Khóa luận Cải cách doanh nghiệp nhà nước là quá trình tất yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam

Trong một thế giới toàn cầu hóa, khi hầu hết các quốc gia đều theo đuổi nền kinh tế mở và tham gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt nhằm thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trở thành yếu tố quyết định vị trí của nền kinh tế quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Cải thiện khả năng cạnh tranh nền kinh tế Việt Nam, vì thế, là một vấn đề mang tính cấp bách, sống còn để giúp chúng ta tham gia vào tiền trình hội nhập. Việc tồn tại cũng như những cống hiến và vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của các DNNN ở Việt Nam là một thực tế khách quan. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải thừa nhận về những hạn chế về cơ cấu tổ chức, về trình độ công nghệ về cơ chế chính sách .của khu vực này. Thực tiễn những năm qua và triển vọng thời gian tới cho thấy cải cách doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quyết định tính hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước, có vai trò tích cực và quan trọng đối với sự phát triển của khu vực doanh nghiệp dân doanh, đến việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đến các chỉ số kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính tiền tệ, quá trình đổi mới công nghệ và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, cải cách doanh nghiệp nhà nước còn tác động tích cực tới việc cải thiện môi trường pháp lý và chất lượng nguồn nhân lực. Có thể nói cải cách doanh nghiệp nhà nước đã góp phần to lớn vào quá trình nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Việc nghiên cứu các giải pháp nhằm đổi mới nâng cao hiệu quả họat động của DNNN là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Thông qua quá trình hoàn thành bản luận văn này, người viết xin mạnh dạn nhấn mạnh một số điểm sau: Các giải pháp cần đồng bộ, toàn diện, kịp thời và điều quan trọng hơn là việc thực thi tốt các giải pháp đó.

doc105 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cải cách doanh nghiệp nhà nước là quá trình tất yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết với các đối tác bên ngoài (trong và ngoài nước) để phát huy vốn, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. II Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN 1 Nâng cao năng lực của các DNNN Nâng cao năng lực của các DNNN là yếu tố có tính quyết định tới việc nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Nâng cao năng lực hoạt động của doanh nghiệp trước hết là nâng cao trình độ công nghệ, khả năng huy động và sử dụng vốn, trình độ tổ chức, quản lý và điều hành doanh nghiệp, cũng như trình độ tay nghề của công nhân. 1.1 Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đối với DNNN Tăng cường huy động các nguồn vốn, bao gồm vốn ngân sách nhà nước, tín dụng ngân hàng, vốn trong dân, nguồn vốn liên doanh – liên kết, vốn vay nước ngoài. Đối với nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, từ nay đến năm 2005 thực hiện việc bổ sung đủ vốn điều lệ cho các DNNN, không thu tiền sử dụng vốn ngân sách, áp dụng hình thức đầu tư vốn của Nhà nước vào doanh nghiệp thay cho việc cấp vốn như trước đây. Đối với nguồn tín dụng ngân hàng: giải quyết triệt để tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi, hình thành cơ chế cho vay bình đẳng với các thành phần kinh tế khác để tạo động lực cho các DNNN trong việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Đơn giản hóa các thủ tục để các DNNN tăng khả năng huy động vốn trong dân thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Tạo điều kiện cho các DNNN được chủ động xử lý các tài sản dư thừa, vật tư, hàng hóa ứ đọng. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN trên cơ sở nâng cao trình độ quản lý, điều hành doanh nghiệp; các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh cần được luận chứng kinh tế – kỹ thuật; chống lãng phí, thất thoát vốn, tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn Nhà nước tại DNNN. 1.2 Hiện đại hóa công nghệ trong các DNNN Việc hiện đại hóa công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh là vấn đề sống còn đối với DNNN khi hội nhập. Phương thức đổi mới công nghệ phải căn cứ vào tình hình thực tế từng doanh nghiệp, phổ biến là đổi mới từng phần cần thiết. Nhà nước có nhiều hình thức để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ như: lập các qũy hỗ trợ đổi mới công nghệ; sử dụng nguồn vốn của các ngân hàng đầu tư phát triển có sự hỗ trợ lãi xuất của Nhà nước; thực hiện hình thức mua thiết bị trả chậm qua các công ty thuê mua tài chính trong nước và nước ngoài; miễn giảm thuế trong một thời gian nhất định đối với những doanh nghiệp tự vay vốn để đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, chí ít là trong 5 năm 2001 – 2005. Thực hiện khấu hao nhanh để tạo điều kiện đổi mới máy móc, thiết bị và nâng cao trình độ công nghệ. Đưa các trung tâm nghiên cứu ứng dụng vào các tổng công ty lớn, đồng thời thực sự coi các phát minh, sáng chế, sáng kiến là hàng hóa để có chính sách đãi ngộ đúng mức. Giao quyền cho các DNNN áp dụng chính sách khuyến khích đặc biệt đối với những ai góp phần vào đổi mới công nghệ, mang lại hiệu quả rõ rệt, chi phí được hạch toán vào giá thành sản phẩm. 1.3 Nâng cao năng lực quản lý trong các DNNN Hiện đại hóa các công cụ quản trị kinh doanh như các phương tiện thông tin, theo dõi và xử lý mọi phát sinh trong sản xuất, kinh doanh, phân tích hoạt động kinh doanh; các phương tiện thiết kế, tạo dáng sản phẩm trong DNNN… Thực hiện chế độ quản trị kinh doanh tiên tiến, theo tiêu chuẩn ISO 9000 tại hầu hết các DNNN Học tập kinh nghiệm quản lý hiện đại của các nước. Hệ thống kế toán, thống kê phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Bắt buộc thực hiện chế độ công khai báo cáo tài chính hàng năm vào quý đầu năm sau cho rộng rãi công chúng biết. Tạo lập mạng lưới kiểm tra bằng phương tiện công nghệ thông tin từ DNNN đến tổng công ty. Công ty đầu tư tài chính Nhà nước và đến các cơ quan quản lý Nhà nước. Đổi mới phương pháp thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý Nhà nước, chủ yếu dựa vào hệ thống phương tiện hiện đại này. Hình thành thị trường đội ngũ các bộ quản trị kinh doanh, thực hiện cơ chế tuyển chọn và hợp đồng sử dụng cán bộ quản trị doanh nghiệp một cách rộng rãi. Giám đốc doanh nghiệp là một nghề trong xã hội, chế độ thù lao gắn với hiệu quả kinh doanh có tài năng và phẩm chất đạo đức, điều hành doanh nghiệp có hiệu quả. 1.4 Quản lý và sử dụng có hiệu quả lao động trong các DNNN Đối với đội ngũ cán bộ quản lý DNNN, cần có chính sách thu hút cán bộ có tài, có đức vào làm trong DNNN. Tiến