Khóa luận Chiến lược quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số

Tâm lý chung của các nhà đầu tư là thích một thị trường chứng khoán ổn định vì như thế họ sẽ hạn chế được phần lớn rủi ro từ nguy cơ bất ổn định của thị trường. Để thu hút nhà đầu tư nước ngoài chúng ta cần tạo ra một thị trường chứng khoán vững chắc trong quá trình hội nhập của đất nước đặc biệt là Việt Nam hiện nay đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho Việt Nam một bài học kinh nghiệm lớn trong vấn đề duy trì sự ổn định của các chỉ số chứng khoán. Khi thị trường bất động sản sụp đổ, các nhà đầu tư nước ngoài rút tiền ra, đồng baht mất giá, Ngân hàng trung ương Thái Lan có một quyết định sai lầm là bán hơn mười tỷ USD để cứu đồng tiền của họ. Tỷ giá đồng baht cuối cùng vẫn không cứ được, còn Thái Lan thì bị mất hơn mười tỷ USD. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu từ châu Á đã lan sang Nga, Trung và Nam Mỹ, thị trường tiền tệ biến động lây lan sang thị trường chứng khoán rồi từ quốc gia này đến quốc gia khác. Sự đổ vỡ của thị trường bất động sản, sự thua lỗ của các công ty dẫn đến hiện tượng giảm giá cổ phiếu và trở thành trào lưu rút vốn ồ ạt ra khỏi thị trường chứng khoán của một nước rồi cả một khu vực. Khủng hoảng ở một nước dẫn tới khủng hoảng trên một hệ thống. Đây là một nguy cơ lớn đối với thị trường chứng khoán Việt Nam khi kết nối với nền kinh tế thế giới. Khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cánh cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán mở rộng hơn nhưng đồng thời khả năng lây lan rủi ro và những ảnh hưởng của sự biến động tài chính do sự liên kết của các thị trường trên toàn cầu rất dễ xảy ra. Thị trường chứng khoán đóng vai trò là kênh huy động vốn và là hàn thử biểu của toàn bộ nền kinh tế, là nơi rất có khả năng lây lan rủi ro và chịu biến động. Chính vì lẽ đó, khi hội nhập cần phải hết sức thận trọng để tránh những biến động tài chính cho thị trường chứng khoán và cả cho nền kinh tế. Một nguy cơ khác, theo các chuyên gia kinh tế là sự quá phụ thuộc vào luồng vốn quốc tế, dẫn đến tình trạng lệ thuộc kinh tế và thậm chí là chính trị. Thực tế cho thấy, đây là điều đáng lo ngại vì nhiều nước không đủ khả năng kiểm soát quá trình hội nhập khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng mất chủ quyền do áp dụng hoàn toàn những quy định của nước mạnh. Ở mức độ thấp hơn là nguy cơ biến dạng thị trường khi các cường quốc mạnh áp đặt những nguyên tắc của họ vào các nước nhỏ, làm cho những nước nhỏ phải thay đổi những nguyên tắc, chuẩn mực ban đầu của họ. Hậu quả là, thị trường một nước yếu hơn rất dễ trở thành "sân sau" của một nước mạnh hơn do những quy luật nghiệt ngã của cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Theo các chuyên gia kinh tế khi tham gia vào quá trình hội nhập, thị trường chứng khoán của Việt Nam cũng có nguy cơ đối đầu với sự biến dạng này nếu không có được những biện pháp phòng ngừa hợp lý. Vì thế, trước mắt, chúng ta nên ngăn chặn và kiểm soát FII, không để nguồn vốn này tự do thao túng, gây nguy hiểm cho nền kinh tế, bởi khi đổ vào thị trường chứng khoán, vốn FII đã tác động làm cho đồng tiền Việt Nam tăng giá rồi khi thị trường biến động nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra ào ạt sẽ gây rối loạn, thậm chí sụp đổ thị trường, đồng thời làm hao hụt dự trữ ngoại tệ quốc gia. FII không phải là nguồn tiền đầu tư trực tiếp tạo ra tăng trưởng kinh tế. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng khơi nguồn từ bên trong, tức là tạo điều kiện để tiền tiết kiệm của người dân trong nước tham gia thị trường chứng khoán. Có thể thấy kinh nghiệm từ Trung Quốc. Vốn FII vào nước này phải đăng ký, được cấp hạn ngạch, được mua bao nhiêu tiền, tất cả đều được quản lý (kiểm soát) để biết rõ nguồn và kênh. Các nhà đầu tư Trung Quốc rất ủng hộ việc làm đó.

doc128 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chiến lược quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế như các nước. Tại Việt Nam yếu tố tâm lý rất mạnh, nhà đầu tư không chỉ nhìn nhau, nhìn vào các nhà đầu tư nước ngoài, vào chính sách,…mà còn nhìn vào cả những lời tuyên bố để ra quyết định. Tuy nhiên, hiện nay cũng có rất nhiều yếu tố hỗ trợ cho thị trường chứng khoán tăng trưởng: - Xét dưới góc độ tổng thể, thị trường chứng khoán của chúng ta đang có những công ty có thực, hoạt động lành mạnh và hiệu quả. Tình hình của các công ty niêm yết đều ổn định và tăng trưởng, hứa hẹn những kết quả khả quan. Chỉ cần tạo môi trường và cơ hội kinh doanh tốt cho họ phát triển thì việc giá chứng khoán lên hay xuống cũng không gây xáo trộn đáng kể đối với họ. - Thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục đón nhận thêm nhiều nhà đầu tư mới tham gia. Nhiều quỹ đầu tư nước ngoài đang chờ giải ngân. Tỷ lệ người dân đầu tư vào chứng khoán vẫn còn thấp nên dù không có tốc độ tăng tài khoản mới như cuối năm ngoái và đầu năm nay nhưng tiềm năng còn rất lớn. Nhà đầu tư cũ trưởng thành hơn sau mỗi giai đoạn thăng trầm của thị trường và sẽ mạnh dạn đầu tư nhiều hơn. - Việc Chính phủ phê duyệt phương án cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính Phủ trong việc cung cấp hàng chất lượng tốt ra thị trường. Động thái này đã kích hoạt việc giải ngân các nguồn vốn nước ngoài hiện có một lượng vốn nước ngoài khá lớn trước đó phải nằm chờ giải ngân đang chuẩn bị đầu tư vào cổ phiếu của các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam nửa cuối năm nay. Lượng vốn này ước tính khoảng 3 tỷ USD. Việc các ngân hàng Việt Nam báo cáo về tình trạng dư thừa USD cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài đang chuẩn bị lực lượng sẵn sàng cho các đợt giải ngân sắp tới trên thị trường niêm yết và các cuộc IPO lớn. - Việc đã có thêm nhiều quỹ đầu tư tài chính (trong và ngoài nước) chính thức hoạt động và một số ngân hàng thương mại quốc doanh đang bật tín hiệu cho vay cầm cố chứng khoán khi các ngân hàng này chưa có dư nợ về lĩnh vực này đang hứa hẹn dòng tiền lớn sẽ được chảy vào thị trường. - Ngày 26/09/2007, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố xếp hạng môi trường kinh doanh, Việt Nam đứng thứ 91/178 nước, tăng 13 bậc so với năm ngoái. Điều đó xác nhận Việt Nam là một địa điểm hấp dẫn để đầu tư. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế là những yếu tố hỗ trợ rất mạnh cho thị trường chứng khoán. - Có nhiều yếu tố vĩ mô thuận lợi cho thị trường chứng khoán trong thời gian tới. Chính phủ hiện đang kiên quyết thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát. Hơn nữa, tương lai nền kinh tế chúng ta rất tốt, GDP tăng trưởng rất lạc quan. Những động lực trên là chất xúc tác mạnh để về lâu dài chỉ số chứng khoán vẫn có xu hướng đi lên, thị trường chứng khoán sẽ tiếp tục phát triển lành mạnh trong thời gian tới. Vì thế, đầu tư theo chỉ số vẫn là một chiến lược đầu tư hiệu quả. Đối với nhà đầu tư cá nhân Nhà đầu tư cá nhân chủ yếu là cá nhân và hộ gia đình. Đây là lực lượng đông đảo trên thị trường chứng khoán. Họ là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời và muốn đầu tư số tiền đó vào việc mua chứng khoán với mục đích chủ yếu là hưởng lợi tức. Họ cũng là những người mua bán chứng khoán của mình trên thị trường để đồng vốn sinh lời và cũng sẵn sàng rút vốn khi cần thiết. Các nhà đầu tư cá nhân khi đầu tư vào thị trường chứng khoán đều có mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Kiếm lợi từ việc đầu tư cổ phiếu là nhu cầu chân chính của mọi người dân. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mỗi người . Nhưng không thể trông mong hay yêu cầu tất cả mọi người phải trang bị đầy đủ những kiến thức khi tham gia. Nhà đầu tư cá nhân là những người không chuyên nghiệp, thiếu kỹ năng chuyên sâu cũng như đã bị các công việc hàng ngày chiếm mất quỹ thời gian. Họ chỉ muốn bỏ ra một khoảng thời gian tối thiểu cần thiết để theo dõi các khoản đầu tư và bằng lòng với các khoản lãi khiêm tốn có được. Vì thế, hình thức quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số là một trong những hình thức đầu tư phù hợp nhất. Đây là chiến lược này đơn giản nhất, đúng như tên gọi "mua và nắm giữ". Thêm nữa, đây là biện pháp rất an toàn, đảm bảo đồng vốn sinh lời bằng mức sinh lời chung của toàn thị trường. Tuy vậy, cách này cần một lượng vốn rất lớn để có thể mua tất cả các loại chứng khoán có trong chỉ số chuẩn. Mà một nhà đầu tư nhỏ không thể có một lượng vốn lớn mà đầu tư vào tất cả các cổ phiếu có trên thị trường chứng khoán, vì thế, có hai giải pháp như sau: Đầu tư thông qua các quỹ đầu tư theo chỉ số. Có thể thấy sự xuất hiện của các tổ chức chuyên nghiệp, nơi có thể ủy thác vốn cho những người có chuyên môn và kinh nghiệm là rất cần thiết đối với các nhà đầu tư nhỏ. Khi mua các chứng chỉ quỹ, hay ủy thác vốn của mình cho các tổ chức chuyên nghiệp, người dân tham gia vào thị trường chứng khoán có thể yên tâm hơn vì đồng tiền của mình đã được gửi cho những người chuyên nghiệp. Xu hướng này là một tất yếu của một thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên thực trạng hiện nay, những tổ chức hay quỹ đầu tư trong nước rất ít, và các tổ chức quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số trong nước còn ít hơn nữa. Tại các buổi chào giá của một số công ty, rất nhiều nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng dịch vụ ủy thác đầu tư đã tìm đến những công ty tài chính nhưng thường bị từ chối do đã hết suất. Đã có hiện tượng chào bán suất ủy thác đầu tư với số mức tiền lên đến hàng chục triệu đồng. Hiện trên sàn cũng chỉ có hai chứng chỉ quỹ PRUBF1 và VFMVF1. Các chứng chỉ quỹ này đều là của những quỹ đầu tư chủ động. Tóm lại, hiện nay ở Việt Nam các sản phẩm quản lý danh mục đầu tư còn chưa phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu này của nhà đầu tư. Đầu tư theo các chỉ số mà số lượng chứng khoán nhỏ hơn. Hiện tại, có 205 công ty được niêm yết ở Việt Nam. Nhưng có bao nhiêu trong số các công ty này là những công ty chủ chốt của thị trường chứng khoán, có sức thu hút lớn với các nhà đầu tư và được giao dịch nhiều nhất? Thêm vào đó, với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam, ngành nào sẽ là ngành có nhiều tiềm năng, và cổ phiếu của ngành đó đang biến động ra sao tại thời điểm hiện tại? Đó không phải là những câu hỏi dễ trả lời đối với những nhà đầu tư nhỏ. Vì thế, một giải pháp hữu hiệu là tham khảo những chỉ số như chỉ số CBV-10, CBV-20, SSI 30, DC VN 30,... Đây là những chỉ số đáng tin cậy được xây dựng theo những tiêu chuẩn chặt chẽ bởi các chuyên gia. Giải pháp này có tính khả thi cao với các nhà đầu tư cá nhân tại thời điểm hiện tại. Mặc dù thị trường của ta còn nhỏ, việc đầu tư phần lớn dựa trên hiệu ứng đám đông, chưa đầu tư một cách hệ thống, bài bản và có chiến thuật; nhưng Việt Nam cũng có lợi thế của người đi sau. Chúng ta có thể vận dụng được những bài học từ các thị trường đã phát triển, để rút ngắn thời gian trưởng thành của thị trường chứng khoán Việt Nam để từ đó nhanh chóng rút ngắn khoảng cách so với thị trường chứng khoán các nước trong khu vực và trên thế giới. KIẾN NGHỊ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ THEO CHỈ SỐ Ở VIỆT NAM Qua nghiên cứu chiến lược quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số và phân tích khả năng áp dụng chiến lược này trên thị trường chứng khoán Việt Nam, chúng ta thấy rằng nhân tố quan trọng nhất để chiến lược quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số thành công là các chỉ số chứng khoán Việt Nam phải hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc theo dõi sát và đánh giá mức độ tiến triển của thị trường chứng khoán. Muốn vậy, chúng ta cần duy trì một thị trường chứng khoán hiệu quả và ổn định, theo đó, tôi xin được đưa ra một số kiến nghị như sau: Với nhà đầu tư 1.1. Với nhà đầu tư tổ chức Những nhà đầu tư tổ chức là những nhà đầu tư chuyên nghiệp. Đối với các tổ chức đầu tư nói chung và các tổ choc đầu tư chứng khoán nói riêng, nguồn nhân lực chính là tài sản quan trọng nhất. Muốn có nguồn nhân lực tốt phải có hệ thống đào tạo bài bản. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá non trẻ so với hàng trăm năm thị trường chứng khoán các nước, và nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư nói chung và quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số ở nước ta nói riêng còn rất mới mẻ. Kiến thức cũng như kinh nghiệm của chúng ta chưa nhiều để có thể đào tạo được các chuyên gia. Vì thế, trước mắt, các tổ chức có thể thuê những chuyên gia các nước. Về lâu dài, các tổ chức có thể cử người đi nghiên cứu đào tạo ở những nước mà thị trường chứng khoán phát triển (như Mỹ, Nhật, Anh,…). Muốn triển khai nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số thì các tổ chức đầu tư cần am hiểu sâu sắc về nghiệp vụ này. 1.2. Với nhà đầu tư cá nhân Phần lớn họ không phải những nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường. Hiện nay ở thị trường chứng khoán Việt Nam xu hướng bao trùm là đầu tư theo tâm lý, theo hiệu ứng số đông. Các nhà đầu tư cá nhân thường có phản ứng thái quá đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình. Ví dụ, tại thị trường chứng khoán Việt Nam, có lúc giá cổ phiếu của một công ty tăng hay giảm đến 50-60% trong vòng 1 tuần. Sự tăng giảm này không hề phản ánh việc các yếu tố cơ bản hay triển vọng của công ty đó đã tốt lên hay xấu đi tới 50-60% trong một thời gian ngắn như vậy, mà chủ yếu phản ánh những thay đổi trong tâm lý của nhà đầu tư. Sự chờ đợi đối với chiều hướng sụt giảm lợi nhuận của các công ty nói chung có thể là nguyên nhân lầm cho phần lớn các loại cổ phiếu thường bị giảm giá. Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội còn các sự kiện vô hình là các sự kiện này sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các sự kiện đó. Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn và sau đó kéo theo những phản ứng dây chuyền làm tăng vọt số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở. Điều ấy có nghĩa là thị trường bị điều chỉnh bởi tâm lý dao động của nhà đầu tư chứ không phải bởi bản thân nền kinh tế. Lý do sâu xa là nhà đầu tư nhỏ lẻ không có hoặc có ít kiến thức về thị trường chứng khoán nói chung và các chiến lược quản lý danh mục đầu tư nói riêng. Các khoá học của UBCKNN tổ chức còn thưa thớt, chưa đáp ứng được nhu cầu của đông đảo quần chúng. Chúng ta nên có kế hoạch phổ biến kiến thức, để dần đân từng bước toàn dân có thể tiếp cận thị trường chứng khoán. Vấn đề này cần được đặt ra là một chiến lược lâu dài. Bản thân nhà đầu tư cũng không nên hoảng loạn khi giá thay đổi. Với Uỷ ban chứng khoán nhà nước và các bên liên quan khác 2.1. Tăng cường công tác giám sát, đảm bảo duy trì một thị trường ổn định, công khai, công bằng và hiệu quả Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường về quy mô niêm yết, giao dịch, số lượng nhà đầu tư cũng như các thành viên tham gia thị trường, các hoạt động gian lận, thao túng trên thị trường cũng sẽ diễn biến phức tạp hơn. Công tác giám sát đòi hỏi phải nâng lên một một tầm cao mới, tương xứng với yêu cầu thị trường. Ví dụ để tiền của nhà đầu tư không chảy về tài khoản của các công ty chứng khoán và có thể bị lạm dụng thì dự kiến, tháng 2/2008 các công ty chứng khoán bắt buộc phải áp dụng quy định ủy quyền quản lý tài khoản tiền mặt của nhà đầu tư cho các ngân hàng thương mại. Muồn vậy phải thực hiện liên kết giữa ngân hàng và công ty chứng khoán. Bước đầu, có thể hợp tác dừng ở việc ngân hàng mở quầy giao dịch tại công ty chứng khoán để thu chi tiền của nhà đầu tư, nhưng về lâu dài ủy ban chứng khoán nhà nước nên yêu cầu công ty chứng khoán đăng ký lộ trình để tiến tới tách bạch việc quản lý tiền của nhà đầu tư. 2.2. Tổ chức hệ thống giao dịch từ xa và hệ thống giao dịch tự động Chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán là phải tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán. Tính thanh khoản cao cần được tính tới như một yếu tố đảm bảo. Tuy nhiên, tại Việt Nam, tính thanh khoản của chứng khoán còn rất thấp. Thị trường có thể đạt giá trị giao dịch 1.000 tỷ đồng/phiên, nhưng nếu so với quy mô của toàn thị trường (gần 3.000 tỷ đồng) hoặc so với nhu cầu giao dịch thực của nhà đầu tư sẽ thấy rằng, thanh khoản trên thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn rất đáng lo ngại. Một phần là do hệ thống giao dịch chưa đáp ứng được tất cả nhu cầu mua - bán của nhà đầu tư (hiện nay có tình trạng nhiều công ty chứng khoán chỉ nhận lệnh trong lần khớp lệnh thứ nhất, lần hai và lần ba không nhận lệnh, vì không xử lý kịp). Hiện nay SGDCK TP.HCM đang tiến hành thử nghiệm hệ thống giao dịch từ xa. Tổ chức hệ thống giao dịch từ xa tại SGDCK TP.HCM và TTGDCK HN, theo đó các máy trạm nhập lệnh tại sàn thành phố Hồ Chí Minh và sàn Hà Nội sẽ chuyển về các công ty chứng khoán thành viên. Việc tổ chức giao dịch từ xa sẽ tạo thuận lợi lớn cho các công ty chứng khoán và nhà đầu tư khi tham gia giao dịch do giảm được chi phí vận hành, nhân sự, thông tin liên lạc, quản lý và đặc biệt là tính tiện ích trong việc tiếp cận hệ thống của Sở giao dịch và Trung tâm giao dịch từ trụ sở công ty chứng khoán. Nhưng mới chỉ có bảy công ty chứng khoán được giao dịch không sàn. Những đơn vị được chọn là Các công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng á Châu, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Bảo Việt, Sài Gòn. Ngoài ra, Việt Nam cũng nên tiến hành nghiên cứu và chế tạo cũng như từng bước đưa vào áp dụng hệ thống giao dịch tự động. Trước mắt, khi chưa có kinh nghiệm và điều kiện sáng tạo các thuật toán giúp nhà đầu tư giao dịch hiệu quả, chúng ta có thể mua lại các thuật toán hiện đang được áp dụng ở các nước trên thế giới. Cơ quan quản lý cần hiện đại hóa hệ thống giao dịch trên thị trường chứng khoán, thực hiện các dự án, đề án mở rộng cũng như cải thiện chất lượng hệ thống giao dịch để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tham gia; nên thay đổi biên độ giá 5% tại sàn thành phố Hồ Chí Minh và 10% tại sàn Hà Nội bằng mức lớn hơn (35% chẳng hạn và dùng cơ chế cầu chì ngắt giao dịch) để buộc nhà đầu tư phải cẩn trọng khi giao dịch. 2.3. Xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống công nghệ thông tin phù hợp Thị trường chứng khoán Việt Nam hứa hẹn bùng nổ với sự xuất hiện của các tên tuổi lớn trên sàn giao dịch như Vinamilk, Sacombank, và sắp tới là Mobiphone hay Vietcombank. Thậm chí, có thể vượt xa so với những gì chúng ta đang hình dung. Hiện tại, nhiều nghiệp vụ tại SGDCK TP. HCM và TTGDCK HN đang được thực hiện thủ công. Điều này làm hạn chế năng lực giao dịch của Sở và Trung tâm và luôn tiềm ẩn các lỗi, sai sót do cá nhân gây nên. Thực tế là hạ tầng công nghệ thông tin cho thị trường chứng khoán trở thành mối e ngại của nhiều nhà đầu tư khi thời gian vừa qua đã có không ít những lần trục trặc kỹ thuật. Ví dụ gần đây nhất là trong phiên giao dịch sáng 10/10, nhà đầu tư trên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội đã phải đặt lệnh trong tình trạng Trung tâm bị mất điện. Sự cố này dẫn đến tình trạng hệ thống giao dịch vẫn hoạt động bình thường nhưng nhà đầu tư lại không thể theo dõi diễn biến thị trường trong khoảng 15 phút đầu phiên giao dịch. Việc giao dịch này có thể dẫn đến tình trạng thông tin không bình đẳng giữa các nhà đầu tư khác nhau do không có thông tin từ các nguồn khác. Bên cạnh việc giao dịch chứng khoán bị gián đoạn, nhiều nhà đầu tư không khỏi e ngại về khả năng bảo mật, an toàn của hệ thống. Vừa qua, Trung tâm An ninh mạng, Đại học Bách Khoa Hà Nội (Bkis) đã đưa ra một bản báo cáo khiến cho không ít nhà đầu tư lo lắng: 12/22 trang web chứng khoán dễ bị hacker lợi dụng chiếm quyền kiểm soát bất kỳ lúc nào. Nếu những trang web này không được vá lỗi kịp thời, các hacker sẽ không khó khăn khi đưa thông tin thất thiệt, sửa chỉ số chứng khoán, thay đổi kết quả giao dịch … Đáng lo lắng hơn, sau hai tháng khuyến cáo của Bkis đưa ra, mới chỉ có 50% trang web được vá lỗi. Điều này cho thấy sự thờ ơ đáng ngại trước công tác bảo mật của các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán. Tại Việt Nam ứng dụng mạng rất phát triển, nhưng vấn đề bảo mật lại chưa được chú trọng, vào hàng yếu nhất thế giới, điều khó khăn nhất khi triển khai các giải pháp bảo mật là thuyết phục được các nhà lãnh đạo về tầm quan trọng của việc bảo mật hệ thống thông tin. Bảo mật mạng không chỉ trông chờ vào một thiết bị như tường lửa mà cần phải xây dựng được thói quen về bảo mật, quy trình bảo mật và hệ thống bảo mật tổng thể. Chúng ta có thể đầu tư lớn cho một giải pháp bảo mật nào đó, nhưng đổi lại là sự thất thoát và rò rỉ những thông tin quan trọng sẽ được giảm đi rất nhiều. Tuy nhiên, những lo ngại về hệ thống, về tính an toàn, bảo mật trong quá trình giao dịch chứng khoán tại sàn Tp Hồ Chí Minh sẽ được giảm thiểu bởi tới đây, các công ty chứng khoán sẽ phải tuân thủ nghiêm ngặt chuẩn về công nghệ thông tin của SGDCK TP. HCM. Tóm lại, việc chuyên môn hóa các chức năng của Sở và Trung tâm (đăng ký, giao dịch, thanh toán bù trừ, lưu ký...) và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển của thị trường. Hệ thống này cần đủ lớn để đảm bảo hoạt động thị trường trôi trảy nhưng nếu vượt quá xa nhu cầu thực tế của thị trường thì lại dễ rơi vào tình trạng lãng phí. Để trả lời câu hỏi này, cần nhiều hơn nữa các nghiên cứu thực nghiệm về quy mô phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.4. Thực hiện tốt việc tổ chức thị trường OTC cho các cổ phiếu không đủ điều kiện niêm yết Đây là mảng thị trường lớn, chưa được quản lý hiệu quả. Để thị trường phát triển lành mạnh, UBCKNN đang xúc tiến việc mua bán cổ phiếu OTC qua một trung tâm giao dịch để hạn chế việc mua bán trao tay, thiếu thông tin. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán qua một trong 25 công ty kiểm toán được UBCKNN chấp nhận. Việc tổ chức bảng giao dịch OTC tại TTGDCKHN sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết, giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, nâng cao tính minh bạch cho thị trường. Ngoài ra, thực tế đã nảy sinh những trường hợp phát hành cổ phiếu riêng lẻ, một số công ty đã lách luật chẳng hạn như trường hợp của ATIP- một công ty có trụ sở ở nước ngoài. Hiện UBCKNN đang dự thảo Nghị định quản lý phát hành riêng lẻ, theo đó những trường hợp phát hành riêng lẻ sẽ không phải làm cáo bạch và đăng ký với UBCKNN nhưng sẽ phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước, ví dụ như cơ quan cấp đăng ký kinh doanh. 2.5. Công tác tạo hàng Hàng hoá trên thị trường chứng khoán hiện nay còn đang rất nghèo nàn về số lượng. Trong khi đó, tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra còn chậm chạp, phần lớn các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, tính công khai thông tin của doanh nghiệp còn thấp dẫn đến niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán chưa cao. Vấn đề thiếu hàng hoá giao dịch luôn là vấn đề trăn trở của các nhà tổ chức và quản lý thị trường. Hiện nay trên cả hai sàn Hà Nội và sàn Thành phố Hồ Chí Minh mới có hơn 200 doanh nghiệp đăng ký niêm yết (trong khi ở các nước thường có hàng nghìn cổ phiếu ở mỗi sở giao dịch). Đối với các nhà đầu tư thì hàng hoá trên một thị trường chứng khoán luôn là một yếu tố quan trọng dẫn đến việc quyết định đầu tư của họ. Chính vì vậy mà tạo thêm hàng hoá hiện nay là vấn đề cần được quan tâm để có thể ngày càng thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia. Vì thế, nên sớm đưa thêm nhiều hàng hóa vào thị trường để giúp thị trường phát triển bền vững hơn. Một là, tăng cung chứng khoán từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là cổ phần hoá 71 Tổng công ty, doanh nghiệp lớn sẽ cung cấp cho thị trường chứng khoán một khối lượng hàng hoá lớn có chất lượng cao. Giai đoạn 2006-2010 sẽ cổ phần hoá khoảng 1.700 doanh nghiệp ( trong gần 2.100 doanh nghiệp nhà nước có đến nay). Đây là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư. Tiếp tục phối hợp giữa các Bộ, ban ngành, các tổng công ty và các địa phương lựa chọn các doanh nghiệp có chất lượng vào đăng ký giao dịch. Thông qua các hoạt động đấu giá cùng với tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp cổ phần hoá đưa ra niêm yết. Hai là, khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển sang hình thức công ty cổ phần và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. Luật đầu tư 2005 ra đời đã xoá bỏ sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Tăng cường triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gắn với niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tạo ra lượng hàng hoá có chất lượng cao. Đây không phải là cánh cửa cuối cùng mở thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng đây là bước đi đầu tiên, cần thiết để các doanh nghiệp này có thể tiếp cận với thị trường chứng khoán. Để khuyến khích việc chuyển đổi cần nghiên cứu sửa đổi điểm hạn chế về thời hạn nắm giữ của cổ đông sáng lập nước ngoài trong việc chuyển nhượng cổ phần. Nên quy định cổ đông sáng lập phải nắm giữ cổ phần trong một thời gian nhất định sau khi chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần thay cho quy định phải nắm giữ trong suốt quá trình hoạt động của công ty như hiện nay. 2.6. Xây dựng hệ thống các nhà tạo lập thị trường Nhà tạo lập thị trường là những người sẵn sàng đứng ra thực hiện các lệch mua và bán theo danh nghĩa khách hàng hay cho tài khoản của riêng ông ta, hay theo sổ ghi nhận các lệnh mua bán. Nhà tạo thị trường là một cá nhân hay tổ chức chấp nhận rủi ro mua bán bằng chấp nhận sở hữu tài sản được mua bán, và thực thi các giao dịch mua bán theo giá đã thông báo. Chênh lệch giữa giá đặt mua và giá đặt bán của nhà tạo lập thị trường không quá lớn để phải loại trừ các giao dịch mua bán theo giá đã báo. Trong thị trường có tổ chức như thị trường chứng khoán, nhà tạo thị trường chỉ được phép hoạt động khi được cấp giấy phép. Mức độ rủi ro trên thị trường chứng khoán là lớn. Bên cạnh đó, do thiếu nhà tạo lập thị trường nên một đặc trưng riêng có của thị trường chứng khoán Việt Nam là khi giá cổ phiếu cao thì hầu như không ai bán, còn khi giá thấp lại rất hiếm người mua. Những yếu tố này khiến thị trường dễ rơi vào trạng thái giao dịch một chiều và đứng về mặt thống kê toán học thì các bước nhảy lớn, dù theo chiều hướng nào, cũng luôn hàm chứa rủi ro. Khi sự rủi ro càng lớn thì càng dễ gây ra sự hoảng loạn. Hoảng loạn là đặc tính duy nhất làm cho thị trường tài chính và thị trường chứng khoán khác với thị trường hàng hoá thông thường. Với hàng hoá thông thường, nếu hàng hóa giảm giá người ta có thể mua vào dù không thật cần thiết (có thể đem cho hoặc thay thế cái cũ), nhưng sản phẩm tài chính khi đã giảm giá thì nhiều người sẵn sàng bán tống, bán tháo mặc dù trước đó học từng tin rằng sản phẩm này tốt. Tâm lý hoảng loạn hết sức nguy hiểm với thị trường Việt Nam, vì tính thanh khoản còn thấp và không có nhà tạo lập thị trường. Như vậy, tại thị trường chứng khoán Việt Nam nên xây dựng hệ thống nhà tạo lập thị trường để hạn chế tình trạng giao dịch một chiều. 2.7. Thành lập các tổ chức tín nhiệm Cùng với hội nhập WTO, các hoạt động kinh doanh và dịch vụ hỗ trợ trên thị trường chứng khoán không những được tổ chức chuyên nghiệp hơn, mà còn tạo cơ hội cho nhiều dịch vụ mới xuất hiện. Phần đa số công việc trên thị trường tài chính - chứng khoán sẽ do các công ty dịch vụ chuyên môn đảm nhận như công ty chứng khoán, tư vấn tài chính, quản lý tài sản - đầu tư, kiểm toán, pháp lý… Ngoài ra, ở những thị trường chứng khoán phát triển không thể thiếu sự góp mặt của các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài chính của tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết của tổ chức phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Đây là những tổ chức hoạt động mang tính chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán. Các thông tin tổ chức này đưa ra sẽ đem lại niềm tin cho các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân - những người có ít điều kiện tìm hiểu, phân tích và hiểu sâu sắc tình hình thực tế nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp niêm yết. Trên cơ sở những thông tin đáng tin cậy mà tổ chức này cung cấp, nhà đầu tư sẽ có quyết định đúng đắn và sáng suốt cho hoạt động đầu tư của mình. Đối với thị trường chứng khoán của Việt Nam sự xuất hiện của các tổ chức đánh giá, xếp loại tín nhiệm càng cần thiết hơn bao giờ hết. Bởi thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ, nhiều doanh nghiệp còn chưa tạo được hình ảnh cần thiết của mình trên thị trường trong nước cũng như quốc tế nên các tổ chức định mức tín nhiệm sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và các nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư nước ngoài nói riêng. Xuất phát từ nhu cầu đó, Chính phủ đã có chủ trương thành lập tổ chức này ngay trong năm 2004, 2005 thể hiện tại Quyết định 163/2003/QĐ - TTg về phê duyệt chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010. Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật hiện hành cũng đã cho phép thành lập định chế này. Tuy nhiên, do yêu cầu về tính độc lập, chuyên nghiệp và do Luật doanh nghiệp không quy định cơ quan nhà nước được thành lập loại hình doanh nghiệp này nên các cơ quan liên quan như Bộ Tài chính, UBCKNN và NHNN khó có thể trực tiếp đứng ra thành lập tổ chức định mức tín nhiệm. Hiện nay ở Việt Nam đã có Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính (VAFI), việc nghiên cứu mô hình thành lập định chế này nên để cho Hiệp hội này đảm trách với sự giúp đỡ của Bộ Tài chính và UBCKNN. Công ty định mức tín nhiệm tại Việt Nam nên có mô hình với các đặc điểm chính sau: Một là, thành lập theo hình thức công ty cổ phần, trong tương lai sẽ niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hai là, cơ cấu cổ đông gồm các tổ chức ngân hàng, bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty tài chính, quỹ đầu tư và các nhà đầu tư. Ba là, tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của mỗi cổ đông phải đảm bảo tính độc lập cho hoạt động của công ty, không một cổ đông nào có thể nắm vai trò chi phối đối với công ty này. Bốn là, để tạo tính chuyên nghiệp ngay từ khi mới ra đời, công ty này sẽ hợp tác với tập đoàn đa quốc gia có tên tuổi nhằm chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm. 2.8. Cải thiện chất lượng cung cấp thông tin cho nhà đầu tư Hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán bao gồm: công bố thông tin của các tổ chức phát hành và công bố thông tin của thị trường. Việc công bố thông tin phải do nhân viên công bố thông tin tiến hành và được thực hiện qua các phương tiện công bố thông tin: + Hệ thống cung cấp thông tin của tổ chức niêm yết: báo cáo tài chính, bản cáo bạch tại trụ sở công ty, cung cấp báo cáo thường niên. + Hệ thống công bố thông tin của các công ty chứng khoán: bảng điện tử, báo cáo phân tích, tờ rơi, website,… Theo quy định là vậy nhưng các doanh nghiệp niêm yết cũng như các công ty chứng khoán còn lúng túng trong việc công bố thông tin. Để thị trường đi vào hoạt động ổn định thì hệ thống cung cấp thông tin phải cung cấp đầy đủ thông tin đảm bảo cho mọi nhà đầu tư đều được tiếp cận thông tin như nhau và bước đầu tạo nên nét văn hoá cho các doanh nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải tăng cường tính minh bạch của thông tin và để làm được như vậy đòi hỏi phải có một hệ thống pháp lý về công bố thông tin hoàn chỉnh: Thứ nhất, UBCKNN và SGDCK TP.HCM cũng như TTGDCK HN không ngừng nâng cấp và hoàn thiện website của mình. Website này phải có đầy đủ các thông tin về tình hình thị trường hiện tại và trong quá khứ, giới thiệu các công cụ giúp nhà đầu tư phân tích cổ phiếu và các đường link đến các trang web của tất cả các tổ chức tham gia thị trường. Những nhà quản lý cần phải tạo nên một hình ảnh về sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán đối với các nhà đầu tư. Thứ hai, tăng cường tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế về đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam để tạo diễn đàn trao đổi lý luân và kinh nghiệm thực tế và chia sẻ thông tin, khuyến khích các doanh nghiệp quảng bá hình ảnh của mình ra thị trường. Thứ ba, cần phải lưu ý rằng cần phải tăng cường chất lượng công tác kiểm toán báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết để đảm bảo thông tin sát thực nhất cho nhà đầu tư. Các doanh nghiệp, ngoài việc dành nhiều công sức cho việc xây dựng phương pháp quản trị, nâng cao tính toàn vẹn của hệ thống kinh doanh và tính chính xác của các số liệu hoạt động, còn cần phải có trách nhiệm và ý thức rõ ràng về vấn đề công bố thông tin. Điều quan trọng là phải tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các nhân viên, cổ đông hiểu rõ thực tế hoạt động của doanh nghiệp. Thứ tư, liên kết chặt chẽ và nâng cao chất lượng các bài báo có liên quan. Thông tin là một nhân tố tạo nên hiệu ứng “bầy đàn” trên thị trường chứng khoán và vai trò của thông tin báo chí chỉ thực sự mạnh và hiệu quả khi đáp ứng được ba yêu cầu: chất lượng thông tin, cách thức tiếp cận và truyền thông. Chứng khoán và thị trường chứng khoán là đề tài mới mẻ, rất hấp dẫn, nhưng hoàn toàn không dễ đối với các nhà báo trong việc phản ánh, phân tích, đánh giá và bình luận. Báo chí và công tác truyền thông đòi hỏi phải phát huy năng lực sáng tạo, mang lại các sản phẩm mới, có giá trị gia tăng ngày một nhiều hơn phục vụ thị trường. Nhà báo viết về kinh tế nói chung đã đòi hỏi phải có kiến thức cơ bản về kinh tế, riêng tài chính - chứng khoán lại là một lĩnh vực kinh tế chuyên sâu, càng đòi hỏi phải có kiến thức kinh tế - tài chính, có chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp khi tác nghiệp. Vì vậy, ban biên tập và đội ngũ phóng viên, biên tập viên cần chủ động nâng cao kiến thức, nghiệp vụ, tìm tòi, cải tiến phương thức đưa tin trên tinh thần hướng tới một thị trường chứng khoán công bằng, công khai và minh bạch, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư theo đúng định hướng của các cơ quan quản lý. Ngoài ra, với vị thế của mình, cộng đồng báo chí và truyền thông cần chủ động xác định nhiệm vụ giáo dục của mình với đông đảo nhà đầu tư. Công việc chủ động đưa thông tin tới thị trường là nghĩa vụ giúp công chúng đầu tư tiếp nhận thông tin và tuân theo định hướng. Điều này đòi hỏi người làm công tác báo chí, truyền thông không chỉ giỏi về nghiệp vụ, hiểu biết vững vàng kiến thức, mà còn phải có tâm sáng và ý thức tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. 