Ngày nay, với xu thế đa phương hóa, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam, xuất khẩu chính là công cụ quan trọng để nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Cùng với xu thế toàn cầu hoá, hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực nói riêng hàng năm đã đóng góp rất nhiều vào Ngân sách Nhà nước, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu ngoại tệ và chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu, phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động Ngoại thương của Việt Nam trong thời gian qua, nhất là trong vài năm trở lại đây, cho thấy hoạt động xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực còn có nhiều điểm bất cập, chưa có một hệ thống tổ chức, phối hợp chặt chẽ, linh hoạt từ sản xuất đến xuất khẩu cùng với một hệ thống cơ chế, chính sách thông suốt, hợp lý. Kết quả là tuy khối lượng và kim ngạch xuất khẩu có tăng nhưng nhìn chung những tiềm năng vẫn chưa thực sự được khai thác một cách tối ưu, hiệu quả xuất khẩu mang lại còn thấp.
Trong tình hình đó, việc nghiên cứu và tìm ra chiến lược phát triển thiết thực hơn nhằm đẩy mạnh một cách có hiệu quả hơn nữa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam đang là một nhiệm vụ cấp thiết của nhiều Bộ, Ban, Ngành, . từ Trung Ương đến địa phương, và cũng đang thu hút được nhiều quan tâm của các doanh nghiệp, các nhà phân tích kinh tế, các nhà khoa học, các giảng viên, sinh viên đang giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường đại học . Trên cơ sở tập trung phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: gạo, cà phê, dầu thô, dệt may khoá luận với đề tài “Chiến lược phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2005 - 2010” sẽ đưa ra chiến lược phát triển cho giai đoạn 2005 - 2010, đồng thời tìm ra một số kiến nghị nhằm củng cố và phát triển các mặt hàng chủ lực đến năm 2020. Mục tiêu là để đạt được hiệu quả, ổn định và tăng trưởng vào những năm đầu thế kỷ 21.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của khoá luận là khái quát hoá về mặt lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực để từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong những năm tới. Về lý luận, khoá luận có ý nghĩa tổng hợp, thống nhất, đúc kết và phát triển những vấn đề bức xúc đã, đang và sẽ tiếp tục được bàn luận, nghiên cứu.
Trong khuôn khổ một bài khóa luận, do những hạn chế nhất định về thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu, đề tài chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận có liên quan đến vị trí của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, và có được một chiến lược phát triển chung cho toàn bộ các mặt hàng chủ lực, một số giải pháp và kiến nghị nhằm hỗ trợ, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, xây dựng định hướng phát triển trong giai đoạn 2005 – 2010.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp, kết hợp lý luận với thực tiễn, đi từ cái chung đến cái riêng, từ phân tích đến đánh giá để đưa ra các định hướng phát triển cùng với các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện.
Nội dung chính của khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Chương II:Thực trạng xuất khẩu và xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Chương III: Kiến nghị về việc xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2005 - 2010
Ngoài những lý do chọn đề tài trên, em còn mong muốn qua khoá luận này có thể nghiên cứu và đóng góp ý kiến của bản thân về một số vấn đề quan trọng đang được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, do trình độ có hạn của một sinh viên, khoá luận này không tránh khỏi còn nhiều khiếm khuyết. Em rất mong các thầy cô và mọi người đóng góp ý kiến giúp em có thể hoàn thiện nghiên cứu của mình. Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Ngọc Sơn và những người đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
CHƯƠNG I. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC
I.1 Chiến lược kinh doanh
I.1.1 Khái niệm
I.1.2 Vai trò của chiến lược kinh doanh
I.1.3 Các đặc điểm cơ bản của chiến lược kinh doanh
I.1.4 Nội dung của chiến lược kinh doanh
I.1.5 Quy trình xây dựng chiến lược kinh doanh
I.2 Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
I.2.1 Chính sách phát triển xuất khẩu của Việt Nam
I.2.2 Chiến lược phát triển xuất khẩu
I.2.3 Sự cần thiết xây dựng chiến lược phát triển các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực
I.2.4 Vai trò then chốt của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
I.2.5 Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay
I.3 Ảnh hưởng của Toàn cầu hoá đối với các mặt hàng chủ lực
I.3.1 Tình hình thị trường của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
I.3.2 Xu thế khách quan
I.3.3 Thời cơ và thách thức
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU VÀ XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
II.1 Hiện trạng xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây
II.2 Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực
II.2.1 Tình hình xuất khẩu
II.2.2 Thị trường xuất khẩu chính của các mặt hàng chủ lực
II.3 Bước đầu đánh giá chung việc xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2005 – 2010
II.3.1 Phát triển sản xuất nguyên liệu trong nước phục vụ xuất khẩu
II.3.2 Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ
II.3.3 Đầu tư nâng cao năng lực sản xuất của ngành
II.3.4 Những thành tựu ban đầu
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC GIAI ĐOẠN 2005 - 2010
III.1 Mục tiêu xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đến 2010
III.1.1 Giá trị kim ngạch xuất khẩu
III.1.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
III.1.3 Định hướng về thị trường xuất khẩu
III.2 Hệ thống các giải pháp chính
III.2.1 Giải pháp về tài chính và vốn
III.2.2 Giải pháp về đầu tư
III.2.3 Giải pháp về thị trường
III.2.4 Giải pháp về điều hành và phát triển nguồn nhân lực
III.3 Một số kiến nghị về cơ chế chính sách
III.3.1 Có chính sách thuế và cơ chế tài chính tạo vốn và
khuyến khích các ngành hàng đầu tư phát triển
III.3.2 Có biện pháp hỗ trợ hội nhập và xúc tiến xuất khẩu
III.3.3 Về ưu đãi đầu tư
III.3.4 Về thương mại và hải quan
III.3.5 Về chương trình phát triển từng mặt hàng xuất khẩu chủ lực
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
93 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1629 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chiến lược phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2005 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o.
Trong 10 tháng đầu năm 2003, lượng nhập khẩu than Việt Nam của Nhật
Bản đạt khoảng 1,5 triệu tấn, trị giá khoảng 48,5 triệu USD; của Trung Quốc
khoảng 1,8 triệu tấn, trị giá khoảng 28 triệu USD. Dự báo xuất khẩu than đá
của Việt Nam tăng trưởng đều những tháng cuối năm 2003. Khả năng lượng
xuất khẩu cả năm sẽ đạt khoảng 6 - 6,2 triệu tấn, trong đó khoảng 1,8 triệu tấn
xuất khẩu sang Nhật Bản, 2,3 triệu tấn xuất khẩu sang Trung Quốc.
+ Sản phẩm gỗ
Xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đã tăng nhanh trong những năm gần đây
với kim ngạch xuất khẩu năm 2003 dự kiến đạt trên 500 triệu USD. Đồ gỗ
xuất khẩu của Việt Nam đã vượt qua Malaysia, Thái Lan, Inđônêsia và thậm
chí tại một số thị trường khác, đồ gỗ của Việt Nam còn được xếp hạng trên
Trung Quốc nhờ độ tinh xảo, chất lượng và kiểu dáng của hàng hoá. Xuất
khẩu 10 tháng đầu năm 2003 đạt khoảng 446 triệu USD, tăng 37,2% so với
cùng kỳ năm 2002.
66
67
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT
TRIỂN CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC GIAI ĐOẠN 2005 - 2010
III.1 Mục tiêu xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đến 2010
Trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam đã được cải thiện một cách rõ
rệt. Kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, thị trường xuất nhập
khẩu không ngừng được mở rộng. Chúng ta đã đạt được những thành tựu
đáng kể về xuất khẩu, nhưng những thách thức mới vẫn đang còn ở phía trước
và làm thế nào để duy trì và phát huy những thành tích đã đạt được đó trong
năm 2003 và những năm tiếp theo là nội dung những định hướng lớn phát
triển xuất khẩu, được thể hiện ở những mặt sau:
Bảng 5: Mục tiêu xuất khẩu và phát triển thị trường
các nhóm mặt hàng xuất khẩu đến 2010
STT Đơn
vị
2005 2010 Thị trường
I Nhóm nông sản và nông
sản chế biến
1 Gạo Triệu
tấn
3÷3,
5
3÷3,
5
Châu phi, TQ, Trung cận
Đông, ASEAN, Châu Á
2 Cà phê 1.000
tấn
530 600 EU, Mỹ, Nhật, TQ, Nga,
Australia, Angieri
3 Cao su 1.000
tấn
300 400 Trung Quốc, Hàn quốc,
Đài Loan, Nga, Singapore
4 Hạt điều 1.000
tấn
80 120 Ấn độ, TQ, Nhật, Anh,
Singapore, Pháp
5 Thuỷ sản Tỷ
USD
1,5 2 Nhật, Mỹ, EU, TQ, Đài
Loan, Canada
II Nhóm hàng công nghiệp nhẹ
1 Hàng dệt và may mặc Tỷ
USD
4 5 EU, Mỹ, Nhật, Hàn quốc,
Canada, Úc, Trung Đông
2 Hàng giày dép và các sản
phẩm da
Tỷ
USD
2,5 3 EU, Mỹ, Nhật, Hàn quốc,
Canada, Úc, Đông Âu
III Nhóm hàng công nghiệp
nặng
Khí hoá lỏng, xăng dầu và
sản phẩm hoá dầu
Tỷ
USD
- 4 Các nước trên thế giới
IV Nhóm hàng điện tử, tin
học, viễn thông :
Tỷ
USD
3,5 6,0 Các nước trên thế giới
Nguồn: “Hướng phát triển xuất khẩu Việt Nam tới 2010”,
Vụ Kế hoạch, Bộ Thương mại
68
III.1.1 Giá trị kim ngạch xuất khẩu
Việt Nam đang tiến hành xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với
khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp chặt chẽ với thay thế
nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Đi đôi với
mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với nước
ngoài, Việt Nam luôn giữ vững nền độc lập và tự chủ của mình, kết hợp phát
triển kinh tế xã hội với quốc phòng an ninh.Với định hướng của sự phát triển
đất nước như vậy thì mục tiêu xuất khẩu trong giai đoạn tới sẽ là:
+ Giai đoạn 2005 - 2010:
Dự báo tốc độ tăng xuất khẩu hàng năm khoảng 14%/ năm. Đến năm
2010, kim ngạch xuất khẩu đạt 70 tỷ USD, xuất khẩu bình quân đầu người đạt
740 USD, xuất khẩu đóng góp khoảng 87% GDP và cán cân thanh toán là
xuất siêu khoảng 5 tỷ USD.
+ Giai đoạn 2010-2020
Dự báo tốc độ tăng xuất khẩu hàng năm khoảng 12%/ năm. Đến năm
2020, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 200 tỷ USD, xuất khẩu bình quân đầu
người là 1.900 USD, xuất khẩu đóng góp khoảng 37% GDP và cán cân thanh
toán là xuất siêu khoảng 10 tỷ USD.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là mục tiêu và dự kiến, còn làm thế nào để đạt
được nó là cả một quá trình, đòi hỏi sự nỗ lực của các cơ quan quản lý, các
doanh nghiệp và của người sản xuất.
III.1.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Phương hướng chủ đạo là tạo dựng những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
nhưng không giới hạn vào những mặt hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng nhu
cầu thị trường và biến động giá cả. Ở đây trọng tâm cần đặt vào các mặt hàng
chế biến (chủ yếu là nông, lâm, thuỷ sản), hàng công nghiệp nhẹ (hàng dệt
may, da và giả da), công nghiệp lắp ráp, sử dụng nhiều lao động có tay nghề
khá. Thêm vào đó phải mở ra các mặt hàng hoàn toàn mới, các mặt hàng hiện
69
nay chưa có nhưng có tiềm năng và triển vọng, phù hợp với xu hướng quốc tế,
đặc biệt là các nhóm mặt hàng: sản phẩm điện tử, sản phẩm kỹ thuật điện, các
loại dịch vụ và các sản phẩm trí tuệ.
Bảng 6: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020.
2001-2005 2005-2010
Kim ngạch xuất khẩu ( tỷ USD ) 60 90
Cơ cấu hàng xuất khẩu (% )
- Hàng xuất khẩu chế biến sâu
- Hàng xuất khẩu thô và sơ chế
86
14
90
10
Chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu hàng năm ( % ) 14 12
Nguồn: “Hướng phát triển xuất khẩu Việt Nam tới năm 2010”,
Vụ Kế hoạch, Bộ Thương Mại
+ Mặt hàng dầu thô
Theo Tổ chức năng lượng quốc tế (IEA), thị trường dầu thô thế giới năm
2003 sẽ bị tác động bởi một số nhân tố chủ yếu. Trước tiên là khả năng khống
chế sản lượng ở mức thấp của các nước xuất khẩu dầu thô. Ở vùng biển phía
Nam của Việt Nam có 3 mỏ dầu đang được khai thác, mỏ dầu Rồng, Bạch
Hổ, Đại Hùng với công suất khai thác khoảng 200.000 thùng/ ngày. Ngoài ra,
còn có khoảng 10 mỏ khác vùng lân cận phát hiện ra là đã gặp dầu. Chính
sách đổi mới của Nhà nước Việt Nam đã tạo điều kiện thu hút được nhiều nhà
đầu tư trong và ngoài nước quan tâm đến vùng biển Việt Nam. Việt Nam hiện
nay đang đứng vào hàng thứ 4 trong số các nước sản xuất dầu ở khu vực
Đông Nam Á. Năm 2003 sẽ đạt khoảng 16.521 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu
khoảng 2,1 tỷ USD và dự kiến năm 2010 sản xuất sẽ đạt 30 - 40 triệu tấn/
năm, xuất khẩu khoảng 20 - 25 triệu tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 4,5 tỷ USD,
chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu.
70
Bạn hàng dầu thô lớn nhất Việt Nam là Nhật Bản, sau Nhật Bản là
Singapore và Trung Quốc. Trong tương lai 5 - 20 năm tới, 3 nước này vẫn là
những bạn hàng lớn nhất về dầu mỏ của Việt Nam.
+ Mặt hàng dệt may
Theo “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Dệt - May đến
năm 2010” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 4/9/1998, mục tiêu
phát triển của ngành công nghiệp Dệt - May đến năm 2010 là hướng ra xuất
khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở
rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về
số lượng, chất lượng, chủng loại và giá cả, từng bước đưa mặt hàng Dệt -
May Việt Nam trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng
kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Với kinh nghiệm của các nước đã phát triển và nước công nghiệp mới ở
Châu Á, ngành dệt may xuất khẩu đã được coi là ngành mũi nhọn trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam từ nay đến năm 2010.
Bảng 8: Dự báo thị trường xuất khẩu hàng dệt may đến 2010
Đơn vị : Triệu sản phẩm
Thị trường Năm 2005 Năm 2010
Sản lượng xuất khẩu
Xuất khẩu sang Mỹ và Bắc Mỹ
Xuất khẩu sang EU
Xuất khẩu sang Nhật
Xuất khẩu sang SNG
Xuất khẩu sang Canađa
Xuất khẩu sang Đông Âu và khác
Kim ngạch xuất khẩu ( triệu USD )
500
240
100
70
40
10
40
3.900
800
350
200
100
50
20
80
5.000
Nguồn : “Chiến lược phát triển ngành dệt may đến 2010”, Bộ Công Nghiệp
71
Để đạt được những mục tiêu trên, từ nay tới năm 2005 Dệt - May Việt
Nam phải có mức tăng trưởng bình quân 15%/ năm, từ năm 2005 đến 2010
tăng trưởng 17%/ năm. Trong những năm tới tập trung vào những mặt hàng
cao cấp như mặt hàng sợi bông 100% (sơ mi, T-shirt, polo-shirt, vải jean,
hàng len và giả len ...) cho thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ ...
+ Mặt hàng giày dép
Nhu cầu của thế giới về mặt hàng giày dép ngày càng tăng, mặt hàng này
rất được thị trường thế giới ưa chuộng. Dự kiến năm 2003 nhu cầu của thế
giới về giày da là 5 tỷ đôi và đến năm 2010 sẽ là 8 tỷ đôi. Để phần nào đáp
ứng được nhu cầu giầy da của thị trường thế giới , Việt Nam đã dự kiến như
sau:
Bảng 9: Dự kiến xuất khẩu mặt hàng giầy dép giai đoạn 2005-2010
Xuất khẩu giầy dép các loại Đơn vị tính 2005 2010
Số lượng xuất khẩu đạt Triệu đôi 420 600
Mức tăng số lượng xuất khẩu bình quân/ năm % 75 87
Giá trị xuất khẩu đạt Triệu USD 2400 3600
Mức tăng giá trị xuất khẩu bình quân/năm % 20 13
Nguồn : Báo cáo hàng năm của Hiệp hội da giầy Việt Nam
Nếu chỉ đạt chỉ tiêu như dự kiến thì đến năm 2005 ngành giầy Việt
Nam mới bằng mức sản xuất và xuất khẩu năm 1994 của Indonesia hoặc Thái
Lan. Đến năm 2010, tức 10 năm nữa mới đạt mức sản xuất và xuất khẩu của
Đài Loan hoặc Hàn Quốc ở các năm 1983-1985, bằng 80% đỉnh cao 1988 của
Đài Loan (xấp xỉ 880 triệu đôi, gần 4 tỷ USD)... Do vậy đòi hỏi các doanh
nghiệp phải thực hiện ở mức cao hơn dự kiến mới mong rút ngắn được
khoảng cách đang tụt hậu khoảng 20 năm so với nhiều nước trong khu vực.
+ Hàng thuỷ sản
Hoạt động của ngành thuỷ sản đã có những bước tiến đáng kể và ngày
nay, ngành thuỷ sản đã trở thành một trong những ngành có kim ngạch xuất
72
khẩu lớn của đất nước. Dự kiến năm 2003 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
thuỷ sản đạt khoảng 2,3 tỷ USD.
Mục tiêu phát triển thuỷ sản là nâng cao hiệu quả đánh bắt hải sản xa bờ,
chú trọng thâm canh nuôi trồng thuỷ hải sản phục vụ tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu, nhất là nuôi trồng thuỷ sản nước lợ mang lại hiệu quả cao. Sản
lượng thuỷ sản năm 2010 dự báo tăng so với năm 2003 khoảng 2,5 lần, trong
đó tăng chủ yếu là sản lượng nuôi trồng ( 2,5-3 lần ), kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản tăng 3-3,5 lần. Mức tiêu thụ trên đầu người đạt 18,20 kg/ năm. Đẩy
mạnh sản xuất nhằm đảm bảo nhu cầu thực phẩm thủy sản cho nhân dân với
mức từ 20 - 25 kg/ người trong một năm ở năm 2010.
Tăng nhanh giá trị xuất khẩu để tăng cường tích luỹ từ nội bộ ngành, mở
rộng năng lực sản xuất kinh doanh, ra sức xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
xương sống của ngành. Hướng đầu tư chủ yếu là tập trung đầu tư đổi mới
phương tiện đổi mới thiết bị, công nghệ chế biến và cải tạo nâng cấp cơ sở hạ
tầng các nhà máy chế biến đông lạnh hiện có, để nhanh chóng tạo ra mặt hàng
thủy sản xuất khẩu có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới.
Bảng 10: Phương án xuất khẩu Thuỷ sản từ năm 2005 đến 2010.
Các chỉ tiêu chính 2005 2010
1- Giá trị xuất khẩu năm cuối kỳ ( tỷ USD )
Tôm đông lạnh
Thuỷ sản đông lạnh khác
Thuỷ sản tươi sống
Sản phẩm giá trị gia tăng
Đồ hộp
2- Tốc độ tăng bình quân 5 năm
2.0
0.8
0.3
0.4
0.2
0.1
17
3.5
1.0
0.5
0.8
0.5
0.3
15
Nguồn : “Kế hoạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đến 2010”, Bộ Thủy sản
+ Gạo
73
Tình hình buôn bán gạo thế giới không có gì thay đổi lớn và cũng không
có đột biến về giá cả. Dự kiến sản lượng xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2003
đạt 3,7-3,8 triệu tấn. Đến năm 2005 sản lượng gạo xuất khẩu sẽ là 5,5 triệu
tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 1,5 tỷ USD và năm 2010 sản lượng gạo xuất
khẩu là 8 triệu tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 2 tỷ USD. Chiến lược sản phẩm
trong xuất khẩu gạo của Việt Nam thời gian tới cần tiến hành theo hướng đa
dạng hoá chủng loại gạo, cấp loại gạo xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng gạo chất
lượng cao.
+ Ngành điện tử – tin học
Đối với công nghệ lắp ráp; sản xuất phần mềm tin học; thiết kế sản
phẩm; tổ chức các loại dịch vụ điện tử, tin học từ nay đến năm 2010 phải cố
gắng hướng tới mục tiêu đạt trình độ ngang tầm với các quốc gia trong khu
vực. Đó là một chặng đường gian nan đầy thử thách đối với ngành điện tử -
tin học Việt Nam .
Giai đoạn từ năm 2001 - đến năm 2005
Giai đoạn này, ngành điện tử - tin học sẽ hoàn thiện cơ sở hạ tầng; đầu tư
công nghệ mới có lựa chọn (tiên tiến và hiệu quả); phát triển mạnh các sản
phẩm được thiết kế mang nhãn hiệu Việt Nam đưa ra thị trường nội địa và thế
giới. Dự tính tổng số vốn đầu tư vào các lĩnh vực phát triển trên ở giai đoạn
này lên tới 1150 triệu USD, thu hút khoảng 60 nghìn lao động; trong lao động
sẽ có từ 40 đến 50% có trình độ đại học.
Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010
Giai đoạn này, ngành điện tử - tin học ra sức củng cố, mở rộng phát triển
các thành quả đã đạt được ở các giai đoạn trước để đến năm 2010 ngành điện
tử - tin học của Việt Nam thực sự trở thành một ngành có trình độ khoa học
kỹ thuật cao giữ một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân, như các
nước tiên tiến trong khu vực.
III.1.3 Định hướng về thị trường xuất khẩu
74
Mục tiêu định hướng về thị trường xuất khẩu đến năm 2020 do Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là: "Điều
chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi
ích giữa ta với các đối tác". Căn cứ vào những kết quả về phát triển thị trường
và bạn hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua, cùng xu thế
chung của quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới và các chính sách phát
triển kinh tế của Việt Nam, có thể dự báo rằng: thị trường xuất khẩu của Việt
Nam có xu hướng chuyển dịch từ Đông sang Tây, từ châu Á sang châu Âu và
Bắc Mỹ.
Số tuyệt đối về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước Đông
Bắc Á sẽ vẫn tăng lên nhưng tỷ trọng % trong tổng kim ngạch xuất khẩu vào
khu vực thị trường này sẽ giảm trung bình 3 - 4 %/ năm (giảm về số tương
đối). Riêng Nhật Bản vẫn có khả năng chiếm 11% vào năm 2010 và 10% vào
năm 2020 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhật Bản là nước
nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, đồng thời cũng là nước xuất khẩu lớn thứ
hai sang Việt Nam (sau Singapore ), nhưng nhiều mặt hàng Việt Nam nhập từ
Singapore lại là những mặt hàng của các xí nghiệp Nhật Bản cho nên trên
thực tế Nhật Bản là quốc gia xuất khẩu nhiều hàng cho Việt Nam nhất.
Hiện nay, chính sách mặt hàng của Nhật Bản đối với Việt Nam là tập
trung đầu tư vào mặt hàng tơ sợi, coi mặt hàng này là mặt hàng chủ lực nhập
từ Việt Nam. Mặt hàng thứ hai mà Nhật Bản sẽ ưu tiên tập trung đầu tư là tổ
chức sản xuất các mặt hàng nông thuỷ sản có giá trị cao: rau đông lạnh, tôm
đông lạnh… Thứ ba là tích cựu giúp đỡ Việt Nam đầu tư lắp ráp máy móc,
dụng cụ điện, điện tử, dần dần chuyển từ thị trường trong nước sang xuất
khẩu. Để có thể duy trì và chiếm lĩnh thị trường Nhật Bản trong tương lai,
Việt Nam cần có chính sách đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm chế biến.
Đối với Mỹ, một thị trường đầy hấp dẫn, tỷ trọng xuất khẩu sang thị
trường này sẽ tăng dần trong những năm tới, chiếm 12% vào năm 2010 và
15% vào năm 2020 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam
75
cần khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khai thác triệt để mọi khả năng và những cơ sở hợp thức của luật pháp Mỹ, kể
cả khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam mở công ty, chi nhánh công ty ở
Mỹ, sử dụng Việt kiều làm nòng cốt để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường
này, đặc biệt là hàng thuỷ sản và hàng dệt may.
Thị trường Liên Minh Châu Âu (EU), một thị trường có sức mua lớn
nhưng rất khó tính. Trong tương lai tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường này vẫn sẽ là 15 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay,
EU là thị trường lớn thứ hai về nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam (tỷ trọng
khoảng 15%). Đối với mặt hàng thuỷ sản, hàng năm EU chiếm tới 40% nhập
khẩu toàn thế giới. Trong những năm tới muốn nâng cao kim ngạch xuất khẩu
mặt hàng này sang thị trường EU thì vấn đề chất lượng phải được coi trọng
hơn nữa, hoặc là giữ nguyên trạng thái ban đầu (thuỷ sản tươi sống), hoặc là
chế biến theo những công nghệ nhằm duy trì tốt chất lượng nguyên thuỷ và
tạo ra sản phẩm tiện lợi cho người tiêu dùng. Đối với mặt hàng cà phê, giầy
dép và dệt may… EU cũng là thị trường tiêu thụ chính và trong những năm
tới cần nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị này để thay đổi mẫu mã, bổ sung
danh mục mặt hàng xuất khẩu. Có như vậy mới đưa được kim ngạch xuất
khẩu vào thị trường này cao hơn nữa.
Với ASEAN, một thị trường rất quan trọng. Mặt hàng chủ yếu xuất khẩu
sang ASEAN là dầu thô, gạo, lạc, dầu, cao su, hải sản, hạt điều, hồ tiêu, than
đá, hàng thủ công mỹ nghệ... Hàng hoá của Việt Nam mới chỉ chiếm 3 phần
nghìn tổng giá trị hàng nhập khẩu của các nước ASEAN. Dự kiến đến năm
2010 và 2020 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này vẫn chiếm tỷ trọng
10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong những năm tới chúng ta
cần nhanh chóng giảm mức nhập siêu từ một vài nước ASEAN thông qua mở
rộng xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu trực tiếp không qua trung gian.
Đối với thị trường Trung Quốc, một thị trường tiêu thụ các mặt hàng dầu
thô, cao su, gỗ, gạo của Việt Nam. Trong những năm tới Việt Nam cần giảm
76
mạnh nhập siêu và tăng xuất khẩu sang thị trường này. Hơn nữa cần có những
biện pháp thích đáng nhằm ngăn chặn tệ nạn buôn lậu, mang hàng hoá kém
phẩm chất của Trung Quốc vào nước ta.
Bên cạnh đó, chúng ta cần chú ý hơn nữa những thị trường mới nhiều
tiềm năng như Tây Nam Á, Châu Phi và Mỹ La Tinh.
III.2 Hệ thống các giải pháp chính
Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, Ngoại thương Việt Nam cần phải
có một chiến lược hợp lý nhằm "tăng tốc" đầu tư, lựa chọn và phát triển mạnh
các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong kế hoạch 5 năm từ 2005 - 2010
và có thể kéo dài đến năm 2020. Song song với chương trình đầu tư và phát
triển này là một loạt các giải pháp vĩ mô, vi mô cũng cần phải tính đến. Chính
phủ và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh cần đưa ra những cơ chế, chính sách và
hành lang pháp lý mang tính đặc cách cho mỗi ngành nghề, mỗi mặt hàng và
nhóm mặt hàng chủ lực nhằm kích thích và thu hút các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước, tập trung mọi nguồn lực đầu tư vào Việt Nam.
Muốn đạt được kim ngạch xuất khẩu cao theo mục tiêu đề ra trong
những năm tới, chúng ta phải tăng cường mở rộng quan hệ thị trường. Tập
trung tổ chức tốt thị trường và các kênh lưu thông hợp lý. Đa dạng hoá thị
trường và bạn hàng xuất khẩu. Đẩy mạnh hoạt động và tổ chức mạng lưới xúc
tiến thương mại nhằm tăng xuất khẩu vào một số thị trường chủ yếu và thị
trường mới.
Chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng tăng nhanh các thị trường tiêu
thụ trực tiếp, có dung lượng lớn như Nhật Bản, EU, Mỹ... giảm dần các thị
trường trung gian. Từng bước khôi phục các thị trường truyền thống như Nga,
các nước SNG, Đông Âu, tích cực tìm kiếm các thị trường mới... Hoàn thiện
hệ thống thông tin kinh tế - thương mại, dự báo kịp thời, chính xác quan hệ
cung cầu, thị trường và giá cả các mặt hàng chủ yếu.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thủ tục hành chính trong quản lý xuất
nhập khẩu, nhất là thủ tục hải quan, áp dụng công nghệ thông tin vào việc kê
77
khai hàng hoá tính thuế xuất - nhập khẩu. Thúc đẩy sớm việc thành lập Quỹ
hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Bộ Thương Mại tiếp tục phát triển và tổ chức thực
hiện tốt Quỹ thưởng xuất khẩu.
Thực hiện tốt công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận
thương mại, sản xuất và kinh doanh hàng giả và những hành vi vi phạm pháp
luật khác. Tiếp tục nghiên cứu, áp dụng việc dán tem đối với một số hàng
nhập khẩu khác để tạo thêm điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh hàng
trong nước phát triển. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thương mại
thông qua việc tiếp tục nghiên cứu, ban hành các văn bản về cơ chế quản lý,
chính sách, biện pháp điều hành hoạt động thương mại.
III.2.1 Giải pháp về tài chính và vốn
+ Cơ cấu nguồn thu ngân sách cần được thay đổi theo hướng giảm dần tỷ
trọng số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, từ đó góp phần nâng cao lợi
nhuận tái đầu tư cho lĩnh vực xuất khẩu.
Hiện nay số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đang chiếm trên dưới
30% tổng thu từ thuế các loại. Thuế xuất nhập khẩu do dễ thu và dễ cưỡng
chế, đã được huy động một cách tối đa. Thực tiễn này vừa góp phần làm giảm
động lực phát triển ngoại thương, vừa không phù hợp với xu thế tự do hoá
thương mại trên toàn thế giới, vừa đưa ngân sách vào thế cực kỳ khó khăn khi
những cam kết giảm thuế có hiệu lực và làm nguồn thu từ thuế nhập khẩu
giảm mạnh. Để giải quyết tình trạng này, cần gấp rút thay đổi cơ cấu nguồn
thu, tăng tỷ trọng của các sắc thuế khác như các loại thuế trực thu, thuế hàng
hoá, tháo bỏ những cản trở đối với việc thu một số loại thuế như thuế chuyển
quyền sử dụng đất để giảm dần tỷ trọng của số thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu.
+ Tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đi đôi với việc tạo
tiền đề cho đa dạng hoá nguồn vốn, khuyến khích mạnh vốn đầu tư cho sản
78
xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các nhóm mặt hàng chủ lực.Thực tiễn phân
bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguyên nhân của tình trạng dồn vốn cho
các khu vực phi xuất khẩu đã được trình bày tại các phần trên. Để khắc phục,
từ nay trở đi, đối với đầu tư nước ngoài cần dành ưu đãi đặc biệt cho các
ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu hoặc có khả năng xuất khẩu sản phẩm
trong tương lai gần cũng như các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho sản
xuất các mặt hàng chủ lực.
Trong thời kỳ 2001-2005, Chính phủ đã có các biện pháp để xác lập tiền
đề thu hút các hình thức đầu tư quốc tế và đã đạt được một số thành quả nhất
định, do đó cần phải duy trì và đưa ra các biện pháp nhằm khắc phục những
điểm yếu của những biện phát trước đây. Giải pháp quan trọng nhất là lành
mạnh hoá hoạt động của hệ thống trung gian tài chính và nâng cao năng lực
cho hệ thống này trong việc phân tích và thẩm định rủi ro. Kế hoạch của
Chính phủ trong lĩnh vực này phải hết sức rõ ràng, với những mốc thời gian
cụ thể để thúc đẩy quá trình tái cơ cấu và tạo niềm tin cho giới đầu tư quốc tế.
+ Các vấn đề tín dụng và tiền tệ: Trong thời gian tới đây cần tăng cường
sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ hiệu quả hơn (như tỷ giá hối đoái,
bảo lãnh bán hàng trả chậm, cho vay theo thành tích xuất khẩu, tăng tỷ trọng
cho vay trung và dài hạn...) để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu.
Khẩn trương tiến hành cải cách hệ thống trung gian tài chính, đặc biệt là
các Ngân hàng thương mại để tránh hiện tượng co cụm, giảm dư nợ như đã
xảy ra ở Thái Lan khi số lượng các khoản nợ khó đòi tăng nhanh.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc nhóm các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực cần nghiên cứu về khả năng phát hành trái phiếu, phát
hành cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển sản xuất,
phát triển ngành hàng của mình.
III.2.2 Giải pháp về đầu tư
+ Chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu
cần được thi hành một cách triệt để và nhất quán hơn theo nguyên tắc: sản
79
xuất hàng xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số một. Các hình thức ưu
đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Đây là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng bởi tuy xuất khẩu đã được
đưa lên vị trí ưu tiên và được coi là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế nhưng trên thực tế việc đầu tư chủ yếu vẫn đang tập trung
vào sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Để xuất khẩu có được nguồn vốn đầu
tư cần thiết trong hoàn cảnh tích luỹ nội bộ có hạn, cần nhanh chóng khắc
phục tình trạng này theo các hướng sau:
- Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản xuất
hàng xuất khẩu đã được đề cập đến trong Luật khuyến khích đầu tư trong
nước sửa đổi.
- Rà soát lại danh mục ngành nghề khuyến khích đầu tư. Những ngành
sản xuất thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất đã tương đối đủ để đáp ứng
nhu cầu trong nước cần được xem xét để đưa ra khỏi danh mục này, tránh
khuyến khích tăng thêm đầu tư mới, kể cả đầu tư nước ngoài.
- Tăng cường sử dụng các biện pháp như thuế chống phá giá, thuế chống
trợ cấp để đáp ứng những đòi hỏi mang tính tình thế.
+ Bên cạnh việc khẳng định vị trí của sản xuất các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực, chính sách ưu đãi doanh nghiệp trong nước phải bằng hoặc cao hơn
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, tuy vị trí của đầu tư trong nước đã được nâng cao nhưng vẫn
còn một số lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước chưa được đối xử bằng hoặc
cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thí dụ, doanh nghiệp trong
nước phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức 32% trong khi doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chịu tối đa là 25%. Một doanh nghiệp
may của Việt Nam xuất khẩu 100% sản phẩm hiện nay phải nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp là 32% trong khi xí nghiệp liên doanh may, sản phẩm xuất
khẩu chỉ đạt 80% lại chỉ phải nộp 15%. Thực tế này chưa phù hợp với luận cứ
‘‘vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng” vẫn được đề
80
cập một cách thống nhất trong các đề án về chính sách tài chính quốc gia,
đồng thời cũng chưa phù hợp với chủ trương của Đảng về ‘‘phát huy nội lực”
trong phát triển kinh tế.
+ Chính sách khuyến khích đầu tư cần được xây dựng dựa trên các tiêu
chí như: tính chất chủ lực, cấp độ chế biến... để không lặp lại tình trạng
khuyến khích dàn đều, không có định hướng xây dựng ngành hàng chủ lực và
định hướng chuyển đối cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng
hàng đã qua chế biến.
Một hiện tượng tương đối phổ biến hiện nay là khuyến khích đầu tư một
cách chung chung và dàn đều. Điều này mang lại 4 điều bất lợi: thứ nhất là
không nêu bật được định hướng xuất khẩu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ hai là thiếu tính thực tiễn bởi Ngân sách không đủ mạnh để đáp ứng nhu
cầu ưu đãi trên diện rộng. Thứ ba là không tạo được định hướng vĩ mô đúng
đắn cho sự dịch chuyển của các yếu tố đầu vào (đồng vốn, đất đai và sức lao
động vẫn tiếp tục dồn vào những lĩnh vực không có hiệu quả hoặc kém hiệu
quả, dẫn đến lãng phí vô cùng to lớn). Thứ tư là nếu tăng được xuất khẩu thì
cũng chỉ là trên phương diện lượng, không mang lại được các thay đổi về chất
nhờ đầu tư đổi mới công nghệ.
+ Cùng với việc đề cao vị trí của đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, chúng
ta cũng cần phải hết sức chú ý tới việc làm sao để ổn định môi trường đầu tư.
Trong các yếu tố của tổng cầu thì đầu tư là yếu tố tự thân, phụ thuộc rất nhiều
vào nhận định chủ quan của nhà đầu tư, không biến thiên theo thu nhập. Vì lý
do đó, ngoài việc ban hành các chính sách khuyến khích, việc duy trì một môi
trường đầu tư ổn định, nhằm tạo tâm lý tin tưởng cho nhà đầu tư mang ý
nghĩa cực kỳ quan trọng.
III.2.3 Giải pháp về thị trường
+ Tăng cường vai trò và hiệu quả hoạt động của các cơ quan Chính phủ
trong việc xây dựng phát triển thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực nói riêng và xuất khẩu hàng hoá Việt Nam nói chung. Các giải
81
pháp chủ yếu là:
- Đàm phán, ký các thoả thuận song phương và đa phương nhằm tăng
khối lượng và giá trị hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước (bao
gồm đàm phán hạn ngạch xuất khẩu đối với các mặt hàng có hạn ngạch, ký
các hiệp định chính phủ và mua bán hàng hoá giữa các quốc gia).
- Thiết lập hệ thống thu nhập và xử lý thông tin thương mại, nâng cao
khả năng dự báo và định hướng thị trường bảo đảm cung cấp kịp thời và
chính xác các thông tin cho các doanh nghiệp có căn cứ để phát triển buôn
bán và đầu tư.
- Thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và tổ chức
các hoạt động xúc tiến thương mại.
+ Tăng tiềm năng về vốn, khả năng tổ chức thị trường để nâng cao khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Bằng cơ chế tổ chức
và quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết
giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, hình thành các kinh lưu
thông ổn định từ sản xuất đến tiêu thụ và xuất khẩu, trong đó doanh nghiệp
nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Thực hiện tốt các yêu cầu này sẽ tạo tiền đề
cho việc tích tụ và tập trung vốn, tăng thêm sức mạnh trong việc tổ chức thị
trường cung ứng và tiêu thụ, tạo thế và lực mới cho các doanh nghiệp Việt
Nam trong cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Tăng vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước, kinh doanh xuất
nhập khẩu những mặt hàng chủ lực bảo đảm khả năng tạo nguồn xuất khẩu và
dự trữ lưu thông để giữ vững thị trường và khách hàng.
- Sớm ban hành quy chế về việc các doanh nghiệp Việt Nam lập chi
nhánh kinh doanh thương mại ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận trực tiếp với nhu cầu của thị trường nước
ngoài và xâm nhập sâu hơn vào các thị trường đó.
82
- Tiến hành sâu rộng một chiến dịch nhằm cải thiện hình ảnh về hàng
hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
III.2.4 Giải pháp về điều hành và phát triển nguồn nhân lực
Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại
nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực. Người Giám đốc luôn là người chịu trách
nhiệm mọi mặt trong công ty, do đó người giám đốc cần phải được trao các
quyền cần thiết để thực thi nhiệm vụ của mình theo đúng luật định.
Các ngành, các doanh nghiệp thuộc mỗi ngành cần có kế hoạch xây
dựng hệ thống mạng thông tin điều hành nhằm nâng cao hiệu quả của việc
điều hành và quản lý thông suốt từ trên xuống dưới. Muốn tiếp nhận công
nghệ phù hợp, nhập các loại thiết bị tương thích thì việc củng cố các Viện
nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ thuật chuyên ngành là rất cần thiết,
kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm đảm bảo cho các dự án đầu
tư được triển khai thực hiện có hiệu quả, lựa chọn công nghệ và thiết bị chính
xác, phù hợp với từng ngành cụ thể, phù hợp với môi trường sản xuất trong
nước.
Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt
để bổ sung cho các doanh nghiệp gặp khó khăn, hoặc thực hiện các dự án đầu
tư mới sau khi đã qua khoá đầu tư ngắn hạn về quản lý hoặc kỹ thuật.
Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải
quyết các khó khăn cho một số công ty, hoặc điều hành các dự án mới. Xây
dựng cơ chế ứng xử mới, cả về tinh thần và vật chất (thực chất là nền văn hoá
doanh nghiệp) nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho phát triển sản xuất các
mặt hàng chủ lực. Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo nhằm nâng
cao hiệu quả đào tạo (kể cả việc thuê các chuyên gia đào tạo nước ngoài) để
đáp ứng nhu cầu về cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới.
III.3 Một số kiến nghị về cơ chế chính sách
83
Chủ thể chính trong việc thực hiện một cách chủ động những biện pháp
để tăng tốc phát triển kinh tế đất nước chính là các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh và thời cơ hiện nay thì sự chỉ
đạo và hỗ trợ của Nhà nước vẫn mang tính chất quyết định trong việc thực
hiện các mục tiêu nêu trên trong thời gian ngắn nói trên. Trên tinh thần đó, tác
giả xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
III.3.1 Có chính sách thuế và cơ chế tài chính tạo vốn và khuyến khích các
ngành hàng đầu tư phát triển
Trong bối cảnh tình hình kinh tế nước ta hiện nay, chính sách thuế khoán
sức dân, nuôi dưỡng nguồn thu và định hướng khuyến khích được sự đầu tư
phát triển của các ngành sử dụng nhiều lao động và sản xuất các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực như ngành dệt may, ngành thuỷ sản, sản xuất gạo, cà phê,
khai thác dầu khí… là hết sức cần thiết.
Với quan điểm đó, mỗi ngành cần kiến nghị với Thủ tướng, Bộ Tài
chính, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan nghiên cứu thực thi một chính sách
thuế và tài chính thực sự tạo điều kiện cho các ngành đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng và phát triển sản xuất, cụ thể là:
- Cho phép sử dụng vốn ngân sách cho các dự án quy hoạch vùng
nguyên liệu, quy hoạch cụm công nghiệp, cho xây dựng cơ sở hạ tầng đối với
các cụm công nghiệp mới, đầu tư cho các hoạt động của các Viện và Trung
tâm nghiên cứu chuyên ngành.
- Tạo điều kiện và có cơ chế cho vay ưu đãi để tăng tốc phát triển mỗi
ngành hàng, mặt hàng cụ thể trong thời gian ngắn 5 năm từ 2005-2010, và có
thể kéo dài đến 2020.
- Được phép sử dụng vốn ODA không thêm điều kiện vay lại và một
phần vốn đối ứng đặc biệt ưu đãi (vay 12 - 15 năm, 2 - 3 năm ân hạn, lãi suất
0-1% năm) cho các chương trình phát triển vùng nguyên nhiên liệu, các công
trình xử lý nước thải và giải quyết vốn đối ứng xây dựng cơ sở hạ tầng cho
các cụm công nghiệp mới.
84
- Đề nghị Chính phủ bảo lãnh cho các doanh nghiệp Nhà nước được mua
trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc các tổ chức tài chính
nước ngoài.
- Đối với các doanh nghiệp Nhà nước có sản xuất kinh doanh phát triển
nhanh cần cấp vốn lưu động phù hợp với tốc độ phát triển. Nguồn cấp có thể
từ phần nộp ngân sách hàng năm. Đối với các dự án mới, được cấp 30% vốn
từ ngân sách Nhà nước và cấp đủ vốn lưu động theo quy định.
III.3.2 Có biện pháp hỗ trợ hội nhập và xúc tiến xuất khẩu
- Cần phân định rõ trách nhiệm về công tác thị trường ở tầm vĩ mô và vi
mô, khắc phục đồng thời hai biểu hiện tiêu cực là ỷ lại vào Nhà nước và phó
mặc cho doanh nghiệp.
Bộ Thương mại là người hoạch định chiến lược xuất khẩu trong một tầm
nhìn dài hạn, đảm bảo cả ba yếu tố: tốc độ phát triển, cơ cấu thị trường và cơ
cấu mặt hàng; thu thập thông tin về thị trường, đồng thời làm tốt công tác dự
báo để định hướng cho sản xuất và xuất khẩu, phát triển mặt hàng mới; tổ
chức thị trường và xúc tiến thương mại. Trên cơ sở đó xác định mục tiêu cho
từng thời kỳ, từng thị trường nước ngoài.... Vì thế, tham tán thương mại tại
nước ngoài là người đầu tiên phải giải thích được lý do khi chỉ tiêu xuất khẩu
không đạt được, đồng thời đề xuất các biện pháp khắc phục cần thiết.
Vấn đề tiếp theo của Bộ Thương mại là phổ biến thông tin thương mại,
thị trường... tới các doanh nghiệp một cách nhanh nhất và tiết kiệm nhất. Để
làm được việc này, Bộ Thương mại xây dựng ngay cơ sở dữ liệu và trang
(Web) riêng, đồng thời tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề.
Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân
tích, khai thác thông tin, trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế
giới thông qua hội thảo, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để nắm bắt thị
trường, bám sát và tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất và kinh
doanh, tự mình lo tìm bạn hàng, thị trường, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và
85
xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các
cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá.
- Đề nghị Nhà nước có kế hoạch phát động một chiến dịch nhằm cải
thiện hình ảnh về hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Thí dụ: có thể
ra một tạp chí chính thức về các sản phẩm của Việt Nam phát hành miễn phí
ra nước ngoài thông qua hệ thống sứ quán và thương vụ.
Bộ Thương mại bố trí Đại diện thương mại và Phòng trưng bày hàng
xuất khẩu thường trực ở các thị trường chủ yếu như Nhật, Đức, Bắc Âu, Nga,
Mỹ, cùng Tổng cục Hải quan cung cấp thông tin thị trường và thông tin xuất
nhập khẩu định kỳ. Một trong các chức năng quan trọng của đại diện thương
mại ở nước ngoài là phát hiện kịp thời các trở ngại do chính sách luật lệ của
nước sở tại gây ra cho hàng hoá nước mình. Giảm cước phí vận chuyển giao
nhận bằng đường hàng không để có thể xuất khẩu được những mặt hàng cần
thời gian và có giá trị lớn nhưng trọng lượng nhỏ. Sau khi ký kết Hiệp định
thương mại với Mỹ, xúc tiến nhanh hơn việc gia nhập WTO trước năm 2005
để ngành ngoại thương Việt Nam có điều kiện cạnh tranh với các nước trong
việc mở rộng thị trường xuất khẩu.
III.3.3 Về ưu đãi đầu tư
- Giảm thiểu các thủ tục xét duyệt phiền hà đối với đầu tư tư nhân, đặc
biệt là việc phê duyệt nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị.
- Công bố ngay trong năm 2004 một kế hoạch cho giai đoạn 2005 - 2010
nhằm giảm thiểu hành rào phi thuế quan và lộ trình giảm thuế theo Hiệp định
CEPT/AFTA với các bước đi rõ ràng và cụ thể cho từng năm.
- Những năm gần đây, do quá lo lắng trước tình trạng nhập siêu và tình
trạng “vốn nước ngoài chèn ép vốn trong nước”, đã xuất hiện một số ý kiến về
việc dùng các biện pháp hành chính để hạn chế đầu tư nước ngoài trong một
số lĩnh vực. Các vấn đề như cam kết xuất khẩu, hạn chế bán ngoại tệ cũng đã
được đề cập, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của các nhà đầu tư nước
ngoài. Thực ta, có thể dùng các biện pháp vĩ mô như tăng cường kiểm soát
86
dịch chuyển lợi nhuận (biện pháp chống chuyển giá), giảm thiểu hàng rào bảo
hộ, giảm thiểu ưu đãi cho sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ... để lành mạnh
hoá môi trường kinh doanh và định hướng lại cho luồng vốn đầu tư, không
cần thiết phải sử dụng đến các biện pháp hành chính. Chúng ta cần nhận thức
rõ rằng giữa ổn định môi trường đầu tư và giảm thuế hàng rào phi thuế không
hề tồn tại mâu thuẫn. Khái niệm ổn định đề cập ở đây là ổn định tích cực, theo
hướng minh bạch hoá, nhất quán và đồng bộ hoá các chính sách vĩ mô trong
việc dịch chuyển cơ cấu đầu tư, chứ không phải “giữ nguyên hiện trạng”.
- Phát triển hợp lý các khu công nghiệp và khu chế xuất để qua đó giảm
thiểu các khó khăn (mang tính đặc thù Việt Nam) cho lĩnh vực đầu tư. Trong
hoàn cảnh cụ thể của chúng ta hiện nay đất chật, người đông, thủ tục cấp đất
khó khăn đã làm cho nhiều doanh nghiệp không muốn đầu tư mới hoặc mở
rộng sản xuất. Nếu có nhiều khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung được
xây dựng với cơ sở hạ tầng đầy đủ, cộng với việc triển khai tích cực, đầy đủ
cơ chế “thủ tục và dịch vụ một cửa” như Chính phủ đã quy định sẽ kích thích
và thu hút được các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
III.3.4 Về thương mại và hải quan
Về chính sách xúc tiến thương mại, nên mở rộng các chuyến viếng thăm
giữa các đoàn cấp bộ, chủ động nêu khả năng đàm phán ký kết các văn bản
khung như hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại... Tổ chức giới thiệu với
các bạn hàng các mặt hàng ta có tiềm năng mà thị trường họ có nhu cầu như:
gạo, cao su, than đá, hàng dệt may, hàng công nghiệp nhẹ, thủ công mỹ nghệ
...
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Thương Mại, các vụ chính sách thị trường
ngoài nước đã cùng với nhiều cơ quan thương vụ ở nước ngoài đẩy mạnh
nghiên cứu và triển khai một số biện pháp về xúc tiến thương mại để tăng
xuất khẩu vào thị trường Nga, Đông Âu, Trung Đông, Australia,
NewZealand, Đài Loan và Hàn Quốc; đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may, giày
dép, chè, cao su vào Đài Loan, hàng thuỷ sản, than đá và may mặc vào Hàn
87
Quốc... Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các Hiệp hội doanh nghiệp,
Hiệp hội ngành, nghề tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, ở trong và
ngoài nước, thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia,
tăng nhanh khối lượng hàng xuất khẩu và tiêu thụ ở trong nước, mở rộng thị
trường tiêu thụ hàng hoá. Triển khai các biện pháp thực hiện Hiệp định Dệt
may Việt Nam – Hoa Kỳ.
Phối hợp với các Bộ, ngành đấu tranh khắc phục các hàng rào phi thuế
quan, hàng rào kỹ thuật và xử lý tốt các tranh chấp thương mại đối với xuất
khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuyên truyên, phổ biến từ
tháng 7/ 2003, theo lộ trình thuế AFTA, thực hiện chuyển các mặt hàng trong
danh mục loại trừ tạm thời (TEL) sang danh mục cắt giảm (IL).
Đấu tranh chống gian lận thương mại, đẩy mạnh chống sản xuất và buôn
bán hàng giả, xử lý nghiêm theo phát luật đối với các hành vi đầu cơ, găm
hàng, nâng giá thu lời bất chính. Ưu tiên phân bổ Quota cho các đơn hàng
FOB sử dụng nguyên liệu nội địa. Hiệp hội Dệt May được tham gia vào việc
thảo luận xây dựng các quy chế phân bổ Quota. Cho phép Viện Kinh tế Kỹ
thuật được phối hợp cùng với cơ quản Hải quan và cơ quan thuế để áp mã
thuế phù hợp với các loại nguyên phụ liệu, vật tư nhập khẩu cho ngành dệt
may.
III.3.5 Về chương trình phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Phương hướng chủ đạo để phát triển xuất khẩu là tạo dựng những mặt
hàng chủ lực, nhưng không giới hạn vào những mặt hàng cố định mà linh hoạt
đáp ứng nhu cầu thị trường và biến động giá cả, ở đây trọng tâm cần đặt vào
các mặt hàng công nghiệp chế biến (chủ yếu là nông, lâm, thuỷ sản) và hàng
công nghiệp nhẹ (hàng dệt, may, da và giả da...), công nghiệp lắp ráp, sử dụng
nhiều lao động có tay nghề khá. Đồng thời cần tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm
xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, nhiều chất xám, có công nghệ mới để
tạo cho nhóm hàng này có vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng xuất khẩu trong
thời gian tới.
88
III.3.5.1 Kiến nghị cụ thể về chương trình phát triển xuất khẩu hàng hoá
(nhóm mặt hàng xuất khẩu hữu hình)
- Yếu tố quyết định qui mô, nhịp độ xuất khẩu hàng hoá là cơ cấu hàng
xuất khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Xác định cơ cấu hàng hoá có
hiệu quả và những mặt hàng chủ lực là một nội dung quan trọng của chính
sách phát triển mặt hàng xuất khẩu.
- Trong một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, việc đổi mới
chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu phải căn cứ vào: thị trường xuất khẩu, điều
kiện và khả năng sản xuất trong nước, hiệu quả (bao gồm hiệu quả kinh doanh
và hiệu quả kinh tế - xã hội). Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, cần có
chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo các hướng: (1) Giảm
tỷ trọng thô và sơ chế đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ
cấu hàng xuất khẩu; (2) Giảm tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống
đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu mới; (3) Tăng tỷ trọng các
sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim ngạch hàng xuất khẩu.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu phải gắn liền với việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu. Từ nay đến 2010,
chính sách xuất khẩu là phải triệt để khai thác những lợi thế có thể xuất khẩu
ngay, đặc biệt là nguồn lao động dồi dào, có óc tiếp thu tay nghề nhanh,
nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú hơn so với nhiều nước đã trở thành
nước công nghiệp, phát triển các ngành khai thác và sản xuất các sản phẩm
hướng xuất khẩu.
- Đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu đòi hỏi phải đổi mới cơ cấu sản xuất,
gắn qui hoạch xuất khẩu với qui hoạch sản xuất các sản phẩm xuất khẩu. Để
đảm bảo qui hoạch xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành các chính sách đầu tư
(vốn và công nghệ) đối với các ngành, các doanh nghiệp sản xuất, khai thác
hàng xuất khẩu, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào
sản xuất kinh doanh sản phẩm xuất khẩu thông qua các biện pháp tín dụng, tài
chính, thuế và hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài.
89
- Với việc đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu, danh mục các mặt hàng xuất
khẩu sẽ thay đổi theo chiều hướng gia tăng các mặt hàng chủ lực, các mặt
hàng có sức cạnh tranh và mang lại hiệu quả cao. Một số sản phẩm hiện nay
được coi là hàng xuất khẩu chủ lực, có khả năng sẽ tăng lên về mặt số lượng
và kim ngạch xuất khẩu nhưng tỷ trọng của chúng lại có thể giảm đi trong
kim ngạch xuất khẩu trong 10-15 năm tới.
III.3.5.2 Kiến nghị cụ thể về chương trình phát triển xuất khẩu dịch vụ (nhóm
các mặt hàng xuất khẩu vô hình)
- Chính sách đối với xuất khẩu dịch vụ cần được hoàn thiện theo hướng
triệt để khai thác và khai thác có hiệu quả các lợi thế trong xuất khẩu dịch vụ
và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ quốc tế.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ lên ngang tầm quốc tế, đây là nhân tố
quan trọng để thu hút khách quốc tế trong mọi dịch vụ: chất lượng cơ sở hạ
tầng cũng như chất lượng đội ngũ các nhân viên, cán bộ làm công tác dịch vụ
với đủ các tiêu chuẩn cần thiết về đạo đức, nghiệp vụ, trình độ quản lý...
ngang trình độ của các nước trong khu vực.
- Hình thành một hệ thống các doanh nghiệp dịch vụ thuộc các thành
phần kinh tế cùng tham gia phát triển các dịch vụ quốc tế, tăng cường sức
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dịch vụ, xoá bỏ sự độc quyền của Nhà nước
trong lĩnh vực dịch vụ, có sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Nhà nước nhằm
đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội chứ không phải là hiệu quả kinh doanh cao.
90
KẾT LUẬN
Để tạo nguồn vốn bằng ngoại tệ cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu
chiến lược kinh tế - xã hội, đồng thời tham gia rộng rãi vào sự phân công lao
động quốc tế, mở rộng sự giao lưu giữa thị trường trong nước với thị trường
quốc tế, chúng ta phải dựa chủ yếu vào các nguồn lực trong nước và những
lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hoá. Vấn đề cốt lõi là xác định cơ cấu tối ưu, đáp ứng yêu cầu của thị trường ,
phù hợp với khả năng sản xuất trong nước, có hiệu quả và xây dựng được một
số mặt hàng chủ lực để có khối lượng lớn kim ngạch và giá trị xuất khẩu cao.
Những năm qua, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta, đặc biệt là xuất
khẩu đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhìn lại hoạt động xuất khẩu
những năm qua, có thể nhận thấy rõ vai trò của cơ chế chính sách trong thành
công của hoạt động xuất khẩu kinh tế khu vực phục hồi. Tuy nhiên, nếu
không có cơ chế chính sách phù hợp thì hoạt động xuất khẩu đã khó có thể tận
dụng được các thời cơ do môi trường quốc tế đem lại... Hoàn cảnh bên ngoài
là yếu tố quan trọng, nhưng các chủ trương, chính sách đúng đắn kết hợp với
nội lực bên trong mới là yếu tố quyết định. Với những định hướng rõ ràng và
tinh thần quyết tâm cao độ, hy vọng hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và
xuất khẩu nói riêng sẽ lại đạt được những thành tích mới trong những năm
đầu thế kỷ 21.
Kết thúc năm 2003, một năm đầy khó khăn và thử thách đối với Việt
Nam do phải chịu nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài như: sự biến động
dữ dội của tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới; đồng
thời, trong nước thì gặp phải nhiều thiên tai, bão lụt. Thế nhưng nhờ những
chính sách đổi mới sáng suốt của Đảng và Nhà nước, Việt Nam vẫn tiếp tục
ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình là phát triển quan hệ
hợp tác hữu nghị với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Đặc biệt
trong lĩnh vực ngoại thương, Việt Nam đã và sẽ tiếp tục tăng trưởng bền
91
vững, đưa Việt Nam phát triển hơn nữa cả về kinh tế và văn hoá xã hội, vững
chắc bước trên con đường hội nhập và cất cánh cao hơn vào nền kinh tế thế
giới.
Qua học tập ở trường và bằng những nghiên cứu thực trạng hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là giai đoạn từ năm
1998 đến nay, ‘‘Chiến lược phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ
lực giai đoạn 2005 - 2010’‘ là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn
của đất nước ta hiện nay.
Các vấn đề đã được trình bày và kiến nghị của luận văn là:
+ Tiến trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh đòi hỏi một chính sách phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực
hợp lý là một xu hướng có tính qui luật, là điều kiện cần thiết không thể thiếu
được cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
+ Các chính sách đòn bẩy không những là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô
rất quan trọng của Nhà nước mà chúng còn có vai trò to lớn trong việc thúc
đẩy xuất khẩu, hướng các hoạt động này theo đường lối của Đảng và Nhà
nước ta trong từng thời kỳ.
+ Khóa luận tốt nghiệp đã trình bày những mặt yếu còn tồn tại, nhận
thức được nguyên nhân và đánh giá đúng thực trạng hoạt động xuất khẩu các
mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong thời gian qua.
Tóm lại, những kiến nghị chính sách đòn bẩy và công cụ điều tiết nêu
trên là rất cấp bách, song, cần phải đặt chúng trong mối quan hệ giữa bản thân
các biện pháp nói trên với nhau, đặt trong mối quan hệ tổng hoà các công cụ
khác cùng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta từng thời kỳ mà xử lý thận
trọng, đồng bộ thì mới đem lại kết quả mong muốn. Khoá luận nêu rõ vị trí
chiến lược của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu có tính quy
luật và là điều kiện không thể thiếu được cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước ta.
Do thời gian nghiên cứu không dài, tài liệu tham khảo chưa thực sự đầy
92
đủ, cộng với kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, khoá luận chắc chắn sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong sự thông cảm và những ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm khác, để giúp
em rút kinh nghiệm cho những nghiên cứu sau này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo giao ban tháng 8 năm 2003, Vụ Kế hoạch, Bộ Thương mại
2. Báo cáo giao ban tháng 10 năm 2003, Vụ Kế hoạch, Bộ Thương mại
3. Báo cáo giao ban tháng 12 năm 2002, Vụ Kế hoạch, Bộ Thương mại
4. “Từ 1/7, cắt giảm thuế 17 mặt hàng tham gia AFTA”, VietNamNet, ngày
14/6/2003
5. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam liệu có đứng đầu châu Á, VietNamNet, ngày
17/1/2002
6. Bài: “Xuất khẩu tăng 22,7%”, Thời Báo Sài Gòn, số 45 ngày 30/10/2003
7. “Giải pháp tăng kim ngạch xuất khẩu bốn tháng cuối năm 2003”,
VNExpress.vnn.vn, ngày11/8/2003
8. “Xuất hiện một số khó khăn đối với hoạt động”, VNExpress.vnn.vn, ngày
11/8/2003
9. “Dự báo xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực giảm”, VietNamNet, ngày
2/8/2003
10. “Hướng phát triển thị trường xuất khẩu Việt Nam tới năm 2010”, PTS.
Phạm Quyền và PTS. Lê Minh Tâm, NXB Thống kê 2001
11. Giáo trình “ Kinh tế ngoại thương” – Giáo sư tiến sĩ Bùi Xuân Lưu –
Nhà xuất bản giáo dục – 1998.
12. "Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2005" - Bộ
Thương Mại, tháng 8/2000
13. Giáo trình “Chiến lược kinh doanh” – GS.PTS Vũ Thị Ngọc Phùng và
Thạc sĩ. Phan Thị Nhiệm, NXB Thống kê 1999
14. “Ảnh hưởng của tự do hoá thương mại đến một số ngành kinh tế Việt
Nam” Dự án VIE95/024, Bộ thương mại, 1998
93
15. Thời báo kinh tế Việt Nam, số “Kinh tế 1999 - 2000”.
16. Thời báo kinh tế Việt Nam, số “Kinh tế 2001 - 2002”
17. Báo cáo hàng năm của Hiệp hội da giầy Việt Nam
18. Kế hoạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đến 2010, Bộ Thủy sản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- a1.PDF