hành quy hoạch đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng những kiến thức về pháp luật, kinh tế thị trường và bổ sung những kiến thức quản lý hiện đại… nhằm trang bị cho đội ngũ cán bộ quản lý DNNN có đủ kiến thức và năng lực để quản lý và điều hành DNNN đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Đối với những người lao động trong DNNN có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp theo hướng tiếp cận nhanh và sử dụng thành thạo các trang thiết bị, công nghệ hiện đại để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Giải quyết số lao động dôi dư: Đối với lao động dôi dư, đây là vấn đề tồn tại có tính lịch sử do quá trình phát triển DNNN từ lâu dồn tích lại, cũng có phần do quan niệm chưa đúng về nhiệm vụ xã hội của DNNN, có phần do doanh nghiệp gặp rủi ro trong kinh doanh. Vì vậy, không thể đơn giản coi đây là vấn đề kinh doanh của doanh nghiệp, không thể chỉ do doanh nghiệp tự giải quyết được. Với số lao động dôi dư rất lớn như hiện nay, không thể trong một thời gian ngắn có thể giải quyết dứt điểm ngay được; nhưng cần có kế hoạch khẩn trương, chủ động và có cơ chế, chính sách phù hợp để trong khoảng vài ba năm cơ bản có thể chuyển hết số lao động này ra khỏi doanh nghiêp, sau đó tiếp tục giải quyết dần, để doanh nghiệp có thể tăng được hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của DNNN khi lộ trình giảm thuế quan của kinh tế khu vực AFTA sẽ diễn ra từ năm 2006. Vận dụng và bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để giải quyết số lao động dôi dư theo hướng: doanh nghiệp chịu một phần, còn lại là ngân sách gánh vác để hỗ trợ người lao động đào tạo lại hoặc đào tạo nghề mới, trợ cấp thôi việc, giảm tuổi nghỉ hưu; cho người lao động vay vốn theo chương trình việc làm quốc gia; đẩy mạnh xuất khẩu lao động; có chính sách hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khi tạo thêm được việc làm, hút bớt lao đông dôi dư ra lần này từ DNNN; khuyến khích các thành phần kinh tế tiếp tục mở rộng sản xuất, kinh doanh để thu hút lao động. 1.5 Lành mạnh hóa tình hình tài chính của DNNN Để củng cố các DNNN mà Nhà nước cần giữ 100% vốn hoặc sẽ cổ phần hóa, cần giải quyết dứt điểm các khoản công nợ không có khả năng thanh toán và giải quyết tình trạng lao động dôi dư ở các DNNN hiện nay. - Đối với các khoản công nợ đã được xác nhận là không có khả năng thanh toán từ năm 1991 trở về trước dồn tích lại và từ sau năm 1991 đến nay đề nghị giải quyết như sau: Đánh giá lại tài sản và vốn, kể cả đất đai DNNN đang sử dụng, xác định được đầy đủ tình hình vốn thực có của DNNN và xử lý dứt điểm các khoản nợ của DNNN làm lành mạnh hóa tài chính để DNNN có thể tiếp tục vay vốn hoạt động và hoạch toán đúng chi phí, phản ánh đúng thực trạng lỗ lãi. Đồng thời cũng tạo thuận lợi cho việc đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại theo lĩnh vực và quy mô mà Nhà nước cần giữ 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối. Không chờ phải làm rõ trách nhiệm cá nhân mới xử lý nợ, thực tế các khoản nợ không có khả năng trả này tại hầu hết các DNNN là hậu quả dồn tích lại qua nhiều năm và có nguyên nhân. Sử dụng tổng hợp một phần nguồn lực tài chính của Nhà nước (xóa nợ ngân sách, sử dụng qũy hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa DNNN…); một phần qũy bù đắp rủi ro của ngân hàng; tổ chức lại một số công ty mua, bán nợ hoạt động trong một thời gian dài để mua nợ của các DNNN; những khoản nợ của DNNN đối với ngân hàng thương mại mà DNNN có triển vọng phát triển thì cho phép chuyển nợ thành vốn cổ phần; bán những tài sản, vật tư không cần dùng và hàng hóa ứ đọng; cuối cùng là dùng một phần Ngân sách Nhà nước để xử lý nợ khi các khoản trên đây chưa giải quyết đủ (kể cả biện pháp phát hành công trái và phát hành tiền trong thời điểm cho phép). - Không tiến hành xóa nợ đối với các khoản nợ ngân hàng vì sẽ gây phản ứng tác hại dây chuyền đến người cho vay. Đồng thời không áp dụng hình thức phân bổ các khoản nợ dồn tích lại từ lâu và không còn khả năng đòi được vào chi phí sản xuất hiện tại, vì như vậy sẽ làm tăng giá thành một cách giả tạo, DNNN không thể hoạt động kinh doanh bình thường, sớm muộn gì cũng sẽ lại dẫn đến đổ vỡ, trong lúc sắp tới, Việt Nam sẽ tham gia sâu rộng vào AFTA, APEC, WTO mà DNNN vơi tư cách chủ lực trong hội nhập phải có đủ cạnh tranh hội nhập. 2. Đổi mới tổ chức quản lý hệ thống DNNN Đổi mới tổ chức quản lý hệ thống DNNN nhằm nâng cao hiệu quả tổng thể của khu vực DNNN trên cơ sở thực hiện đồng bộ các biện pháp về sắp xếp, cơ cấu lại các DNNN hiện có, cổ phần hóa DNNN, đổi mới tổ chức quản lý, thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê và phá sản DNNN. Đối với việc thành lập mới các DNNN cần tiến hành thẩm định, kiểm tra chặt chẽ, nghiêm ngặt và phải đủ điều kiện về vốn, công nghệ, quản lý. Các doanh nghiệp mới thành lập bao gồm hình thức công ty trách nhiệm hữu hạnh một thành viên là Nhà nước và công ty cổ phần có vốn Nhà nước chi phối. Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN Đối với các DNNN hoặc bộ phận DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì thực hiện cổ phần hóa. Đây là biện pháp quan trọng để sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư thuộc sở hữu Nhà nước, tạo động lực cho hoạt động kinh doanh, thu hút thêm vốn đầu tư của xã hội, phát huy vai trò làm chủ doanh nghiệp của người lao động tại doanh nghiệp và tăng cường sự kiểm soát của xã hội, chống lãng phí, tham nhũng. Phần vốn bán cổ phần thu được chỉ dùng để hỗ trợ, đầu tư cho chính các công ty cổ phần hóa và một phần để đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng, tạo nguồn tài chính để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Phương thức cổ phần hóa phải được đổi mới phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường: chuyển từ đánh giá tài sản do các cơ quản Nhà nước tiến hành hoặc doanh nghiệp tự đánh giá tài sản của doanh nghiệp, sang đấu giá bán cổ phiếu công khai trên thị trường (làm thí điểm để rút kinh nghiệm thực hiện); ưu tiên bán cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp; nhưng cũng cần dành một phần để bán ra ngoài doanh nghiệp nhằm thu hút vốn và các năng lực kinh doanh trong xã hội. Việc huy động vốn thông qua con đường bán cổ phần không nên hạn chế số cổ phần được mua đối với mỗi pháp nhân hoặc thể nhân để tăng quy mô vốn doanh nghiệp; trường hợp nước ngoài mua cổ phần thì không quá 30%. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp cổ phần hóa sử dụng nhiều lao động dôi dư, đông thời cơ quan Nhà nước phải tạo điều kiện để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sau cổ phần hóa, không phân biệt đối xử sau cổ phần hóa. Các công ty thành viên của tổng công ty sau cổ phần hóa nếu Nhà nước có cổ phần chi phối thì vẫn là thành viên của tổng công ty. Thực hiện việc giao, bán và khoán kinh doanh, cho thuê đối với những DNNN có quy mô nhỏ (có quy định cụ thể về quy mô doanh nghiệp cho từng ngành, lĩnh vực). Việc giao là giao cho người lao động tại doanh nghiệp để chuyển sở hữu từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu tập thể tại doanh nghiệp; việc bán doanh nghiệp cũng ưu tiên cho công nhân viên tại doanh nghiệp; sau đó mới bán ra bên ngoài doanh nghiệp, tiền thu được chủ yếu là để thanh toán nợ nần, thực hiện chính sáchđối với số lao động dôi dư, còn lại là để hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp sau cổ phần hóa và 100% vốn Nhà nước để đổi mới công nghệ. Khi khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp, sở hữu vẫn còn là Nhà nước, Nhà nước chỉ giao, cho thuê quyền sử dụng tài sản Nhà nước. Cần có kế hoạch cụ thể, sơ kết sau mỗi đợt để mở ra thực hiện trên diện rộng đối với DNNN thuộc loại này. 2.2 Thực hiện chế độ công ty đối với các DNNN và tổ chức Công ty đầu tư tài chính Nhà nước Thực hiện việc chuyển tất cả các DNNN sang thực hiện chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Nhà nước (100% vốn nhà nước) hoặc công ty cổ phần có vốn Nhà nước (nếu thực hiện cổ phần hóa) theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa IX. Nguyên tắc cơ bản của chế độ công ty là: - Nhà nước không giao vốn mà chuyển sang phương thức đầu tư vốn cho DNNN thông qua Công ty đầu tư tài chinh Nhà nước, đồng thời doanh nghiệp tự bổ sung vốn thông qua thị trường vốn. - Công ty Nhà nước là một pháp nhân kinh tế đầy đủ, có tài sản riêng, vốn riêng, có quyền tự chủ trong kinh doanh như doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, bao gồm: quyền tự định đoạt trong kinh doanh, trên cơ sở đảm bảo các điều kiện do cơ quan quản lý Nhà nước đặt ra lúc thành lập doanh nghiệp (đảm bảo hiệu quả đồng vốn, giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực được phân công…); quyền định đoạt về vốn và tài sản thuộc sở hữu của công ty; quyền quyết định về nhân sự để đảm bảo hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao nhất; chịu trách nhiệm đầy đủ về các mối quan hệ pháp luật hành chính tài sản thuộc sở hữu của công ty. Nhà nước cần ban hành Luật về sử dụng vốn Nhà nước trong kinh doanh thay thế cho Luật DNNN hiện hành, để xác định quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân sử dụng vốn Nhà nước để kinh doanh. - Hội đồng quản trị là đại diện chủ sở hữu trực tiếp các nguồn vốn tại doanh nghiệp, do các chủ sở hữu cử ra và được sự công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Công ty đầu tư tài chính Nhà nước (hoặc tổng công ty) cử đại diện tham gia hội đồng quản trị tại các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước thuộc những ngành, lĩnh vực quan trọng. Đối với các doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong các ngành, lĩnh vực khác, Công ty đầu tư tài chính có thể ủy quyền cho người đại diện sở hữu của Nhà nước tại DNNN. - Nhà nước thực hiện quyền của người chủ sở hữu tại công ty Nhà nước thông qua Công ty đầu tư tài chính Nhà nước và các thành viên hội đồng quản trị ở các tổng công ty, công ty do Công ty đầu ty tài chính Nhà nước (hoặc tổng công ty) cử ra. Công ty đầu tư tài chính Nhà nước (hoặc tổng công ty) trực tiếp chỉ đạo các thành viên hội đồng quản trị do mình cử ra. Các cơ quan quản lý Nhà nước bao gồm các Bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quyền quản lý Nhà nước đối với mọi loại hình doanh nghiệp, hoàn toàn không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các công ty Nhà nước, không phân biẹt công ty Nhà nước, trung ương, địa phương. Đi liền với thực hiện chế độ công ty như trên cần tổ chức công ty đầu tư tài chính Nhà nước; có các công ty chi nhánh theo một số ngành (đầu tư vào kết cấu hạ tầng, khu vực nông thôn, sản xuất tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng…) trên một địa bàn kinh tế phát triển và trên các vùng của đất nước. Công ty đầu tư tài chính Nhà nước là một tổ chức tài chính do Nhà nước thành lập, có chức năng kinh doanh vốn thông qua đầu tư tại các tổng công ty, công ty có vốn Nhà nước chiếm 100%, có cổ phần Nhà nước chi phối hoặc tham gia. Trong những năm trước mắat vốn điều lệ của Công ty đầu tư tài chính Nhà nước giữ 100% là của Nhà nước. Chức năng chủ yếu của công ty đầu tư tài chính Nhà nước là: Đại diện cho Nhà nước nắm giữ quyền sở hữu (quyền cổ đông) đối với số vốn Nhà nước được đầu tư vào các doanh nghiệp. Thông qua việc đầu tư vốn vào các doanh nghiệp bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn, bảo toàn và phát triển số vốn Nhà nước do các công ty kinh doanh. Cử người đại diện vào hội đồng quản trị các tổng công ty, công ty hoặc làm giám đốc các công ty Nhà nước loại nhỏ, không có hội đông quản trị. Quản lý các nguồn thu từ việc đầu tư vốn vào các doanh nghiệp (lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, cổ tức được chia từ các doanh nghiệp có cổ phần của Nhà nước …) để tiếp tục đầu tư vào các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả đồng vốn. Kiểm tra, giám sát hoạt động của các công ty Nhà nước. Từ nay đến năm 2005, Công ty đầu tư tài chính Nhà nước quản lý số cổ phần của Nhà nước trong các DNNN đã cổ phần hóa; quản lý phần vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; quản lý vốn Nhà nước trong các công ty Nhà nước độc lập; sau đó tiến đến quản lý vốn Nhà nước trong các tổng công ty 90 và 91. Công ty đầu tư tài chính Nhà nước do Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập và là đơn vị kinh tế trực thuộc Chính phủ, Công ty có hội đồng quản trị được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, do một Phó Thủ tướng làm chủ tịch hội đồng quản trị và Bộ trưởng Bộ Tài chính lam Phó chủ tịch hội đồng quản trị 2.3 Đổi mới mô hình tổng công ty Nhà nước Theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa IX, từ thực tiễn các điều kiện của Việt Nam hiện nay và trên cơ sở hoạt động của các tổng công ty 90, 91 vừa qua, cần thiết tiến hành xây dựng mô hình thí điểm tổng công ty theo nguyên tắc tổ chức công ty mẹ – công ty con theo nguyên tắc sau: Nhà nước đầu tư vốn cho các tổng công ty thông qua Công ty đầu tư tài chính Nhà nước. Tổng công ty có thể huy động thêm cổ phần hoặc từ các nguồn vay. Tổng công ty với tư cách là "công ty mẹ" đầu tư vốn thông qua công ty tài chính của tổng công ty cho các thành viên dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn 100% vốn Nhà nước hoặc công ty cổ phần mà Nhà nước chi phối hoặc thâm nhập vốn vào các tổng công ty cổ phần cùng ngành nghề để Nhà nước chi phối nếu cần thiết. Tổng công ty được chia lãi và cùng chịu lỗ theo vốn góp với các công ty thành viên (bao gồm công ty thành viên 100% vốn Nhà nước và công ty thành viên có vốn Nhà nước chi phối) và các công ty mà tập đoàn có tham gia vốn nhưng không có mức chi phối. Tổng công ty cử đại diện tham gia hội đồng quản trị của các công ty thành viên nếu là công ty cổ phần; đại diện này có quyền biểu quyết tương ứng với vốn góp. Tổng công ty chi phối hoạt động của các công ty thành viên thông qua các thành viên đại diện này. Tổng công ty cử giám đốc công ty thành viên nếu là công ty 100% vốn Nhà nước. Tổng công ty hạch toán độc lập và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (tính trên phần lợi nhuận thu được từ đầu tư vốn) cho Nhà nước. Các công ty thành viên cũng hạch toán độc lập và trực tiếp nộp tất cả các loại thuế theo luật định cho Nhà nước. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các công ty thành viên, bộ máy của tổng công ty phải có đủ trình độ, năng lực, tập trung làm tốt các việc sau đây: Dự báo chiến lược kinh doanh và công khai các báo cáo dự báo kiến lược đó cho các công ty thành viên. Nghiên cứu, tiếp thị, mở mạnh thị trường cả trong và ngoài nước, phân công thị trường, xây dựng chiến lược, sách lược chiếm lĩnh thị trường cho các công ty thành viên. Nghiên cứu, định hướng đổi mới công nghệ, nghiên cứu tiếp thu và chuyển giao, ứng dụng các công nghệ hiện đại của chuyên ngành cho các công ty thành viên. Kiểm tra, phát hiện sai sót của các công ty thành viên, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh trên cơ sở hiện đại hóa các phương tiện quản lý của tổng công ty. Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, thu hút cán bộ có đủ tài, đức. Tham gia hội đồng quản trị của Tổng công ty và của các công ty thành viên (nếu là công ty cổ phần), ngoài số đại diện chủ sở hữu, cần có một số nhà kinh doanh giỏi do Công ty đầu tư tài chính Nhà nước thuê (đối với tổng công ty) hoặc hội đồng quản trị tổng công ty thuê (đối với công ty thành viên) để tham gia hoạch định chiến lược. Thành lập một số tập đoàn kinh tế của Nhà nước có vị trí xứng đáng trong khu vực ASEAN (như bưu chính – viễn thông, điện, hàng hải…) với bước đi và cách làm chặt chẽ, thích hợp. Song song với việc chuyển một số tổng công ty sang hoạt động theo mô hình như trên và tổ chức một số tập đoàn kinh tế của Nhà nước, cần củng cố các tổng công ty hiện có về các mặt quan trọng sau đây: Hoàn chỉnh các chiến lược phát triển đã được xây dựng để trình các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (đối với tổng công ty 91 là Thủ tướng Chính phủ, đối với tổng công ty 90 là Bộ trưởng hoặc Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), làm căn cứ cho việc xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh và đầu tư đổi mới công nghệ của tổng công ty và các công ty thành viên. Chuyển tổng công ty và các công ty thành viên sang thực hiện chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Nhà nước hoặc công ty cổ phần có vốn Nhà nước chi phối (nếu công ty thành viên đó thực hiện cổ phần hóa). Tiến hành phân công lại sản xuất trong tổng công ty theo cả chiều dọc và chiều ngang, tạo sự liên kết chặt chẽ trong kinh doanh. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về công nợ, "làm sạch" tình hình tài chính của tổng công ty và các thành viên, giải quyết số lao động dôi dư; bổ sung đủ vốn cho tổng công ty và doanh nghiệp thành viên phù hợp với phương án sản xuất, kinh doanh; điều chỉnh lại vốn giữa các thành viên. Tiến hành thành lập Công ty Đầu tư tài chính để thực hiện chức năng kinh doanh các nguồn vốn đầu tư vào DNNN và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Công ty đầu tư tài chính, là một doanh nghiệp của nhà nước hình thức hoạt động như một công ty tài chính có chức năng làm cho đồng vốn của Nhà nước được bảo toàn và ngày càng phát triển. Phát hành trái phiếu huy động vốn để tổng công ty đầu tư vào các công ty thành viên và thâm nhập vốn vào các công ty cùng ngành nghề ở các thành phầnkinh tếkhác, hình thành các công ty cổ phần có vốn chi phối của Nhà nước. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ quản trị doanh nghiệp và người lao động. Xây dựng dự báo, xây dựng chiến lược phát triển, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và đầu tư của các tổng công ty. Củng cố tổ chức các hội đồng quản trị tổng công ty. Tổ chức đảng của tổng công ty tùy theo điều kiện hoạt động của từng tổng công ty mà tổ chức theo mô hình Đảng ủy toàn tổng công ty hoặc Đảng ủy bộ phận đầu não tổng công ty; các công ty thành viên sinh hoạt đảng theo địa bàn lãnh thổ. Từng bước chuyển dần các tổng công ty 90 và 91 sang hoạt động theo mô hình "công ty mẹ", "công ty con" như đã kiến nghị ở trên. Có biện pháp thích hợp để thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê các DNNN hoạt động không có hiệu quả. 3. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với DNNN 3.1. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách quản lý đối với DNNN Môi trường kinh doanh của DNNN mà trước hết là cơ chế, chính sách là tiền đề, điều kiện cho DNNN hoạt động có hiệu quả, đồng thời đảm bảo cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với DNNN theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Do đó, việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Môi trường kinh doanh được hoàn thiện theo các hướng chủ yếu như: hoàn thiện pháp luật, chính sách, trong đó đặc biệt là chính sách tài chính, đầu tư đối với DNNN. Đổi mới chính sách theo hướng tăng cường quyền tự chủ về tài chính, đầu tư, lựa chọn phương án kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như đất đai, vốn, công nghệ, lao động. Ngoài ra, việc tạo lập thị trường đồng bộ, thống nhất trong cả nước tạo tiền đề quan trọng để các DNNN thực hiện có hiệu quả sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ tức là nâng cao hiệu quả đầu ra và như vậy góp phần nâng cao hiệu qủa hoạt động chung của DNNN. 1)Cơ chế, chính sách đối với DNNN cần phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước đầu tư cho DNNN thông qua Công ty đầu tư tài chính Nhà nước, đồng thời DNNN được tự do tiếp cận với các nguồn vốn trên thị trường để đầu tư phát triển; cạnh tranh trên cùng một mặt bằng pháp luật, mạnh được yếu thua, có tăng trưởng, nhưng cũng có rủi ro, phá sản; DNNN kinh doanh thu hẹp hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh tùy thuộc quan hệ cung cầu và lợi nhuận; đối với DNNN, các yếu tố sức lao động, chất xám, bất động sản, quyền sử dụng đát, nhân lực quản trị kinh doanh… đều là những yếu tố hàng hóa, DNNN được quyền tự quyết định theo pháp luật. Cần rà soát lại các cơ chế, chính sách để bổ sung, điều chỉnh phù hợp với những yêu cầu trên. 2)Cơ chế chính sách phải đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các DNNN như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Hội đồng quản trị trong DNNN (hoặc giám đốc, với các doanh nghiệp không có hội đồng quản trị) có quyền định đoạt trong kinh doanh theo pháp luật như: DNNN định hướng kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động của DNNN. DNNN tự quyết định đầu tư theo phân cấp rộng hơn, hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. Nhà nước không can thiệp, chỉ định việc vay vốn của ngân hàng để kinh doanh mà ngân hàng tự định đoạt trên cơ sở căn cứ vào hiệu quả dự án. DNNN hoàn toàn tự quyết định việc thanh lý tài sản dư thừa, ứ đọng, không dùng đến, các hàng hóa tồn đọng. DNNN tự quyết định về mức tiền lương, tiền thưởng cho hội đồng quản trị, giám đốc và người lao động trên cơ sở căn cứ vào hiệu quả của sản xuất, kinh doanh. Tiền lương là một yếu tố chi phí sản xuất, do công ty tự quyết đinh căn cứ vào tình hình sản xuất, tiêu thụ và giá cả sản phẩm được thị truờng chấp nhận, không hạn chế mức tối đa, không bị gò bó bởi đơn giá lương và các thang, bảng lương như công chức Nhà nước. Nhà nước ban hành quy định làm cơ sở về pháp lý cho việc tính toán lương của DNNN trên cơ sở hiệu quả kinh doanh đồng vốn Nhà nước đầu tư. Về các khoản chi tiêu trong quản lý, tiếp khách, hoa hồng môi giới (do hội đồng quản trị quyết định căn cứ vào hiệu quả kinh doanh). DNNN tự quyết định việc phân phối và trích lập các qũy từ lợi nhuận để lại; Nhà nước có chính sách khuyến khích công ty tiết kiệm tiêu dùng để dành vào việc tái đầu tư vào sản xuất kinh doanh theo phương thức càng tiết kiệm được nhiều thì càng có lợi cho công nhân và cán bộ quản lý. DNNN được lập các qũy dự phòng rủi ro, dự phòng thất nghiệp và được tính vào chi phí sản xuất. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm làm căn cứ đánh giá hoạt động của DNNN. Đổi mới căn bản chế độ kiểm tra, thanh tra DNNN bằng việc thông qua các cơ quan tài chính, Nhà nước không cần phải thâm nhập sâu vào từng doanh nghiệp. 3)Cơ chế, chính sách tạo động lực đối với cả cán bộ quản lý và người lao động trong các DNNN Để tạo động lực mạnh phải có cơ chế, chính sách khuyến khích và chế tài xử lý phù hợp với từng đối tượng trong DNNN như sau: Đối với người quản trị doanh nghiệp, khuyến khích bằng các hinh thức: mức lương cao hơn từ khoảng 3-5 lần so với bình quân trong doanh nghiệp và được thưởng theo tỷ số lợi nhuận đạt được, không khống chế mức cao (phần điều tiết là thông qua thuế thu nhập cánhân). Đối với người lao động, khuyến khích bằng các hình thức: mức lương theo hình thức khoán; thưởng theo đóng góp vào hiệu quả chung của DNNN; được quyền chuyển 50% vốn tích lũy từ lợi nhuận để lại DNNN được tạo ra từ các khoản vay để kinh doanh thành cổ phần của người lao động và của giám đốc doanh nghiệp (trong đó, cổ phần của giám đốc có thể bằng 5-10 lần số cổ phần bình quân của một công nhân tại DNNN đó). Đối với người lao động phải tạo ra phong trào thi đua sâu rộng trong các DNNN để mỗi người lao động phải không ngừng học hỏi, nâng cao tay nghề, nâng bậc thợ để tăng thu nhập và giữ vững chỗ làm việc của mình. Thực hiện các biện pháp chế tài: thưởng đi đôi với phạt, cả với người lao động và cán bộ quản trị doanh nghiệp; thực hiện nghiêm túc các chế tài về kinh tế và hình sự nếu vi phạm các quy định về tài chính để trục lợi hoặc cố ý gây thiệt hại cho DNNN mà không phải rủi ro do khách quan của nền kinh tế thị trường. Thời gian điều hành DNNN của giám đốc do hội đông quản trị quyết định; nếu điều hành không hiệu quả, hội đồng quản trị sẽ cho thôi giữ chức vụ. 4)Đổi mới cơ chế, chính sách đối với các tổ chức hoạt động công ích. Đối với một tổ chức kinh tế quan trọng trực tiếp phục vụ cho quốc phòng an ninh, Nhà nước cần có quy định riêng về tổ chức, hoạt động của DNNN này: Rà soát lại danh mục ngành nghề để thu hẹp lĩnh vực hoạt động, trên cơ sở đó sắp xếp lại các tổ chức kinh tế hoạt động công ích hiện nay. Đồng thời kiểm soát thật chặt chẽ việc thành lập và việc chuyển DNNN từ hoạt động kinh doanh sang tổ chức kinh tế hoạt động công ích. Có cơ chế giao nhiệm vụ và tài chính đối với các DNNN hoạt động công ích theo hướng giao nhiệm vụ với những tiêu chuẩn rõ ràng và tiến tới đấu thầu (hoặc hợp đồng ký với Nhà nước hàng năm) việc sản xuất một số sản phẩm và cung ứng dịch vụ công ích; nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ công ích. Không tổ chức các hoạt động sản xuất, kinh doanh phụ trong các tổ chức kinh tế hoạt động công ích làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ hoạt động công ích đã ký kết với Nhà nước (là nhiệm vụ chính). Các tổ chức kinh tế hoạt động công ích của Nhà nước làm nòng cốt; đồng thời huy động các thành phần kinh tế khác tham gia các hoạt động công ích thuộc lĩnh vực nhà nước không cấm (như xây dựng một số tuyến đường, cầu theo mô hình BOT hoặc BT, xử lý rác thải ở các đô thị…), dưới các hình thức được khuyến khích như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Nhà nước chỉ giữ tỷ lệ khống chế ở những lĩnh vực trọng yếu của đời sống kinh tế – xã hội. Nhà nước ưu tiên đầu tư vốn ban đầu cho các tổ chức kinh tế hoạt động công ích. Ngân sách Nhà nước mua lại các sản phẩm, dịch vụ công ích của các tổ chức kinh tế hoạt động công ích với điều kiện giá thành sản phẩm phải được tính đầy đủ, đúng, hợp lý và được xét duyệt thật chặt chẽ. Từng bước chuyển dần từ cơ chế Nhà nước là người duy nhất bao tiêu toàn bộ sản phẩm, dịch vụ của các tổ chức kinh tế hoạt động công ích sang cơ chế người trực tiếp sử dụng, trực tiếp hưởng dịch vụ, tiện ích công cộng phải có chi phí một phần hoặc toàn bộ cho tổ chức kinh tế hoạt động công ích cung cấp, như vậy sẽ làm thay đổi tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, thiếu trách nhiệm trong bảo vệ các công trình công cộng, đồng thời người tiêu dùng cũng có quyền được trực tiếp giám sát chất lượng phục vụ, buộc các tổ chức kinh tế hoạt động công ích phải không ngừng tự hoàn thiện. 5)Tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNN Nhà nước chủ động tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy sự hình thành, phát triển đồng bộ và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa để tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh: thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường lao động; thị trường khoa học công nghệ và việc bảo hộ sở hữu trí tuệ; thị trường vốn, tiền tệ và chứng khoán; thị trường bất động sản và thị trường quyền sử dụng đất; thị trường các dịch vụ tài chính, kiểm toán, tư vấn pháp lý. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNN ngoài việc các doanh nghiệp phải tự nâng cao nội lực bằng các biện pháp phù hợp, cần phải kiên quyết hạn chế việc bảo hộ của Nhà nước đối với DNNN. Thực tế cho thấy, thời gian quan bao cấp của Nhà nước đối với DNNN vẫn được duy trì bằng việc đầu từ, tín dụng ưu đãi, cho khoanh nợ, dãn nợ, đất. Sự bao cấp này là cần thiết trong thời kỳ đầu xây dựng đổi mới nhằm củng cố sự vững mạnh của DNNN; những trường hợp bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn… và trong những năm chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm hạn chế những tác động tiêu cực về mặt xã hội trong việc giải quyết lao động dôi dư. Đã đến lúc, chúng ta phải thu hẹp và tiến tới chấm dứt bao cấp. Trong cơ chế thị trường thì việc tạo một môi trường đầu tư, kinh doanh binh đẳng, không bao cấp là rất cần thiết chẳng những có lợi cho cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh mà còn đáp ứng đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế. Ban Thư ký của Tổ chức thưong mại thế giới (WTO) không đặt vấn đề số lượng DNNN của một quốc gia nên nhiều hay ít mà chỉ yêu cầu các DNNN phải được quản lý hoạt động một cách minh bạch, nhất là loại bỏ chế độ bao cấp của nhà nước làm méo mó cơ chế thị trường. Xóa bỏ bao cấp đối với DNNN sẽ làm cho các DNNN chủ động, tự lực vươn lên nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, loại bỏ tư tưởng ỷ lại vào bao cấp của nhà nước. Mặt khác, nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có cơ hội tiếp cận nguồn lực của xã hội dễ dàng và bình đẳng hơn. Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ thuộc các thành phần kinh tế, trong đó DNNN chiếm số đông trông chờ vào hàng rào bảo hơn là đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ quản lý để tăng sức cạnh tranh. Theo ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, mức bảo hộ đồ nhựa của Việt Nam là 167%; đò dùng gia đình 108%; xe máy, xe đạp 59%; đồ uống không cồn 50%; gạch ốp lát 48%; hàng may mặc 42%; đường 32,4%. Khi hội nhập kinh tế quốc tế chắc chắn hàng rào bảo hộ này sẽ phải dỡ bỏ hoặc giảm tới mức thấp nhất phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngược với việc bảo hộ cao đối với công nghiệp, dịch vụ, Việt Nam lại chưa chú ý thỏa đáng đối với hàng nông sản. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nông sản hiện đang là sản phẩm cuối cùng mà các nước vẫn đấu tranh giữ mức bảo hộ nhất định trong quá trình tự do hóa kinh tế toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tê, kể cả việc đàm phán gia nhập WTO. Chẳng hạn như Trung Quốc, khi trở thành thành viên của WTO, việc trợ giá nông sản vẫn duy trì và chiếm 8,5% trong tổng giá trị nông sản của nước này. Trong khi đó ở Việt Nam sản phẩm nông sản, thủy sản ít được quan tâm bảo hộ. Giá gạo, cà phê ở bên ngoài thế nào gần như được nhập khẩu như thế đã làm cho người nông dân đã nghèo lại càng nghèo. Việc có bảo hộ hợp lý đối với nông sản nhằm thu hẹp khoảng cách giữa sản phẩm công nghiệp và sản phẩm nông nghiệp và giảm bớt rủi ro cho nông dân. Về độc quyền, có thể nói lĩnh vực ít thay đổi nhất trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam là độc quyền. Do lịch sử để lại, độc quyền kinh doanh ở Việt Nam được quyết định bởi biện pháp hành chính, chứ không phải thông qua cạnh tranh. Độc quyền những năm đầu đã có phần tạo lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng. Nhưng cần thấy rằng trong cơ chế kinh tế mới việc độc quyền kinh doanh của DNNN đã khiến cho người tiêu dùng phải mua hàng hóa, dịch vụ giá cao, chất lượng thấp, đồng thời làm cho khu vực kinh tế tư nhân khó tồn tại và phát triển lên được mà còn làm cho DNNN nảy sinh ý thức bấu víu vào nhà nước. Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNN ở đây là: Khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh (sớm ban hành luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh, theo đó các lĩnh vực quan trọng như điện, nước, viễn thông cũng chịu sự điều chỉnh của Luật này). Thực hiện mở rộng các DNNN cùng kinh doanh các sản phẩm dịch vụ độc quyền nhằm thông qua cạnh tranh mà hạn chế độc quyền. Rà soát và hạn chế bớt các lĩnh vực độc quyền. Không để cho độc quyền nhà nước trong một số lĩnh vực cần thiết biến thành độc quyền DNNN. Khắc phục ngay một số yếu kém của DNNN nhà nước độc quyền. Cho phá sản những doanh nghiệp đã hội đủ các yếu tố. Sau 7 năm thực hiện Luật phá sản đến nay, Việt Nam mới có khoảng 40 lượt DNNN được giải quyết phá sản tại tòa án. Một nguyên nhân quan trọng là theo quy định hiện hành thì những điều kiện phá sản DNNN còn quá chặt chẽ. Quy định lãnh đạo DNNN bị tuyên bố phá sản không được đảm đương chức vụ đó ở bất kỳ DNNN nào trong thời hạn từ 1 đến 3 năm, dẫn đến những người đứng đầu DNNN làm ăn thua lỗ không dại gì mà xin phá sản. Trình tự ưu tiên thanh toán khi DNNN phá sản là các khoản nợ ngân sách nhà nước, lương cho người lao động… sau đó mới đến lượt chủ nợ, nên nhiều chủ nợ nộp đơn yêu cầu được trả nợ không được giải quyết. Để tháo gỡ vấn đề này, Nhà nước nên nghiên cứu nới lỏng các điều kiện trên, bổ sung quy định cơ quan sáng lập DNNN có quyền đề nghị cho DNNN phá sản và có thể hướng lấy tiêu chí vỡ nợ là đủ yêu cầu tuyên bố phá sản DNNN. 3.2 Đổi mới cơ cấu tổ chức và chức năng quản lý nhà nước đối với DNNN 1)Đổi mới cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với DNNN Cần gắn trách nhiệm thực hiện việc đổi mới và phát triển DNNN với việc thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước của các Bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo quy định của pháp luật. Việc đổi mới quản lý DNNN phải có lộ trình và mục tiêu rõ ràng, có hướng tới hiệu quả kinh tế đạt được, vì sự phát triển nền kinh tế ổn định và bền vững. Do đó, các Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp phải được tăng cường cả về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm lẫn điều kiện đảm bảo hoàn thành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm được giao. Trong quá trình hoàn thiện cơ cấu và cơ chế hoạt động mới của hệ thống DNNN phải coi trọng việc loại bỏ những cái cũ đã lỗi thời, kiên quyết thoát khỏi nếp suy nghĩ cũ, cách làm cũ và kiên trì ủng hộ các chủ trương biện pháp thúc đẩy thực hiện mô hình mới theo lộ trình chung đã đê ra. Đó là quá trình kết hợp vai trò đổi mới của đơn vị kinh tế cơ sở, vai trò điều chỉnh của cơ chế thị trường và vai trò chỉ đạo thống nhất của Nhà nước. Chúng tôi đồng tình với cách đề xuất của Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương rằng cơ cấu tổ chức chuyên trách phối hợp liên ngành về đổi mới DNNN nói riêng và hệ thống doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nói chung, có nhiệm vụ giúp chính phủ thực hiện các nội dung sau: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch phát triển