2.9. Xây dựng một lộ trình hội nhập phù hợp Tâm lý chung của các nhà đầu tư là thích một thị trường chứng khoán ổn định vì như thế họ sẽ hạn chế được phần lớn rủi ro từ nguy cơ bất ổn định của thị trường. Để thu hút nhà đầu tư nước ngoài chúng ta cần tạo ra một thị trường chứng khoán vững chắc trong quá trình hội nhập của đất nước đặc biệt là Việt Nam hiện nay đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho Việt Nam một bài học kinh nghiệm lớn trong vấn đề duy trì sự ổn định của các chỉ số chứng khoán. Khi thị trường bất động sản sụp đổ, các nhà đầu tư nước ngoài rút tiền ra, đồng baht mất giá, Ngân hàng trung ương Thái Lan có một quyết định sai lầm là bán hơn mười tỷ USD để cứu đồng tiền của họ. Tỷ giá đồng baht cuối cùng vẫn không cứ được, còn Thái Lan thì bị mất hơn mười tỷ USD. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu từ châu Á đã lan sang Nga, Trung và Nam Mỹ, thị trường tiền tệ biến động lây lan sang thị trường chứng khoán rồi từ quốc gia này đến quốc gia khác. Sự đổ vỡ của thị trường bất động sản, sự thua lỗ của các công ty dẫn đến hiện tượng giảm giá cổ phiếu và trở thành trào lưu rút vốn ồ ạt ra khỏi thị trường chứng khoán của một nước rồi cả một khu vực. Khủng hoảng ở một nước dẫn tới khủng hoảng trên một hệ thống. Đây là một nguy cơ lớn đối với thị trường chứng khoán Việt Nam khi kết nối với nền kinh tế thế giới. Khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cánh cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán mở rộng hơn nhưng đồng thời khả năng lây lan rủi ro và những ảnh hưởng của sự biến động tài chính do sự liên kết của các thị trường trên toàn cầu rất dễ xảy ra. Thị trường chứng khoán đóng vai trò là kênh huy động vốn và là hàn thử biểu của toàn bộ nền kinh tế, là nơi rất có khả năng lây lan rủi ro và chịu biến động. Chính vì lẽ đó, khi hội nhập cần phải hết sức thận trọng để tránh những biến động tài chính cho thị trường chứng khoán và cả cho nền kinh tế. Một nguy cơ khác, theo các chuyên gia kinh tế là sự quá phụ thuộc vào luồng vốn quốc tế, dẫn đến tình trạng lệ thuộc kinh tế và thậm chí là chính trị. Thực tế cho thấy, đây là điều đáng lo ngại vì nhiều nước không đủ khả năng kiểm soát quá trình hội nhập khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng mất chủ quyền do áp dụng hoàn toàn những quy định của nước mạnh. Ở mức độ thấp hơn là nguy cơ biến dạng thị trường khi các cường quốc mạnh áp đặt những nguyên tắc của họ vào các nước nhỏ, làm cho những nước nhỏ phải thay đổi những nguyên tắc, chuẩn mực ban đầu của họ. Hậu quả là, thị trường một nước yếu hơn rất dễ trở thành "sân sau" của một nước mạnh hơn do những quy luật nghiệt ngã của cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Theo các chuyên gia kinh tế khi tham gia vào quá trình hội nhập, thị trường chứng khoán của Việt Nam cũng có nguy cơ đối đầu với sự biến dạng này nếu không có được những biện pháp phòng ngừa hợp lý. Vì thế, trước mắt, chúng ta nên ngăn chặn và kiểm soát FII, không để nguồn vốn này tự do thao túng, gây nguy hiểm cho nền kinh tế, bởi khi đổ vào thị trường chứng khoán, vốn FII đã tác động làm cho đồng tiền Việt Nam tăng giá rồi khi thị trường biến động nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra ào ạt sẽ gây rối loạn, thậm chí sụp đổ thị trường, đồng thời làm hao hụt dự trữ ngoại tệ quốc gia. FII không phải là nguồn tiền đầu tư trực tiếp tạo ra tăng trưởng kinh tế. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng khơi nguồn từ bên trong, tức là tạo điều kiện để tiền tiết kiệm của người dân trong nước tham gia thị trường chứng khoán. Có thể thấy kinh nghiệm từ Trung Quốc. Vốn FII vào nước này phải đăng ký, được cấp hạn ngạch, được mua bao nhiêu tiền, tất cả đều được quản lý (kiểm soát) để biết rõ nguồn và kênh. Các nhà đầu tư Trung Quốc rất ủng hộ việc làm đó. Như vậy, một trong những điều quan trọng là xây dựng được một lộ trình hội nhập phù hợp thông qua việc mở cửa từng bước, có chọn lọc và cân nhắc trong từng giai đoạn và từng đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, phải đặt trong tổng thể quá trình hội nhập cũng như quá trình cải cách thị trường tài chính, hệ thống tài chính ngân hàng và cải cách nền kinh tế nói chung. Nếu thiếu sự gắn kết này, thị trường vốn khó lòng phát triển và đủ sức chống đỡ các bất ổn từ bên ngoài. KẾT LUẬN Vậy có nên theo đuổi chiến lược quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số? Tại Mỹ, nhiều nhà đầu tư tổ chức, bên cạnh việc nắm giữ một số cổ phiếu trong danh mục S&P 500, họ còn cố gắng gia giảm nguồn vốn đầu tư vào những phân khúc thị trường nhất định. Với phương pháp này họ hi vọng sẽ có thành tích vượt trội so với chỉ số S&P 500. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, một nhà quản lý cổ phiếu xuất sắc chỉ có triển vọng vượt qua chỉ số S&P 500 bình quân từ 1,25 tới 1,5 điểm trong thời gian vài năm. Điều ấy có nghĩa là một quỹ đầu tư sẽ rất khó vượt qua chỉ số S&P 500 khoảng cách xa. Tuy nhiên, khó có thể nói rằng thế nào là một chiến lược đầu tư đúng. Bởi thị trường chứng khoán luôn là nơi có quá nhiều quan điểm cá nhân, quá nhiều cách hiểu, quá nhiều phương pháp tiếp cận, quá nhiều cảm xúc và quá nhiều cơ hội. Và chính những cái “quá nhiều” ấy mang lại sức hấp dẫn bí ẩn cho thị trường. Hoàn thành bài nghiên cứu nhỏ này, tôi không có tham vọng thuyết phục người đọc rằng: Quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số là chiến lược thành công nhất mọi thời đại. Mà tôi chỉ mong muốn đem lại cho người đọc cái nhìn tổng quan và sâu sắc về một trong những phương pháp quản lý danh mục đầu tư đã được áp dụng trên thế giới, để chúng ta có thêm một lựa chọn hữu ích trong chiến lược đầu tư của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô và các bạn đọc đã quan tâm đến đề tài này. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Đình Thọ đã tận tình giúp đỡ để tôi hoàn thành tốt khoá luận. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS. Đào Lê Minh, Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán, UBCKNN (2002), Giáo trình thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Tài chính. PGS.TS. Nguyễn Đăng Nam, Học viện Tài Chính (2006), Phân tích và đầu tư chứng khoán, Nhà xuất bản Tài chính. PGS.TS. Nguyễn Văn Nam, PGS.TS. Vương Trọng Nghĩa (2002), Giáo trình thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Tài chính. Trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo chứng khoán, UBCKNN (1999), Phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu. David Eagle, Ph.D., Eastern Washington University (2005), The indexing paradox. J-H Steffi Yang, Trinity College, University of Cambridge, The Markovian Dynamics of “Smart Money” Marc Goergen, Luc Remeboog (1999), Strong managers and Passive institutional investors in the UK, European Corporate Governance Network. Các website: www.stockmarket.vnn.vn/daotao/ebooks/gioi_thieu.htm www.investopedia.com/articles/06/MPT.asp en.wikipedia.org/wiki/Passive_management forum.vietstock.com.vn/blogs/default.aspx www.pru-fund.com.vn www.cbv.vn www.fpts.com.vn/VN/Tin-tuc/Trong-nuoc/2007/08 www.vse.org.vn www.hastc.org.vn/index.asp www.ssc.gov.vn/ssc/Default.aspx info.vcbs.com.vn/Research/CompanyOverView.aspx ideas.repec.org/cgi-bin/htsearch www.dongasecurities.com.vn/news.aspx www.mekongsecurities.com.vn/default.aspx www.icbs.com.vn/default.asp www.acbs.com.vn www.vcbs.com.vn www.hsc.com.vn www.bsc.com.vnmagicformulainvesting.com www.infotv.vn DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CTCP Công ty cổ phần HOSE Hochiminh Stock Exchange NNHN Ngân hàng Nhà nước OTC Thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung SGDCK Sở giao dịch chứng khoán TTGDCK HN Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội TTGDCK TP. HCM Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh UBCKNN Ủy ban Chứng khoán Nhà nước DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU BẢNG Trang 1 Bảng tổng kết các tiêu chuẩn lựa chọn tài sản đầu tư 14 2 Bảng tiêu chí niêm yết trong danh mục CBV-Index, CBV-MidCap, CBV-SmallCap 58 3 Bảng xác định tỷ lệ vốn đầu tư phân bổ cho từng công ty trong danh mục đầu tư theo chỉ số CBV-20 62 4 Bảng so sánh chiến lược quản lý danh mục đầu tư theo chỉ số và chiến lược quản lý danh mục đầu tư chủ động 67-68 PHỤ LỤC 1 Danh sách chứng khoán niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh 1 ABT : CTCP XNK Thuỷ sản Bến Tre 2 ACL : CTCP XNK Thuỷ sản Cửu Long An Giang 3 AGF : CTCP XNK Thuỷ sản An Giang 4 ALT : CTCP Văn hoá Tân Bình 5 BBC : CTCP BIBICA 6 BBT : CTCP Bông Bạch Tuyết 7 BHS : CTCP đường Biên Hoà 8 BMC : CTCP khoáng sản Bình Định 9 BMP : CTCP nhựa Bình Minh 10 BPC : CTCP bao bì Bỉm Sơn 11 BT6 : CTCP bê tông 620 Châu 12 BTC : CTCP cơ khí và xây dựng Bình Triệu 13 CAN : CTCP Đồ Hộp Hạ Long 14 CII : CTCP đầu tư hạn tầng kỹ thuật TP.HCM 15 CLC : CTCP Cát Lợi 16 COM : CTCP Vật tư xăng dầu 17 CYC : CTCP Gạch men CHANG YIH 18 DCT : CTCP Tấm lợp vật liệu xây dựng Đồng Nai 19 DHA : CTCP Hoá An 20 DHG : CTCP dược Hậu Giang 21 DIC : CTCP đầu tư và thương mại dic 22 DMC : CTCP xuất nhập khẩu y tế domesco 23 DNP : CTCP nhựa xây dựng đồng nai 24 DPC : CTCP nhựa đà nẵng 25 DRC : CTCP cao su đà nẵng 26 DTT : CTCP kỹ nghệ đễ thành 27 DXP : CTCP cảng đoạn xá 28 FMC : CTCP thực phẩm sao ta 29 FPC : TCP FULL POWER 30 FPT : CTCP phát triển đầu tư công nghệ FPT 31 GIL : CTCP sản xuất kinh doanh XNK Bình Thạnh 32 GMC : CTCP sản xuất thương mại may Sài Gòn 33 GMD : CTCP đại lý liên hiệp vận chuyển 34 GTA : CTCP chế biến gỗ thuận an 35 HAP : CTCP HAPACO 36 HAS : CTCP xây lắp bưu điện Hà Nội 37 HAX : CTCP dịch vụ ô tô hàng xanh 38 HBC : CTCP xây dựng và kinh doanh địa ốc Hoà Bình 39 HBD : CTCP bao bì pp Bình Dương 40 HMC : CTCP kim khí thành phố Hồ Chí Minh 41 HRC : CTCP cao su Hòa Bình 42 HTV : CTCP vận tải Hà Tiên 43 IFS : CTCP thực phẩm quốc tế 44 IMP : CTCP dược phẩm IMEXPHARM 45 ITA : CTCP khu công nghiệp Tân Tạo 46 KDC : CTCP Kinh Đô 47 KHA : KHAHOMEX 48 KHP : CTCP điện lực Khánh Hoà 49 LAF : CTCP chế biến hàng xuất khẩu Long An 50 LBM : CTCP vật liệu xây dựng Lâm Đồng 51 LGC : CTCP cơ khí - điện Lữ Gia 52 MCP : CTCP in và bao bì Mỹ Châu 53 MCV : CTCP CAVICO Việt Nam khai thác mỏ và xây dựng 54 MHC : CTCP hàng hải Hà Nội 55 NAV : CTCP Nam Việt 56 NHC : CTCP gạch ngói Nhị Hiệp 57 NKD : CTCP chế biến thực phẩm Kinh Đô miền bắc 58 NSC : CTCP giống cây trồng trung ương 59 PAC : CTCP pin ắc quy miền Nam 60 PET : CTCP Dịch vụ - Du lịch Dầu khí 61 PGC : CTCP GAS PETROLIMEX 62 PJT : CTCP vận tải xăng dầu đường thủy 63 PMS : CTCP cơ khí xăng dầu 64 PNC : CTCP văn hoá Phương Nam 65 PPC : CTCP nhiệt điện Phả Lại 66 PVD : Tổng công ty khoan và dịch vụ khoan dầu khí 67 RAL : CTCP Bóng đèn phích nước Rạng Đông 68 REE : CTCP cơ điện lạnh 69 RHC : CTCP thuỷ điện RY NINH II 70 SAF : CTCP lương thực thực phẩm SAFOCO 71 SAM : CTCP cáp và vật liệu viễn thông 72 SAV : CTCP hợp tác kinh tế và XNK SAVIMEX 73 SCD : CTCP nước giải khát Chương Dương 74 SDN : CTCP sơn Đồng Nai 75 SFC : CTCP nhiên liệu Sài Gòn 76 SFI : CTCP đại lý vận tải SAFI 77 SFN : CTCP dệt lưới Sài Gòn 78 SGC : CTCP XNK Sa Giang 79 SGH : CTCP khách sạn Sài Gòn 80 SHC : CTCP hàng hải Sài Gòn 81 SJ1 : CTCP Thuỷ sản số 1 82 SJD : CTCP thuỷ điện Cần Đơn 83 SJS : CTCP đầu tư phát triển công nghiệp và khu đô thị Sông Đà 84 SMC: CTCP đầu tư thương mại SMC 85 SSC : CTCP giống cây trồng miền Nam 86 STB : Ngân hàng TMCP Sài Gòn thương tín 87 TAC : CTCP dầu thực vật Tường An 88 TCR : CTCP công nghiệp gốm sứ TAICERA 89 TCT : TCT 90 TDH : CTCP phát triển nhà Thủ Đức 91 TMC : CTCP thương mại XNK Thủ Đức 92 TMS: CTCP kho vận giao nhận 93 TNA : CTCP thương mại XNK Thiên Nam 94 TNC : Công ty Cổ phần Cao su Thống Nhất 95 TRC : Công ty cổ phần Cao su Tây Ninh 96 TRI : CTCP nước giải khát Sài Gòn 97 TS4 : CTCP Thuỷ sản số 4 98 TTC : CTCP gạch men Thanh Thanh 99 TTP : CTCP bao bì nhựa Tân Tiến 100 TYA : CTCP dây và cáp điện Taya Việt Nam 101 UNI : CTCP Viễn Liên 102 VFC : CTCP VINAFCO 103 VGP : CTCP cảng rau quả 104 VIC : Công ty Cổ phần Vincom 105 VID : CTCP giấy Viễn Đông 106 VIP : CTCP vận tải xăng dầu VIPCO 107 VIS : CTCP thép Việt ý 108 VNE : Tổng Công ty Cổ phần Xây dựng điện Việt Nam 109 VNM : CTCP sữa Việt Nam 110 VPK : CTCP bao bì dầu thực vật 111 VSH : CTCP thuỷ điện Vĩnh Sơn sông Hinh 112 VTA : CTCP VITALY 113 VTB : CTCP điện tử Tân Bình 114 VTC : CTCP viễn thông VTC Hai chứng chỉ quỹ: PPRUBF1: Công ty trách nhiệm hữu hạn quản lý quỹ đầu tư Prudential tại Việt Nam VFMVF1: Công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư tại Việt Nam PHỤ LỤC 2 Danh sách chứng khoán niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội 1 ACB: Ngân hàng Thương mại CP Á Châu 2 BBS: CTCP Bao bì xi măng Bút Sơn 3 BCC: CTCP xi măng Bỉm Sơn 4 BHV: CTCP Viglacera Bá Hiền 5 BMI: Tổng CTCP Bảo Minh 6 BTS: CTCP xi măng Bút Sơn 7 BVS: CTCP Chứng khoán Bảo Việt 8 CIC: CTCP Đầu tư và Xây dựng COTEC 9 CID: CTCP Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng 10 CJC: CTCP Cơ điện Miền Trung 11 CMC: CTCP Xây dựng và cơ khí số 1 12 CTB: CTCP Chế tạo bơm Hải Dương 13 CTN: CTCP Xây dựng Công trình ngầm 14 DAC: CTCP Viglacera Đông Anh 15 DAE: CTCP Sách giáo dục tại Tp. Đà Nẵng 16 DHI: CTCP In Diên Hồng 17 DTC: CTCP Đông Triều Viglacera 18 EBS: CTCP Sách giáo dục tại Tp. Hà Nội 19 GHA: CTCP Giấy Hải Âu 20 HAI: CTCP Nông dược H.A.I 21 HJS: CTCP Thuỷ điện Nậm Mu 22 HLY: CTCP Viglacera Hạ Long I 23 HNM: CTCP Sữa Hà Nội 24 HPC: CTCP Chứng khoán Hải Phòng 25 HPS: CTCP Đá Xây dựng Hòa Phát 26 HSC: CTCP Hacinco 27 HTTP: CTCP In sách giáo khoa Hòa Phát 28 ICF:CTCP Đầu tư Thương mại Thuỷ sản 29 ILC: CTCP Hợp tác lao động với nước ngoài 30 LTC: CTCP Điện nhẹ Viễn thông 31 MCO: CTCP Đầu tư và Xây dựng Công trình 1 32 MEC: CTCP cơ khí Lắp máy sông Đà 33 MPC: CTCP Thuỷ hải sản Minh Phú 34 NBC: CTCP Than Núi Béo 35 NLC: CTCP Thuỷ điện Nà Lơi 36 NPS: CTCP May Phú Thịnh, Nhà Bè 37 NST: CTCP Ngân Sơn 38 NTP: CTCP Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong 39 PAN: CTCP Xuyên Thái Bình 40 PJC: CTCP Thương mại và Vận tải Petrolimex Hà Nội 41 PLC: CTCP Hoá dầu Petrolimex 42 POT: CTCP Thiết bị Bưu điện 43 PPG: CTCP Sản xuất Thương mại Dịch vụ Phú Phong 44 PSC: CTCP Vận tải và Dịch vụ Petrolimex Sài Gòn 45 PTC: CTCP Đầu tư và Xây dựng Bưu điện 46 PTS: CTCP Vận tải và Dịch vụ Petrolimex Hải Phòng 47 PVI: Tổng CTCP Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam 48 PVS: Tổng CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí 49 RCL: CTCP Địa ốc Chợ Lớn 50 S55: CTCP Sông Đà 505 51 S64: CTCP Sông Đà 6.04 52 S91”: CTCP Sông Đà 9.01 53 S99: CTCP Sông Đà 9.09 54 SAP: CTCP In sách giáo khoa tại Tp.Hồ Chí Minh 55 SCC: CTCP Xi măng Sông Đà 56 SCJ: CTCP Xi măng Sài Sơn 57 SD3: CTCP Sông Đà 3 58 SD5: CTCP Sông Đà 5 59 SD6: CTCP Sông Đà 6 60 SD7: CTCP Sông Đà 7 61 SD9: CTCP Sông Đà 9 62 SDA: CTCP SIMCO Sông Đà 63 SDC: CTCP Tư vấn Sông Đà 64 SDT: CTCP Sông Đà 10 65 SDY: CTCP Sông Đà Yaly 66 SGD: CTCP Sách giáo dục tại Tp.HCM 67 SIC: CTCP Đầu tư – Phát triển Sông Đà 68 SJE: CTCP Sông Đà 11 69 SNG: CTCP Sông Đà 10.1 70 SSI: CTCP Chứng khoán Sài Gòn 71 SSS: CTCP Sông Đà 6.06 72 STC: CTCP Sách và Thiết bị trường học Tp. HCM 73 STP: CTCP Công nghiệp thương mại Sông Đà 74 SVC: CTCP Dịch vụ tổng hợp Sài Gòn 75 TBC: CTCP Thuỷ điện Thác Bà 76 TKU: CTCP Công nghiệp Tung Kuang 77 TLC: CTCP Viễn thông Thăng Long 78 TLT: CTCP Gạch men Viglacera Thăng Long 79 TPH: CTCP In Sách giáo khoa tại Tp.Hà Nội 80 TXM: CTCP Thạch cao Xi Măng 81 VBH: CTCP Điện tử Biên Hoà 82 VC2: CTCP Xây dựng số 2 83 VFR: CTCP Vận tải thuê tàu 84 VMC: CTCP Cơ giới lắp máy và Xây dựng 85 VNC: CTCP Giám định Vinacontrol 86 VNR: Tổng CTCP Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam 87 VSP: CTCP Đầu tư và Vận tải Dầu khí VINASHIN 88 VTL: CTCP Thăng Long 89 VTS: CTCP Viglacera Từ Sơn 90 VTV: CTCP Vật tư Vận tải Xi măng 91 YSC: CTCP Hapaco Yên Sơn PHỤ LỤC 3 Ngày 21/09/2007, khi đầu tư vào HASTC-Index, chúng ta sẽ đầu tư theo tỷ lệ sau  STT Mã CK Giá trị thị trường (đồng) Tỷ lệ đầu tư (%) 1 ACB 33,954,029,498,400 25.51 2 BBS 63,900,000,000 0.05 3 BCC 3,195,000,000,000 2.40 4 BHV 24,210,000,000 0.02 5 BMI 4,062,240,000,000 3.05 6 BTS 3,807,000,000,000 2.86 7 BVS 5,791,500,000,000 4.35 8 CIC 39,329,293,800 0.03 9 CID 13,525,000,000 0.01 10 CJC 64,000,000,000 0.05 11 CMC 71,440,000,000 0.05 12 CTB 55,201,426,000 0.04 13 CTN 127,800,000,000 0.10 14 DAC 15,525,000,000 0.01 15 DAE 18,850,000,000 0.01 16 DHI 41,633,718,000 0.03 17 DTC 16,000,000,000 0.01 18 EBS 59,400,000,000 0.04 19 GHA 54,545,004,000 0.04 20 HAI 710,220,000,000 0.53 21 HJS 142,800,000,000 0.11 22 HLY 12,500,000,000 0.01 23 HNM 246,732,500,000 0.19 24 HPC 316,500,000,000 0.24 25 HPS 30,835,425,000 0.02 26 HSC 142,564,000,000 0.11 27 HTP 33,642,000,000 0.03 28 ICF 332,760,000,000 0.25 29 ILC 69,028,369,200 0.05 30 LTC 60,150,000,000 0.05 31 MCO 45,320,000,000 0.03 32 MEC 29,700,000,000 0.02 33 MPC 3,550,800,000,000 2.67 34 NBC 372,600,000,000 0.28 35 NLC 108,000,000,000 0.08 36 NPS 44,066,880,000 0.03 37 NST 88,870,796,900 0.07 38 NTP 2,446,429,874,200 1.84 39 PAN 215,360,000,000 0.16 40 PJC 46,269,240,000 0.03 41 PLC 829,500,000,000 0.62 42 POT 650,939,240,000 0.49 43 PPG 94,800,000,000 0.07 44 PSC 63,339,000,000 0.05 45 PTC 235,500,000,000 0.18 46 PTS 80,040,000,000 0.06 47 PVI 4,000,000,000,000 3.01 48 PVS 12,780,000,000,000 9.60 49 RCL 338,100,000,000 0.25 50 S55 48,930,000,000 0.04 51 S64 42,980,000,000 0.03 52 S91 59,700,000,000 0.04 53 S99 125,300,000,000 0.09 54 SAP 30,690,000,000 0.02 55 SCC 54,648,000,000 0.04 56 SCJ 276,310,320,000 0.21 57 SD3 113,600,000,000 0.09 58 SD5 236,940,000,000 0.18 59 SD6 104,190,000,000 0.08 60 SD7 237,000,000,000 0.18 61 SD9 317,100,000,000 0.24 62 SDA 190,600,000,000 0.14 63 SDC 61,500,000,000 0.05 64 SDT 439,200,000,000 0.33 65 SDY 44,400,000,000 0.03 66 SGD 68,250,000,000 0.05 67 SIC 92,620,000,000 0.07 68 SJE 75,000,000,000 0.06 69 SNG 152,000,000,000 0.11 70 SSI 8,610,000,000,000 6.47 71 SSS 146,500,000,000 0.11 72 STC 112,032,000,000 0.08 73 STP 66,450,000,000 0.05 74 SVC 1,176,629,674,000 0.88 75 TBC 1,892,300,000,000 1.42 76 TKU 88,610,058,000 0.07 77 TLC 432,134,000,000 0.32 78 TLT 164,925,000,000 0.12 79 TPH 58,140,000,000 0.04 80 TXM 96,250,000,000 0.07 81 VBH 69,600,000,000 0.05 82 VC2 212,200,000,000 0.16 83 VFR 445,500,000,000 0.33 84 VMC 224,000,000,000 0.17 85 VNC 195,825,000,000 0.15 86 VNR 2,023,700,000,000 1.52 87 VSP 559,600,000,000 0.42 88 VTL 64,800,000,000 0.05 89 VTS 27,600,000,000 0.02 90 VTV 67,500,000,000 0.05 91 YSC 27,010,000,000 0.02 (Gía trị thị trường được tính dựa trên giá cổ phiếu trung bình ngày 21/09/2007) PHỤ LỤC 4 DANH SÁCH CÔNG TY TRONG CBV-20 (cập nhật 02/06/2007) TT MÃ CK Tên công ty Ngành 1 SAM CTCP cáp và vật liệu viễn thông Công nghệ 2 GMD CTCP đại lý liên hiệp vận chuyển Công nghiệp 3 ITA CTCP khu công nghiệp Tân Tạo Công nghiệp 4 REE CTCP cơ điện lạnh Công nghiệp 5 PVD Tổng công ty khoan và dịch vụ khoan dầu khí Dầu khí 6 VIP CTCP vận tải xăng dầu VIPCO Dầu khí 7 FPT CTCP phát triển đầu tư công nghệ FPT Dịch vụ tiêu dùng 8 PPC CTCP nhiệt điện Phả Lại Điện nước 9 VSH CTCP thuỷ điện Vĩnh Sơn sông Hinh Điện nước 10 KDC CTCP Kinh Đô Hàng tiêu dùng 11 MPC CTCP Thuỷ hải sản Minh Phú Hàng tiêu dùng 12 VNM CTCP sữa Việt Nam Hàng tiêu dùng 13 BMC CTCP khoáng sản Bình Định Nguyên vật liệu 14 BMP CTCP nhựa Bình Minh Nguyên vật liệu 15 NTP CTCP Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong Nguyên vật liệu 16 ACB Ngân hàng Thương mại CP Á Châu Tài chính 17 SJS CTCP đầu tư phát triển công nghiệp và khu đô thị Sông Đà Tài chính 18 SSI CTCP Chứng khoán Sài Gòn Tài chính 19 STB Ngân hàng TMCP Sài Gòn thương tín Tài chính 20 DHG CTCP dược Hậu Giang Y tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT070.doc
Tài liệu liên quan