Hội nhập là một xu thế tất yếu mà Việt Nam đã lựa chọn để đưa kinh tế đất nước phát triển. Trong đó, gia nhập WTO được xem là cột mốc quan trọng nhất trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, gia nhập vào tổ chức này có nghĩa là các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của hàng hoá từ bên ngoài. Vấn đề này đòi hỏi Nhà nước cần nghiên cứu một chính sách bảo hộ hợp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và có hiệu quả trong áp dụng để có sự điều chỉnh thích hợp trong thời gian sắp tới và cả trong tương lai xa hơn.
Qua việc nghiên cứu tiến trình áp dụng các biện pháp bảo hộ của một số quốc gia trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng và những quy định chung về các biện pháp này của WTO có sự so sánh và đối chiếu những điểm chưa phù hợp. Đề tài này đã cố gắng đề xuất những giải pháp thích hợp trong giai đoạn mới - giai đoạn nền kinh tế Việt Nam hướng tới hội nhập toàn diện với nền kinh tế thế giới, những giải pháp này được xây dựng dựa trên việc rút ra từ kinh nghiệm áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý của một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc.
Ngoài ra, đề tài cũng đã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng và duy trì các biện pháp bảo hộ để bảo vệ sản xuất hàng hoá ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thương mại quốc tế. Trên thực tế không một nước nào lại từ bỏ các biện pháp bảo hộ trong những lĩnh vực sản xuất nhất định nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội của mình.
89 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1852 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ục Hải quan điều tra bán phá giá và mức bán phá giá. Uỷ ban và các ngành hữu quan của Chính phủ điều tra về tổn thất và mức tổn thất. Bộ và Uỷ ban lần lượt đưa ra quyết định sơ bộ dựa vào kết quả điều tra. Bộ báo cáo quyết định sơ bộ này. Nếu quyết định sơ bộ cho rằng có tồn tại bán phá giá và có tổn thất, cần phải điều tra thêm mức bán phá giá và mức độ tổn thất, Bộ và Uỷ ban lần lượt đưa ra quyết định cuối cùng dựa vào kết quả điều tra. Bộ thông báo quyết định này.
Nếu quyết định ban đầu cho thấy rằng có sự bán phá giá và gây thiệt hại cho các ngành sản xuất trong nước, thì có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời, như: (1) Thu thuế chống bán phá giá tạm thời theo quy định; (2) Yêu cầu nộp tiền ký quỹ bằng tiền mặt hoặc bảo đảm dưới các hình thức khác.
Nếu người kinh doanh xuất khẩu hoặc Chính phủ nước xuất khẩu có cam kết sẽ áp dụng biện pháp hữu hiệu nhằm xoá bỏ những tổn thất do việc bán phá giá gây ra, Bộ có thể quyết định ngừng điều tra việc chống bán phá giá, và thông báo quyết định này sau khi bàn bạc với Uỷ ban. Nếu việc cam kết không được thực hiện hoặc bị rút lại, thì việc điều tra chống bán phá giá được khôi phục lại.
Nếu quyết định cuối cùng là có tồn tại bán phá giá và gây tổn thất cho các ngành sản xuất trong nước, thì sẽ thực hiện việc thu thuế chống bán phá giá chính thức. Bộ đề ra kiến nghị thu thuế chống bán phá giá chính thức, Uỷ ban quy định mức thuế, Hải quan thực hiện. Mức thuế chống bán phá giá chính thức không vượt quá mức bán phá giá mà quyết định cuối cùng đã xác định.
Thời hạn thu thuế chống bán phá giá là 5 năm. Trong thời hạn này, Bộ có thể xem xét lại quyết định thu thuế chống bán phá giá theo thẩm quyền hoặc theo yêu cầu của các bên liên quan sau khi đã bàn bạc với Uỷ ban.
Nếu quốc gia hoặc khu vực nào áp dụng biện pháp chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp mang tính chất kỳ thị đối với hàng hoá xuất khẩu Trung Quốc, thì Trung Quốc sẽ căn cứ vào tình hình thực tế, áp dụng biện pháp tương ứng đối với quốc gia hoặc khu vực đó.
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp chống bán phá giá của Trung Quốc
Kể từ năm 1997 đến năm 2001, Trung Quốc tiến hành điều tra 22 vụ chống bán phá giá, trong đó có 9 vụ bị áp thuế chống bán phá giá. Trong số 11 nước bị Trung Quốc điều tra chống bán phá giá thì nước bị điều tra nhiều nhất là Hàn Quốc (6 vụ), Mỹ( 4 vụ), Nhật Bản (3 vụ), Đức (2 vụ). Số vụ kiện chống bán phá giá của Trung Quốc ngày càng tăng lên. Trong năm 2000 số vụ điều tra là 3 vụ song đến năm 2001 số vụ điều tra chống bán phá giá là 12 vụ((7) Xem phụ lục 2,3&5
). Mức thuế chống bán phá giá mà Trung Quốc đánh thuế thấp nhất là từ 14%-15% và cao nhất là 63%-67%((8) David R.Grace, Alexia Herwig, Yao Feng “ China’s Antidumping Regime” -2002
).
Tiếp đó, từ tháng 1 năm 2002 đến 31 tháng 12 năm 2004, Trung Quốc đã tiến hành điều tra 79 vụ chống bán phá giá, trong đó có 52 vụ đã bị áp thuế chống bán phá giá. Các nước bị điều tra nhiều nhất là Nhật Bản (17 vụ), Hàn Quốc (16 vụ), và Hoa Kỳ (14 vụ) (Xem Biểu đồ 3)
0
5
10
15
20
25
30
35
2002
2003
2004
Điêù tra ban đầu
Phán quyết cuối cùng
Nguồn: Notifications to the WTO.
LB Nga
6.5
Hoa Kỳ
15.1
EU15
10.8
Ấn Độ
2.2
Dược phẩm .
55.7
(b) Điều tra theo sản phẩm
%
(c) Điều tra theo nguồn gốc
%
Biểu đồ 3: Tổng hợp các vụ chống bán phá giá, 1/1/2002- 31/12/2004
(a) Điều tra ban đầu và phán quyết cuối cùng
Khoáng sản
5.1
Máy móc
3.8
Dệt may 1.3
Đài Loan
7.5
Hàn Quốc
17.2
Khác
7.5
Bột gỗ
Bột giáy
10.1
Nhựa , cao su
17.7
Kim loại 6.3
Nhật Bản
18.3
a . Bao gồm Iran, Kazakhstan, Malaysia, Mexico, Singapore, Thailand và Ukraine với mỗi trường hợp.
Có thể nói, biện pháp chống bán phá giá được Trung Quốc sử dụng như là một công cụ để trả đũa các nước áp thuế chống bán phá giá với Trung Quốc, phân đoạn thị trường thế giới cho lợi ích của những công ty lớn và là một công cụ bảo hộ trong quá tự do hoá thương mại. Trung Quốc mong muốn ngày càng thắt chặt hơn nữa những quy định của WTO(7) World trade Organization, March 2003 “China in WTO: Antidumping and safeguards”
.
