Khóa luận Cán cân vãng lai của Việt Nam những năm gần đây: Thực trạng và các biện pháp cải thiện

Cán cân vãng lai hay còn gọi là tài khoản vãng lai là một trong những bộ phận chính hình thành lên bảng cán cân thanh toán quốc tế của một nước. Cán cân vãng lai là tổng hợp toàn bộ chi tiêu và giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú, và được coi như một công cụ không thể thiếu trong phân tích kinh tế của một nước. Trong giai đoạn 1990 đến 1998, cán cân vãng lai của nước ta luôn ở trong tình trạng thiếu hụt, nguyên nhân là do thiếu hụt cán cân thương mại và do trả lãi các khoản vay từ trước. Trong những năm này tốc độ nhập khẩu tăng nhanh hơn tốc độ nhập khẩu làm cho cán cân thương mại Tuy nhiên sang năm 1999 và các năm tiếp theo, do có những đổi mới trong chính sách quản lý kinh tế nên không những đã khắc phục được tình hình thiếu hụt của cán cân vãng lai mà còn làm cho cán cân vãng lai đạt được thặng dư (năm 1999 là 4,53%; năm 2000 là 2,1%, năm 2001 là 3,3%). Những đổi mới đó là: hạn chế nhập khẩu, chỉ nhập khẩu những mặt hàng cần thiết như công nghệ mới, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được; đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu tăng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng chế biến bằng công nghệ mới có hàm lượng chất xám cao, chú trọng khai thác các nguồn lực trong nước; đồng thời mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tìm kiếm thêm các bạn hàng mới, đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới. Nhà nước đã có chính sách thích hợp trong việc thu hút vốn nước ngoài để hỗ trợ phát triển kinh tế trong nước, đặc biệt có chính sách thích hợp trong thu hút kiều hối, góp phần giảm bớt thiếu hụt cán cân vãng lai. Nhưng trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế đang có chiều hướng chậm lại. Một trong những nguyên nhân là do tốc độ nhập khảu tăng, khi nền kinh tế tăng trưởng thì kéo theo sự gia tăng trong tiêu dùng và đầu tư, do vậy nhu cầu nhập khẩu tăng. Do đó, nếu không đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu, thu hút thêm các nguồn tài trợ thì sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và khả năng trả nợ của quốc gia.

doc95 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2002 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cán cân vãng lai của Việt Nam những năm gần đây: Thực trạng và các biện pháp cải thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất chưa bám sát thị trường, chưa tranh thủ được thị trường để khơi thông sản xuất trong khi thị trường là vấn đề sống còn của công tác xuất khẩu; chính sách, cơ chế xuất nhập khẩu trong mấy năm gần đây đã được cải thiện theo chiều hướng tích cực nhưng chưa thật ổn định; các cấp Bộ, ngành chưa chủ động tháo gỡ các vướng mắc cho doanh nghiệp. Đẩy mạnh xuất khẩu là giải pháp hữu hiệu nhằm cải thiện cán cân vãng lai, vì nó tăng nguồn thu cho cán cân thương mại. Muốn vậy, phải đảm bảo tốc độ tăng xuất khẩu phải nhanh hơn nhập khẩu. Trong năm 1999, tốc độ tăng xuất khẩu đạt 23,22% còn tốc độ nhập khẩu lại giảm đi rất nhiều ở mức 1,1%. Nguyên nhân là do sự tăng mạnh của khu vực xuất khẩu tư nhân, từ 4% năm 1997 lên 14% năm 1999, trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Chính vì thế cán cân vãng lai của Việt Nam trong năm này đã chuyển từ thâm hụt (-4,4% GDP) sang thặng dư (4,53% GDP). Có được sự thành công trên là do những cải cách kinh tế của Chính phủ trong hai năm 1998 và 1999. Một số mặt hàng như : tôm, cua, cá, than, cao su tự nhiên… đã được bỏ thuế xuất khẩu, và một số mặt hàng khác còn được hoàn thuế giá trị gia tăng. Tạo điều kiện tiếp cận cho các doanh nghiệp tư nhân đối với hạn ngạch xuất khẩu hàng may mặc và gạo. Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài cũng được phép trực tiếp mua gạo để xuất khẩu. Trong những năm tới mục tiêu phát triển kinh tế vẫn ưu tiên cho phát triển xuất khẩu; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu; góp phần tăng dự trữ ngoại tệ, rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế giữa nước ta và các nước trong khu vực. Mục tiêu trong giai đoạn từ nay đến 2010 là xuất khẩu phải đạt mức tăng trưởng bình quân từ 20% trở lên và phải đáp ứng các yêu cầu sau: Cơ cấu xuất khẩu phải được chuyển dịch mạnh theo hướng gia tăng các sản phẩm chế biến, chế tạo, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; bên cạnh đó, phải quan tâm khai thác các mặt hàng chủ yếu sử dụng nguyên, vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động mà thị trường trong nước cũng như ngoài nước có nhu cầu; đồng thời, phải khai thác mọi nguồn hàng có khả năng xuất khẩu; phấn đấu cân bằng cán cân thương mại vào những năm 2009- 2010 và xuất siêu vào thời kỳ sau năm 2010. Chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản sản phẩm xuất khẩu; giảm xuất khẩu hàng chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến công nghệ mới; từng bước xây dựng tiêu chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng hoá xuất khẩu với nhãn hiệu: "sản xuất tại Việt Nam ". Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của thị trường thế giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã hàng hoá. Mỗi loại hàng hoá phải hình thành được thị trường chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang các thị trường khác theo phương hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ buôn bán; phải có đối sách cụ thể với từng thị trường và từng bước giảm dần việc xuất khẩu qua các thị trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng mọi khả năng để duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở Châu á, đặc biệt là thị trường Nhật, đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu trực tiếp vào thị trường có sức mua lớn như Mỹ, Tây Âu, Nga, SNG và khu vực Châu Mỹ, Châu Phi. Muốn thực hiện thành công được mục tiêu phát triển xuất khẩu trên thì Việt Nam cần làm tốt các giải pháp sau: a. Cơ cấu xuất khẩu: Tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm mới đã qua công nghiệp chế tạo, chế biến sâu và tinh, tiến tới tăng dần tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật - công nghệ như: công nghệ điện tử, phần mềm máy tính…Giảm dần, tiến tới hạn chế tối đa (bằng cả biện pháp kinh tế và hành chính) việc xuất các sản phẩm thô và sơ chế. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này không phải là đơn giản vì các ngành công nghiệp chế tạo thường yêu cầu lượng vốn đầu tư lớn, trình độ khoa học công nghệ cao và dễ bị lạc hậu. Đồng thời phải biết tận dụng lợi thế so sánh của đất nước về nguồn lực hiện có như lao động, vị trí địa lý, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái.. thuận lợi cho phát triển nông - lâm- ngư nghiệp và khai thác các tài nguyên khoáng sản, đồng thời tập trung phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến- nông- lâm - thuỷ sản, đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như: gạo, cà phê, cao su, gỗ, tơ tằm, các ngành công nghiệp , tiểu thủ công nghiệp như dệt, may mặc, giầy da, đồ mỹ nghệ, gốm sứ, thủy tinh… cùng với các ngành khai thác và sơ chế tài nguyên (với các sản phẩm chủ lực như dầu mỏ, khí đốt, than đá…). Mặt khác, cần chú trọng phát huy thế mạnh về các hoạt động dịch vụ, nhất là các dịch vụ có thu nhập như ngoại tệ, du lịch, xuất khẩu lao động, chuyên gia, vận tải biển, vận tải hàng không và gia công sản xuất … Hiện nay, gạo và dệt may đang là hai mặt hàng xuất khẩu quan trọng đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia, nên cần có chính sách hỗ trợ phát triển. Chính phủ nên tổ chức đánh giá hiệu quả thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hai mặt hàng này, cho phép chuyển nhượng hạn ngạch để tránh tình trạng không sử dụng hết hạn ngạch mà các doanh nghiệp đã mua. Tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tiếp cận hạn ngạch xuất khẩu gạo và dệt may. b. Tiếp tục đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hóa thị trường và năng động tìm kiếm bạn hàng: Trong những năm tới, Việt Nam cần mở rộng thị trường, tìm kiếm thêm nhiều bạn hàng lớn và ổn định. Tránh tập trung quá mức vào một khu vực thị trường, bạn hàng nhất định để lường trước những biến động phức tạp về quan hệ chính trị có thể ảnh hưởng bất lợi đến ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác. Tuy nhiên, cần chú trọng tới các thị trường trọng điểm, bạn hàng lớn, như khu vực Châu á - Thái Bình Dương, trong đó nổi lên là khu vực ASEAN. Tích cực triển khai quan hệ với Mỹ, đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, tham gia tích cực vào Diễn đàn hợp tác Châu á Thái Bình Dương, các tổ chức kinh tế như APEC, WTO…. Các chương trình xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cần được cụ thể hoá và gắn với hoạt động đối ngoại, tranh thủ ngoại giao hỗ trợ việc ký kết các Hiệp định khung, các Thoả thuận và các Hợp đồng dài hạn có giá trị lớn với các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các thị trường lớn để tạo đầu ra ổn định và từ đó có cơ sở cho đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao giá trị nội địa hoá, giá trị gia tăng hàng xuất khẩu. c. Đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu: Bộ Thương Mại phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rà soát, hoàn thiện các chính sách, cơ chế và biện pháp cụ thể, đáp ứng cho yêu cầu tạo nguồn hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu. Các chính sách, cơ chế phải được đề cập toàn diện, về đất đai, về đầu tư, tài chính, tín dụng…nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho các chương trình xuất khẩu có mục tiêu nêu trên; chú ý nguyên tắc bảo đảm ưu đãi dành cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất và cung ứng nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu không kém hơn các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Cải tiến thủ tục hành chính cấp giấy phép kinh doanh, dự án đầu tư, hạn ngạch xuất khẩu … tránh tạo ra các khe hở hợp pháp hoá trong cơ chế quản lý dẫn đến tệ nạn quan liêu, tham nhũng và tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, lậu thuế... Đối với một số mặt hàng nằm trong danh mục khuyến khích xuất khẩu thì có thể giảm thậm chí miễn thuế xuất khẩu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Còn đối với những mặt hàng mà Nhà nước hạn chế thì thực hiện một thuế suất cao, có thể áp dụng thuế phụ thu khi có lợi nhuận cao. Cho phép các doanh nghiệp được tham gia xuất nhập khẩu các mặt hàng trừ những mặt hàng bị Chính phủ cấm. Nhà nước nên tổ chức đấu giá các hạn ngạch để tránh tình trạng các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu thì không có hạn ngạch hoặc có hạn ngạch thấp, đồng thời cũng cho phép chuyển nhượng hạn ngạch để đảm bảo kế hoạch xuất khẩu. d. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu: Trước đây, chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước mới được quyền tham gia và các hoạt động xuất khẩu. Nhưng hiện nay, Chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có tư cách pháp nhân hợp pháp đều được tham gia vào hoạt động xuất khẩu trực tiếp mà không có sự phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp. Trong những năm vừa qua, xuất khẩu của khu vực tư nhân đã tăng lên nhiều, đóng góp một lượng đáng kể vào tổng thu của ngân sách Nhà nước. Tỷ trọng của khu vực tư nhân trong tổng thu nhập quốc nội chiếm khoảng 51%, và 47% trong tổng giá trị xuất khẩu năm 1999. Trong đó, các doanh nghiệp tư nhân trong các ngành chế tạo là các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu cao. Tuy nhiên, trên thực tế các qui định liên quan đến việc thành lập cũng như mở rộng kinh doanh của khu vực tư nhân còn nhiều bất cập, bị hạn chế trong việc tiếp cận với các thị trường xuất khẩu, tín dụng…Do vậy, để phát triển kinh tế, Chính phủ cần có những chính sách ưu đãi khuyến khích xuất khẩu đối với khu vực này như giảm thuế, hỗ trợ vốn và công nghệ… e. Đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế về trình độ kỹ thuật, ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ ngoại thương và các lĩnh vực khác của kinh tế đối ngoại, trong đó có các ngoại giao kinh tế là một hoạt động rất quan trọng mà Việt Nam cần quan tâm. Giải pháp này thể hiện vấn đề chiến lược con người trong chương trình phát triển kinh tế đối ngoại mà trọng tâm là hướng vào sự tăng trưởng ngoại thương, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu. Đây mới là giải pháp có tính quyết định đến sự thực thi thành công toàn bộ những mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra. 3.2.2 Các biện pháp hạn chế nhập khẩu: Một trong những nguyên nhân giúp làm giảm bớt thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam trong những năm 1997-1998, là hạn chế nhập khẩu. Do vậy, muốn cán cân vãng lai không lâm vào tình trạng thiếu hụt như những năm 1990-1996, thì Chính phủ cần có biện pháp để quản lý tình hình nhập khẩu. Hiện nay, kinh tế Việt Nam đang từng bước phục hồi và phát triển, chính vì thế mà nhu cầu nhập khẩu tăng lại đang có chiều hướng gia tăng. Mục tiêu đề ra là hoạt động nhập khẩu trong những năm tới phải được định hướng chặt chẽ: tăng trưởng bình quân nhập khẩu từ nay đến 2010 là 14%/năm; chú trọng nhập khẩu công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu của ngành chế biến nông lâm, thủy, hải sản và sản xuất hàng công nghiệp nhẹ; đồng thời phải gắn với việc phát triển, sử dụng các công nghệ, giống cây con và vật liệu mới được sản xuất trong nước. Hạn chế nhập khẩu các sản phẩm trong nước đã sản xuất được và sản xuất có chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế; tăng cường tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn và có khả năng đầu tư hiệu quả như Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản. Về cơ cấu nhập khẩu : Chính sách nhập khẩu từ nay đến năm 2010 phải hướng vào việc phục vụ ngày càng tốt hơn các nhu cầu phát triển sản xuất trong nước, tăng trưởng xuất khẩu và các nhu cầu tiêu dùng hợp lý của nhân dân. Tăng nhập khẩu để tăng xuất và ngược lại tăng xuất để tăng nhập là công thức hữu hiệu cho tăng trưởng ngoại thương. Tăng nhập phải đi đôi với kiên quyết chống nhập lậu và thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước một cách hợp lý. Cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam được điều chỉnh như sau: Giảm tối đa mặt hàng hàng tiêu dùng, đặc biệt là những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được như may mặc, đồ uống, hoa quả… Tạm ngừng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho các ngành đã phát triển ở trong nước như các ngành công nghiệp rượu bia, đồ uống, nước giả khát… những ngành thuộc diện ưu tiên, chú ý sử dụng các nguồn lực trong nước. Đặc biệt, cần kiên quyết ngăn chặn tình trạng nhập khẩu hàng hoá chất lượng thấp, hàng tiêu dùng giá rẻ tràn ngập thị trường thông qua các hoạt động biên mậu và buôn lậu, trốn thuế. Nếu để tình trạng "quốc nạn " này xảy ra, sẽ dẫn đến nhiều hậu quả về kinh tế-chính trị-xã hội, mở đường cho nhập siêu bất hợp lý, các tệ nạn quan liêu…và cuối cùng sẽ bóp chết các ngành sản xuất trong nước. Kiểm soát việc nhập khẩu của các doanh nghiệp: Trong những năm qua, do không kiểm soát chặt chẽ nên đã xảy ra tình trạng các doanh nghiệp nhập khẩu tràn lan, ảnh hưởng xấu tới sản xuất trong nước. Do vậy, trong những năm tới cần phải đưa ra các giải pháp thích hợp để chấm dứt tình trạng trên. Nên ràng buộc nhập khẩu với nghĩa vụ xuất khẩu. Kiểm soát việc nhập khẩu theo các dự án ODA, vì các dự án này thường tập trung vào cơ sở hạ tầng nên không trực tiếp tạo ra các nguồn hàng xuất khẩu. Thuế nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu: Một trong những biện pháp được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam đó là thuế nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên, Việt Nam đang có xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới, nên hai biện pháp này không phát huy được hết những tác dụng vì trái với các cam kết giảm thuế trong các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài. Mục đích của các biện pháp này là hạn chế số lượng (hay giá trị) nhập khẩu của hàng hoá trong một khoảng thời gian nhất định. Chính vì thế, trong giai đoạn đầu, nó giúp cải thiện cán cân thương mại nói riêng, và cán cân vãng lai nói chung. Nhưng sau đó, do nhập khẩu giảm nên buộc người tiêu dùng phải chuyển sang tiêu dùng hàng trong nước thay thế cho hàng nhập khẩu dẫn đến sản xuất, thu nhập trong nước tăng. Khi thu nhập tăng sẽ làm cho nhu cầu nhập khẩu tăng, giảm tác động cải thiện ban đầu của các biện pháp hạn chế nhập khẩu này. Trong những năm qua, nhập khẩu của Việt Nam giảm mạnh là do Chính phủ đã thực hiện các biện pháp hạn chế nhập khẩu như: thuế quan, hạn ngạch, yêu cầu kết hối ngoại tệ. Mặc dù, thuế suất đã giảm từ mức cao 90% xuống còn 50%, và số lượng khung thuế giảm từ 35 xuống 12, nhưng không cắt giảm về hạn ngạch và hạn chế bằng giấy phép nhập khẩu. Những hạn chế bằng hạn ngạch nhập khẩu thông qua giấy phép nhập khẩu hiện nay chi phối khoảng 2/5 giá trị nhập khẩu và khoảng 1/3 lượng hàng sản xuất trong nước. Đồng thời khoảng 1/3 lượng hàng sản xuất trong nước được bảo hộ không hạn chế thông qua biện pháp hạn ngạch. Năm 1998, Chính phủ áp dụng biện pháp quản lý ngoại hối yêu cầu tất cả các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài, phải chuyển 80% đồng ngoại tệ của mình sang đồng nội tệ. Tuy nhiên, biện pháp này đã được nới lỏng vào tháng 9 năm 1999, các đơn vị chỉ phải bắt buộc bán 50% số ngoại tệ của mình. Trong năm 2001 vừa qua, thuế suất xuất nhập khẩu đã được điều chỉnh theo hướng khuyến khích đầu tư, sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho thu chi ngân sách Nhà nước. Những hạn chế vướng mắc trong thực hiện thuế đang được sửa đổi. Những thay đổi trong chính sách thuế nhằm khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện nhập khẩu công nghệ mới, bảo hộ hàng sản xuất trong nước, đồng thời cam kết thực hiện AFTA. Nhằm ổn định giá xăng dầu trong nước trước sự tăng giá nhập xăng dầu. Chính phủ đã bốn lần điều chỉnh giảm thuế suất nhập khẩu xăng dầu làm giảm khoản thu thuế từ mặt hàng này giảm mạnh. Giảm thuế VAT cho một số mặt hàng gặp nhiều khó khăn như đường, phần mềm máy tính, một số sản phẩm cơ khí, mở rộng diện và tăng tỷ lệ khấu trừ VAT cho một số mặt hàng khác. Việc thay đổi các chính sách thuế để phù hợp với các thay đổi trong chính sách phát triển là tốt, nhưng việc thay đổi quá thường xuyên, không dự báo trước của hệ thống thuế, và sử dụng tràn lan chính sách miễn giảm thuế sẽ mang lại nhiều tác động tiêu cực như: gây ra tâm lý không yên tâm đối với các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong việc lập kế hoạch đầu tư lâu dài. Các chính sách miễn giảm thuế có thể gây ra kẽ hở cho sự tham nhũng và lạm dụng ưu đãi của doanh nghiệp. Trong luật thuế VAT, chế độ hoá đơn, chứng từ mua bán hàng, chế độ thống kê chưa cao, một mặt gây trở ngại cho việc thi hành VAT, mặt khác tạo kẽ hở cho không ít các doanh nghiệp lạm dụng lậu thuế. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang dần phục hồi do vậy nhu cầu nhập khẩu tăng là một điều tất yếu. Nhưng, trong tương lai Chính phủ cần kiểm soát việc nhập khẩu chặt chẽ hơn, giảm thiểu những tác động tiêu cực của các chính sách thuế, đảm bảo nhu cầu nhập khẩu trong nước mà không ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của các ngành. 3.2.3 Biện pháp điều chỉnh tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là một vấn đề hết sức quan trọng nhưng cũng rất phức tạp, chính sách tỷ giá được Nhà nước ta sử dụng như một công cụ quản lý vĩ mô. Nếu không có chính sách tỷ giá thích hợp thì sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực, kìm hãm quá trình đầu tư trong nước, làm thâm hụt cán cân thương mại. Tỷ giá chịu tác động của các nhân tố sau: Tương quan so sánh thu nhập của 2 quốc gia sẽ qui định tỷ giá giữa hai đồng tiền . Tương quan mức giá giữa hai nước (được đo bằng tỷ lệ lạm phát) cũng quyết định sự thay đổi tỷ giá giữa hai đồng tiền . Mức lãi suất giữa hai đồng tiền thay đổi cũng ảnh hưởng lên tỷ giá. Tỷ giá còn thay đổi bởi sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước. Trong chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, Ngân hàng Nhà nước thực hiện can thiệp tỷ giá khi nó có xu hướng biến động quá mức, gây bất lợi cho nền kinh tế. Thời kỳ trước năm 1989, Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá cố định. Hệ thống tỷ giá này đã gây khó khăn cho việc quản lý, điều hành trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của kinh tế. Nhận thức được điều này, tháng 3 năm 1989, Nhà nước đã quyết định điều chỉnh tỷ giá, để tỷ giá chính thức và thị trường sát với nhau. Trong những năm này nhờ điều chỉnh tỷ giá cùng với sự xuất hiện của gạo là mặt hàng chủ lực nên tình hình ngoại thương được cải thiện đáng kể, thâm hụt thương mại giảm dần, xuất khẩu tăng lên. Trong suốt những năm tiếp theo (1992- 1996), tỷ giá gần như bị đóng băng, tình hình thương mại và cán cân thanh toán lại có chiều hướng xấu đi. Những lần điều chỉnh tiếp theo vào những năm 1997,1998 và việc thay đổi cơ chế xác định tỷ giá đã làm cho tỷ giá trở nên linh hoạt hơn và thâm hụt thương mại đã giảm đi. Năm 1999, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế nên xuất khẩu của Việt Nam giảm đi nhiều. Sang năm 1999 và 2000, tốc độ xuất khẩu của Việt Nam lại tăng, nguyên nhân không phải là do khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam tăng hay giá các mặt hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế tăng mà là do khối lượng xuất khẩu tăng. Như vậy, có thể thấy, sau mỗi lần điều chỉnh tỷ giá theo hướng giảm giá đồng nội tệ thì hoạt động xuất khẩu trở nên sôi động hơn, thâm hụt cán cân thương mại được cải thiện. Từ năm 2002 trở đi, Việt Nam đã bỏ tỷ giá cơ bản, chuyển sang tỷ giá hướng dẫn. Tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng hôm qua sẽ được coi là tỷ giá hướng dẫn ngày hôm nay. Ngân hàng thương mại được quyền quyết định tỷ giá của mình bằng tỷ giá hướng dẫn ± 0,25%. Xét về mặt quản lý ở tầm vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước mới thực hiện được chế độ tỷ giá linh hoạt có sự kiểm soát của Nhà nước chứ chưa thể thựuc hiện tự do hoá tỷ giá như đã tự do lãi suất. Đó là vì: tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng chưa cao, tình trạng nhập siêu còn lớn, đồng tiền Việt Nam chưa có khả năng chuyển đổi, dự trữ ngoại tệ trong tay còn mỏng. Vì lẽ đó, Ngân hàng Nhà nước phải điều hành chính sách tỷ giá một cách thận trong, khôn ngoan, chỉ điều chỉnh các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá trong những trường hợp thật cần thiết nhằm phục vụ nền kinh tế phát triển theo những mục tiêu định hướng, chứ chưa thể coi nhẹ việc kiểm soát tỷ giá hối đoái. Trong tình hình hiện nay, khi đồng tiền Việt Nam bị đánh giá cao so với đồng tiền của nhiều nước trong khu vực thì việc định giá lại đồng Việt Nam nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hành hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế là điều cần thiết. Khi định giá thấp đồng nội tệ có thể có những mặt lợi sau: Xuất khẩu có điều kiện để phát triển: Trước mắt chúng ta chưa thể tăng nhanh xuất khẩu, do trình độ sản xuất của các doanh nghiệp còn hạn chế, chất lượng và mẫu mã các sản phẩm chưa cao, khả năng tiếp thị và kiến thức kinh doanh còn ít, nhưng về lâu dài khi mà tỷ giá đủ cao sẽ khuyến khích xuất khẩu hơn nữa, chính sách chuyển dịch cơ cấu sẽ có hiệu quả hơn. Hạn chế được nhập khẩu tràn lan, giảm thâm hụt cán cân thương mại; hạn chế sự cạnh tranh của hàng ngoại với hàng sản xuất trong nước, hạn chế việc nhập khẩu các nguyên phụ liệu sản xuất mà trong nước sản xuất được. Nhập khẩu rẻ sẽ dẫn đến khuynh hướng sính hàng nhập ngay cả những nguyên vật liệu trong nước sản xuất được. Rất nhiều ý kiến biện hộ cho việc nhập khẩu hiện nay là phục vụ cho nhu cầu đổi mới công nghệ, nhưng tình hình nhập khẩu trong hai năm qua lại cho thấy vẫn còn nhập khẩu nhiều mặt hàng mà trong nước có thể sản xuất thay thế được. Nâng cao được trách nhiệm và hiệu quả sử dụng ngoại tệ khi nhập khẩu hàng hoá. Khi nhập khẩu đắt các nhà nhập khẩu phải tính toán và cố gắng nhập khẩu những mặt hàng không hoặc chưa cần thiết hay phải tìm phương án gắn nhập khẩu với xuất khẩu. Tuy nhiên điều chỉnh tỷ giá theo hướng định giá thấp đồng bản tệ dễ gây ra lạm phát, chi phí đầu vào cao, nợ nước ngoài tính bằng đồng nội tệ có thể tăng, thu nhập của người lao động quy đổi ra đồng ngoại tệ có thể giảm… Bất kỳ chính sách nào cũng có ưu nhược điểm của nó, song chọn đúng thời điểm để đưa ra thì kết quả mang lại sẽ cao, hạn chế được những tác động xấu. Trong điều kiện hiện nay, với tỷ lệ lạm phát thấp, các khoản nợ nước ngoài nằm trong giới hạn cho phép, do đó trong tương lai Việt Nam có thể cân nhắc phá giá VND một cách thích hợp để tạo ra những lợi thế khuyến khích xuất khẩu và đẩy mạnh thu hút đâu tư nước ngoài. Những phương hướng và chính sách tỷ giá này chỉ có thể đạt được những hiệu quả nào đó, khi nó được phối hợp chặt chẽ với chính sách tài chính tiền tệ và các chính sách kinh tế khác. Đặc biệt là chính sách lãi suất, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách đầu tư, chính sách chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu và cơ cấu kinh tế. 3.2.4 Các biện pháp thu hút tiết kiệm: Đảng và Nhà nước ta chủ trương: huy động mọi nguồn vốn trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó, vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ bên ngoài. Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, nguồn vốn trong dân hiện nay có khoảng 8 tỷ USD. Qua điều tra của Bộ kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục thống kê, nguồn vốn này được phân bố thành: 39% tiền để dành của dân là để mua vàng và ngoại tệ. 15% tiền để dành của dân là để gửi tiết kiệm, chủ yếu là tiết kiệm ngân hàng. 19% tiền để dành của dân là để mua nhà cửa, đất đai, cải thiện điều kiện sinh hoạt. 27% tiền để dành của dân là để đầu tư vào các dự án, phần lớn các dự án ngắn hạn. Như vậy, Chính phủ mới chỉ huy động được một lượng nhỏ vốn hiện có trong dân dành cho đầu tư phát triển. Nguyên nhân là do: Người dân thường có xu hướng muốn đảm bảo an toàn cho tiền gửi tiết kiệm của mình, do vậy họ chọn cách gửi tiết kiệm thay vì mở doanh nghiệp kinh doanh. Hình thức và biện pháp huy động vốn trong doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, và các hộ kinh doanh cá thể còn nghèo nàn do: Các doanh nghiệp huy động vốn của cán bộ công nhân viên trả lãi cao hơn lãi suất ngân hàng để hỗ trợ thêm cho người lao động không được cấp trên đồng ý, chỉ một số ít các doanh nghiệp được phép phát hành trái phiếu... Các hình thức huy động khác như tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm đảm bảo bằng vàng, trái phiếu ngân hàng, ngân hàng nhận vốn uỷ thác đầu tư chưa phát huy hết tác dụng. Trong tương lai, việc thu hút nguồn vốn này sẽ giảm được lượng vốn vay nước ngoài, do vậy sẽ giảm được thiếu hụt trong cán cân vãng lai. Tuy nhiên, để thu hút được nguồn vốn này cần áp dụng các biện pháp sau: Khuyến khích tiết kiệm trong nước. Cụ thể: Duy trì lạm phát ở mức một con số; áp dụng hình thức tiết kiệm bắt buộc, bằng chủ trương đúng, rõ ràng thông qua thuế nhằm hạn chế tiêu dùng; củng cố và hoàn thiện chính sách tiền tệ an toàn và hiệu quả; đa dạng hoá các hình thức gửi tiền tiết kiệm ... Ngày 20/12/2001, Ngân hàng kỹ thương tại Thành phố Hồ Chi Minh đã giới thiệu sản phẩm tiết kiệm dài hạn. Đây là sản phẩm áp dụng cho đồng USD. Khi gửi dài hạn bằng USD, khách hàng có thể rút vốn bất cứ lúc nào, không cần chiết khấu, chuyển nhượng. Ngân hàng này cũng đã có chính sách tăng lãi suất tiết kiệm và đang đưa ra sản phẩm mới là dịch vụ ngân quỹ lưu động. Theo đó, có thể thu tiền gửi tiết kiệm và chuyển nhanh tại nhà, tại các doanh nghiệp. Thu tiền tại nhà, tại doanh nghiệp và nộp tiền vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Techcombank. Giải pháp huy động vốn bằng tiền: Tạo môi trường đầu tư an toàn để người dân an tâm bỏ vốn vào đầu tư; đa dạng hoá các hình thức phát hành trái phiếu, thời gian của trái phiếu, lãi suất trái phiếu; có chính sách lãi suất ưu đãi cho đầu tư; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước đăng ký kinh doanh thuận lợi; khuyến khích các hộ nông dân ở các vùng nông thôn mạnh dạn bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, khai thác lợi thế của các từng vùng; khuyến khích tư nhân trong nước đầu tư 100% vốn, hoặc góp vốn cổ phần xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội. Giải pháp huy động vốn bằng vàng: Huy động vốn bằng vàng tạo được nguồn vốn ổn định hơn cho đầu tư, thời gian dài hơn so với vốn huy động bằng tiền tiết kiệm. Khi huy động vốn bằng vàng, vốn thu hồi nợ và lãi cũng bằng vàng. Muốn vậy, phải tạo điều kiện thuận lợi, đơn giản thủ tục gửi vàng cũng như khi rút ra đồng thời phải đảm bảo sự an toàn cho lượng vàng ấy. 3.2.5 Các biện pháp thu hút chuyển tiền nước ngoài: Như đã phân tích trong chương 2, số lượng thiếu hụt trong cán cân vãng lai của Việt Nam trong những năm 90 đã được bù đắp bởi một lượng lớn chuyển kiều hối. Tiềm năng kiều hối là rất lớn, do vậy Chính phủ nên có các chính sách để thu hút, hạn chế tình trạng chuyển tiền lậu. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, lượng kiều hối chuyển về nước trong năm nay ước đạt 2,4 tỷ USD, tăng hơn 14% so với năm ngoài. Riêng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, lượng kiều hối chuyển về qua các ngân hàng trong năm 2002 ước đạt 1,4 tỷ USD. Điều này cho thấy sự cố gắng của các ngân hàng trong việc thu hút kiều hối bằng các dịch vụ đa dạng. Có thể kể đến sự giảm thiểu phiền hà, chi trả đến tận tay người nhận tiền bằng ngoại tệ tiền mặt. Việc Nhà nước bãi bỏ chính sách đánh thuế trên kiều hối cũng làm cho lượng kiều hối qua ngân hàng gia tăng. Hiện có khoảng 70% lượng kiều hối chuyển từ Mỹ về và 30% là từ nước khác. Để đón thêm lượng kiều hối và đa dạng trong dịch vụ chi trả kiều hối tại nhà, mới đây công ty Đông á đã mở thêm một công ty kiều hối theo Luật Doanh nghiệp. Công ty này chú trọng vào việc chi trả kiều hối tại nhà là một dịch vụ mà nhất là các khách hàng ở vùng sâu vùng xa ưa thích. Ngoài ra, công ty này còn có thể chi trả kiều hối bằng tiền VND, ngoại tệ hay vàng tuỳ theo nhu cầu của người gửi và người nhận. Những chính sách mới của Nhà nước như cho phép Việt kiều mua nhà và ưu đãi đầu tư trong nước...cũng làm cho lượng kiều hối tăng nhanh. Hiện nay số lượng Việt kiều được phép mua nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Nhà nước không nhiều, bao gồm 4 đối tượng sau: (1) những người về đầu tư dài hạn ở Việt Nam; (2) những người có công đóng góp với đất nước; (3) các nhà văn hoá, nhà khoa học, chuyên gia về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam ; (4) người định cư ở nước ngoài có đơn đề nghị về sinh sống ổn định tại Việt Nam và được cơ quan cấp thẩm quyền của cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam chấp nhận. Nghị định số 81/2001/NĐ-CP qui định cụ thể về việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam : cho phép Việt kiều được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng mảnh đất mà căn nhà được xây dựng trên đó và chỉ được sở hữu một căn nhà để ở. Hiện nay, có khoảng 3 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, tuy nhiên theo nghị định này thì chỉ có khoảng 10% - 20% số Việt kiều đáp ứng được điều kiện trên. Việc người Việt Nam ở nước ngoài về mua nhà đất, Nhà nước “ cẩn thận là tốt “ nhưng quá cẩn thận sẽ hạn chế tính khả thi của luật. Do vậy, Nhà nước nên đơn giản hoá thủ tục, mở rộng đối tượng Việt kiều được phép mua nhà ở tại Việt Nam, ví dụ: chỉ cần có tiền ký quĩ tại ngân hàng, hoặc là sau bao lâu Việt kiều được phép mua thêm nhà hay bán nhà... Tuy nhiên, có một điều mà các công ty kiều hối và các ngân hàng băn khoăn là ngoài lượng kiều hối gửi về theo con đường chính thức qua ngân hàng, còn có một lượng kiều hối chuyển về qua những con đường khác như qua người thân, bạn bè, người quen và qua con đường “chui ”. Trong những năm gần đây tỷ trọng của lượng kiều hối chuyển qua con đường này cũng đã giảm đi phần nào đó là do sự cố gắng của các Ngân hàng. Thu hút được càng nhiều kiều hối thì các ngân hàng càng có lợi. Do vậy, Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi về tỷ giá, tiếp tục loại bỏ những thủ tục phiền hà trong việc chuyển và tiếp nhận kiều hối, hướng việc chuyển kiều hối về nước bằng con đường chính thức . Để thu hút thêm khoản tiền này nhiều hơn mỗi năm, ngân hàng Nhà nước cần cho phép các ngân hàng thương mại mở thêm các dịch vụ mới như nhận tiền gửi tiết kiệm của các Việt kiều, hoặc Nhà nước mở những đợt phát hành trái phiếu cho người Việt Nam ở nước ngoài. Bản thân các ngân hàng và các công ty kiều hối trong nước cần có nhiều cố gắng hơn để tạo sự tin tưởng và yên tâm cho những người có nhu cầu gửi tiền và đến nhận tiền, chú trọng hơn vào việc quảng cáo các dịch vụ chuyển tiền của mình. Kiều hối là một trong những nguồn cung quan trọng, giúp ổn định cung cầu ngoại tệ dù cho nhập siêu năm 2002 là rất lớn. 3.2.6 Các biện pháp thu hút vốn nước ngoài (FDI): Để tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai, Chính phủ có thể thu hút thêm các luồng vốn nước ngoài, nhưng các luồng vốn này lại có khả năng làm tăng nợ của quốc gia. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là luồng vốn không tạo ra dư nợ, và chính phủ cần khai thác nguồn vồn này, hướng nguồn vốn này vào sản xuất các mặt hàng xuất khẩu thay vì các mặt hàng nhập như trước đây. Đối với cán cân vãng lai, đầu tư trực tiếp góp phần cải thiện, vì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần giảm bớt thiếu hụt giữa nguồn tiết kiệm, ngoại hối, thu nhập của Chính phủ. Bù đắp thiếu hụt mậu dịch hay ngoại hối. Dòng vào của đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể xoá bỏ một phần hay toàn bộ thiếu hụt cán cân vãng lai, nếu nó tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ thực. Tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Chính phủ do thu thuế đánh vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các biện pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: 1. Xây dựng cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng hiện nay của Việt Nam theo nhìn nhận của các nhà đầu tư nước ngoài là còn yếu kém: hệ thống giao thông xuống cấp, phương tiện vận tải thì thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, hệ thống tin liên lạc còn hạn chế. Đây chính là nguyên nhân khiến luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng chậm. Do vậy, thu hút được vốn đầu tư nói chung và vốn đầu tư trực tiếp nói riêng, cần phải cải thiện lại cơ sở hạ tầng theo hướng như sau: Xây dựng mới và sửa chữa lại hệ thống cầu đường, tiếp tục nâng cấp các công trình xây dựng, khai thông hệ thống đường, bộ, thuỷ, sắt, hàng không đặc biệt là đường thủy vì nó là “mạch máu” giao thông với nước ngoài. Trang bị thêm phương tiện cảng biển, sân bay: kho bãi, tàu, container… Đầu tư xây dựng các nhàn máy điện với công suất lớn và vừa. Tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp thông tin cho nhà đầu tư. 2. Hoàn thiện Luật Đầu tư nước ngoài: Luật Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ban hành ngày 29/12/1987, đến nay đã qua bốn lần sửa đổi và bổ sung, lần gần đây nhất là năm 09/062000 (số 24/2000/NĐ-CP). Mục đích của các lần sửa đổi này là đảm bảo cho Luật Đầu tư của Việt Nam hoàn chỉnh hơn, có tính cạnh tranh cao hơn, đảm bảo môi trường pháp lý về kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Cụ thể: Vấn đề chuyển đổi hình thức đầu tư, trong Luật Đầu tư năm 1996, không đề cập đến vấn đề chuyển đổi hình thức đầu tư nhưng sang năm 2000, sau khi sửa đổi và bổ sung, Chính phủ cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được chuyển đổi, sát nhập, tách, hợp nhất doanh nghiệp, điều kiện, thủ tục theo như Chính phủ quy định. Trong cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Theo luật sửa đổi năm 2000, doanh nghiệp nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được phép mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại để đáp ứng cho các giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khác. Chính phủ đảm bảo hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các dự án công trình kết cấu hạ tầng và một số dự án quan trọng khác, đây cũng là một điểm mới mà trước đây trong luật năm 1996 chưa có. Thêm vào đó, thay vì chỉ được thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn của các tổ chức tín dụng Việt Nam (hạn chế không cho các doanh nghiệp vay vốn của các ngân hàng nước ngoài hay ngân hàng cổ phần trong nước), hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị sử dụng đất để đảm bảo vay vốn ở tại các tổ chức tín dụng hoạt động ở Việt Nam (không kể là người Việt Nam hay nước ngoài). Để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, Chính phủ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài trong liên doanh và trong doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được quyền chuyển nhượng vốn của mình cho bất kỳ ai mà không phải ưu tiên người Việt Nam. Đồng thời giảm thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài xuống còn 3%; 5%; 7% thay vì 5%; 7%; 10% như trước đây, để khuyến khích hơn nữa nguồn vốn FDI đổ vào trong nước. Các doanh nghiệp còn được phép mở tài khoản tại ngân hàng nước ngoài trong trường hợp đặc biệt được Nhà nước cho phép. Thủ tục hành chính trong những năm qua cũng là một trong số nhiều nhân tố cản trở cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, do vậy, trong tương lai cần đơn giản hoá thủ tục, rút ngắn thời gian thẩm định và cấp giấy phép cho các nhà đầu tư . 3. Đa dạng hoá các hình thức tồn tại của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài: Hiện nay các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang tăng mức sản xuất công nghiệp nhưng lại hướng vào thị trường trong nước, điều này vừa tạo sự cạnh tranh bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước, vừa đẩy họ vào nguy cơ giảm sản lượng khi sức mua bão hoà. Chính vì thế các nhà quản lý doanh nghiệp phải hết sức năng động trong việc huy động vốn để nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng, thay vì chỉ lo tập trung sản xuất. Hình thức tồn tại của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là công ty trách nhiệm hữu hạn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động cũng như sử dụng nó một cách linh hoạt và có hiệu quả. Trong khi đó, hình thức mới là công ty cổ phần vẫn còn gặp phải những khó khăn nhất định. Các biện pháp đa dạng hoá hình thức đầu tư: Trước mắt, phải vạch ra những thuận lợi và khó khăn của việc ra đời hình thức công ty cổ phần ở các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tiến hành thăm dò ý kiến của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Hiện tại chưa thể sửa đổi ngay Luật Đầu tư nước ngoài cũng như các nguồn luật khác liên quan đến vấn đề này phải được Chính phủ quy định riêng, áp dụng thí điểm trong một số lĩnh vực nhất định. Sau đó sẽ tổng kết rút kinh nghiệm để tiến tới việc luật hoá những quy định của Chính phủ. Về lâu dài sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài cho thông nhất với Luật Doanh nghiệp, bởi vì trong Luật Doanh nghiệp có những quy định rõ ràng, đầy đủ, mang tính chất tiến bộ và hợp chuẩn quốc tế. Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tồn tại dưới dạng công ty cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp thì cũng được hưởng những ưu đãi mà Luật ầu tư nước ngoài đang có. 3.2.7 Các biện pháp điều chỉnh chi tiêu (chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ). Để điều chỉnh cán cân vãng lai, ngoài các biện pháp nêu trên, Chính phủ có thể sử dụng các chính sách vĩ mô như: chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ liên quan đến cung tiền của Ngân hàng Nhà nước và chính sách tài khoá liên quan đến những thay đổi trong chi tiêu của Chính phủ và thuế quan. Cán cân vãng lai có thể được biểu diễn như sau: Cán cân vãng lai (CA) = Thu nhập quốc dân (GNP) - Mức hấp thụ (C + I + G) Như vậy, cán cân vãng lai có thể được cải thiện bằng cách tăng thu nhập quốc dân, hoặc giảm mức hấp thụ hoặc kết hợp cả hai biện pháp. Để đáp ứng được yêu cầu này, Nhà nước phải thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt: tăng thuế và giảm chi tiêu của Chính phủ. Việc tăng thuế sẽ khiến cho nhu cầu tiêu dùng giảm dẫn đến tiết kiệm tăng, trong khi đó giảm chi tiêu của Chính phủ đồng nghĩa với giảm chi đầu tư và chi thường xuyên của Chính phủ. Do vậy, chính sách tài khoá thắt chặt hay còn gọi là chính sách thắt lưng buộc bụng sẽ làm tăng tiết kiệm quốc gia và giảm đầu tư quốc gia, cán cân vãng lai vì thế được cải thiện. Mặt khác, những người theo trường phái tiền tệ lại cho rằng mất cân đối trong cán cân vãng lai là do mất cân đối cung cầu tiền tệ trên thị trường. Chính vì thế, biện pháp sử dụng là chính sách tiền tệ làm tăng cầu tiền hay giảm cung tiền hoặc cả hai. Thông thường để giảm bớt thiếu hụt của cán cân vãng lai, các nước thường sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm cung tiền. Khi nguồn cung tiền giảm, lãi suất sẽ tăng do đó tăng tiết kiệm trong nước và thu hút các nguồn vốn nước ngoài. Nhờ đó, có tác dụng cải thiện cán cân vãng lai và cán cân vốn, kết quả là cán cân thanh toán quốc tế cũng được cải thiện. Như vậy, để cải thiện cán cân vãng lai, các nước có thể áp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa thắt chặt, tuy nhiên để việc áp dụng đạt kết quả tốt thì còn tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của từng nước. Mục tiêu của các chính sác nêu trên là nhằm bảo đảm cân đối bên ngoài, nhưng mục tiêu của Chính phủ lại hướng vào ổn định bên trong (đảm bảo tăng trưởng kinh tế, đầy đủ việc làm và giá cả ổn định). Trong hoàn cảnh thực tế hiện nay của Việt Nam, các chính sách tiền tệ và tài khoá cần được ưu tiên cho mục tiêu cân đối bên trong. Với chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm cung tiền đối với Việt Nam là không phù hợp, vì: Khi giảm cung tiền lãi suất sẽ tăng; lãi suất tăng kìm hãm đầu tư, kính thích luồng vốn ròng chảy vào và tiền gửi tiết kiệm tăng. Hiện nay, số tiền gửi ứ đọng tại các ngân hàng của Việt Nam là tương đối lớn, do lãi suất gửi tiền cao, nhưng nguồn vốn này lại không có chỗ để đầu tư, vì lãi suất tăng làm giảm đầu tư nội địa. Thêm vào đó, lãi suất tăng còn gây ra sức ép làm giá trị trao đổi VND so với ngoại tệ tăng (duy tì tỷ giá thực cao) ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu. Thị trường tài chính của Việt Nam chưa phát triển nên hiệu quả của các chính sách vĩ mô không cao. Năm 1999, Chính phủ đã sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng bằng cách hạ lãi suất cho vay cho vay, hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc (1-5% vào tháng 9/1999); hạ lãi suất cho vay tái cấp vốn đồng thời mua một lượng ngoại tệ lớn của các các ngân hàng thương mại, kết quả là lượng cung ứng tiền tăng khoảng 20%. Trên thực tế, mặc dù cung tiền tăng nhưng cũng không làm tăng giá cả, cũng không mở rộng được đầu tư tín dụng, mà chỉ làm cho lượng tiền ứ đọng trong ngân hàng tăng thêm. Nguyên nhân là tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp (4,8%), giá cả thấp cộng, thất nghiệp ở mức cao (trên 10%), thêm đó là lãi suất thực tế tăng. Tăng cung tiền nhưng lại không làm cho cầu tiền tăng, không kích thích đầu tư mở rộng sản xuất. Theo một số nhà phân tích kinh tế, lãi suất hiện nay của Việt nam là tương đối cao, mặc dù Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong điều chỉnh một mức lãi suất phù hợp. Một mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích tiêu dùng, đầu tư và tiêu dùng tăng sẽ kích thích tổng cầu tăng. Ngoài ra còn có một nguyên nhân khác nữa là điều kiện cho vay của ngân hàng quá khắt khe, đặc biệt là đối với khu vực tư nhân nên không tăng cầu tiền của khu vực này. Như vậy, đi kèm với chính sách mở rộng tiền tệ phải là các biện pháp kích cầu tiền như giảm lãi suất cho vay, nới lỏng các điều kiện cho vay, mở rộng đối tượng cho vay, đặc biệt chú trọng vào khu vực tư nhân... sẽ kính thích phát triển sản xuất, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Chính sách mở rộng tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: giảm thuế suất để hạn chế thu hút vốn ngắn hạn, tăng đầu tư trong nước (vốn dài hạn như ODA và FDI ít nhạy cảm với lãi suất); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm lãi suất nội địa và giảm chênh lệch lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Tổng phương tiện thanh toán năm 2001 đã tăng lên nhiều so với các năm trước, tỷ trọng ngoại tệ cũng tăng. Tốc độ huy động vốn năm 2001 cao hơn năm trước (tăng 3,87%), trong đó tốc độ huy động vốn bằng ngoại tệ cũng tăng. Từ năm 2000, để thực hiện mục tiêu kích cầu trong nước, Chính phủ đã giảm lãi suất cho vay bằng VND (từ 0,75% xuống 0,7%). Còn lãi suất ngoại tệ do chịu tác động của thị trường tài chính quốc tế nên có xu hướng tăng lên, dẫn đến mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, không khuyến khích người gửi tiền VND, tuy nhiên sang đến năm 2002 tình hình này đã được khắc phục do cầu về vốn tiền tăng cao. Hơn nữa, để thuận lợi cho tiến trình tự do hoá lãi suất, cơ chế điều hành lãi suất trần cũng được thay thế bằng cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Dự trữ bắt buộc đã được nới lỏng, để góp phần thực hiện mục tiêu kích cầu của Chính phủ. Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc khuyến khích tiết kiệm và tăng đầu tư trong nước. Đối với dự trữ bằng ngoại tệ, để hạn chế việc các tổ chức tín dụng huy động tiền gửi USD thông qua việc nâng lãi suất huy động, từ đó gửi ngoại tệ ra nước ngoài hưởng chênh lệch, Chính phủ đã ra quyết định số 441/2000/QĐ-NHNN, trong đó quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 8%. Tăng dự trữ ngoại tệ là phù hợp với yêu cầu nhập khẩu, đồng thời có tác dụng hạn chế việc tăng giá đồng Việt Nam, hạn chế tốc độ tăng lạm phát. Cơ chế quản lý ngoại hối trong những năm này cùng đã được nới lỏng đối với các giao dịch vãng lai, khuyến khích thu hút vốn ngoại tệ vào Việt Nam thông qua việc cho phép được nhận tiền chuyển từ nước ngoài về bằng ngoại tệ hay VND mà không phải đóng thuế, cho phép các cá nhân được gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ không kể nguồn gốc tại các tổ chức tín dụng được phép, được hưởng lãi suất bằng ngoại tệ, ngân hàng thương mại được phép bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Công tác quản lý vay nợ được tăng cường như ban hành quy định xây dựng và điều hành tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài hàng năm của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại của chính sách tiền tệ cần thay đổi như: tình trạng giảm giá trong một thời gian dài, tình trạng đô la hoá nền kinh tế, sức ép đối với tỷ giá hối đoái, điều tiết nguồn vốn cho thị trường còn bị động. Chính sách tài khoá mở rộng hiện nay của Việt Nam là: Giảm thuế suất nhưng mở rộng diện nộp thuế giúp tăng thu ngân sách; tăng chi tiêu đầu tư và xã hội để phát triển kinh tế sẽ làm tăng tổng cầu và tạo việc làm trong ngắn hạn, hạn chế chi tiêu thường xuyên; bán công trái và trái phiếu kho bạc để bù đắp thâm hụt ngân sách đồng thời thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Trong năm 2001 vừa qua, tổng thu ngân sách Nhà Nước tăng 3,5% so với năm trước. Trong đó thu từ kinh tế nhà nước tăng 5,7%; thu từ các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,1%; riêng thu từ khu vực ngoài nhà nước tăng chậm. Nguyên nhân là do Nhà nước thực hiện chính sách giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới thành lập, phần khác là do tình trạng thất thu chưa được khắc phục. Các loại thuế, phí đang được tiếp tục sửa đổi để một mặt khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh, đảm bảo thu và chi ngân sách; mặt khác phù hợp với tình hình thực hiện cam kết AFTA. Nhiều khó khăn nảy sinh trong việc áp dụng các luật thuế mới đang được tháo gỡ. Chính phủ đã điều chỉnh giảm thuế VAT đối với một số mặt hàng như đường, phần mềm máy tính, một số sản phẩm cơ khí... miễn thuế thu buôn chuyến hàng nông sản. Ngoài mục tiêu đảm bảo nguồn thu ngân sách, thuế, phí được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Việc sử dụng thuế để tác động đầu tư và sản xuất, kinh doanh là phổ biến trong năm này. Thuế suất thuế xuất nhập khẩu được điều chỉnh theo hướng khuyến khích xuất nhập khẩu, khuyến khích đầu tư và nhập thiết bị, công nghệ mới...Miễn giảm thuế để thực hiện hỗ trợ sản xuất trong nước, điều chỉnh cơ cấu kinh tế để thu hút các luồng vốn đầu tư trục tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng thất thu và lạm thu vẫn còn tồn tại, nên trong tương lai phải điều chỉnh công tác thu thuế tốt hơn góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước được thực hiện theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, tăng chi đầu tư phát triển, đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, tăng dự phòng và dự trữ tài chính. Trong năm 2001 vừa qua, tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển tăng 3,9% so với năm 2000, góp phần đưa tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đạt 29,5% GDP. Nguồn vốn này được tập trung chủ yếu vào xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông, thuỷ lợi, hạ tầng nông thôn, các vùng khó khăn. Việc tăng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước đã góp phần tăng tiêu thụ và kích thích sản xuất một số loại vật liệu xây dựng như xi măng, gạch ngói, sắt, thép là những mặt hàng tồn kho lớn trong hai năm qua. Tăng chi ngân sách cho xoá đói giảm nghèo, nhất là các vùng khó khăn, miền núi, vùng sâu vùng xa. Trong năm vừa qua, ngân sách Nhà nước tiếp tục tập trung mạnh cho các dự án chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, tăng chi đầu tư sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hoá. Các chính sách này đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tỷ lệ các hộ nghèo đã giảm đi nhiều từ 11,9% năm 2000 xuống 9,3% năm 2001. Đặc biệt, nỗ lực tăng chi cho con người và phát triển nguồn nhân lực, tuy mức độ tác động của việc tăng chi đó chưa đáng kể do mức chi còn quá thấp so với nhu cầu thực tế. Đồng thời, thực hiện tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước, thông qua Pháp lện tiết kiệm, chống lãng phí. Để giải quyết một phần khó khăn về đời sống cho người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, Chính phủ đã quyết định tăng mức lương cơ bản. Việc điều chỉnh này là một trong những bước đầu tiên cho chương trình cải cách nhằm làm cho tiền lương thực sự có ý nghĩa tác động đến hiệu quả làm việc của các cán bộ công nhân viên nhà nước. Bên cạnh những cố gắng trong quản lý chi ngân sách Nhà nước cho phù hợp với mục đích của chính sách tài khoá mở rộng, vẫn còn một số hạn chế như: Tình trạng nợ lẫn nhau của các doanh nghiệp, nợ ngân hàng của doanh nghiệp, nợ xây dựng cơ bản vẫn còn kéo dài, do vậy cần có những biện pháp xử lý trong các năm tiếp theo. Như vậy, giải pháp phù hợp cho điều kiện kinh tế hiện nay của Việt Nam là kết hợp sử dụng chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng. Điều này cũng có nghĩa sẽ đảm bảo khả năng chịu đựng thâm hụt của cán cân vãng lai, tránh được một cuộc khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, để có thể phát huy một cách có hiệu quả các chính sách này, thì cần có một thị trường tài chính, đặc biệt là tự do hoá về tài chính, bao gồm tự do hoá tài chính trong nước và tự do hoá tài chính quốc tế. Tự do hoá tài chính trong nước có nghĩa là xoá bỏ kiểm soát lãi suất và phân bổ tín dụng. Tự do hoá tài chính quốc tế là loại bỏ sự kiểm soát vốn và các ràng buộc trong quản lý ngoại hối. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay thị trường tài chính chưa phát triển nên việc sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô trên chưa có hiệu quả. Trong tương lai thị trường này ở Việt Nam sẽ phát triển làm tiền đề cho các chính sách này phát huy tác dụng. Kết luận Cán cân vãng lai hay còn gọi là tài khoản vãng lai là một trong những bộ phận chính hình thành lên bảng cán cân thanh toán quốc tế của một nước. Cán cân vãng lai là tổng hợp toàn bộ chi tiêu và giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú, và được coi như một công cụ không thể thiếu trong phân tích kinh tế của một nước. Trong giai đoạn 1990 đến 1998, cán cân vãng lai của nước ta luôn ở trong tình trạng thiếu hụt, nguyên nhân là do thiếu hụt cán cân thương mại và do trả lãi các khoản vay từ trước. Trong những năm này tốc độ nhập khẩu tăng nhanh hơn tốc độ nhập khẩu làm cho cán cân thương mại Tuy nhiên sang năm 1999 và các năm tiếp theo, do có những đổi mới trong chính sách quản lý kinh tế nên không những đã khắc phục được tình hình thiếu hụt của cán cân vãng lai mà còn làm cho cán cân vãng lai đạt được thặng dư (năm 1999 là 4,53%; năm 2000 là 2,1%, năm 2001 là 3,3%). Những đổi mới đó là: hạn chế nhập khẩu, chỉ nhập khẩu những mặt hàng cần thiết như công nghệ mới, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được; đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu tăng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng chế biến bằng công nghệ mới có hàm lượng chất xám cao, chú trọng khai thác các nguồn lực trong nước; đồng thời mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tìm kiếm thêm các bạn hàng mới, đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới. Nhà nước đã có chính sách thích hợp trong việc thu hút vốn nước ngoài để hỗ trợ phát triển kinh tế trong nước, đặc biệt có chính sách thích hợp trong thu hút kiều hối, góp phần giảm bớt thiếu hụt cán cân vãng lai. Nhưng trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế đang có chiều hướng chậm lại. Một trong những nguyên nhân là do tốc độ nhập khảu tăng, khi nền kinh tế tăng trưởng thì kéo theo sự gia tăng trong tiêu dùng và đầu tư, do vậy nhu cầu nhập khẩu tăng. Do đó, nếu không đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu, thu hút thêm các nguồn tài trợ thì sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và khả năng trả nợ của quốc gia. Trong hoàn cảnh kinh tế hiện nay của Việt Nam, việc sử dụng phối hợp chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng kết hợp với chính sách lãi suất, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách đầu tư, chính sách chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu và cơ cấu kinh tế, sẽ đảm bảo cho nền kinh tế đạt được cân đối cả ở bên trong và bên ngoài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep.DOC
  • docBia.doc
  • docLoi noi dau.doc
  • docMuc luc.doc
  • doctµi liÖu tham kh¶o.doc
Tài liệu liên quan