khi xuất sang Nhật bản chỉ khoảng 9,4%, rõ ràng thị phần còn rất nhỏ bé và năng lực của Việt nam có thể cao hơn rất nhiều nữa. Mục tiêu cho ngành là đến năm 2005 xuất khẩu rau quả sang Nhật bản sẽ đạt trên 20 triệu USD. Chương 3 Một số giải pháp nâng cao khả năng thâm nhập của hàng hoá Việt nam trên thị trường Nhật bản Mặc dù quan hệ ngoại thương Việt nam - Nhật bản đang tiến tới những bước phát triển mới có lợi cho cả hai bên nhưng không thể phủ nhận một số khó khăn còn tồn tại, cản trở những bước phát triển này. Đặc biệt hàng rào các qui định, yêu cầu về hàng hoá trên thị trường cả về mặt lý thuyết và thực tế - luôn là cản trở lớn đối với sự xâm nhập của hàng hoá Việt nam vào thị trường Nhật bản. Những chính sách về thương mại của hai nước có nhiều điểm không tương đồng. Thực tế Việt nam đang trong quá trình chuyển đổi nên không thể tránh khỏi những thiếu sót và bất hợp lý. Điều này đồng thời cũng chính là những khó khăn cản trở Nhật bản trong quan hệ buôn bán với Việt nam. Điểm tồn tại đáng lưu ý của Việt nam là thiếu hệ thống luật và việc giải quyết tranh chấp khiếu kiện còn chưa được hoàn thiện. Nhà nước đã cố gắng xây dựng hệ thống pháp lý trong hoạt động thương mại, nhưng hiệu lực của các văn bản pháp lý này đã phần nào bị giảm sút đáng kể vì thiếu một hệ thống hoàn chỉnh hướng dẫn thi hành để các tổ chức, cá nhân có thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình. Một hành vi thương mại có thể do rất nhiều qui định pháp lý điều chỉnh, nhưng rất khó xác định được qui định nào là chuẩn mực. Cũng thế, các qui định về phẩm chất, chất lượng… liên quan đến hàng hoá mặc dù rất nhiều, nhưng chồng chéo, và thực hiện không nghiêm túc, khi vi phạm thì không xác định ngay được cơ quan đủ thẩm quyền giải quyết. Nếu như trước đây vào những năm 90 - 93, chúng ta thiếu nghiêm trọng hệ thống pháp lý trong hoạt động thương mại, thì gần đây chúng ta đang phải đối phó với việc tạo lập hệ thống thiết chế thực hiện luật và văn bản pháp luật, trong khi hệ thống pháp lý vẫn chưa hoàn thiện. Thậm chí cho đến nay, chính phủ Việt nam vẫn chưa có những chính sách rõ ràng qui định cụ thể những ngành công nghiệp nào các công ty Nhật nên và có thể đầu tư với những điều kiện cụ thể như thuế, ưu đãi… để sản phẩm của những ngành công nghiệp này xuất sang thị trường Nhật bản một cách dễ dàng. Hệ thống chính sách và phương thức điều hành cũng cần điều chỉnh lại. Hiện nay, cơ chế chính sách của Việt nam vừa thiếu lại vừa bất cập, gây khó khăn cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng đôi khi lại có kẽ hở để cho các doanh nghiệp này lợi dụng, gây bất lợi cho phía Việt nam. Bên cạnh rất nhiều thuận lợi cho sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước, còn tồn tại một số khó khăn khác như: mâu thuẫn giữa nhu cầu nhập khẩu tài nguyên từ Việt nam của Nhật bản và xu hướng hạn chế xuất khẩu tài nguyên đẩy mạnh xuất khẩu hàng gia công chế biến của Việt nam, giữa mặt bằng chất lượng hàng Việt nam nói chung còn thấp và truyền thống tiêu thụ hàng chất lượng cao trên thị trường Nhật bản... Để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Nhật bản cần giải quyết rất nhiều vấn đề, tuy nhiên có thể nói vấn đề quan trọng nhất là thoả mãn các qui định của thị trường Nhật bản, đó là bước đầu tiên để các doanh nghiệp có thể vào được thị trường Nhật bản và đứng vững ở đó. Vậy trong phạm vi bài luận văn này, em chỉ xin nêu ra một số giải pháp nâng cao khả năng xâm nhập của hàng hoá Việt nam qua việc thoả mãn các qui định pháp lý về hàng hoá trên thị trường Nhật bản. Các giải pháp này xoay quanh hai vấn đề: giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế, và các giải pháp nhằm phát huy những lợi thế sẵn có cũng như tạo ra lợi thế mới cho hàng hoá Việt nam. I. Những giải pháp mang tính vĩ mô Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp Việt nam còn có nhiều điểm hạn chế về công nghệ sản xuất, chế biến, nghiệp vụ xuất nhập khẩu, lựa chọn đối tác và đặc biệt là khả năng tìm hiểu thị trường. Trước những khó khăn này, các doanh nghiệp không thể đủ tiềm lực tự giải quyết mà cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ to lớn từ phía nhà nước và chính phủ. 1.Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt nam trong việc cải tiến nâng cao chất lượng: Chất lượng là yếu tố trước mắt, yếu tố quan trọng nhất cần được giải quyết để có thể đẩy mạnh khả năng thâm nhập hàng hoá vào thị trường Nhật bản. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng, đòi hỏi có sự kết hợp và nỗ lực từ nhiều phía. Chính vì vậy các doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ của nhà nước trong vấn đề này. Nhà nước cần có những chính sách như: +Khuyến khích xuất khẩu sản phẩm có chất lượng, khuyến khích các sản phẩm qua chế biến, giảm tỉ lệ xuất khẩu nguyên liệu thô và giảm tỉ lệ hàng gia công. Có thể đưa các chính sách như: sản phẩm có chất lượng cao được cấp dấu chứng nhận chất lượng và công nhận sản phẩm và dịch vụ hợp chuẩn, được cấp và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, đồng thời có phần thưởng đối với sản phẩm và dịch vụ có chất lượng tốt. Nghiêm cấm, xử lý nghiêm các trường hợp làm giả, hàng kém chất lượng. Khuyến khích đầu tư vào đổi mới công nghệ và các khâu có ý nghĩa quyết định tới chất lượng sản phẩm như: sản xuất thử và xử lý nguyên liệu, chế biến, sản xuất hoàn thiện. +Hình thành chiến lược chất lượng sản phẩm trên phạm vi quốc gia để định hướng phát triển chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Nhà nước ban hành rõ ràng về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Qui định chất lượng sản phẩm dựa trên cơ sở tiêu chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Đặc biệt chú trọng các sản phẩm tinh chế từ dầu mỏ, mặt hàng phẩm cấp cao, hàng cơ khí chế tạo, hàng linh kiện điện tử, hàng may mặc hoặc sản phẩm có lợi thế so sánh để tạo sức cạnh tranh trên thị trường. +Thực hiện khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà nước khuyến khích cạnh tranh thông qua các chính sách điều tiết quan hệ trong nước, thực hiện nới lỏng dần các chính sách thuế, chính sách nhập khẩu công nghệ, chính sách tín dụng ưu đãi đối với các doanh nghiệp cải tiến chất lượng sản phẩm, tăng tỉ lệ tinh chế các sản phẩm xuất khẩu, tăng hàm lượng vốn và công nghệ trong hàm lượng hàng xuất khẩu. Đồng thời hình thành các doanh nghiệp vệ tinh phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp này cũng được ưu đãi tương ứng với các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng các sản phẩm nguyên liệu hoặc bán thành phẩm từ các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, nhà nước tạo diều kiện tổ chức các cuộc triển lãm về cải tiến chất lượng sản phẩm để các doanh nghiệp học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Đồng thời chủ động xây dựng chương trình nghiên cứu cấp nhà nước, cấp bộ về cải tiến chất lượng sản phẩm, mời các chuyên gia nước ngoài đến để tổ chức các khoá tập huấn về quản lý chất lượng đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng cường nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm. + Khuyến khích và hỗ trợ việc ra đời các hiệp hội chất lượng ngành. Các bộ chủ quản có thể phân nhóm nghành để từ đó khuyến khích các nhóm ngành phối hợp nguồn lực hình thành các hiệp hội chất lượng ngành. Các tổ chức này sẽ là cầu nối cho các doanh nghiệp trên cả phương diện thông tin cũng như trong việc trực tiếp xây dựng và giúp đỡ các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm. 2.Khuyến khích công ty Nhật bản chuyển các cơ sở sản xuất và kinh doanh sang Việt nam Những năm gần đây, làn sóng di chuyển các cơ sở sản xuất của Nhật bản sang châu á diễn ra ngày càng mạnh mẽ, ngoài hai mục đích là có được thị trường tiêu thụ tại chỗ và sản xuất sản phẩm để xuất khẩu sang nước thứ ba, sự di chuyển này cũng đáp ứng nhu cầu nhập khẩu trong nứơc của Nhật bản. Vì vậy, khi các cơ sở sản xuất của Nhật bản được chuyển sang Việt nam thì hoạt động xuất khẩu của Việt nam nói chung và sang Nhật bản cũng được đẩy mạnh và phát triển. Mặt khác, nếu Việt nam tiếp nhận được công nghệ của Nhật bản, xét về tương lai sẽ thấy rất nhiều lợi ích. Trong vài thập kỷ gần đây Nhật bản vẫn luôn là nước có công nghệ sản xuất tiên tiến nhất, các nước công nghiệp mới hay một số nước châu á mới phát triển hầu hết đều dựa vào sự di chuyển công nghệ của Nhật bản sang. Chính vì thế, Việt nam cần phải nhanh chóng cải thiện môi trường đầu tư với những chính sách nâng cấp cơ sở hạ tầng , hoàn thiện và ổn định môi trường pháp lý, đào tạo nhân lực, đơn giản thủ tục hành chính… Ngoài ra chính phủ có thể đưa ra những chính sách qui định ngành công nghiệp nào của Việt nam các công ty Nhật bản nên và có thể đầu tư với những điều kiện ưu đãi cụ thể, nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu Việt - Nhật đồng thời phát triển các ngành sản xuất trong nước. Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu thì điều quan trọng là phải tăng nhanh khối lượng hàng hoá đã qua chế biến và có hàm lượng kĩ thuật sang Nhật bản. Trong điều kiện Việt nam còn nhiều khó khăn để thay đổi cơ cấu đó thì phương án tối ưu nhất là chính phủ nên đưa ra các chính sách tích cực, lôi cuốn sự tham gia của các nhà đầu tư Nhật bản trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt nam, đặc biệt hàng xuất khẩu sang Nhật. Cụ thể những ngành mà Nhật bản nhập khẩu nhiều và Việt nam có khả năng xuất khẩu như: chế biến thực phẩm, dệt may, chế tạo ô tô, xe máy và sản xuất linh kiện điện tử. Đây chính là chìa khoá để Việt nam nâng cao chất lượng, thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nhật và tìm được cho mình chỗ đứng vững chắc trên thị trường Nhật bản. 3.Hoàn chỉnh hệ thống các qui định về quản lý chất lượng hàng hoá Hệ thống luật pháp là một trong những yếu tố còn tồn tại nhiều bất cập nhất của Việt nam. Thực tế ngay trên chính thị trường Việt nam các qui định về hàng hóa còn chưa đầy đủ và chưa được thực hiện một cách triệt để. Điều đó dẫn đến khi buôn bán với một thị trường có tiếng là khắt khe như Nhật bản, hàng Việt nam gặp phải nhiều rào cản mới và rất nhiều trường hợp thất bại không thể đáp ứng được các qui định này. Vì vậy chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp bằng cách hoàn chỉnh những bộ luật về thương mại, về hàng hoá, xem xét những điểm khác biệt giữa các luật tương đương của Việt nam và Nhật bản để điều chỉnh cho phù hợp. Chẳng hạn, Việt nam chưa có bộ luật riêng về bảo vệ người tiêu dùng, luật riêng về tiêu chuẩn chất lượng hàng công, nông nghiệp, mà các qui định này nằm rải rác trong các luật thương mại, luật dân sự…Các qui định về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường…đã có nhưng cũng chưa được thực hiện nghiêm túc. Việc điều chỉnh, thực hiện các qui định này là việc cần làm ngay, để tạo ra được mạng lưới hàng hoá có chất lượng đồng đều, và để các doanh nghiệp quen dần với việc đảm bảo các qui định pháp lý, sản xuất ra những hàng hoá có chất lượng cao nhất. Trên thực tế, dù một thị trường khắt khe nhất và nhiều qui định như Nhật bản, nhưng trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, nếu hàng hoá đã được áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế được thế giới công nhận, thì khả năng cho hàng hoá vào được thị trường Nhật là rất lớn. Hệ thống quản lý chất lượng do tổng cục tiêu chuẩn quốc tế đặt ra (ISO 9000) là một tiêu chuẩn như thế, nó được xem như một tấm hộ chiếu cho hàng nhập khẩu của một nước đang phát triển thâm nhập vào thị trường một nước công nghiệp cao. Chính vì thế, chính phủ cần có những biện pháp rõ nét hơn nữa khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc lấy chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9000. Chẳng hạn thành lập các tổ chức, nhà chuyên môn tư vấn có đủ năng lực và kinh nghiệm giúp các doanh nghiệp thực hiện quá trình này, hoặc thậm chí khen thưởng và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp đã lấy được ISO… Tất nhiên, yêu cầu về chất lượng khi muốn thâm nhập thị trường Nhật bản không chỉ dừng lại ở ISO. Cần kết hợp với các biện pháp khác để tạo nên một hệ thống qui định pháp luật hoàn chỉnh định hướng cho các doanh nghiệp. 4.Hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng sang thị trường Nhật bản cũng như các ngành sản xuất phục vụ cho hoạt động này. Trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt ở mỗi mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt với một số đối thủ đã có tên tuổi và chỗ đứng trên thị trường Nhật bản mà mức giá rẻ hơn và chất lượng tương đương như Trung quốc, Thái Lan, Malaysia, các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn và rất cần sự hỗ trợ nhiều mặt từ phía chính phủ, đặc biệt là hỗ trợ về vấn đề pháp lý, hỗ trợ về thông tin… Đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh những mặt hàng có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Nhật bản, chính phủ và các cơ quan nhà nước cần có chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp này phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh. Cụ thể như hỗ trợ về vốn, về thuế, về việc giải quyết các thủ tục …Về phương diện này, kinh nghiệm của chính Nhật bản và các nước đã thành công trong lĩnh vực xuất khẩu là rất đáng chú ý. Đồng thời với việc hỗ trợ các doanh nghiệp, chính phủ cũng cần đưa ra những chính sách kích thích sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ trong nước phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt là các ngành sản xuất nguyên vật liệu, phụ kiện để các ngành sản xuất hàng xuất khẩu không phải nhập nguyên phụ liệu với giá cao, có thể giảm chi phí, giá thành sản xuất, đầu tư nâng cao hơn nữa chất lượng, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Theo thống kê, hiện nay một số ngành sản xuất của ta sử dụng trên 40% nguyên, phụ liệu nhập khẩu, thậm chí có ngành phải sử dụng đến 70 - 80% nguyên, phụ liệu nhập khẩu. Nhà nước cũng cần tiến hành kiểm soát các chi phí trung gian cho sản xuất. Hiện nay việc cung cấp một số hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh như: điện, nước, viễn thông, xăng dầu..thuộc độc quyền nhà nước nên đã gây tình trạng áp đặt về giá, buộc các doanh nghiệp phải sử dụng hàng hoá, dịch vụ này với chi phí cao, khiến giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng tăng cao giảm khả năng cạnh tranh. Nếu một chính sách chủ động như vậy được thực hiện, không những sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động xuất khẩu của cả nước sang thị trường Nhật bản mà sản xuất trong nước cũng phát triển, các doanh nghiệp Việt nam sẽ hạn chế được sự thụ động trong hoạt động xuất khẩu như hiện nay. 5.Thành lập tổ chức xúc tiến thương mại của chính phủ Trong tình hình thiếu thông tin về thị trường, bạn hàng, không nắm chắc các qui định của Nhật bản dẫn đến nhiều thất bại của các doanh nghiệp Việt nam như hiện nay, việc thành lập tổ chức xúc tiến thương mại của chính phủ là hết sức cần thiết. Chính phủ nên tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận bạn hàng, môi trường kinh doanh, tiếp cận với máy móc và công nghệ hiện đại. Cụ thể, có thể thêm các văn phòng đại diện tại những thành phố lớn của Nhật bản nhằm hỗ trợ cho việc quảng cáo, tìm bạn hàng, nghiên cứu, điều tra thị trường, cung cấp các thông tin cần thiết tại từng khu vực thị trường …, cũng là tạo điều kiện để đối tác có được những thông tin nhanh về doanh nghiệp Việt nam, tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc đặc biệt là với các qui định pháp lý. Các văn phòng cũng có thể giới thiệu bạn hàng cho các doanh nghiệp Việt nam, làm cầu nối thắt chặt hơn mối quan hệ giữa doanh nghiệp Việt nam và Nhật bản. 6.Thảo luận cấp chính phủ về mở cửa thị trường, tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi cấp chính phủ và doanh nghiệp Các cơ quan chính phủ Việt nam có thể cùng với các cơ quan cùng chức năng của chính phủ Nhật bản phối hợp tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo, triển lãm để doanh nghiệp hai nước có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với nhau. Qua đó giúp cho các doanh nghiệp Việt nam nắm bắt thông tin về phong tục tập quán, văn hoá tiêu dùng của người Nhật, những thay đổi, chỉnh sửa hệ thống qui định pháp lý của Nhật bản, quan điểm kinh doanh của giới doanh nghiệp Nhật bản và khảo sát thị trường Nhật bản. Thị trường Nhật bản được coi là thị trường có mức độ bảo hộ cao nhất. Sự bảo hộ này có thể dưới hình thức phi thuế quan, vì vậy những quyết định về mở cửa thị trường có ảnh hưởng rất lớn. Chính phủ Việt nam nên có những cuộc đàm phán, trao đổi để Nhật bản mở rộng hơn nữa thị trường cho Việt nam, trước hết là với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Một thành công lớn của chính phủ hai nước trong vấn đề này,là ngày 26/5/1999, Nhật bản và Việt nam đã chính thức dành cho nhau qui chế tối huệ quốc, tạo cơ hội làm ăn lớn cho các doanh nghiệp Việt nam xuất khẩu hàng sang Nhật bản. Với qui chế này, thuế suất của nhiều mặt hàng Việt nam xuất sang Nhật sẽ giảm đi đáng kể. Chính phủ cũng cần đẩy mạnh vai trò trung gian đàm phán, lên các kế hoạch vĩ mô và định hướng cho các doanh nghiệp. 7.Các biện pháp khác Ngoài ra chính phủ và các cơ quan hữu quan cũng nên chú trọng các chương trình đào tạo thực tế, chuyên sâu về thương mại cho các cán bộ ngoại thương, để họ nắm chắc những yêu cầu của thị trường, tập quán tiêu dùng, thói quen trong làm ăn kinh doanh với người Nhật …nhằm hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra. Việt nam cũng nên tham gia các thể chế thương mại toàn cầu (WTO, APECT…) để được hưởng các qui chế và ưu đãi, đồng thời để đặt các doanh nghiệp Việt nam trong một môi trường ngày càng phải cạnh tranh nhiều hơn từ đó nỗ lực nâng cao chất lượng thoả mãn các yêu cầu từ phía thị trường Nhật bản nói riêng và thị trường toàn cầu nói chung. Đặc biệt chính phủ nên coi thị trường Nhật bản như một trong những hướng xuất khẩu quan trọng nhất, căn cứ vào sự biến đổi cơ cấu kinh tế và vai trò của nó ở khu vực Đông nam á, châu á thái bình dương để đưa ra các chính sách định hướng thị trường. Những qui định của Nhật bản về hàng hoá nói chung được đánh giá là tương đối chặt chẽ và tiên tiến, có thể lấy làm cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật của Việt nam, và nếu được như thế, đó sẽ là một bước tiến dài giúp cho hàng Việt nam vào thị trường Nhật bản dễ dàng hơn, có khả năng đứng vững chắc hơn. II.Giải pháp về phía các doanh nghiệp Để hàng hoá Việt nam có thể thâm nhập và cạnh tranh trên thị trường Nhật bản thì biện pháp chính phải là từ phía các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải chủ động phân tích tình hình, phân tích những hạn chế khó khăn từ đó đề ra các giải pháp khắc phục, nhận thức được những nguy cơ, thách thức để tự đổi mới, tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dựa trên các yếu tố như: vốn và công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm, kết quả hoạt động của doanh nghiệp…Doanh nghiệp cũng phải tự đánh giá được mức độ thoả mãn các yêu cầu của pháp luật, các yêu cầu của người tiêu dùng, khả năng cạnh tranh các sản phẩm của mình theo một số tiêu chí như: số lượng, qui mô, chất lượng, giá cả của sản phẩm, cơ cấu nguồn cung cầu và tính đa dạng của các sản phẩm… Nhưng quan trọng nhất, vấn đề đầu tiên để đưa được hàng hoá sang thị trường Nhật bản, là doanh nghiệp phải thoả mãn được các yêu cầu, qui định của pháp luật liên quan đến loại hình sản phẩm của mình. Cùng với các biện pháp chung nhất nêu trên, về vấn đề này, em xin đưa ra một số giải pháp cụ thể với các doanh nghiệp như sau: 1.Coi Nhật bản là một thị trường quan trọng và có chiến lược lâu dài Các doanh nghiệp Việt nam hiện nay đang xuất khẩu sang Nhật bản hay sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu trong tương lai cần phải coi Nhật bản là một thị trường quan trọng để thực hiện những hoạt động nghiên cứu, thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Đồng thời muốn thâm nhập và thành công trên thị trường Nhật bản đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chiến lược với tầm nhìn sâu, rộng. Chiến lược lâu dài đối với thị trường Nhật bản phải trên cơ sở nghiên cứu kỹ các yếu tố như: dung lượng thị trường, hệ thống qui định pháp lý, các đối thủ cạnh tranh, kênh phân phối, những diễn biến đối với người sử dụng và tiêu dùng, những xu hướng nghiên cứu và phát triển. Đối với các doanh nghiệp mới bắt đầu thâm nhập vào thị trường Nhật bản thì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao và nhanh chóng là điều không phù hợp. Điều quan trọng là phải có lòng kiên trì, sự quyết đoán và sự năng động nhạy bén trong kinh doanh. Thực tế nhiều doanh nghiệp Việt nam kinh doanh với Nhật bản làm ăn theo kiểu chụp giật, nghĩ đến lợi nhuận ngắn hạn trước mắt, dẫn đến gây mất lòng tin từ đối tác và mất nhiều cơ hội hơn để kinh doanh với người Nhật. 2.Nâng cao chất lượng sản phẩm Vì ở Nhật, chất lượng sản phẩm là yêu cầu hàng đầu của người tiêu dùng, và hệ thống luật qui định cho hàng hoá, luật bảo vệ người tiêu dùng rất chặt chẽ, nên nếu sản phẩm đưa vào Nhật bản mà có sự sai sót về chất lượng có thể bị thu hồi lại, hay tồi tệ hơn, nhà nhập khẩu có thể bị khiếu nại về chất lượng và có thể bị khởi tố. Trong những năm gần đây hàng xuất khẩu của Việt nam sang Nhật bản rất nhiều trường hợp bị khiếu nại về chất lượng. Trường hợp hay gặp nhất là các hàng hoá Việt nam không đáp ứng nổi các yêu cầu, qui định của luật pháp cũng như những yêu cầu từ phía người tiêu dùng. Vì vậy, biện pháp vừa mang tính cấp thiết và lâu dài, đó là nâng cao chất lượng hàng Việt nam - nhất là những mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu lớn hoặc có tiềm năng xuất khẩu. Để nâng cao chất lượng hàng hoá, trước hết doanh nghiệp cần tiến hành phân tích môi trường kinh doanh. Việc phân tích môi trường kinh doanh có thể khái quát ở 4 vấn đề chính: -Phân tích môi trường khu vực và quốc tế để hình thành chiến lược chất lượng sản phẩm xuất khẩu -Phân tích môi trường vĩ mô nền kinh tế quốc dân: các chính sách ưu tiên hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ, thực trạng phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp với nhau hay với các cơ quan hỗ trợ xuất khẩu, các điều kiện về nguồn lực, trình độ quản lý… -Phân tích các sức ép trực tiếp từ môi trường ngành, trong đó đặc biệt chú ý các đối thủ cạnh tranh, nhất là các đối thủ cạnh tranh có vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động của nhà cung cấp, tình hình sản phẩm thay thế… -Phân tích nội lực của doanh nghiệp, tìm điểm mạnh, yếu của mình để có thể tạo ra các lợi thế so sánh cần thiết. Sau đó cần xác định mục tiêu, vạch rõ phương án chiến lược cho doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh của nước ta, tính chất tự phát trong hoạch định vẫn còn nhiều, có nghĩa là sự “mò mẫm” làm theo vẫn còn chiếm tỉ trọng cao. Dưới đây là bốn chiến lược chất lượng mà các hãng nước ngoài thường vận dụng để xuất khẩu hàng hoá của mình: -Chiến lược chất lượng kĩ thuật: Nghiên cứu tìm ra các giải pháp công nghệ mới, cho phép xuất hiện các sản phẩm mới hoàn toàn và trở thành người dẫn đầu thị trường, định hướng thị trường . -Chiến lược chất lượng marketing: Coi chất lượng là sự chấp thuận của khách hàng và thuần tuý tìm kiếm các giải pháp marketing cho chiến lược chất lượng. -Chiến lược chất lượng kĩ thuật - marketing: Đan xen các tiên bộ kĩ thuật với tính chất cải tiến nhỏ bên cạnh các nỗ lực marketing. -Chiến lược chất lượng dịch vụ: Nâng cao uy tín chất lượng của mình bằng hệ thống dịch vụ tốt. Đó cũng có thể là các ý tưởng đáng xem xét để hình thành nên chiến lược chất lượng sản phẩm cho từng doanh nghiệp. Thực tế, quản lý chất lượng sản phẩm ở Việt nam nói chung,và chiến lược chất lượng sản phẩm nói riêng còn ở trình độ thấp, chưa có vai trò, vị trí tương xứng trong điều hành hoạt động kinh doanh trên thị trường xuất khẩu. Để nâng dần trình độ quản lý chất lượng sản phẩm nói chung, trình độ hoạch định chiến lược chất lượng sản phẩm nói riêng cần xuất phát từ thực tế khan hiếm các nguồn lực tài chính với các thúc ép phải đổi mới và nâng cao các tiêu chuẩn kĩ thuật của sản phẩm, dịch vụ. Do đó, chiến lược chất lượng kĩ thuật - marketing được coi là phù hợp vì một mặt nó không đòi hỏi các nguồn lực tài chính lớn, mặt khác nó thúc đẩy các cải tiến nhỏ thường xuyên để không ngừng cho ra các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu thay đổi trên thị trường Nhật bản nói riêng và thị trường các nước xuất khẩu mục tiêu nói chung. Để thực hiện các chiến lược đó, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các giải pháp sau: -Tăng cường đầu tư nguồn lực cho việc điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường Nhật bản để xác định đúng yêu cầu về mặt chất lượng. ở đây, trước hết cần đặt ra các biện pháp tiếp cận, thu thập thông tin ban đầu cho việc nghiên cứu, cải tiến về các mặt: mẫu mã, thẩm mĩ, tiện lợi, an toàn, tiết kiệm, bao gói…, không nhất thiết phải có chất lượng cao mới tốt mà phải có chất lượng sản phẩm tối ưu. -Thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ có chọn lọc để nâng cao chất lượng sản phẩm với chi phí có lợi thế so sánh. Trong điều kiện Việt nam hiện nay, đầu tư, đổi mới công nghệ là yếu tố quyết định đến chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp đã coi trọng đầu tư đổi mới công nghệ, tuy nhiên còn diễn ra ở trình độ thấp và mang tính cục bộ, lẻ tẻ. Vì thiếu vốn, thiếu thông tin về thị trường và năng lực nội sinh của các doanh nghiệp thấp, cho nên đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu vẫn là vấn đề số một được quan tâm và cần tập trung theo hướng đồng bộ dứt điểm từng dây chuyền công nghệ những sản phẩm quan trọng, mũi nhọn, tránh đầu tư tràn lan ,căn cứ vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và xu thế phát triển công nghệ thế giới để lựa chọn công nghệ thích hợp. Đồng thời đầu tư đổi mới công nghệ phải đi đôi với quá trình tiếp thu công nghệ mới và đồng bộ tiến hành tổ chức lại sản xuất, quản lý. - Thực hiện cải tiến nhỏ theo phương châm mọi lúc, mọi nơi, với mọi người. -Tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kĩ năng, tay nghề và những kiến thức về quản lý chất lượng sản phẩm là khâu có ý nghĩa quyết định đến năng suất, chất lượng, hiệu quả của các doanh nghiệp. Cần phổ biến các kiến thức liên quan đến chất lượng sản phẩm như hệ thống quản lý chất lượng mới ISO 9000, TQM và các kiến thức khác về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. -Kiểm soát và nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào. -Phối hợp chiến lược chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp với các nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước. 3.Chú trọng đến mẫu mã, bao bì sản phẩm, định giá hợp lý, giao hàng đúng thời hạn Bên cạnh yêu cầu chất lượng cao, một sản phẩm xuất khẩu sang Nhật bản cũng cần phải được chú trọng đến mẫu mã, bao bì sản phẩm. Người tiêu dùng Nhật bản vốn rất để ý đến yếu tố tạo ấn tượng tốt ban đầu khi mua một sản phẩm nào đó. Đồng thời, bao bì đóng gói cũng phải đảm bảo giữ gìn hàng hoá không bị hư hỏng hay có vết xước bên ngoài vì ở Nhật sản phẩm chỉ cần có một lỗi nhỏ trên bề mặt đã bị coi là hỏng không thể bán được. Mặc dù người tiêu dùng Nhật bản yêu cầu hàng hoá chất lượng cao, nhưng gần đây do suy thoái kinh tế, người ta cũng quan tâm nhiều hơn đền vấn đề giá cả. Vì vậy hàng hoá Việt nam muốn tiêu thụ được, cùng với việc nâng cao chất lượng, cần định ra một mức giá cả hợp lý, để chào hàng nên đưa ra mức giá thấp hơn mức giá trên thị trường cho loại hàng đó. Do vậy, khi định giá xuất khẩu doanh nghiệp nên bỏ qua ý nghĩa phóng đại về khả năng thu lợi nhuận trên thị trường Nhật bản. Thậm chí nếu mức lãi thấp hơn ở nước khác, nhà xuất khẩu vẫn có thể thu được tổng lợi nhuận cao hơn do kim ngạch lớn. Giữ chữ tín cũng là một trong những vấn đề quan trọng nhất mà khi buôn bán với người Nhật các doanh nghiệp cần tuân thủ. So với bạn hàng ở các nước phát triển khác, người Nhật yêu cầu khắt khe nhất về sự chính xác của thời hạn giao hàng, bằng mọi cách, doanh nghiệp phải cố gắng giao hàng đúng thời hạn, nếu muốn làm ăn lâu dài với người Nhật. Hơn thế, ở Nhật bản, nhiều mặt hàng có nhu cầu thời vụ cao, nếu không đưa ra thị trường đúng lúc sẽ không thể tiêu thụ được. Thêm vào đó, các hãng Nhật bản làm việc không trên cơ sở dự trữ vì dung lượng kho chứa có hạn. Nếu không giao kịp hàng, họ sẽ không có hàng dự trữ để tiêu thụ. 4.Lựa chọn các chiến lược thâm nhập thị trường Nhật bản Để thâm nhập vào thị trường Nhật bản, có 3 hình thức chính như sau: -Xuất khẩu trực tiếp -Liên doanh -Đầu tư trực tiếp Trong 3 hình thức trên, mỗi hình thức đều có ưu thế và hạn chế riêng. Nhưng với một thị trường nhiều qui định và yêu cầu cao như thị trường Nhật bản, cần xây dựng chiến lược phù hợp trên cơ sở đã nghiên cứu kĩ các qui định liên quan này và thực tế diễn biến thị trường. Xuất khẩu trực tiếp là con đường thâm nhập thị trường chính của các doanh nghiệp Việt nam. Hình thức này chỉ thích hợp với thời kì đầu khi qui mô buôn bán còn nhỏ bé và phân tán, dễ tạo ra thế bị động cho nhà xuất khẩu do khó khăn không nắm bắt kịp thời thông tin về thị trường. Nên định hướng áp dụng các hình thức đầu tư trực tiếp và liên doanh. Đầu tư trực tiếp chưa phải là hướng chính trong thời gian trước mắt, nhưng chí ít nó cũng cần thiết trong một số lĩnh vực như các cơ sở chế biến và dịch vụ. Liên doanh có thể dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hoá. Các doanh nghiệp có thể học tập kinh nghiệm của Đài loan trong lĩnh vực này. Các nhà xuất khẩu Đài loan đã đưa hàng hoá của mình ra nước ngoài dưới danh nghĩa của rất nhiều công ty nước ngoài nổi tiếng. Việc liên doanh, hợp tác với các công ty Nhật bản có thể bằng hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, gia công chế biến…Đây cũng là một biện pháp rất hiệu quả giúp Việt nam nâng cao được trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm, giải quyết những khó khăn về mặt qui định, thủ tục của Nhật bản mà hàng hoá Việt nam hay mắc phải, đồng thời có thể sử dụng mạng lưới phân phối sẵn có của công ty Nhật để phân phối hàng hoá trên thị trường Nhật bản, giúp gia tăng xuất khẩu không chỉ sang thị trường Nhật bản mà còn sang các thị trường khác hiện công ty Nhật bản đang có mặt ở đó. 5.Xúc tiến nghiên cứu thị trường Nhật bản, cập nhật thông tin, chủ động tìm kiếm bạn hàng Trên thực tế, rất nhiều trường hợp do không nắm vững các qui định, thông tin về thị trường Nhật bản mà nhiều doanh nghiệp thất bại khi đưa sản phẩm của mình sang Nhật bản. Hơn thế, trên thị trường này có rất nhiều qui định, yêu cầu, nếu không nắm được đầy đủ các yêu cầu này doanh nghiệp cũng sẽ gặp những khó khăn lớn. Vì vậy, việc cập nhật thông tin, nghiên cứu thị trường là điều tối quan trọng. Ngày nay, có rất nhiều cách để doanh nghiệp có thể cập nhật thông tin về thị trường mình cần như qua Internet, sách báo chuyên ngành, qua các tổ chức chuyên trách trong lĩnh vực ngoại thương ở Nhật bản cũng như ở Việt nam. Đặc biệt thông tin từ các tổ chức là rất quan trọng, vì cung cấp cho doanh nghiệp tình hình biến động trên thị trường, những thay đổi, điều chỉnh, ra mới của các qui định pháp lý hay các thoả thuận giữa hai nước, giúp cho doanh nghiệp có thể nắm được nhu cầu, yêu cầu của thị trường này cũng như khả năng cung cấp của Việt nam. Cần tiến hành nghiên cứu thị trường Nhật bản một cách nghiêm túc và đầy đủ, bên cạnh nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, văn hoá Nhật bản, tập quán thương mại ở các công ty…, cần chú trọng nhiều đến nghiên cứu các qui định của pháp luật, đến thủ tục nhập khẩu, chế độ nhập khẩu, hệ thống luật liên quan đến hàng hoá như luật kiểm dịch, luật bảo vệ thực vật động vật, luật bảo vệ người tiêu dùng, các tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng... Hiểu rõ được nhu cầu, tâm lý người tiêu dùng mới có thể cung cấp được những hàng hoá mà họ cần. Xu hướng người tiêu dùng Nhật bản hiện nay là thích mua những hàng hoá có giá cả hợp lý, chất lượng tốt và độc đáo. Vì vậy, nếu như doanh nghiệp Việt nam nâng cao được chất lượng sản phẩm và chú trọng đến những nét riêng biệt độc đáo thì sẽ có lợi thế về mặt giá cả, thoả mãn được nhu cầu người tiêu dùng Nhật bản. Một công ty mong muốn giới thiệu sản phẩm vào thị trường Nhật bản cần phải thực hiện tốt công tác nghiên cứu truyền thống văn hoá và lối sống Nhật bản. Việc nghiên cứu tập quán thương mại và tổ chức công ty của Nhật sẽ tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán trong kinh doanh, dọn đường cho các thoả thuận và hợp đồng được kí kết thành công. Cách tốt nhất để nghiên cứu thị trường là tiếp cận trực tiếp bằng cách cử phái đoàn sang thăm dò, tìm hiểu thị trường hoặc thuê một hãng nghiên cứu thị trường ở Nhật bản. Tuy nhiên hai cách này rất tốn kém mà khả năng tài chính của doanh nghiệp Việt nam có hạn, nên các doanh nghiệp có thể thông qua tuỳ viên thương mại, tham gia vào các phái đoàn chính phủ sang Nhật bản cũng như các cuộc hội nghị, hội chợ triển lãm mà các cơ quan Việt nam phối hợp với Nhật bản tổ chức. Các doanh nghiệp Việt nam cũng cần phải tích cực chủ động tìm kiếm đối tác, tìm kiếm bạn hàng để mở rộng cơ hội giao thương với các đối tác Nhật bản. Có thể thông qua các cách sau: -Liên hệ trực tiếp với các công ty Nhật bản thông qua các văn phòng, chi nhánh của họ tại Việt nam. Đây là cách thường được áp dụng nhất, phù hợp với doanh nghiệp Việt nam và có thể mang lại hiêu quả cao. Việc tiếp cận với các công ty Nhật thông qua văn phòng đại diện của họ ở nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp Việt nam dễ dàng thu được thông tin cần thiết về thị trường Nhật bản cũng như nhu cầu của họ bởi vì một trong những chức năng của các văn phòng, chi nhánh của các công ty Nhật bản ở nước ngoài là giới thiệu đối tác tiềm năng cho trụ sở chính tại Nhật. -Tìm kiếm đối tác thông qua sự giới thiệu của một người trung gian. Người trung gian này sẽ thông báo cho doanh nghiệp về ý định của khách hàng tiềm năng và cung cấp một số thông tin ban đầu về công ty cùng với tên và chức danh của những người điều hành công ty đó. Mối quan hệ giữa những người trung gian và khách hàng tiềm năng sẽ giúp giao dịch dễ dàng hơn so với trường hợp tự tiếp xúc với một công ty mà không có sự giới thiệu trước. -Nhờ những người quen làm trong các tổ chức thương mại…giới thiệu đối tác tiềm năng. -Sử dụng “danh bạ thương mại” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật bản phát hành có liệt kê khoảng 7000 công ty được phân loại theo sản phẩm và danh bạ thương mại Nhật bản do JETRO phát hành. Đây cũng là một phương pháp tìm kiếm đối tác kinh doanh rất hiệu quả Sau khi đã soạn được danh sách các công ty cần tiếp cận, doanh nghiệp cần thu hút sự chú ý của đối tác tiềm năng bằng cách gửi cho họ một bức thư cung cấp các thông tin về doanh số, vốn, bản giới thiệu sản phẩm… Thông thường các công ty thương mại của Nhật thường xuyên nhận được rất nhiều đề nghị từ nước ngoài và thường không trả lời hết các thư đề nghị. Tuy nhiên, việc một công ty Nhật bản không trả lời lại đề nghị ban đầu đó thì không nhất thiết là dấu hiệu rằng công ty đó không quan tâm tới đề nghị này. Các công ty Nhật thường tổ chức theo kiểu phân quyền vì thế các quyết định về những dự án lớn thường mất nhiều thời gian và việc trả lời có thể bị trì hoãn. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cần tìm được cách thức tiếp cận thích hợp và tìm thời cơ để nhắc lại đề nghị ban đầu của mình. 6.Tuyển dụng và đào tạo cán bộ kinh doanh, cán bộ kĩ thuật, đội ngũ lao động có năng lực Có một đội ngũ nhân viên có trình độ và năng lực chuyên môn là một yêu cầu hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt nam. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp hiện nay là phải có chính sách tuyển dụng và thu hút người tài, có kế hoạch đào tạo để nâng cao năng lực chuyên môn của nhân viên. Muốn được như vậy, mỗi doanh nghiệp cần đưa ra một chế độ đãi ngộ thoả đáng, một môi trường làm việc thuận lợi để tất cả mọi nhân viên đều phải phát huy hết năng lực của mình. Đặc biệt đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu cần nắm vững thông tin, có chuyên môn sâu, am hiểu thị trường Nhật bản, nhất là nắm vững các qui định trên thị trường này và trình độ ngoại ngữ tốt. Đội ngũ này có vai trò to lớn trong việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường để công ty hoạch định các chiến lược đối phó, và cũng chính đội ngũ này là người trực tiếp giao dịch với đối tác, theo dõi diễn biến tiêu thụ hàng hoá trên thị trường. Năng lực của các nhân viên xuất nhập khẩu ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng thâm nhập và phát triển hàng hoá Việt nam trên thị trường Nhật bản. Đội ngũ cán bộ kĩ thuật, công nhân …đóng vai trò to lớn trong việc làm ra sản phẩm chất lượng tốt. Như trên đã phân tích, lỗi hay gặp phải nhất của hàng Việt nam trong quan hệ buôn bán từ trước đến nay là các lỗi về chất lượng. Hàng Việt nam đã không đáp ứng đủ các qui định về chất lượng, các tiêu chuẩn kĩ thuật trên thị trường Nhật bản, do đó việc nâng cao chất lượng sản phẩm là hết sức quan trọng. Các nhân viên kĩ thuật, công nhân sản xuất…là những người đang trực tiếp làm ra các sản phẩm này, đòi hỏi ở họ phải có một tinh thần làm việc nghiêm túc, trách nhiệm, nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm để sản xuất ra những sản phẩm tốt nhất. Các doanh nghiệp đang và sẽ có tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Nhật bản nên tổ chức các khoá đào tạo, buổi học… giáo dục cho nhân viên về thị trường, về các yêu cầu khắt khe của thị trường, về các qui định pháp lý, về tâm lý tiêu dùng người Nhật bản …để mọi nhân viên đều ý thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng sản phẩm và việc đảm bảo các qui định đó. Đồng thời có các buổi phổ biến về các tiêu chuẩn chất lượng trên thị trường Nhật bản và thế giới, về mục tiêu chất lượng, mục tiêu doanh số xuất khẩu của công ty…để mọi nhân viên đều nắm rõ được tình hình và cố gắng phát huy hết khả năng của mình. 7.Một số giải pháp đối với doanh nghiệp xuất khẩu các nhóm hàng cụ thể 7.1.Hàng may mặc: Nguyên tắc đối với mặt hàng này là không được để vi phạm dù chỉ một lỗi nhỏ nhất. Để sản phẩm được chấp nhận trên thị trường Nhật bản, doanh nghiệp nhất thiết phải chú ý đến từng mũi kim, vụn chỉ và chỉ một lỗi nhỏ nhất cũng có thể gây ảnh hưởng tới cả lô hàng. Một chiếc đinh ghim, một vết dầu mỡ dù nhỏ không ai để ý xem giá trị, cân nặng chúng bao nhiêu nhưng thiệt hại chúng gây ra có thể lên đến hàng trăm triệu đô la. Rất nhiều doanh nghiệp Việt nam đã bị ách tắc hàng không xuất được sang Nhật bản vì những lỗi nhỏ như thế. Trong mặt hàng này, yếu tố giá cả không phải là yếu tố quyết định thành công của nhà xuất khẩu nước ngoài, mà quan trọng hơn là phải tạo dựng được tiếng tăm và uy tín về sản phẩm của mình mới có cơ hội làm ăn lâu dài. Sản phẩm nào đáp ứng được các yêu cầu về chất liệu, trình độ kĩ thuật và tay nghề sẽ có ưu thế cạnh tranh. Vì vậy cần lưu ý những điểm sau : +Các tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng: rất nhiều sản phẩm được cấp giấy chứng nhận ở nước xuất khẩu nhưng lại không đạt các yêu cầu khắt khe khi vào thị trường Nhật. Tiêu chuẩn chất lượng của châu âu và Mỹ đều chú trọng đến hình thức bên ngoài mà không đi sâu vào chi tiết bên trong. Nhưng người Nhật lại luôn có xu hướng đòi hỏi sự hoàn hảo trong toàn bộ sản phẩm họ mua. Họ chú ý đến cả những khuyết tật nhỏ nhất trên sản phẩm như vết xước, vết rạn, ngay cả khi những vết tì này là đặc điểm cố hữu trên nguyên liệu sử dụng. Một số mặt hàng may mặc làm từ sợi tơ tằm, vải tơ tằm, hoặc một số phụ liệu khác trong một vài trường hợp phải qua sự phê chuẩn về nhập khẩu hoặc đáp ứng một số yêu cầu của cơ quan thương mại nhập khẩu. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng này cần tìm hiểu trước xem sản phẩm của mình có phải qua phê chuẩn trước không, nếu có thì phải phê chuẩn những gì để chuẩn bị cho chu đáo. +Thời hạn giao hàng: phải đặc biệt lưu ý đến các sản phẩm mang tính thời vụ và các sản phẩm thời trang, nhất là khi các sản phẩm được xuất khẩu từ miền nam nước ta là nơi không có khí hậu 4 mùa như Nhật bản. Bởi vậy, các nhà sản xuất cần tính kĩ từng công đoạn trước khi xuất khẩu như thời điểm thu mua nhiên liệu, tập trung phụ kiện, thời gian chuyên chở. Tránh trường hợp hàng đến được nơi tiêu thụ thì thời tiết không còn phù hợp nữa. +Qui mô các lô hàng: khác với xuất khẩu sang chân âu và Mỹ thường là các lô hàng lớn, xuất khẩu sang Nhật bản thường là các lô hàng nhỏ, chủng loại đa dạng, vòng đời sản phẩm ngắn. Các nhà xuất khẩu nên cân nhắc trước những đặc điểm này. Vì vậy, trước mắt để có thể thâm nhập vào thị trường Nhật bản, các doanh nghiệp nên chú trọng mặt hàng truyền thống thông thường, cố gắng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đối với mặt hàng này, để tạo uy tín và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Việt nam. Những mặt hàng đòi hỏi kĩ thuật, chất lượng cao và yêu cầu khắt khe hơn, hiện thời hàng Việt nam chưa thể đáp ứng và cạnh tranh được, cần có các chiến lược dài hơi và sự chuẩn bị chu đáo hơn nữa. 7.2.Qủa tươi, rau, cây, hoa…(thực vật) Những mặt hàng này nhìn chung chịu sự điều chỉnh của luật kiểm dịch thực vật và luật bảo vệ thực vật. Hệ thống qui định đối với các mặt hàng này hết sức ngặt nghèo, những yêu cầu của người tiêu dùng khá khắt khe và nhu cầu tiêu thụ rất lớn. Kinh nghiệm cho thấy khi vào đến thị trường Nhật bản, chỉ một sơ suất nhỏ trong lô hàng do vấn đề vệ sinh có thể dẫn đến hàng bị cấm nhập, bị huỷ, và cánh cửa vào thị trường Nhật sẽ đóng lại. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hết sức thận trọng, chu đáo, chú ý đến từng yếu tố nhỏ nhất trong quá trình sản xuất, đảm bảo duy trì chất lượng hàng hoá và tiêu chuẩn xếp loại sản phẩm. Khi đem mặt hàng rau (tươi và đông lạnh), các nhà xuất khẩu cần nghiên cứu các phương pháp trồng trọt phù hợp với tiêu chuẩn dư lượng thuốc trừ sâu của Nhật và phải kiểm tra nghiêm ngặt trước khi xuất khẩu. Với những loại rau thông dụng với người tiêu dùng Nhật bản, nên đề nghị đối tác nhập khẩu phải hướng dẫn quảng các và có những chiến dịch thông tin công cộng nhằm tạo ra nhu cầu cho sản phẩm của mình và hướng dẫn người tiêu dùng cách chuẩn bị và sử dụng sản phẩm. Cách thức xuất khẩu có thể là kí hợp đồng trực tiếp với các nhà phân phối lớn hay với một số xí nghiệp sản xuất dịch vụ thực phẩm để cung cấp rau trực tiếp cho họ. Rau đông lạnh cũng cần được sự chuẩn bị chu đáo trước khi xuất sang thị trường Nhật bản. Cần bỏ chi phí đông lạnh hiệu quả, phân loại và đóng gói trong quá trình phân phối. Ngoài ra, các tiêu chuẩn về dán nhãn chất lượng nghiêm ngặt của Nhật đòi hỏi phải đảm bảo hàng về độ tươi, độ vỡ, hư hỏng, kích thước và màu sắc… Sản xuất an toàn vệ sinh, thực phẩm có lợi cho sức khoẻ trong suốt quá trình chế biến là hết sức cần thiết, đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn vệ sinh từ khâu sản xuất tới khâu nhập khẩu và phân phối tại Nhật chính là một trong những điều kiện đảm bảo thị trường tiêu dùng. Với mặt hàng hoa, hạt giống, củ…cần lưu ý thực hiện các bước sau khi xuất khẩu hàng sang Nhật bản: -Phải kiểm tra chất lượng tại điểm giao hàng, tiến hành tiêu diệt toàn bộ sâu bọ có hại, thống nhất các tiêu chuẩn lựa chọn trước khi kí hợp đồng. Khi đóng gói có thể sử dụng một số biện pháp như: phun dung dịch tổng hợp với thuốc trừ sâu bay hơi (ở úc, Niudilân và Thái lan hoa được phun chất methyl bromide trước khi kiểm tra xuất khẩu và đóng gói). -Cần có biện pháp cũng như thiết bị bảo dưỡng chuyên môn để giữ cho hoa được tươi trong quá trình vận chuyển. Sử dụng hệ thống làm lạnh (làm lạnh đến 5 độ C hoặc thấp hơn trước khi đóng gói), bảo quản trong container lạnh, hoặc sử dụng chất làm lạnh bằng cacbonic hay túi đựng nước đá khi chuyên chở bằng đường hàng không. -Cần bảo quản hoa, bằng một số biện pháp như: Dùng khí ê ty len xử lý bằng hợp chất hoá học bao gồm nitơrát bạc và sunphát bạc hoà trong nước. Hoặc dùng biện pháp bổ sung thêm đường bằng cách đắp một lớp đường (chủ yếu là đường trắng thường) xung quanh chỗ cắt nơi dễ xảy ra mục ruỗng, đặt trong dung dịch có chất khử trùng. Hoặc vận chuyển trong vật liệu đóng gói có chứa một lượng nước nhỏ để chống mất nước. 7.3.Thuỷ sản Đây là ngành có nhiều tiềm năng, nhưng kim ngạch xuất khẩu còn thấp, mặc dù thị trường Nhật bản là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt nam. Trên thị trường Nhật bản, hàng thuỷ sản Việt nam bước đầu đã có chỗ đứng, đặc biệt mặt hàng tôm đông lạnh được nhiều người Nhật bản ưa thích. Tuy nhiên còn rất nhiều hạn chế khiến cho tỉ trọng xuất khẩu mặt hàng này không thể tăng cao, nhiều chuyến hàng bị vướng mắc với hải quan Nhật bản do không đảm bảo các qui định, thậm chí có trường hợp trong tôm lẫn cả đinh, đất bùn…Người ta cũng tiến hành kiểm tra gắt gao xem trong thuỷ sản có chất tẩy trắng hay chất khoáng sinh khoáng khuẩn thừa hay không. Vì thế các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa nâng cao chất lượng mặt hàng này, giữ uy tín bằng cách tăng cường thanh sát kiểm tra, triệt để thực hiện không đưa hoá chất vào các khâu nuôi, bảo quản và chế biến, không sử dụng các chế phẩm trong danh mục cấm sử dụng. Cần thống nhất phương pháp quản lý vệ sinh và chất lượng sản phẩm trong các hoạt động quản lý, công nghệ, thị trường, gắn kết từ nguyên liệu đến thị trường nhập khẩu, kết hợp với các doanh nghiệp khác, với cộng đồng ngư dân và các cơ sở chế biến xuất khẩu, áp dụng các chương trình an toàn vệ sinh thực phẩm trên cơ sở tiếp cận HACCP được coi là bắt buộc với buôn bán thuỷ sản trên thế giới. Trong đó, việc lấy xác nhận trước về chất lượng (pre- certification) đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó góp phần rất lớn vào việc giảm chi phí phát sinh trong quá trình lưu thông hàng hoá tại Nhật. Chi phí lưu kho lậnh tại Nhật có thể lên tới 80 USD/ngày cho 01 container, chi phí giám định khoảng 130 USD .Nếu không có giấy xác nhận của hệ thống pre-cetification, hàng hoá có thể phải lưu kho bãi tới 7 ngày,trong khi đó, nếu có giấy xác nhận, hàng hoá có thể được thông quan trong ngày, tiết kiệm ít nhất hơn 500 USD cho một container 20 feet. Chú trọng đến chất lượng sản phẩm, đặt nâng cao chất lượng là mục tiêu số một, là chiến lược kinh doanh trung tâm của doanh nghiệp. Bằng cách tăng cường đầu tư vào công nghệ khai thác, chế biến, hoạch định một chiến lược chất lượng lâu dài và ổn định. Đảm bảo chất lượng trong cả quá trình vận chuyển, vì thuỷ sản thường được vận chuyển bằng đường biển nên cần duy trì cả độ tươi, kích cỡ… Đặc biệt, hàng nhập khẩu từ Việt nam là nước bị coi là có nguy cơ có nạn dịch tả, cần phải hoàn tất thủ tục kiểm dịch trước khi nhập khẩu vào Nhật để tránh mất thời gian, làm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá. Kết luận Quan hệ kinh tế Nhật – Việt ngày càng có những bước phát triển đáng mừng, mặc dù mấy năm gần đây hoạt động xuất khẩu của Việt nam sang Nhật bản có chiều hướng không ổn định do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế Nhật bản, nhưng có nhiều dấu hiệu thực tế cho thấy mối quan hệ này sẽ bước lên một tầm cao mới. Bài khoá luận đã trình bày khá chi tiết những gì liên quan tới hệ thống các qui định pháp lý về hàng hoá trên thị trường Nhật bản và khả năng đáp ứng của hàng hoá Việt nam trước các qui định này. Có thể nói các qui định pháp lý này chính là rào cản lớn nhất cản trở sự phát triển của hàng hoá Việt nam trên thị trường Nhật bản, đặc biệt các qui định về chất lượng. Trong khi công nghệ sản xuất của chúng ta còn nghèo nàn lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hệ thống qui định quản lý chất lượng còn lỏng lẻo và bất cập…,để đáp ứng được các qui định này, trước mắt còn rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên trong vấn đề này chúng ta không thể chậm chễ được nữa mà cần phẩi từng bước, từng bước đưa ra những chiến lược thích hợp nếu chúng ta muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Nhật bản một cách hiệu quả. Với bài khoá luận này, em mong muốn cung cấp những thông tin về hệ thống qui định của Nhật bản, tình hình xuất khẩu hàng Việt nam sang Nhật bản, qua đó đóng góp một vài ý kiến để nâng cao khả năng thâm nhập, phát triển của hàng hoá Việt nam trên thị trường này. Dù Nhật bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nhưng có thể nói với nhiều mặt hàng, chúng ta vẫn còn “bỏ ngỏ” ở thị trường này. Có rất nhiều tiềm năng, nhiều cơ hội mà chúng ta chưa tận dụng được, hoặc tận dụng chưa hiệu quả. Tuy nhiên, trước sự nỗ lực của nhà nước cũng như của các doanh nghiệp Việt Nam gần đây, ta có thể hy vọng, chờ đón nhiều thành công mới khi đẩy mạnh thâm nhập vào thị trường Nhật bản. Tin tưởng rằng hàng hoá Việt Nam sẽ dần khắc phục được những yếu kém, thoả mãn được các qui định khắt khe của Nhật và có thể đứng vững chắc, ổn định trên thị trường này trong thời gian ngắn nhất. Danh sách tài liệu tham khảo 1. English language translation of Japanese law (bản tóm tắt, Kageyama Kuchi & Matsumoto Era, January, 2001). 2. Foreign exchange and Foreign trade control law of Japan (Kanazawa University, January, 1999). 3. Nihon Keizai Shinbun (Thời báo kinh tế Nhật bản, các số năm 2000, 2001, 2002). 4. Introduce Japan law and pratices, focusing on how to incorporate a business insurance business law, and the code of civil procedures (Saito Kuronuma, October, 2001). 5. Extensive list of Japanese law (nguyên bản tiếng Nhật, Tohoku University, March, 2002). 6. Japan in Figures 2002 (JETRO, October, 2002) 7. Chính sách ngoại thương Nhật bản, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000. 8. Kinh doanh với thị trường Nhật bản, Nxb Lao động, 2001. 9. Tạp chí luật học (số ra tháng 01/2002 và 04/2002). 10. Tạp chí tiêu chuẩn và đo lường chất lượng (số 4/2002 (33), và số 6/2002 (35)) 11.Tạp chí ngoại thương (số 21, năm 2002). 12. Thời báo kinh tế Việt nam (số 114, ra ngày23/9/2002 và số 119, ra ngày 4/10/2002). 13. Tạp chí nghiên cứu kinh tế (các số năm 2001, 2002). 14. Website 15. Website 16. Website 17. Website 18. Website 19. Tư liệu của trung tâm thông tin khoa học và công nghệ (tra cứu từ Website Phụ lục Một số luật quan trọng các doanh nghiệp Việt nam cần quan tâm khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật bản: Luật trách nhiệm sản phẩm. Luật an toàn vệ sinh thực phẩm. Luật tiêu chuẩn công nghiệp Nhật bản. Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật bản. Luật tiêu chuẩn và dán nhãn hợp lệ. Luật kiểm soát ngoại thương và ngoại hối. Luật kiểm tra các sản phẩm tiêu dùng. Luật bảo vệ công nghiệp, luật bảo vệ nông nghiệp. Luật kiểm dịch động vật, luật kiểm dịch thực vật. Luật bảo vệ động vật, luật bảo vệ thực vật. Luật đo lường. Luật kiểm soát lương thực chính. Ngoài ra còn có các tiêu chuẩn, qui định để điều chỉnh hoặc bổ sung thêm cho các luật này. Các doanh nghiệp có thể tham khảo và tra cứu ở các trang Web sau: -Trang Web giới thiệu tổng quan về các luật của Nhật Bản: -Trang Web cung cấp các địa chỉ e-mail trả lời thông tin liên quan đến luật của Nhật bản: Hoặc có thể tra cứu bản dịch tiếng Anh “Tổng quan về hệ thống luật Nhật bản” (Kageyama Kuchi & Mastumoto Era, January, 2001), các văn bản, sách, tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Nhật về các luật riêng, các thông tin liên quan tại JETRO Hà Nội (Tầng 3, số 63 Lý Thái Tổ), hoặc tại JETRO T.P Hồ Chí Minh (Phòng 1403, tầng 14 toà nhà SUN Wah, 115 Nguyễn Huệ, quận1).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN HA.doc
  • docMUC LUC HA.doc
Tài liệu liên quan