3. Trợ cấp
Trung Quốc sử dụng nhiều hình thức trợ cấp như cho nhà sản xuất hưởng ưu đãi giá điện thấp, cho doanh nghiệp nhà nước và công ty nhà nước được vay ngân hàng với những điều kiện ưu đãi, trong đó có rất nhiều khoản vay không phải hoàn trả; các doanh nghiệp đáp ứng mục tiêu nhất định thì được vay ưu đãi và được cung cấp các phương tiện nghiên cứu và phát triển; các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong các đặc khu kinh tế và vùng ven biển được ưu đãi về thuế. Trung Quốc còn tiến hành trợ cấp tài chính cho các chương trình phát triển sản phẩm xuất khẩu cuối cùng.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ
SẢN XUẤT TRONG NƯỚC
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN VỪA QUA.
1. Những thành công
Chính sách bảo hộ của Việt Nam trong thời gian qua về cơ bản đã thực hiện được mục tiêu khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu, chú trọng bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích đầu tư thông qua việc quy định mức thuế suất nhập khẩu áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ các thị trường khác nhau. Ngoài ra còn áp dụng biện pháp bảo hộ có trọng điểm, có thời gian, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Có thể khái quát những thành công trong việc áp dụng chính sách bảo hộ của Việt Nam qua những điểm sau:
Tạo điều kiện cho nhiều ngành sản xuất tuy có sức cạnh tranh kém hơn so với nước ngoài vẫn tiếp tục duy trì và phát triển. Một số ngành như sản xuất xe máy, máy vi tính...đã nâng dần khả năng cạnh tranh nhờ nâng cao trình độ quản lý, đổi mới công nghệ.
Tạo điều kiện cho sản phẩm sản xuất trong nước tuy có chất lượng kém hơn, giá cao hơn hàng nhập khẩu tồn tại và phát triển được khiến cho Việt Nam có thể xây dựng các ngành sản xuất của riêng mình – như ngành mía đường, ngành xi măng... mà không phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu
Hỗ trợ xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng cho mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá như ngành thép, ngành sản xuất ô tô, xe máy.
Góp phần hướng dẫn tiêu dùng trong nước, đảm bảo một số mục tiêu xã hội như giữ gìn bản sắc văn hoá, duy trì công ăn việc làm.
2. Những hạn chế:
Bên cạnh những điều đã đạt được, việc thực hiện chính sách bảo hộ của Việt Nam trong thời gian gần đây vẫn tồn tại những bất cập lớn như:
Làm giảm sức cạnh tranh của sản xuất trong nước: nhiều ngành công nghiệp bị hạn chế khả năng tiếp cận với đầu vào nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế trong nước đắt hơn, làm tăng chi phí sản xuất, giảm lợi thế cạnh tranh.
Khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu trong khi định hướng chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam là sản xuất hướng về xuất khẩu. Tác động hạn chế nhập khẩu của các biện pháp phi thuế đã khiến nhiều chủ đầu tư rút nguồn lực khỏi lĩnh vực sản xuất phục vụ xuất khẩu để đổ xô vào lĩnh vực thay thế nhập khẩu, gây tổn thất đáng kể cho ngành xuất khẩu.
Không tạo ra động lực khuyến khích cạnh tranh trong các ngành được bảo hộ cao, ngăn cản những nỗ lực chủ động cải tiến, hợp lý hoá sản xuất, tự nâng cao khả năng cạnh tranh của nhiều ngành sản xuất nội địa
Các biện pháp bảo hộ của Việt Nam còn rất nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ của các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO, APEC...
II. CỤ THỂ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1. Hàng rào kỹ thuật
1.1.Các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn
Trong giai đoạn hiện nay, Hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) có trên 4600 tiêu chuẩn quốc gia, trong đó chỉ có khoảng 150 tiêu chuẩn bị bắt buộc áp dụng. Các tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng thường là những tiêu chuẩn liên quan đến các lĩnh vực an toàn, vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường.
Về mặt thể chế, Tổng cục Tiêu chuẩn, Đo lường và Chất lượng thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường là cơ quan quản lý nhà nước về những tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn và thủ tục xác định sự phù hợp. Một số văn bản liên quan đến vấn đề quy định kỹ thuật và thủ tục xác định sự phù hợp đã được ban hành. Tuy nhiên, do trình độ khoa học công nghệ cũng như trình độ quản lý còn nhiều hạn chế nên công tác kiểm tra chất lượng hàng hoá chưa được thực hiện tốt, chưa ngăn cản được hàng kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước, gây ra những tác hại nhất định đến sức khoẻ con người và môi trường.
Như vậy, Việt Nam chưa sử dụng hàng rào kỹ thuật như một công cụ hạn chế nhập khẩu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Cho đến nay, việc áp dụng chúng ở Việt Nam vẫn chưa có gì đáng kể do trình độ hạn chế của Việt Nam.
1.2. Vấn đề vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động vật và thực vật
Việt Nam đã xây dựng hệ thống các quy định về kiểm định hàng hoá nông sản nhập khẩu. Khi xây dựng hệ thống những quy định này, chúng ta đã có sự tham khảo các chuẩn mực quốc tế, do đó chưa có gì trái với các quy định của WTO. Nhưng hệ thống các quy định còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và còn đơn giản, thiếu chi tiết và nhất là việc tổ chức thực hiện thiếu chặt chẽ, vì vậy hiệu lực, hiệu quả sử dụng trên thực tế còn thấp. Do đó mục đích sử dụng các biện pháp này chỉ dừng lại ở mức độ bảo vệ sức khoẻ con người, động thực vật.
Kiểm dịch động vật và thực vật có thể được sử dụng như một hàng rào kỹ thuật hợp pháp để ngăn cản nhập khẩu nông sản. Việt Nam đã có những quy định pháp lý khá chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế về lĩnh vực này nhưng việc thực thi còn kém hiệu quả. Do đó, biện pháp này chưa được sử dụng tốt để bảo vệ sức khoẻ con người, động thực vật cũng như tạo ra hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước.
1.3. Yêu cầu về ghi nhãn hàng hoá
Đây là một NTM mang lại hiệu quả cao trong việc bảo hộ sản xuất trong nước, có thể tạo ra NTB. Trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển, biện pháp này được sử dụng như một công cụ hữu hiệu và được quy định chi tiết bằng hệ thống văn bản pháp luật.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, biện pháp này còn khá mới mẻ. Trình độ về tiêu chuẩn kĩ thuật của Việt Nam còn chưa đáp ứng được với yêu cầu chung của nền kinh tế trong quá trình hội nhập, lại phải cạnh tranh gay gắt với nước ngoài.
Trước năm 1999, Việt Nam hầu như chưa có quy định chi tiết về vận dụng biện pháp này như một công cụ bảo hộ sản xuất trong nước. Ngày 30/8/1999, Quy chế ghi nhãn hàng hoá đã được ban hành kèm theo Quyết định số 178/1999QĐ-TTg cùng ngày của Thủ tướng Chính phủ. Kể từ ngày 1/3/2000, các loại hàng sản xuất tại nước ngoài được nhập khẩu vào thị trường Việt Nam đều phải ghi nhãn hàng hoá theo Quy chế ghi nhãn hàng hoá ban hành theo Quyết định trên.
Hàng hoá nhập khẩu phải tuân thủ quy định về ghi nhãn như sau: Ghi trên phần nhãn nguyên gốc các thông tin thuộc nội dung bắt buộc (tên hàng hoá; tên và địa chỉ của thương nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa; định lượng của hàng hoá; thành phần cấu tạo; chỉ tiêu chất lượng chủ yếu; ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, thời hạn bảo quản; hướng dẫn bảo quản, hướng dẫn sử dụng; xuất xứ của hàng hoá) bằng tiếng Việt Nam hoặc làm nhãn phụ ghi những thông tin thuộc nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt Nam đính kèm nhãn nguyên gốc của hàng hoá đó trước khi đưa ra bán ở thị trường Việt Nam.
Đây là một bước thay đổi tiến bộ, song các quy định còn đơn giản so với quy định của nhiều nước công nghiệp phát triển trên thế giới, tác dụng bảo hộ còn hạn chế, hơn nữa chúng ta vẫn còn thiếu những quy định về đóng gói hàng hoá.
2. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời
2.1. Chống bán phá giá
Trong giai đoạn này, Việt Nam chưa có văn bản pháp luật về chống bán phá giá và cũng chưa áp dụng biện pháp này trong thực tế. Tuy nhiên, hiện nay, Nhà nước đang nghiên cứu để sắp tới sẽ cho ra đời và bắt đầu áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH 11 ngày 16/6/2005 đã có quy định các biện pháp về thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và thuế chống phân biệt đối xử đối với hàng hoá nhập khẩu. Chính phủ cũng ban hành nghị định số 90/2005/NĐ - CP ngày 11/7/2005 quy định chi tiết một số điều của pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, nghị định 04/2006/NĐ - CP ngày 9/1/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ. Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư số 106/2005/TT – BTC ngày 5/2/2005 hướng dẫn thu thu, nộp, hoàn trả thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có các bộ luật hoàn chỉnh về thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp như các nước đã hội nhập trước Việt Nam nhiều năm. Việt Nam cũng chưa có kinh nghiệm gì trong việc điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp và cũng chưa có kinh nghiệm gì đáng kể trong việc đối phó với việc hàng xuất khẩu của Việt Nam bị điều tra bán phá giá và trợ cấp. Xét trên những khía cạnh này, việc hình thành và xây dựng bộ máy thực thi áp dụng chống bán phá giá và chống trợ cấp cuả Việt Nam mới đang ở giai đoạn khởi động và bước đầu vận hành. Đó sẽ là một trong những khó khăn chủ yếu của Việt Nam khi phải đối mặt với những tranh chấp thương mại quốc tế khi tiến sâu hơn vào tiến trình tự do hoá thương mại.
2.2. Các biện pháp tự vệ
Biện pháp tự vệ là một công cụ được WTO thừa nhận để hạn chế định lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng. Trên thực tế, Việt Nam đã áp dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ một số ngành trong nước nhằm tránh tổn thương do hàng nhập khẩu gia tăng lớn về số lượng.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị định số 150 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về Tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam. Theo đó, Nghị định quy định cụ thể về các biện pháp tự vệ, thủ tục điều tra và áp dụng các biện pháp này trong trường hợp nhập khẩu hàng hoá quá mức vào Việt Nam, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Bảy biện pháp tự vệ gồm: tăng mức thuế nhập khẩu so với mức thuế nhập khẩu hiện hành, áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, áp dụng hạn ngạch thuế quan, áp dụng thuế tuyệt đối, cấp phép nhập khẩu để kiểm soát nhập khẩu, phụ thu đối với hàng hoá nhập khẩu, các biện pháp khác.
Các biện pháp tự vệ có thể không áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ một nước kém phát triển nếu hàng hoá nhập khẩu của nước đó vào Việt Nam không vượt quá 3% tổng lượng hàng hoá nhập khẩu bị điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ. Bên cạnh đó các biện pháp tự vệ vẫn được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ các nước kém phát triển, nếu tổng lượng hàng hoá nhập khẩu của các nước này vào Việt Nam vượt quá 9% tổng lượng hàng hoá nhập khẩu bị điều tra để áp dụng các biện pháp tự vệ.
Bộ Thương mại là cơ quan chịu trách nhiệm điều tra trước khi quyết định áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp tự vệ.
3. Trợ cấp
Là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, thu nhập đầu người hàng năm ở mức dưới 1.000 USD, Việt Nam có lý do chính đáng cần duy trì một số chương trình, biện pháp trợ cấp nhất định để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, hỗ trợ một số ngành non trẻ nhưng có ý nghĩa lớn đối với đời sống của bộ phận phần lớn dân cư. Hiện nay, các chương trình trợ cấp ở Việt Nam nhìn chung có giá trị không lớn, phần nhiều mang tính chất hỗ trợ bổ sung hoặc khuyến khích động viên. Hình thức trợ cấp phổ biến là ưu đãi miễn giảm về thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu…) dưới dạng các ưu đãi đầu tư để thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia vào các lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên phát triển hoặc các địa bàn khó khăn cần có đòn bẩy kinh tế để phát triển.
Tuy nhiên, theo quy định của WTO thì một số chương trình hoặc các biện pháp trợ cấp nói trên của Việt Nam bị coi là trợ cấp bị cấm (như mức thuế nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hoá, thưởng theo kim ngạch xuất khẩu, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho dự án sản xuất hàng xuất khẩu…) và do đó WTO yêu cầu Việt Nam phải chấm dứt.
Với quyết tâm hội nhập sâu rộng vào WTO, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc điều chỉnh các chính sách trong nước liên quan tới trợ cấp. Cho tới nay, Việt Nam đã cam kết bãi bỏ các hình thức trợ cấp liên quan đến tỷ lệ nội địa hoá hoặc yêu cầu sử dụng nguyên liệu trong nước và các hình thức trợ cấp trực tiếp từ ngân sách theo thành tích xuất khẩu từ thời điểm gia nhập WTO.
Đối với các hình thức trợ cấp xuất khẩu bị cấm còn lại theo hiệp đinh SCM (chủ yếu dưới hình thức các ưu đãi đầu tư), Việt Nam cam kết bãi bỏ sau 9 năm kể từ thời điểm gia nhập.
Đối với trợ cấp nông nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định Nông nghiệp, Việt Nam cũng đã cam kết ràng buộc trợ cấp xuất khẩu nông sản ở mức bằng 0 trong Biểu cam kết về hàng hoá và khẳng định rằng kể từ thời điểm gia nhập, Việt Nam sẽ không duy trì hoặc đưa ra bất cứ biện pháp trợ cấp xuất khẩu nào đối với hàng nông sản, trừ một số loại trợ cấp xuất khẩu nông sản mà các nước đang phát triển được phép duy trì.
Hiện tại, Việt Nam đang duy trì nhiều hình thức trợ cấp thông qua tín dụng ưu đãi, ưu đãi về thuế (thuế suất ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp), thưởng xuất khẩu, ưu đãi bảo lãnh tín dụng, rút ngắn thời gian khấu hao tài sản cố định, giảm mức vốn lưu động tối thiểu theo quy định, miễn giảm hoặc hoãn nộp tiền thuê đất.
Bản thông báo về Trợ cấp công nghiệp của Việt Nam theo Điều XVI.1 của GATT 1994 và Điều 25 của Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng giai đoạn 1996-1998 bao gồm các chương trình sau:
Hỗ trợ một số doanh nghiệp điều chỉnh cơ cấu
Hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng xuất khẩu
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước sản xuất kinh doanh trng một số lĩnh vực nhất định
Hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực nhất định
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước sản xuất kinh doanh trong một số địa bàn nhất định
Hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất kinh doanh trong một số địa bàn nhất định
Tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp ngành vật liệu điện
Hỗ trợ cơ sở sản xuất gặp khó khăn, cơ sở sản xuất mới thành lập hoặc mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ sản xuất mới
Hỗ trợ các doanh nghiệp công ích nhà nước
Các chương trình trợ cấp này đã có tác dụng hỗ trợ đáng kể cho một số doanh nghiệp trong nước.
Mức hỗ trợ nông nghiệp trong nước của Việt Nam rất thấp và thường chỉ là các chương trình hỗ trợ dạng "hộp xanh" được WTO cho phép như hỗ trợ nghiên cứu khoa học, đào tạo, hỗ trợ các vùng khó khăn.. Mức hỗ tẹ ở những hình thức bị WTO yêu cầu cắt giảm như hỗ trợ về giá đối với nông sản là hầu như bằng không. Trong khi đó, quy định của WTO cho phép các nước thành viên đang phát triển có thể duy trì các hỗ trợ dạng này với điều kiện mức hỗ trợ không vượt quá 10% tổng giá trị sản xuất đôí với một nông sản cụ thể hay toàn bộ giá trị sản xuất nông nghiệp của nước đó.
Về việc áp dụng thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu vào Việt Nam phù hợp với những quy định của WTO, Việt Nam đã ban hành pháp lệnh chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam số 22/2004/PL – UBTVQH10 ngày 30/8/2004 thể hiện đầy đủ tinh thần và nội dung cơ bản của Hiệp định SCM về áp dụng biện pháp đối kháng đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp. Bên cạnh đó, ngày 11/7/2005, Chính phủ đã ban hành nghị định số 89/2005/ NĐ - CP về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống trợ cấp hàng nhập khẩu vào Việt Nam để hoàn thiện cơ sở pháp lý và thực thi việc sử dụng công cụ thuế chống trợ cấp đảm bảo tính công bằng trong cạnh tranh thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Quy tắc xuất xứ
Trong giai đoạn này, Việt Nam mới chỉ có quy định về xuất xứ ưu đãi với các thành viên AFTA mà chưa có quy định nào khác về quy tắc xuất xứ không ưu đãi. Trong khi nhiều nước sử dụng quy tắc xuất xứ như một công cụ bảo hộ hiệu quả sản xuất trong nước thì Việt Nam chưa triển khai nghiên cứu đầy đủ và tận dụng khả năng có thể áp dụng biện pháp này.
Tháng 11/1995, Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan đã ra Thông tư liên bộ số 280/BTM-TCHQ quy định về giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Thông tư này bao gồm những nguyên tắc chung về chế độ cấp và kiểm tra Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Ngoài ra, đối với từng chế độ ưu đãi cụ thể cũng có các quy định riêng về xuất xứ như Thông tư số 33/TC-TCT (năm 1996) quy định Danh mục hàng hoá và thuế suất nhập khẩu để thực hiện chương trình giảm thuế hàng nhập khẩu từ EU; Quy chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá đối với hàng xuất sang EU (mẫu A và B); Quyết định số 416/T M-ĐB năm 1996 của Bộ Thương Mại ban hành Quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN của Việt Nam (mẫu D) để hưởng các ưu đãi theo “ Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT)” trong nông nghiệp và công nghiệp
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO HỘ HỢP LÝ CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
Xuất phát từ những quan điểm của Nhà nước ta về việc thực thi chính sách bảo hộ các ngành sản xuất trong nước cho thấy việc xây dựng hệ thống chính sách bảo hộ hợp lý phải quán triệt những nguyên tắc sau:
Những biện pháp bảo hộ phải phù hợp với thông lệ quốc tế đã được cụ thể hoá ở WTO; phù hợp với những quy định cụ thể của ASEAN và APEC.
Hệ thống các biện pháp bảo hộ phải đủ mạnh để bảo vệ nền sản xuất non trẻ trong nước, song phải tạo đà và thúc đẩy các doanh nghiệp tự đổi mới và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế.
Trong quá trình thực thi các chính sách bảo hộ với mục tiêu tạo thuận lợi cho thương mại là chính, cần phải có sự khuyến khích và kết hợp chặt chẽ, khéo léo giữa hệ thống hàng rào thuế quan với hệ thống các biện pháp phi thuế quan, giữa tự do hoá với việc bảo hộ trong nước, đặt quyền lợi quốc gia lên hàng đầu. Như vậy, hệ thống phi thuế quan cần đảm bảo nguyên tắc luôn tạo ra được một lối thoát nhất định khi nền thương mại trong nước bị đe doạ trước sự cạnh tranh quốc tế.
Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, việc sử dụng các NTM cổ điển như cấm nhập khẩu, hạn ngạch hay doanh nghiệp đầu mối để bảo hộ sản xuất trong nước sẽ ngày càng khó khăn. Vì vậy, nghiên cứu các NTM mới để có thể tiếp tục bảo hộ một số ngành sản xuất theo đúng những mục tiêu phát triển dài hạn của đất nước là rất cần thiết. Khi xây dựng và áp dụng các NTM, nguyên tắc chung là không trái với các quy định của WTO.
Từ thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo hộ hợp lý của các nước Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc để bảo vệ sản xuất trong nước cũng như theo các quy tắc của WTO , chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thực thi chính sách bảo hộ hợp lý trong thời kỳ hội nhập.
1. Các biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật
Theo các Hiệp định của WTO về các hàng rào kĩ thuật đối với thương mại (Agreement on Technical Barriers to Trade - TBT) về vệ sinh kiểm dịch động thực vật (Agreement on Sanitary and Phytosannitary Measures - SPS), các nước được phép sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kĩ thuật, các biện pháp vệ sinh kiểm dịch thích hợp hoặc cần thiết để bảo vệ sức khoẻ, đời sống của con người, động thực vật, bảo vệ môi trường và quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, các biện pháp đó không được áp dụng nhằm tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hay hạn chế vô lý đối với thương mại quốc tế.
Trên thực tế, Việt Nam nên có chính sách đồng bộ hơn về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như cần nâng cao hơn nữa khả năng vận dụng linh hoạt các quy định của Hiệp định TBT nhằm phục vụ tốt các mục tiêu phát triển nói chung và thương mại nói riêng. Cụ thể, Việt Nam có thể bảo vệ sản xuất trong nước thông qua hạn chế nhập khẩu nếu biết khéo léo vận dụng tiêu chí “thích hợp” hoặc “cần thiết” của Hiệp định TBT.
Tương tự việc sử dụng TBT, vận dụng tốt các biện pháp SPS trong thương mại cũng là một phương thức hợp pháp và hiệu quả để bảo vệ sản xuất nông nghiệp nói riêng cũng như sức khoẻ con người, động thực vật và môi trường nói chung. Muốn như vậy, Việt Nam cần xây dựng hợp lý danh mục chi tiết các mặt hàng phải kiểm tra SPS bắt buộc.
Bảo hộ thông qua hàng rào kỹ thuật còn được gọi là bảo hộ “vùng xám” . Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ thống các biện pháp bảo hộ kiểu này kết hợp với các biện pháp có thể biện hộ là phù hợp với thông lệ và quy định của WTO tiêu chuẩn môi trường, thủ tục nhập khẩu… Các biện pháp “bảo hộ vùng xám” có hiệu quả không khác các biện pháp bảo hộ thông thường, nhưng cách thức và biện pháp bảo hộ tinh xảo hơn, tận dụng chính những lỗ hổng trong hệ thống pháp lý của WTO. Bảo hộ được chuyển từ các biện pháp hạn chế định lượng sang các biện pháp tinh vi, mang tính kĩ thuật hơn và đang là xu thế chung của chính sách bảo hộ hợp lý. Các biện pháp vừa được WTO thừa nhận vừa giúp nước áp dụng đạt được mục tiêu bảo hộ tốt nhất. Kết hợp sử dụng bảo hộ vùng xám và các biện pháp khác để sử dụng trong trường hợp cần thiết như:
Xây dựng, hài hoà và hệ thống hoá các biện pháp kỹ thuật, môi trường, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, hệ thống quản lý chất lượng, quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm mục đích bảo hộ khi cần thiết cho các ngành thực hiện tự do hoá, tránh gây ra những biến động lớn đối với các ngành kinh tế.
Tăng cường đào tạo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, luật pháp, kinh nghiệm cho các cán bộ thuộc các cơ quan chức năng liên quan đến việc áp dụng các biện pháp “vùng xám”.
Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác điều tra, kiểm tra hàng hoá nhằm thực thi nghiêm túc các quy định về tiêu chuẩn, quy cách hàng hoá của các cơ quan quản lý chức năng.
Đổi mới phương thức trợ cấp xuất khẩu hiện nay theo hướng tập trung có trọng điểm. Vì thế, trợ cấp xuất khẩu hướng vào những ngành kinh tế được bảo hộ có định hướng xuất khẩu (là mục tiêu của chính sách thương mại) chứ không chỉ đơn thuần dựa trên kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp như hiện nay.
Nâng cao việc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với cơ quan thực hiện đàm phán quốc tế đảm bảo khả năng thực thi cơ chế bảo hộ vùng xám, tránh gây ra các tranh chấp có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường mại quốc tế.
2. Các biện pháp chống bán phá giá
Từ thực tiễn chống bán phá giá của các nước nêu trên cũng như đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá, chúng ta có thể rút ra bài học tổng quát cho Việt Nam sau đây:
@ Luật pháp và thực tiễn chống bán phá giá ở hầu hết các nước này đều tuân thủ theo những quy định của WTO, chỉ khác nhau những vấn đề mà trong quy định của WTO chưa quy định, không quy định rõ hoặc cho phép các Chính phủ được quyền quyết định. Có thể nói rằng những quy định về chống bán phá giá của WTO là cốt lõi, nền tảng để các quốc gia ban hành, sửa đổi cũng như áp dụng các quy định về chống bán phá giá của mình. Để tiến hành chống bán phá giá có kết quả, cần thiết phải ban hành Đạo luật chống bán phá giá. Nội dung của luật chống bán phá giá cần phải phù hợp với các quy định chung, cơ bản của Luật chống bán phá giá của WTO (GATT 1994). Trong đó có tính đến các quy định riêng biệt phù hợp với đặc thù từng nước.
@ Có cơ quan chuyên trách của Nhà nước phụ trách công tác chống bán phá giá. Cơ quan này sẽ đứng ra tiến hành điều tra bán phá giá, và đưa ra kết luận về hành vi bán phá giá cũng như quy định mức thuế chống bán phá giá nếu có hành động bán phá giá xảy ra.
@ Hành động chống bán phá giá nhằm mục đích chống lại bán phá giá (qua thuế chống bán phá giá), chống lại sự trợ cấp tài chính của nước ngoài (qua thuế đối kháng), hơn thế nữa mà còn là biện pháp trả đũa với những nước áp dụng các mức thuế mang tính kỳ thị áp đặt đối với hàng hoá của nước mình. Nếu Việt Nam bị nước ngoài áp thuế chống bán phá giá thì Việt Nam cũng có thể dùng biện pháp này để trả đũa.
@ Hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong việc chống bán phá giá. Phát huy sức mạnh của hiệp hội và sự hợp tác của các doanh nghiệp cùng nhau đối phó với vấn đề bán phá giá là hết sức cần thiết, nhằm ngăn chặn hành vi bán phá giá trên thị trường nội địa một cách thành công.
Kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá ở thị trường nước ngoài
@ Cách làm có hiệu quả nhất là chủ động đứng lên kháng kiện, giành quyền lợi hợp pháp cho mình. Điều cốt yếu là tất cả đều ý thức được tính hệ trọng của vấn đề, cùng thống nhất có thái độ tích cực tiến hành kháng cáo. Thực tế chứng minh ở một số nước công nghiệp phát triển có hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện, chúng ta cần phải vận dụng vũ khí pháp luật, đấu tranh có lý, có tình sẽ bảo vệ được quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu của ta.
@ Phát huy vai trò, các hiệp hội ngành hàng xuất nhập khẩu. Tất cả đồng lòng hiệp lực tham gia kháng kiện. Các doanh nghiệp cần đoàn kết thành một khối thống nhất, nghiêm túc thực hiện các nghị quyết, biện pháp được hiệp hội thông qua để cùng hợp lực giành thế chủ động trong kháng kiện.
@ Mời luật sư có kinh nghiệm, có năng lực là điều kiện quan trọng bảo đảm giành thắng lợi trong vụ kiện.
@ Các doanh nghiệp liên quan đến vụ kiện cần sớm bắt tay vào hành động mới có thể chủ động. Hiệp hội sớm tập hợp tài liệu liên quan đến vụ kiện gửi cho các doanh nghiệp. Trong thời gian trước khi khởi kiện, hiệp hội mời luật sư có kinh nghiệm và các chuyên gia kinh tế đến các doanh nghiệp hướng dẫn cách thức điều tra trước, giúp các doanh nghiệp làm tốt công tác chuẩn bị theo yêu cầu của bên đi kiện đối với việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở đơn vị mình, tạo điều kiện tốt cho việc kiểm tra thuận lợi và lập luận kháng cáo sau này.
Bên cạnh đó, sự ủng hộ chi viện kịp thời của Bộ, Ngành là rất quan trọng. Có thể dẫn ra ví dụ của Trung Quốc trong vụ kiện nước táo đặc của nước này, Lãnh đạo Bộ hợp tác Kinh tế Mậu dịch và các Ngành hữu quan đã kịp can thiệp và chi viện có hiệu quả các doanh nghiệp trong thời điểm quyết định, góp phần to lớn làm cho vụ kiện tiến triển theo hướng khách quan, công bằng và có lợi cho Trung Quốc.
Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có một điều khoản rất chung chung trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nói về thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá. Để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước những hàng nhập khẩu bán phá giá, chúng ta cần khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy về chống bán phá giá (có thể là Luật hoặc Pháp lệnh) với các mục tiêu sau:
Thứ nhất: Đảm bảo duy trì sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng trên thị trường.
Thứ hai: Ngăn chặn một công ty hoặc một ngành sản xuất nước ngoài dùng hành động bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường nước ta, nhằm bảo vệ cho các ngành sản xuất công nghiệp trong nước.
Thứ ba: Là công cụ để chống lại tình trạng Chính phủ hoặc các Hiệp hội nước ngoài trợ cấp cho hàng hóa xuất khẩu của họ, dẫn đến hành động bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa của Việt Nam.
Thứ tư: Là công cụ để áp dụng biện pháp trả đũa đối với những quốc gia, vùng, lãnh thổ nào áp dụng biện pháp bán phá giá mang tổ chức kỳ thị, phân biệt đối xử đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Việc ban hành Luật chống bán phá giá của Việt Nam nếu được ban hành phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời phải phù hợp với Hiệp định chống bán phá giá theo khuôn khổ của WTO. Trong quá trình xây dựng Luật, cần chú ý đến yếu tố nền kinh tế đang phát triển ở nước ta, việc xây dựng các quy định phải phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước.
3. Tự vệ
Mặc dù đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam, nhưng cho đến nay, những biện pháp tự vệ mà Việt Nam áp dụng vẫn chưa phát huy một cách có hiệu quả, trong khi hàng hoá của nhiều nước vẫn đang phá giá tại thị trường Việt Nam, hoặc đang đe doạ tới ngành công nghiệp nội địa, thậm chí cả những hàng hoá có ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, nhân cách… vẫn đang nhập lậu vào Việt Nam.
Biện pháp tự vệ là một công cụ được WTO thừa nhận để hạn chế định lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng. Đây là biện pháp có tầm quan trọng rất lớn bởi khả năng phát huy tác động nhanh chóng và mạnh mẽ của nó. Trong thời kỳ hội nhập, việc sử dụng biện pháp này là điều cần thiết nhưng chúng ta cần nhận rõ một nhược điểm không thể phủ nhận của biện pháp này là nó không thể duy trì được trong một thời gian dài và dễ gây ra các hành động trả đũa.
4. Trợ cấp
Một trong các công cụ được WTO cho phép các nước thành viên duy trì là các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước thành viên khác. Các hình thức trợ cấp trong Hiệp định SCM chủ yếu liên quan đến các sản phẩm công nghiệp.
Trợ cấp cho các ngành công nghiệp nội địa có thể dưới hình thức trợ cấp trực tiếp hoặc trợ cấp gián tiếp. Có thể kể đến các hình thức trợ cấp trực tiếp như trợ giúp tài chính, cho vay ưu đãi của Chính phủ.. Trợ cấp gián tiếp có thể thực hiện thông qua hỗ trợ các ngành cung cấp đầu vào hay đảm bảo đầu ra cho sản phẩm.
Mặc dù các quy định về trợ cấp tại Hiệp định SCM và Hiệp định Nông nghiệp của WTO khá chi tiết nhưng một số hình thức trợ cấp vẫn còn chưa chịu sự điều chỉnh cụ thể bởi các quy tắc quốc tế thống nhất. Có thể kể ra ở đây là các hình thức trợ cấp liên quan tới tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm xuất khẩu. Chính vì thế mà nhiều nước vẫn đang tiếp tục áp dụng những hình thức trợ cấp này nhằm tránh né các cam kết về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu.
Một điểm đáng lưu ý là WTO thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển hợp pháp và quan trọng của các thành viên đang phát triển. Dưới giác độ pháp lý, Việt Nam có thể được hưởng những đãi ngộ đặc biệt và khác biệt về trợ cấp dành cho nước đang phát triển khi trở thành thành viên của WTO.
Do đó, Việt Nam có thể nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác để sử dụng hiệu quả các biện pháp trợ cấp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước. Để đáp ứng yêu cầu của WTO, bên cạnh việc tiếp tục duy trì các hình thức trợ cấp không ảnh hưởng tới thương mại (như trợ cấp nghiên cứu giống mới trong nông nghiệp, phương pháp sản xuất mới, xóa đói giảm nghèo, khắc phục thiên tai,...) thì những hình thức hỗ trợ cho xuất khẩu (như trợ giá, hỗ trợ lãi suất, thưởng thức xuất khẩu, ...) cần phải từng bước loại bỏ, có thể thay vào đó là những hình thức trợ cấp khác phù hợp với các quy định của WTO. Trong vấn đề này, Việt Nam cần phải phát huy mạnh mẽ vai trò của các Hiệp hội ngành hàng, nhất là trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước cần cho phép và khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ hỗ trợ, Quỹ phòng ngừa rủi ro cho ngành hàng của mình, nhất là những ngành hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn (như gạo, cà phê, cao su, chè, thuỷ hải sản....) Những hỗ trợ từ các Quỹ của Hiệp hội cho các thành viên khi giá cả thị trường biến động thất thường mà nguồn thu của Quỹ là do các thành viên đóng góp tự nguyện, hoặc từ các khoản tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong ngoài nước theo đúng quy định của Nhà nước hay từ các khoản thu nhập chính đáng của Hiệp hội tạo ra thì không vi phạm các quy định của WTO.
Ngoài ra, các biện pháp trợ cấp mang tính phổ biến và ít bóp méo thương mại như hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, nâng cấp máy móc thiết bị đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, hỗ trợ về hạ tầng nông nghiệp vv.. được WTO cho phép áp dụng mà không bị hành động đối kháng cần được tích cực vận dụng vì có thể có tác dụng gián tiếp hỗ trợ sản xuất nội địa, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh.
5. Thuế thời vụ
Thuế thời vụ là hình thức áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau cho cùng một sản phẩm tuỳ thuộc vào thời gian chịu thuế của sản phẩm. Ví dụ, ở Việt Nam, vụ mùa cam bắt đầu từ đầu tháng 8 đến cuối tháng 11. Vào chính mùa cam (tù tháng 8 đến tháng 11), cam thu hoạch trong nước nhiều, Việt Nam áp dụng mức thuế suất nhập khẩu cho cam là 20%. Ngoài thời gian này, nhu cầu tiêu thụ trong nước vẫn lớn trong khi sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu, Việt Nam quy định thuế xuất nhập khẩu với cam là 0%.
Theo Hiệp định nông nghiệp, phải thuế hoá tất cả các NTM cho sản phẩm nông nghiệp. Do đó, áp dụng thuế thời vụ vừa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định vừa tăng tính linh hoạt cuả công cụ thuế cho mặt hàng chịu thuế thời vụ.
6. Các biện pháp liên quan đến môi trường
Vấn đề bảo vệ môi trường đang và sẽ là một chủ đề nổi bật liên quan
đến nhiều lĩnh vực của quan hệ quốc tế, trong đó có thương mại. Mỗi một quốc gia đều có chính sách riêng liên quan tới bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy việc sử dụng các biện pháp liên quan đến môi trường như một NTB sẽ là xu hướng mới trong thương mại quốc tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam nên nghiên cứu để có thể khai thác tốt NTB này khi cần bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời có thể đưa ra căn cứ xác đáng bác bỏ những biện pháp viện lý do để bảo vệ môi trường để hạn chế hàng nhập khẩu của Việt Nam.
Một thực tế không thể phủ nhận được là ngày càng có nhiều biện pháp phi thuế quan mới ra đời thì tính phức tạp của việc áp dụng và quản lý các biện pháp phi thuế quan ngày càng trở nên khó khăn hơn. Thực tế đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam là cần có một định hướng đúng đắn cho sự áp dụng và quản lý đó. Trên đây là một số định hướng cơ bản có tính tham khảo, góp phần vào việc quản lý nhà nước về thương mại quốc tế ngày càng có hiệu quả hơn.
7. Sử dụng đội ngũ cán bộ có trình độ trong việc quản lý thực thi các chính sách bảo hộ ở Việt Nam
Trước hết là đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách bảo hộ, bởi mỗi một quyết định đề ra sẽ có tác động to lớn tới các ngành sản xuất trong nước và theo chi phí cơ hội thì các biện pháp bảo hộ này sẽ gây thiệt hại và lãng phí cho xã hội. Bởi vậy, nếu một chính sách bảo hộ đề ra là sai lầm thì thiệt hại sẽ còn được nhân lên nhiều lần. Ngoài ra, để thực thi được chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế đòi hỏi người hoạch định chính sách phải có kinh nghiệm và sự am hiểu rộng, nếu không sẽ rất khó khăn cho Việt Nam trong giai đoạn muốn hội nhập vào các tổ chức kinh tế lớn như WTO, khi mà vị thế của chúng ta về kinh tế và chính trị còn thấp. Các cán bộ cấp cao này phải là người có kiến thức sâu rộng, có kĩ năng đàm phán, thuyết phục.
Với các cán bộ thực thi như cán bộ Hải quan, các Bộ ngành phụ trách về phân bổ hạn ngạch, trợ cấp thì phải được tiến hành đào tạo và nâng cao đạo đức, trách nhiệm và phải có kĩ năng xử lý trước mọi tình huống và đạo đức nghề nghiệp để phòng tránh tác động xấu của hạn chế nhập khẩu là buôn lậu, gian lận thương mại ...
Như vậy, theo kinh nghiệm của các nước đi trước, từ thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo hộ của các nước Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam sau đây:
@ Việc áp dụng các biện pháp bảo hộ của các quốc gia này đều tuân thủ theo những quy định của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO. Tuy nhiên cũng có thể thấy rằng đây là những quốc gia lớn, về vị thế lẫn tầm ảnh hưởng với thương mại quốc tế đều khác hẳn Việt Nam. Việt Nam cần phải học tập kinh nghiệm của những nước đi trước trong quá trình hội nhập nhưng phải áp dụng một cách linh hoạt, tránh rập khuôn.
@ Bảo hộ sản xuất trong nước dường như là nhu cầu không thể xóa bỏ với mọi quốc gia, ngay cả trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Tuy nhiên, khi tham gia vào các Tổ chức kinh tế thế giới và khu vực mà lớn nhất là WTO, các quốc gia buộc phải tuân thủ những quy định chung và áp dụng một biểu thuế quan thống nhất. Khi đó, các kinh nghiệm về áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan thích hợp trong giai đoạn mới sẽ giúp cho các quốc gia này vừa đạt được mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước vừa đạt được một số mục tiêu xã hội khác (an toàn sức khỏe, bảo vệ môi trường...) lai tránh được sự cạnh tranh không lành mạnh. (Kinh nghiêm của Mỹ, EU)
@ Bảo hộ được chuyển từ các biện pháp hạn chế định lượng sang các biện pháp tinh vi, mang tính kĩ thuật hơn. Ví dụ như bảo hộ thông qua sử dụng hàng rào kĩ thuật; quy định về vệ sinh dịch tễ; sử dụng luật chống bán phá giá; quy định về đóng gói, nhãn mác xuất xứ của hàng hoá... đang là xu hướng thế chung của việc áp dụng các biện pháp bảo hộ. Các biện pháp này vừa được WTO thừa nhận vừa giúp nước áp dụng đạt được mục tiêu bảo hộ tốt nhất.
KẾT LUẬN
Hội nhập là một xu thế tất yếu mà Việt Nam đã lựa chọn để đưa kinh tế đất nước phát triển. Trong đó, gia nhập WTO được xem là cột mốc quan trọng nhất trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, gia nhập vào tổ chức này có nghĩa là các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của hàng hoá từ bên ngoài. Vấn đề này đòi hỏi Nhà nước cần nghiên cứu một chính sách bảo hộ hợp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và có hiệu quả trong áp dụng để có sự điều chỉnh thích hợp trong thời gian sắp tới và cả trong tương lai xa hơn.
Qua việc nghiên cứu tiến trình áp dụng các biện pháp bảo hộ của một số quốc gia trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng và những quy định chung về các biện pháp này của WTO có sự so sánh và đối chiếu những điểm chưa phù hợp. Đề tài này đã cố gắng đề xuất những giải pháp thích hợp trong giai đoạn mới - giai đoạn nền kinh tế Việt Nam hướng tới hội nhập toàn diện với nền kinh tế thế giới, những giải pháp này được xây dựng dựa trên việc rút ra từ kinh nghiệm áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý của một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc.
Ngoài ra, đề tài cũng đã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng và duy trì các biện pháp bảo hộ để bảo vệ sản xuất hàng hoá ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thương mại quốc tế. Trên thực tế không một nước nào lại từ bỏ các biện pháp bảo hộ trong những lĩnh vực sản xuất nhất định nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội của mình.
Nhưng gia nhập WTO có nghĩa là Việt nam sẽ mất đi đáng kể sự linh hoạt trong việc áp dụng các biện pháp bảo hộ này. Vấn đề vừa mang tính khoa học vừa mang tính thực tiễn cao là phải xác định được lĩnh vực nào cần được bảo hộ, bảo hộ trong thời gian bao lâu và sử dụng những biện pháp nào để bảo hộ. Tuy nhiên, do hạn chế của bản thân người viết nên đề tài này chưa thể giải quyết được vấn đề đó mà chỉ dừng lại ở mức nêu ra một số cơ sở khoa học định hướng cho việc xây dựng và áp dụng các biện pháp nhằm bảo hộ sản xuất trong quá trình hội nhập quốc tế. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bè bạn để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
MỤC LỤC
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI 31
I. CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA HOA KỲ 31
1. Các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ 31
2. Quy định về xuất xứ và ký mã hiệu hàng hoá 34
3. Các biện pháp thương mại tạm thời 36
3.1. Tự vệ 36
3.2. Luật thuế đối kháng (Countervailing Duty Law - CVD) 37
3.3. Luật thuế chống bán phá giá (Antidumping Law) 38
II. KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA EU 41
1. Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật 41
2. Giấy chứng nhận kiểm dịch động thực vật 43
3. Các biện pháp thương mại tạm thời 44
3.1. Biện pháp chống bán phá giá và thuế đối kháng 44
3.2. Biện pháp tự vệ 45
4. Trợ cấp 46
4.1. Trợ cấp xuất khẩu 46
4.2. Hỗ trợ trong nước 46
III. CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA TRUNG QUỐC. 48
1. Các biện pháp kiểm định và kiểm dịch hàng hoá nhập khẩu 49
2. Thực tiễn áp dụng chính sách chống bán phá giá của Trung Quốc 50
2.1. Luật chống bán phá giá của Trung Quốc 50
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp chống bán phá giá của Trung Quốc 52
3. Trợ cấp 54
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC 55
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ CỦA VIỆT NAM TRONGTHỜI GIAN VỪA QUA. 55
1. Những thành công 55
2. Những hạn chế: 56
II. CỤ THỂ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 57
1. Hàng rào kỹ thuật 57
1.1.Các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn 57
1.2. Vấn đề vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động vật và thực vật 57
1.3. Yêu cầu về ghi nhãn hàng hoá 58
2. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời 59
2.1. Chống bán phá giá 59
2.2. Các biện pháp tự vệ 60
3. Trợ cấp 61
4. Quy tắc xuất xứ 63
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO HỘ HỢP LÝ CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP 64
1. Các biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật 65
2. Các biện pháp chống bán phá giá 67
3. Tự vệ 69
4. Trợ cấp 70
5. Thuế thời vụ 72
6. Các biện pháp liên quan đến môi trường 72
7. Sử dụng đội ngũ cán bộ có trình độ trong việc quản lý thực thi các chính sách bảo hộ ở Việt Nam 73
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG KHOÁ LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Điều tra thuế đối kháng, Hoa Kỳ, 1980-04
Bảng 2: Điều tra chống bán phá giá, Hoa Kỳ, 1980-04
Bảng 3: Tổng hợp các biện pháp thương mại tạm thời của EU, 2000-2006
Bảng 4: Giá trị trợ cấp xuất khẩu của EU 1995-2001 (đơn vị: USD)
Bảng 5: Tiêu chuẩn quốc gia của Trung Quốc , 2000- 04
Biểu đồ 1: Tổng hợp 10 quốc gia trong các vụ thuế chống bán phá giá vào
Hoa Kỳ 1980 - 2005
Biểu đồ 2: Tổng hợp 10 quốc gia trong các vụ thuế đối kháng vào
Hoa Kỳ 1980 - 2005
Biểu đồ 3: Tổng hợp các vụ chống bán phá giá, 1/1/2002- 31/12/2004
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
ADP
(Agreement on) Anti-Dumping Practices
Hiệp định về chống bán phá giá
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Hiệp định thương mại tự do Châu Á
APEC
Asia-Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
ASEAN
Association of South-East Asian Nation
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM
Asia Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
CVD
Countervailing Duty Law
Luật thuế đối kháng
FDA
Food and Drug Administration
Cơ quan phụ trách thực phẩm và thuốc Hoa Kỳ
GSP
Generalized System of Preferences
Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập
GATT
General Agreement on Tariffs and Trade
Hiệp định chung về Thuế quan và mậu dịch
MFN
Most Favored Nation
Tối huệ quốc
NAFTA
North American Free Trade Area
Khu vực Tự do Bắc Mỹ
NTM
Non-tariff Measures
Các biện pháp phi thuế quan
NTR
Normal Trade Relations
Quy chế thương mại bình thường
SCM
Subsidies and Countervailing Measures Agreement
Hiệp định về các khoản trợ cấp và các biện pháp đối kháng
SPS
Agreement on Sanitary and Phytosanitary Mesures
Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ
TBT
Agreement on Technical Barriers to Trade
Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
USTR
The United States Trade Representative
Cơ quan Đại diện thương mại Hoa Kỳ
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHÓM TIẾNG VIỆT
1. Walter Goode, Từ điển Chính sách thương mại quốc tế, NXB Lao động, Hà Nội 2003, tr. 28.
2. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1994, trang 37.
3. Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Thương mại (2002), Hà Nội
4. Tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 12/2006
5. G.S., T.S. Bùi Xuân Lưu (chủ biên), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội, 2004
6. TS. Nguyễn Hữu Khải, Hàng rào Phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2005
7. PGS. TS. Hoàng Thọ Xuân, TS. Từ Thanh Thuỷ, Bộ Thương Mại,
Một số quan điểm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế
8. Hoàng Xuân Hoà, Một số vấn đề về chính sách thương mại và hàng rào thương mại của Liên minh châu Âu, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 3/2003
9. Nghị định số 90/2005/NĐ - CP ngày 11/7/2005 (quy định chi tiết một số điều của pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam)
10. Nghị định 04/2006/NĐ - CP ngày 9/1/2006 (thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ)
11. Thông tư số 106/2005/TT – BTC ngày 5/2/2005 (hướng dẫn thu thu, nộp, hoàn trả thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp)
12. Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 (quy định nội dung, cách ghi và quản lý nhà nước về nhãn đối với hàng hoá lưu thông tại Việt Nam, hàng hoá xuất nhập khẩu)
NHÓM TIẾNG ANH
1. WTO Committees on Anti-Dumping Practices, Subsidies and Countervailing Measures and Safeguards.
2. WT/TPR/S/177/Rev.1, European Communities
3. Robert Carpenter, Director of Investigations, Antidumping and Countervailing Duty Handbook Twelfth Edition, United States International Trade CommissionWashington, DC 20436, Publication 3916April 2007.
4. WTO (6/2006). Trade Policy Review – European Union
5. WTO (3/2006). Trade Policy Review – China
6. WTO (3/2006). Trade Policy Review – United States.
CÁC TRANG WEB
1. Tổ chức Thương mại Thế giới: www.wto.org
2. Ngân hàng Thế giới: www.worldbank.org
3. Liên minh Châu Âu: www.europa.eu.int
4. Bộ Nông nghiệp Mỹ: www.usda.gov
5. Bộ Thương mại Việt Nam: www.mot.gov.vn
6. Bộ Tài chính Việt Nam: www.mof.gov.vn
7. Tóm lược toàn văn các cam kết trong WTO của Việt Nam, 2006
www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/Duong-vaoWTO/2006/11/3B9F0224
8. Bộ Công Thương Việt Nam
www.moi.gov.vn/BForum/detail.asp?Cat=14&id=910
9. Thương vụ Việt Nam tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
www.vietnam-ustrade.org
10. Bách khoa Toàn thư trực tuyến Việt Nam www.dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=143AaWQ9MzIxNTYmZ3JvdXBpZD04JmtpbmQ9JmtleXdvcmQ9&page=3
11. Antidumping and Countervailing Duty Handbook
www.prototype.usitc.gov/trade_remedy/731_ad_701_cvd/index.htm
12. WTO Secretariat Estimation
www.wto.org/english/tratop_e/tpr_e/tp_rep_e.htm#bycountry
13. Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam www.tcvn.gov.vn/web_pub_pri/magazine/index.php?p=show_page&cid=5&parent=171&sid=182&iid=4390
14. Trung tâm Xúc tiến Thương mại ITPC Tp. Hồ Chí Minh
www.itpc.hochiminhcity.gov.vn
15. Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn
16. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế Xã hội quốc gia
www.ncseif.gov.vn/Default.aspx?mod=News&cat=24&nid=5208
17. Cổng thông tin Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
www.kinhte24h.com/index.php?page=news&id=12267&page_no=16
18. Chuyên trang Việt Nam trên đường hội nhập
www.vndgforcus.vietnamgateway.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVKT064.doc