và kế hoạch điều chỉnh của khu vực kinh tế nhà nước, của DNNN trong chính sách kinh tế nhiều thành phần Phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng các cơ chế, chính sách liên quan để đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ, phù hợp với thực tế Việt Nam về đổi mới doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng. Tổ chức hướng dẫn, giám sát, điều hành và uốn nắn kịp thời những lệch lạc để đảm bảo việc thực hiện tiến độ đổi mới DNNN được thuận lợi, theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phối hợp với các sáng kiến của cơ sở về thị trường, nhất là thị trường vốn và các biện pháp hành chính của nhà nước để thúc đẩy tiến trình đổi mới DNNN. 2)Tăng cường chức năng của bộ máy quản lý nhà nước đối với DNNN Các cơ quan nhà nước các cấp không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của DNNN mà giao nhiệm vụ và quyền hạn này cho Công ty đầu tư tài chính Nhà nước thực hiện; cơ quan nhà nước tập trung sức vào việc hoạch định chiến lược, đề ra cơ chế, chính sách vĩ mô, công bố công khai các dự báo chiến lược và cơ chế, chính sách để định hướng và dẫn dắt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển có hiệu quả; tạo môi trường pháp luật thuận lợi, thông thoáng, bình đẳng cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh và hợp tác để phát triển; điều tiết bằng chính sách để phân bổ hợp lý, công bằng các nguồn lực của đất nước và thu nhập từ các kết quả kinh doanh; bằng chính sách và sử dụng lực lượng vật chất Nhà nước nắm để điều hòa và cân đối vĩ mô nền kinh tế, khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường; kiểm tra, kiểm soát như nhau đối với hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế theo quy định của pháp luật, không gây khó khăn cho hoạt động của DNNN. Các Bộ quản lý ngành, tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành đối với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt DNNN do Trung ương hay địa phương quản lý. Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước và của cơ quan chủ sở hữu đối với DNNN nhằm tạo điều kiện đầy đủ và đồng bộ để DNNN thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó, chức năng quản lý nhà nước được xác định cụ thể là: Tập trung vào việc xây dựng hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với DNNN hoạt động kinh doanh, DNNN hoạt động công ích; chỉ đạo xây dựng quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, của ngành và địa phương; xây dựng quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý DNNN; tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách, chế độ quy định của Nhà nước tại DNNN. Nhà nước tập trung chỉ đạo thúc đẩy phát triển đồng bộ các loại thị trường để tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của DNNN: thị trường bất động sản, thị trường các dịch vụ tài chính, kiểm toán, bảo hiểm, tư vấn pháp lý… Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mễ DNNN nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh; tạo điều kiện và hỗ trợ DNNN đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ cao, tạo ra sản phẩm mới, sản phẩm có chất lượng cao cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Xóa bỏ chế độ chủ quản của cơ quan hành chính nhà nước, khắc phục tình trạng can thiệp quá sâu, quá cụ thể vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN. Các cơ quan quản lý nhà nước phải căn cư vào quy định của pháp luật và yều cầu quản lý trong lĩnh vực mình phụ trách ban hành hệ thống văn bản pháp quy đầy đủ và phù hợp với chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Cơ quan quản lý nhà nước không xử lý vụ việc cụ thể, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN. Phân định rõ quyền của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với DNNN: 1)Chủ sở hữu có quyền quyết định: thành lập, sáp nhập, chia tách, chuyển đổi sở hữu, giải thể DNNN; ban hành điều lệ mẫu tổ chức hoạt động của DNNN; bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các chức danh quản lý chủ chốt; mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược phát triển và định hướng kế hoạch kinh doanh trung hạn, dài hạn của DNNN; phê duyệt các dự án đầu tư lớn; hướng phân phối lợi nhuận sau thuế; kiểm tra, giám sát thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao và hoạt động kinh doanh của DNNN. Chính phủ sẽ có quyền, phân cấp cụ thể cho Bộ chức năng, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, hội đồng quản trị tổng công ty nhà nước thực hiện các quyền của chủ sở hữu nói trên, không phân biệt DNNN do Trung ương hay địa phương quản lý. 2)Đối với tổng công ty nhà nước, Thủ tướng Chính phủ (hoặc ủy quyền cho Bộ trưởng, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố) quyết định: thành lập, tách, nhập, chuyển đổi sở hữu, giải thể các đơn vị thành viên; ban hành điều lệ mẫu; bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật chủ tịch, ủy viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc; mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược, quy hoạch phát triển và định hướng kế hoạch kinh doanh trung, dài hạn; đầu tư các dự án nhóm A; tổ chức kiểm tra, giám sát thực hiện các mục tiêu mà Nhà nước giao cho tổng công ty. Hội đồng quản trị quyết định: bổ nhiệm phó tổng giám đốc, kế toán trưởng; các dự án đầu tư theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; phân phối lợi nhuận sau thuế; phương án tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh, biên chế bộ máy quản lý; kiểm tra, giám sát tổng giám đốc, giám đốc các đơn vị thành viên trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và các nghị quyết của hội đồng quản trị … 3)Đối với các DNNN độc lập không thuộc các tổng công ty nhà nước, chính phủ cần có quyết định cụ thể về thực hiện các quyền của chủ sở hữu. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương thực hiện quản lý nhà nước đối với DNNN theo quy định của pháp luật. 3.3 Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý nhà nước đối với DNNN Có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình đọ của cán bọ lãnh đạo quản lý DNNN những kiến thức quả lý DNNN trong kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, trong điều kiện của thời đại trí tuệ, sự bung nổ của công nghệ thông tin và công nghệ sinh học … Người cán bộ quản lý DNNN cần phải có kiến thức công cụ khác như ngoại ngữ, tin học … để tăng cường khả năng phân tích hoạch định chính sách kinh tế. Người lãnh đạo quản lý DNNN thường xuyên tổng kết thực tiễn trên cơ sở vận dụng lý luận và phương pháp luận khoa học để so sánh, đánh giá, dư báo .. và từ đó đề xuất những giải pháp sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của thực tiễn quản lý của DNNN và của nền kinh tế. Kết luận Trong một thế giới toàn cầu hóa, khi hầu hết các quốc gia đều theo đuổi nền kinh tế mở và tham gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt nhằm thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trở thành yếu tố quyết định vị trí của nền kinh tế quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Cải thiện khả năng cạnh tranh nền kinh tế Việt Nam, vì thế, là một vấn đề mang tính cấp bách, sống còn để giúp chúng ta tham gia vào tiền trình hội nhập. Việc tồn tại cũng như những cống hiến và vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của các DNNN ở Việt Nam là một thực tế khách quan. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải thừa nhận về những hạn chế về cơ cấu tổ chức, về trình độ công nghệ về cơ chế chính sách ….của khu vực này. Thực tiễn những năm qua và triển vọng thời gian tới cho thấy cải cách doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quyết định tính hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước, có vai trò tích cực và quan trọng đối với sự phát triển của khu vực doanh nghiệp dân doanh, đến việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đến các chỉ số kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính tiền tệ, quá trình đổi mới công nghệ và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, cải cách doanh nghiệp nhà nước còn tác động tích cực tới việc cải thiện môi trường pháp lý và chất lượng nguồn nhân lực. Có thể nói cải cách doanh nghiệp nhà nước đã góp phần to lớn vào quá trình nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Việc nghiên cứu các giải pháp nhằm đổi mới nâng cao hiệu quả họat động của DNNN là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Thông qua quá trình hoàn thành bản luận văn này, người viết xin mạnh dạn nhấn mạnh một số điểm sau: Các giải pháp cần đồng bộ, toàn diện, kịp thời và điều quan trọng hơn là việc thực thi tốt các giải pháp đó. Việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN là công việc của toàn xã hội chứ không của riêng DNNN hay của Nhà nước. Vì vậy công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của xã hội về sự tồn tại tất yếu và vị trí then chốt của DNNN là cần thiết. Các giải pháp mà người viết dưa ra là tập hợp các giải pháp cụ thể, trong đó giải pháp về tạo dựng môi trường pháp lý, môi trường cạnh tranh lành mạnh và nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng hơn cả. Việc tổ chức thực hiện các giải pháp cần phải được điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với tình hình luôn biến động trong bối cảnh toàn cầu hóa. Việc nghiên cứu các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN cũng cần phải được tiến hành thường xuyên, bằng một cơ cấu tổ chức đủ mạnh góp phần cải cách các DNNN và nâng cao khă năng cạnh trang của nền kinh tế. Phụ lục Bảng 1 : Khả năng cạnh tranh của Việt Nam theo các Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu Biểu 2.1. Một số chỉ tiêu về Tổng công ty 91 Đồ thị 2.1. Tốc độ cổ phần hóa DNNN tính đến tháng 12/2001 Biểu 2.2. Hình thức cổ phần hóa DNNN Biểu 2.3. DNNN phân theo tính chất hoạt động và hình thức tổ chức Biểu 2.4. Cơ cấu DNNN năm 2002 phân theo ngành hoạt động Biểu 2.5. Số lượng DNNN phân theo quy mô vốn Biểu 2.6. Giá trị tài sản của DNNN năm 2001 Biểu 2.7. Trình độ công nghệ của các DNNN năm 2001 Biểu 2.8 Trình độ công nghệ của DNNN công nghiệp Biểu 2.9. Năng lực cạnh tranh quốc tế của DNNN Biểu 2.10. Năng lực cạnh tranh DNNN công nghiệp theo thị trường Biểu 2.11 Trình độ lao động trong các DNNN ngành công nghiệp Đồ thị 2.2 Tỷ lệ DNNN kinh doanh thua lỗ Biểu 2.12 Chi phí sản xuất ngành công nghiệp năm 2001 Biểu 3.1. Dự kiến sắp xếp các DNNN đến năm 2005 Sơ đồ 3.1 Mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động của DNNN với năng lực và lợi ích của cán bộ quản lý doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo 1. Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương. Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Hà Nội 5/2001 2. Trương Văn Bân, Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1996. 3. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương. Kinh tế Việt Nam 1999. Hà Nội 2000. 4. UNIDO và Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam. MXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội 1999 5. Bộ chính trị. Nghị quyết số 10/NQ – TW, ngày 17/3/1995 6. Tạp chí Thông tin Chiến lược, Chính sách công nghiệp. Số 6/2003. 7. Đảng cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba BCH trung ương Đảng khóa IX, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001. 8. Trần Tiến Cường. Cơ sở khoa học của việc chuyển DNNN kinh doanh sang hoạt động theo mô hình công ty của kinh tế thị trường. Đề tài khoa học cấp Bộ. Hà Nội 1997. 9. Đỗ Đức Thịnh. Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế – kinh nghiệm Nhật Bản, ASEAN và Việt Nam. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội 1993 10. Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XV Đảng cộng sản Trung Quốc. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1998. 11. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 1991 – 1995, tại kỳ họp thứ 10, khóa VIII. 12. Tạp chí Cộng sản và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo "Doanh nghiệp Việt Nam với công cuộc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế". Hà Nội 2002 13. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001. 14. Võ Thu Thanh. Kinh tế đối ngoại. NXB Thống kê. Hà Nội 1996 15. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001. 16. Đảng cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, tháng 11/1991 17. Malcolm Gillis, Dwight H.Perkins, Michell Roemer, Dorald R.Snodyrass. Kinh tế học của sự phát triển. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Hà Nội 1990. 18. Luật DNNN. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1995 19. Nguyễn Ngọc Quang. Cổ phần hóa DNNN – Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. NXB Khoa học xã hội. Hà Nội 1995 20. Nguyễn Hồng Sơn. "Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới". Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 1 (45) 1997. 21. Tổng cục thống kê. Số liệu điều tra DNNN ngành công nghiệp. Hà Nội 1998. 22. Vũ Minh Trai, Thực trạng và giải pháp sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước thuộc thành phố Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội 2000 Tiếng Anh 23. Shu Y.Ma. The Chinese Route to Privatization. asian Survey, vol. XXXVIII, No.4, April 1998, pp. 379 – 397, p.383. 24. Ramaurti R, Vernon R – Privatization and control of state – owned enterprises, The World Bank, Washington D.C. 1991.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan