Có thể khẳng định, việc điều hành CSTT trong giai đoạn 2001-2006 của NHNNVN đã đạt được những bước tiến bộ đáng kể cả về lượng và chất. Các công cụ CSTT gián tiếp đã được sử dụng nhiều hơn và đem lại hiệu quả tích cực hơn mà điển hình chính là nghiệp vụ thị trường mở, điểm nhấn của hoạt động điều hành CSTT. Hơn thế nữa, việc sử dụng các công cụ khác như công cụ lãi suất cơ bản, tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, quản lý ngoại hối, quản lý tỷ giá hối đoái cũng đang dần được điều chỉnh theo hướng tự do hoá và theo sát diễn biến với thị trường hơn.
Về vấn đề lạm phát, có thể nói, giai đoạn 2001-2006 là giai đoạn chứng kiến hai diễn biến tương đối đối lập nhau khi trong ba năm đầu, từ 2001 đến 2003, lạm phát được duy trì ở mức thấp và ổn định, nhưng trong ba năm cuối, từ 2004 đến 2006, và trong gần như cả năm 2007, đây lại là chủ đề thu hút nhiều sự chú ý do tốc độ tăng giá ở mức cao. Cả hai diễn biến trên của lạm phát đều có mối quan hệ với tính chất của CSTT trong từng thời kỳ.
Chính vì vậy, trước khả năng tình hình lạm phát về trung hạn sắp tới sẽ vẫn ở mức cao do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc thực hiện CSTT hướng đến kiểm soát lạm phát sẽ phải là một ưu tiên hàng đầu của Chính phủ nói chung và của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng.
111 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2124 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách tiền tệ và vấn đề kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước, xăng dầu, vé máy bay, vé xe buýt, bưu điện và viễn thông… vẫn do Nhà nước quy định hoặc áp đặt mức giá trần [29]. Song song với những cải cách về quản lý giá đó, việc tự do hoá giá của một số mặt hàng đã đóng góp một phần quan trọng vào tình hình lạm phát gia tăng trong thời gian qua vì Chính phủ không thể áp đặt một mức giá thấp đối với những mặt hàng này để kìm chế lạm phát theo ý muốn chủ quan của mình nữa.
Thứ bảy, công tác quản lý giá của Nhà nước còn kém chặt chẽ
Công tác quản lý giá cả của Nhà nước còn kém chặt chẽ nên đã xảy ra hiện tượng tư nhân thao túng thị trường, đẩy giá lên để kiếm lời ở một số mặt hàng, gây tác động xấu đến mặt bằng giá trong nước. Điều này đặc biệt đúng đối với công tác quản lý giá mặt hàng thuốc, xi măng và thép trong thời kỳ 2004-2006 khi các đại lý, nhà phân phối tự ý nâng giá các mặt hàng này.
Tóm lại, chương II đã phân tích và đánh giá về việc sử dụng các công cụ của CSTT ở Việt Nam giai đoạn 2001-2006 vừa qua. Cụ thể là các công cụ lãi suất, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, chính sách quản lý ngoại hối và chính sách tỷ giá hối đoái. Nhìn chung, việc thực hiện CSTT đã có nhiều tiến bộ theo hướng tăng cường sử dụng các công cụ quản lý gián tiếp; tuy nhiên, vẫn còn có một số hạn chế và bất cập trong việc áp dụng. Trong phần tiếp theo, một vấn đề nóng bỏng, có quan hệ với CSTT, trong giai đoạn nghiên cứu là lạm phát cũng được nghiên cứu và xem xét về thực trạng cũng như nguyên nhân của thực trạng này. Với tình hình thực tiễn như vậy, chương III tới đây sẽ đưa ra những dự báo của mình về tình hình lạm phát trong thời gian sắp tới và một số kiến nghị đối với việc sử dụng các công cụ CSTT để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam.
CHƯƠNG III – XU HƯỚNG LẠM PHÁT THỜI KỲ TỚI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Siêu lạm phát và lạm phát phi mã đã chỉ còn là câu chuyện trong quá khứ của Việt Nam bởi Đảng, Nhà nước và Chỉnh phủ đã những chuyển biến tích cực trong tư duy kinh tế. Tuy đã gặp không ít khó khăn do tác động của tình hình trong và ngoài nước, của những nguyên nhân chủ quan và khách quan nhưng sau mỗi sai lầm, thất bại, các ngành các cấp đã tiếp thu được những bài học qúy giá trong điều hành và quản lý nền kinh tế. Việt Nam đã và đang đổi mới kinh tế theo con đường riêng của mình, chưa từng có tiền lệ và trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước. Những thành tựu đã đạt được là rất đáng tự hào; song điều quan trọng hơn là cần phải nắm được xu thế chung của lạm phát trong tương lai có đặc điểm như thế nào và vận dụng những bài học kinh nghiệm rút ra sau nhiều năm đấu tranh với lạm phát sao cho phù hợp với tình hình mới.
XU HƯỚNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010
Từ nay đến năm 2010, dự kiến tình hình lạm phát ở Việt Nam sẽ vẫn duy trì ở tốc độ cao, khoảng trên 5%, do tình hình giá cả trên thế giới sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp theo hướng bất lợi, lượng tiền cung ứng trong lưu thông (M2) ở mức cao, quá trình hội nhập sâu rộng và thực hiện các cam kết quốc tế sẽ ảnh hưởng đến cung-cầu hàng hoá, thâm hụt Ngân sách Nhà nước (NSNN) vẫn lớn trong khi cải cách khu vực kinh tế nhà nước còn diễn ra chậm chạp và hệ thống tài chính-tín dụng còn nhiều bất cập. Trong thực tế, sau mức lạm phát 6,6% của năm 2006, lạm phát 9 tháng đầu năm 2007 đã lại tăng trở lại với mức độ đáng báo động 7,3% [2]. Trong một diễn biến khác, Ngân hàng Phát triển Châu Á cũng dự báo lạm phát năm 2008 ở mức 6,8% [23]. Do đó, lạm phát trong thời gian sắp tới là một vấn đề không thể coi nhẹ.
Tình hình giá cả trên thế giới sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp
Trong những năm tới, tình hình giá cả trên thế giới được dự báo sẽ diễn biến theo chiều hướng không thuận lợi cho Việt Nam. Có thể nói, giá dầu hiện nay đang là tâm điểm của sự chú ý do bản thân các yếu tố có liên quan đến nó cũng như những tác động của nó lên các hoạt động kinh tế khác. Tình hình chính trị ở khu vực Trung Đông chắc chắn sẽ tiềm ẩn nhiều bất ổn với sự “cứng đầu” của Iran trong vấn đề hạt nhân, tình hình xung đột sắc tộc ở Irắc, nội chiến ở Nigiêria, hay căng thẳng giữa Pa-let-xtin và I-xra-en, Thổ Nhĩ Kỳ và I-rắc… Giá dầu mỏ trong năm 2007 đã liên tục phá kỷ lục và vào thời điểm đầu tháng 11, đã đạt mức 98 đôla/thùng. Chắc chắn, giá dầu tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến giá các loại hàng hoá khác như phân bón, vật liệu xây dựng hay thực phẩm trên thế giới. Mặt khác, với việc nhà máy lọc dầu Dung Quất chưa thể hoàn thành trước năm 2009 và ngay cả khi hoàn thành rồi cũng không thể giúp Việt Nam tự cung tự cấp được ngay về xăng dầu cho nền kinh tế, nước ta vẫn sẽ phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu xăng dầu từ bên ngoài và bị ảnh hưởng trực tiếp bởi giá dầu trên thế giới. Điều này cũng là tương tự với rất nhiều nguyên liệu đầu vào quan trọng khác như phân bón, vật liệu xây dựng, hoá chất,… Như phân tích trong chương I và II, với một nền kinh tế sử dụng tới 80% là nguyên vật liệu nhập khẩu như hiện nay, lạm phát “chi phí đẩy” sẽ là điều khó tránh khỏi đối với Việt Nam từ nay đến năm 2010.
Lượng tiền cung ứng trong lưu thông sẽ ở mức cao do quyết định mua một lượng lớn ngoại tệ của NHNN năm 2007
Trước hết, cần phải thấy một thực tế rằng, kể từ năm 2000 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế (M2) đang tăng lên với khá nhanh, thường xuyên đạt trên 25%, cá biệt có những năm lên tới 35-40% (năm 2000 và 2006) (tham khảo hình 16).
Chính vì vậy, đến tháng 12/2006, tổng lượng M2 trong nền kinh tế đã đạt hơn 900.000 tỷ đồng, cao hơn hẳn cùng thời điểm năm 2005 với tốc độ tăng trưởng 35%.
DIỄN BIẾN TỔNG PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN NĂM 2006
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo thường niên NHNNVN 2006
Mặc dù vậy, từ cuối năm 2006 và trong cả năm 2007, luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đã gia tăng mạnh mẽ. Trước tình hình đó, NHNN đã can thiệp trên thị trường ngoại hối để mua vào khoảng 7 tỷ đôla Mỹ trong giai đoạn đầu năm 2007, đồng nghĩa với việc “bơm” vào nền kinh tế thêm 112.000 tỷ đồng, qua đó làm M2 tiếp tục tăng lên [25]. Mặt khác, theo các lý thuyết về CSTT, hiệu quả của một quyết định về CSTT phải mất một thời gian sau (thường là trên dưới một năm) mới có thể được nhận thấy rõ. Chính vì vậy, có thể quyết định mua vào 7 tỷ đôla này chưa để lại những hiệu ứng nào đáng kể trong nền kinh tế nhưng về trung hạn, nhất là trong các năm 2008-2010, nếu NHNN để lượng tiền lưu thông quá lớn, điều này sẽ gây áp lực lên lạm phát và trong trường hợp này, lạm phát là do dư cung tiền trong nền kinh tế.
Quá trình hội nhập sẽ ảnh hưởng đến cung và cầu hàng hoá trên thị trường
Trong xu thế mở cửa kinh tế, không thể phủ nhận được những lợi ích mà hội nhập quốc tế đem lại cho mỗi quốc gia. Hội nhập vào kinh tế quốc tế, mà trước hết là tham gia khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á AFTA với chương trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung CEPT, hay những cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ và xa hơn là khu vực mậu dịch tự do ASEAN+3…, sẽ mở ra cho Việt Nam một thị trường xuất khẩu rộng lớn nhưng cũng có thể khiến cung hàng hoá trong nước tăng lên, chỉ số giá tiêu dùng không tăng quá cao và nguy cơ lạm phát cao sẽ được giảm xuống.
Quá trình hội nhập còn tác động đến tình trạng lạm phát theo chiều ngược lại khi làm cho luồng vốn công nghệ từ nước ngoài chảy vào nước ta ngày càng nhiều hơn, làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường trong nước. Nếu các doanh nghiệp trong nước không tự nâng cao năng lực cạnh tranh và Nhà nước không có hoạt động hỗ trợ, thúc đẩy mạnh mẽ thì hàng nội sẽ mất dần thị phần, sản xuất trong nước bị thu hẹp. Cùng với đó, những yếu tố bất ổn từ bên ngoài như biến động của thị trường tài chính tiền tệ thế giới sẽ gia tăng ảnh hưởng và có thể làm sụp đổ hệ thống tài chính – tiền tệ trong nước. Khi đó, tính ổn định của đồng tiền không còn được tin tưởng, đồng nội tệ mất giá và lạm phát sẽ leo thang. Nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong quá trình phát triển, năng lực sản xuất còn hạn chế so với các nước trong khu vực và trên thế giới nên nguy cơ của tình trạng này là rất cao.
Để trở thành thành viên của WTO, nước ta phải mở cửa không chỉ thị trường hàng hóa mà cả thị trường dịch vụ, trong đó có thị trường ngoại hối. Hiện nay, hệ thống ngân hàng của Việt Nam còn yếu kém so với chuẩn khu vực và thế giới, trong khi đó, những nỗ lực cải tổ trong ngành này chưa thực sự tương xứng với yêu cầu phát triển kinh tế. Nếu quá trình cải cách này không được đẩy nhanh, Việt Nam có thể sẽ chỉ trở thành thị trường của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động kinh doanh ngoại hối, từ đó Nhà nước sẽ mất dần sự kiểm soát đối với ngoại hối; cung cầu ngoại tệ hoàn toàn do thị trường quyết định và đến một thời điểm Nhà nước không còn phát huy được vai trò điều tiết thị trường ngoại hối thì theo lý thuyết cân bằng sức mua, đồng Việt Nam sẽ trở về đúng giá trị thực của nó, tức là VND mất giá nhiều so với ngoại tệ, hay nói cách khác, lạm phát sẽ có nguy cơ tăng cao.
Thâm hụt ngân sách Nhà nước vẫn ở mức cao
Trong quá trình hội nhập kinh tế mà cụ thể là gia nhập AFTA và WTO, Việt Nam phải cắt giảm thuế quan đối với hàng nhập khẩu. Ngoài ra, nguồn thu từ thuế đánh vào hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng sẽ giảm sút do tài nguyên ngày càng khan hiếm. Tất cả những điều đó sẽ làm cho thu ngân sách giảm. Hơn nữa, vẫn tồn tại sự thiếu chặt chẽ của hệ thống thuế, công tác thu thuế không đạt chất lượng cao, nạn tham nhũng, tình trạng quản lý nợ không tốt và đầu tư ngân sách kém hiệu quả. Vì thế, trong một thời gian nhất định, thu ngân sách vẫn sẽ bị thất thoát rất nhiều.
Trong khi đó, chi ngân sách lại tăng nhanh. Để phát triển kinh tế, Nhà nước tích cực đầu tư vào xây dựng cơ bản, nhập khẩu máy móc thiết bị và đổi mới công nghệ. Kể từ năm 1992, Việt Nam cũng thực hiện không bù đắp thâm hụt ngân sách bằng phát hành tiền mà chủ yếu bằng vay nợ trong và ngoài nước; do đó, gánh nặng nợ nước ngoài cũng tăng lên. Từ năm 1992 đến năm 2005, nợ nước ngoài tăng gần 4 lần, từ 3,9 tỷ USD lên đến 16 tỷ USD, tương đương 32% GDP [29]. Nếu xu thế này tiếp tục xảy ra, thâm hụt ngân sách ngày càng cao, gây sức ép làm tăng lạm phát.
Cải cách khu vực kinh tế nhà nước vẫn diễn ra chậm chạp
Thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nếu Nhà nước không thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này, và bản thân họ không tự cải tiến mình thì khó có thể đứng vững được trước cuộc cạnh tranh khốc liệt khi nước ta hội nhập quốc tế sâu rộng. Các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chiếm phần lớn trong ngân sách nhà nước cả về thu và chi. Hiện nay, các doanh nghiệp này chiếm khoảng 40% tổng thu ngân sách, hơn 50% kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho 1,9 triệu người [16]. Do đó, nếu khu vực này hoạt động kém hiệu quả thì ngân sách sẽ thất thu trầm trọng, gây khó khăn cho Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế.
Thực tế cho thấy, tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, một nội dung rất quan trọng trong chương trình cải cách khu vực kinh tế quốc doanh, đang diễn ra với tốc độ chưa như mong muốn.
MỘT SỐ CHỈ TIÊU VỀ DNNN VÀ CÔNG TY CỔ PHẦN CÓ VỐN NN
2001
2002
2003
2004
2005
Số DNNN
5.355
5.363
4.845
4.596
4.086
Số CTCP có vốn NN
470
558
669
815
1.096
Tổng vốn DNNN (tỷ VND)
781.705
858.560
932.942
1.128.483
1.338.255
Tổng vốn CTCP có vốn NN
(tỷ VND)
27.211
39.161
56.094
76.992
109.520
Nguồn: Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 60
Từ bảng số liệu trên, có thể thấy, mặc dù quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ nhưng cho đến nay, con số DN 100% vốn NN vẫn còn là một con số khá lớn (4.086 doanh nghiệp). Ngoài ra, tiến độ cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn diễn ra rất chậm chạp với rất nhiều thủ tục và những lần trì hoãn mà điển hình là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Công ty viễn thông Mobile phone, Tập đoàn điện lực Việt Nam, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, Công ty Xuất nhập khẩu Intimex,… Quá trình cổ phần hoá diễn ra chậm đồng nghĩa với việc hoạt động của các công ty lớn cũng chưa thể đạt được hiệu quả tương xứng với quy mô và vai trò của mình; do đó, NSNN vẫn sẽ bị ảnh hưởng và tạo ra rào cản cho việc điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Chính vì vậy, trong những năm tới, khu vực kinh tế này vẫn sẽ tiềm ẩn nhiều nỗi lo cho vấn đề kiểm soát lạm phát.
Hệ thống tài chính - tín dụng còn nhiều bất cập
Hiện nay, quy mô của thị trường chứng khoán còn nhỏ nên kênh huy động và dẫn vốn chủ yếu ở Việt Nam là hệ thống ngân hàng, nhưng thực trạng kinh doanh của ngành này còn nhiều bất ổn [35]. Tỷ lệ vốn tự có của các NHTM còn thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế, nhiều ngân hàng không đảm bảo được vốn điều lệ. Chất lượng kinh doanh của các ngân hàng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khi tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nóng dẫn đến rủi ro tín dụng ở mức cao, điều này được thể hiện trong bảng sau:
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG GIAI ĐOẠN 2000-2006
Đơn vị: %
2000
2001 so với 2000
2002 so với 2001
2003 so với 2002
2004 so với 2003
2005 so với 2004
2006 so với 2005
NHTMNN
100
127
133
126
120
-
-
NHTMCP
100
121
133
151
140
NHLD và nước ngoài
100
105
130
129
127
Toàn ngành
100
123
130
129
142
131
120
Nguồn: Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 60
Số liệu trong bảng trên cho thấy, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân của các NHTM là khoảng trên 25%/năm, cá biệt có những ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng tới 30-40%/năm, diễn ra trong khoảng thời gian khá dài, đi đôi với năng lực quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế trong môi trường kinh doanh đầy rủi ro. Trong khi đó, hầu hết NHTM các nước trong khu vực đều có mức tăng trưởng tín dụng dưới 10% [16].
Ngoài ra, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các NHTM Việt Nam cũng còn ở mức rất thấp. Hệ số lợi nhuận ròng sau thuế so với tổng tài sản ROA chỉ đạt 0,38% trong khi con số này của nhóm các ngân hàng khu vực châu Á – Thái Bình Dương (gồm 52 NHTM ở 10 nước) là 0,94%, ở các NHTM thuộc các nước mới nổi (gồm 14 NHTM ở Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a và Phi-lip-pin) là 0,77%. Tương tự, hệ số lợi nhuận trên vốn ROE cũng chỉ đạt khoảng 10% trong khi ở NHTM các nước trên thế giới, con số này luôn ở mức trên 15% [16].
Phần lớn các NHTM còn thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả, trình độ tổ chức, quản lý và điều hành nhân lực còn nhiều yếu kém, mô hình cồng kềnh nên chi phí cao, khó cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài.
TỶ LỆ LAO ĐỘNG CÓ TRÌNH ĐỘ ĐH VÀ TRÊN ĐH TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG Ở MỘT SỐ NƯỚC NĂM 2004
Các nước phát triển
Các nước đang phát triển
Anh
Nhật Bản
Đức
Ma-lai-xi-a
Thái Lan
Việt Nam
78%
75%
77%
62%
65%
35,5%
Nguồn: Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 60
Tiềm lực nhỏ yếu, hoạt động kinh doanh chưa hiệu quả cùng nguồn lực con người còn hạn chế, tất cả cho thấy hoạt động kinh doanh tín dụng ở Việt Nam chứa đựng nhiều rủi ro, đe doạ đến tình hình an ninh tài chính quốc gia.
Một điều nữa cần nói tới là NHNN chưa thật sự phát huy được vai trò điều hành thị trường tài chính - tín dụng, quy định về quản lý ngoại hối có nhiều nhưng lỏng lẻo làm cho thị trường chợ đen và tình trạng đô-la hoá phát triển. Các quy định về kết hối ngoại tệ không được các ngân hàng thực hiện nghiêm chỉnh; việc niêm yết, định giá, thanh toán bằng ngoại tệ, mua bán ngoại tệ trực tiếp tại thị trường chợ đen trái với quy định của Chính phủ. Một hệ thống ngân hàng với những bất cập như vậy cần được cải tổ nhanh chóng và dứt điểm thì mới công tác kiềm chế lạm phát hay khắc phục giảm phát mới đạt kết quả tốt.
Trước tình hình lạm phát được dự báo ở mức cao trong thời gian sắp tới, các biện pháp kiềm chế giá cả leo thang cần được thực hiện trong đó, cần phải nhắc đến vai trò của NHNN trong hoạt động này. Mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất của các công cụ CSTT chính là ổn định giá cả; do đó, làm thế nào để thực hiện các công cụ này để kiểm soát lạm phát một cách có hiệu quả về trung hạn trước mắt? Phần tiếp theo sẽ tập trung trả lời câu hỏi này.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN CÁC CÔNG CỤ CSTT ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Về trung hạn, NHNN cần duy trì mục tiêu ổn định giá cả
Việc cam kết duy trì ổn định giá cả là rất cần thiết trong môi trường kinh tế toàn cầu hoá và các NHTW vẫn thường thực hiện các cam kết này. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế cũng như quá trình toàn cầu hoá; do đó, như một lẽ tự nhiên, giá cả trong nước dễ bị ảnh hưởng hơn bởi quá trình này. Khi một nền kinh tế chưa hội nhập chuyển sang hội nhập và tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, lạm phát có thể biến động trong giai đoạn chuyển đổi. Một ví dụ điển hình là những thay đổi về giá cả tương đối chính là sự tăng giá tương đối của dầu đối với các hàng hoá khác. Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ ở nhiều nền kinh tế mới nổi đã làm tăng cầu đối với dầu mỏ và làm lạm phát gia tăng ở các nước nhập khẩu dầu [7]. Việt Nam trong những năm vừa qua là một ví dụ điển hình. Do đó, NHNN không nên phản ứng theo cơ chế đối với ảnh hưởng vòng một của sự tăng giá dầu. Nếu NHNN cố gắng ổn định giá cả ngay khi giá dầu tăng lạm phát trong nước gia tăng, giá cả có thể tăng ít hoặc có thể giảm phát. Mặt khác, NHNN cần sẵn sàng chuẩn bị đối phó với rủi ro khi hiệu ứng vòng hai xuất hiện nhằm giữ cho lạm phát ở mức ổn định kỳ vọng về trung hạn. NHNN không cần ngăn cản những thay đổi trong giá cả nhằm hướng tới một điểm cân bằng mới trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập mà cần hành động để tránh ảnh hưởng vòng hai của giá. NHNN cần phân biệt các nguyên nhân gây ra lạm phát để có những giải pháp đối phó phù hợp. Muốn vậy, NHNN cần kiểm soát được chỉ số và những thông tin cần thiết để phân tích, nhận định về ảnh hưởng của những cú “sốc” từ bên ngoài đến những diễn biến lạm phát.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn 8 năm trước đó (từ 1999 đến 2006), CSTT chủ yếu được thực hiện theo hướng nới lỏng và hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế. Mục tiêu ổn định giá cả, duy trì mức lạm phát vừa phải chỉ được đưa ra thực hiện trong ba năm cuối của giai đoạn này. Do đó, trước tình hình mới như hiện nay (Việt Nam đã hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu và giá cả leo thang trong ba năm 2004-2006), ổn định giá tất yếu phải được coi là mục tiêu quan trọng trong các quyết định của NHNN song song với các mục tiêu khác.
Nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các công cụ CSTT
Tính độc lập cao hơn của NHTW sẽ cho phép sử dụng các công cụ gián tiếp như hoạt động thị trường mở để thực hiện các mục tiêu của CSTT (đây là xu hướng đã trở nên phổ biến ở các nước trên thế giới) thay vì dùng nhiều biện pháp còn mang nặng tính hành chính như hiện nay.
Tăng cường hơn nữa việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở và coi đây là công cụ chính của NHNN
Khi nói về việc điều hành CSTT của NHNNVN, cần nhấn mạnh đến hoạt động của thị trường mở vì so với các công cụ khác, công cụ thị trường mở ở nước ta chưa phát huy được tối đa tác dụng vốn có của nó (xem chương II). Để phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế, xu thế hội nhập và tận dụng được các ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở như: cho phép các NHTM linh động trong việc quyết định khối lượng và thời điểm “bơm” tiền ra hay “rút” tiền vào, theo sát diễn biến cung cầu về tiền tệ trong nền kinh tế hơn. Nói tóm lại, cần phải đưa hoạt động này trở thành bộ phận chính của CSTT. Muốn vậy, NHNN có thể thực hiện những biện pháp sau:
Đa dạng hoá các hàng hoá giao dịch của thị trường mở: Có thể sửa đổi khoản 15 Điều 9 Luật NHNN (giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá "có thời hạn dưới 1 năm") thành "giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có thời hạn còn lại dưới 1 năm". Đây là điều khoản quy định về hàng hoá cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái chiết khấu của NHNN. Nếu sửa đổi như vậy thì hàng hoá được phép lưu thông trên thị trường mở sẽ đa dạng hơn vì kể cả các giấy tờ có giá trị dài hạn nhưng thời hạn dưới 1 năm cũng được phép sử dụng.
Thu hút thêm các TCTD tham gia thị trường mở theo hướng NHNN đưa ra lãi suất thấp hơn một chút so với lãi suất cho vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Biện pháp này sẽ có tác dụng đáng kể vì trên thị trường mở có hai phương thức giao dịch là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng.
Hiện đại hoá công nghệ giao dịch trên thị trường mở: Các biện pháp có thể áp dụng được là: nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống máy chủ cũng như tăng tốc độ đường truyền tín hiệu mạng tại NHNN, đầu tư cho phần mềm xử lý giao dịch, thanh toán tức thời thông qua hệ thống tài khoản tiền gửi ở NHNN.
Thành lập bộ phận thông tin thị trường của NHNN theo hướng bộ phận này sẽ chịu trách nhiệm chuyên thu thập, phân tích thông tin trên thị trường liên ngân hàng để đánh giá, đưa ra dự đoán chính xác về cung cầu tiền tệ, tín dụng của nền kinh tế và thông báo kịp thời cho NHNN.
Tăng cường hiệu quả của công cụ lãi suất
Bên cạnh công cụ mới mẻ là nghiệp vụ thị trường mở, một điều hết sức cấp thiết là phải tăng hiệu quả tác động của công cụ lãi suất đến nền kinh tế. Cơ chế thị trường đòi hỏi chế độ lãi suất thị trường để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nhưng do vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn nên trước mắt NHNN nên duy trì công bố LSCB nhưng mức LSCB phải khác nhau đối với các khoản vay ngắn hạn và dài hạn, chứ không nên để giống nhau như hiện nay. Như vậy, LSCB sẽ phản ánh sát cung cầu vốn thị trường hơn, đồng thời tạo cơ hội giảm chi phí đối với mọi thành phần doanh nghiệp một cách bình đẳng, tiếp thêm động lực cho guồng máy kinh tế, góp phần kiềm chế tốc tốc độ lạm phát.
Để lãi suất trong tương lai thực sự là lãi suất thị trường, việc cải tổ hệ thống ngân hàng, cải cách các doanh nghiệp nhà nước cần được đẩy mạnh hơn nữa theo phương châm vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm rồi điều chỉnh và hoàn thiện. Dự kiến đến năm 2010, việc thành lập công ty đánh giá mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp là hết sức cần thiết để hỗ trợ cho hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng như nâng cao hiệu quả của CSTT trong việc kiểm soát lạm phát.
Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối liên quan trực tiếp đến vấn đề điều hành cơ chế tỷ giá hối đoái, đến cung cầu ngoại hối trên thị trường và do đó, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất - nhập khẩu khi quy đổi từ ngoại tệ ra nội tệ, đến tình hình vay nợ nước ngoài. Đến lượt mình, kim ngạch xuất - nhập khẩu và ngân sách lại gây áp lực tăng hoặc giảm tỷ lệ lạm phát .
Trong tương lai, lượng ngoại tệ lưu chuyển trong nền kinh tế ngày càng lớn với số lượng các giao dịch ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp đòi hỏi Nhà nước phải hoàn thiện khung pháp lý để kiểm soát được lượng ngoại tệ sử dụng trong nền kinh tế, khắc phục hiện tượng đô-la hóa, thu hút được vốn nhàn rỗi trong nhân dân, tạo điều kiện để cho các NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh với khách hàng. Các giải pháp sau đây sẽ giúp thực hiện những yêu cầu đó:
Nghiên cứu xây dựng luật quản lý ngoại hối thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, Nhà nước đã tạo một khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến ngoại hối, vừa đảm bảo tính chặt chẽ, nhất quán của thị trường ngoại hối, vừa tạo điều kiện cho các thành viên tham gia thị trường yên tâm về tính ổn định và nghiêm minh của pháp luật.
Ban hành các quy định tạo môi trường pháp lý để các ngân hàng có thể cung cấp cho doanh nghiệp các dịch vụ như nghiệp vụ hối đoái tương lai, nghiệp vụ hối đoái quyền chọn. Biện pháp này sẽ giúp các ngân hàng nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ và cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài trong tiến trình hội nhập.
Tiến tới ban hành quy chế về sự ra đời và hoạt động của thị trường ngoại hối mà ở đó không chỉ các TCTD mà cả các doanh nghiệp, các cá nhân được phép tham gia. Biện pháp này sẽ tập trung được lượng ngoại tệ trôi nổi trong các tổ chức, cá nhân mà hiện nay Nhà nước chưa kiểm soát được.
Cũng cần xem xét lại các quy định vẫn được áp dụng hệ thống NHTM ở VN nhằm sửa đổi sao cho phù hợp với tình hình cạnh tranh và yêu cầu mới của khách hàng theo hướng xoá bỏ những quy định cản trở các NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh sang các lĩnh vực tài chính khác.
Hoàn thiện và phát triển các thị trường tiền tệ
Hoàn thiện và phát triển thị trường sơ cấp
Hiện nay, thị trường tiền tệ Việt Nam mới ở dạng sơ khai, hàng hoá trên thị trường còn nghèo nàn về chủng loại và thấp về chất lượng, phạm vi thị trường chỉ bó hẹp trong phạm vi các TCTD. Vì vậy, để phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, trước hết phải hoàn thiện, phát triển thị trường tiền tệ sơ cấp. Đến lượt mình, để hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ sơ cấp cần phải:
Tiêu chuẩn hoá, đa dạng hoá các công cụ: Đối với tín phiếu kho bạc, có thể phát hành loại có kỳ hạn ngắn nhằm giảm thiểu rủi ro về lãi suất, tăng tính hấp dẫn, và nâng cao tính thanh khoản. Đối với chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, NHNN cần xem xét các NHTM nào có đủ điều kiện và năng lực để cho phép phát hành loại chứng chỉ này. Đối với thương phiếu, cần sửa đổi những bất cập như đã nêu ở trên để công cụ này được sử dụng rộng rãi hơn, một điều rất phổ biến ở các nước phát triển trên thế giới.
Hoàn thiện phương thức phát hành: Các loại công cụ như tín phiếu kho bạc cần được phát hành đều đặn, với số lượng đủ lớn làm phát sinh và phát triển các giao dịch trên thị trường.
Mở rộng phạm vi thị trường, đa dạng hoá các chủ thể tham gia: thị trường tiền tệ hiện nay mới chỉ bó hẹp trong phạm vi các TCTD và các chủ thể hoạt động trên thị trường chủ yếu chỉ là các NHTM. Phạm vi hẹp như vậy không thể đảm bảo thị trường tiền tệ có thể thực hiện tốt chức năng cung ứng và điều tiết vốn ngắn hạn cho nền kinh tế. Chính vì vậy, cần có biện pháp tạo môi trường thuận lợi thu hút các tổ chức và cá nhân trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ trên thị trường tiền tệ như các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tư nhân.
Hoàn thiện và phát triển thị trường thứ cấp
Điều cơ bản để phát triển một thị trường nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng là giá cả hàng hoá (trong trường hợp thị trường tiền tệ, giá cả chính là lãi suất) phải phản ánh được quan hệ cung cầu và môi trường cạnh tranh phải lành mạnh, sân chơi phải bình đẳng. Để phát triển thị trường thứ cấp, phải thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thực hiện khẩn trương đề án hệ thống thanh toán liên ngân hàng kể cả thanh toán quầy điện tử và thanh toán lẻ, coi đó là cơ sở hạ tầng quan trọng nhất của hệ thống thị trường thứ cấp.
Tạo ra sự phong phú của hàng hoá bằng hai cách: Thứ nhất, cho phép một số TCTD có đủ điều kiện được phát hành các giấy tờ có giá ngắn hạn như chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, thương phiếu… Thứ hai, tổ chức thường xuyên hơn các phiên giao dịch, đấu thầu…
Cơ sở vật chất của thị trường này phải được đầu tư hiện đại hơn để tạo sự nhanh chóng và dễ dàng cho các phiên giao dịch.
Hoàn thiện và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng
Thị trường nội tệ liên ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 7/1993 nhưng đến nay quy mô thị trường này vẫn còn nhỏ bé và kém linh hoạt. Trong thời gian tới, để phát triển thị trường này cần lưu ý đến các vấn đề sau:
Đẩy mạnh việc củng cố hệ thống ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh tài chính giữa các ngân hàng cũng như giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và tính an toàn của toàn hệ thống song song với việc tạo ra những thành viên có đủ uy tín trên thị trường.
Áp dụng kỹ thuật, công nghệ thanh toán hiện đại để đảm bảo việc thanh toán, chuyển vốn được thực hiện nhanh gọn, chính xác. Nhờ đó, các giao dịch vay mượn rất ngắn từ 1 ngày đến 1 tuần mới có thể phát triển, đặc biệt là những giao dịch vốn qua đêm, một bộ phận chiếm tỷ trọng rất lớn trên thị trường liên ngân hàng.
Tiếp tục củng cố và hoàn thiện việc cung cấp thông tin của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng.
Sửa đổi, bổ sung và ban hành lại các văn bản pháp quy về thanh toán bù trừ liên ngân hàng cho phù hợp với tình hình mới. Mở rộng cho phép các thành viên khác của thị trường tiền tệ được tham gia thanh toán bù trừ, nhất là các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khuyến khích các TCTD hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật để tiến tới thực hiện phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử trong toàn bộ hệ thống thay cho phương thức thanh toán thủ công và bán thủ công đang áp dụng.
Hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thiết lập thị trường ngoại hối phát triển
NHNN cần đóng vai trò trung tâm trong hoạt động điều hành thị trường liên ngân hàng, đảm bảo mua hết nguồn ngoại tệ và bán đủ cho yêu cầu ngoại tệ giúp cho thị trường hoạt động được liên tục và thống nhất, tránh tình trạng một chiều là chỉ có thể bán ngoại tệ cho NHNN nhưng không thể mua ngoại tệ hoặc chỉ có thể mua được với số lượng nhỏ không đủ nhu cầu thanh toán, từ đó gây nên những ách tắc trong hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Có sự phối hợp điều chỉnh lại việc thực hiện cơ chế mua bán các khoản thu, chi bằng ngoại tệ của NSNN theo hướng tập trung quản lý ngoại tệ về 1 đầu mối là NHNN, tạo điều kiện cho NHNN thực hiện tốt chức năng quản lý và điều hành ngoại tệ của mình và có điều kiện tăng lượng dự trữ ngoại tệ, nâng cao khả năng can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Còn Bộ Tài chính chỉ kiểm tra việc quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN (đúng như khoản 2 và 5 điều 38 luật NHNN đã quy định). Theo đó khi có phát sinh các khoản thu NSNN bằng ngoại tệ thì Bộ Tài Chính (đại diện là kho bạc Nhà nước) sẽ bán lại số ngoại tệ đó cho NHNN thu nội tệ để hạch toán ghi thu quỹ NSNN theo tỷ giá liên ngân hàng tại thời điểm đó. Khi có nhu cầu chi NSNN bằng ngoại tệ thì Bộ Tài chính sẽ mua ngoại tệ từ NHNN, NHNN có trách nhiệm đáp ứng đầy đủ, kịp thời lượng ngoại tệ cho NSNN theo tỷ giá bán của thị trường nội tệ liên ngân hàng.
Phát triển thị trường giao dịch có kỳ hạn, quyền chọn, hoán đổi, kỳ hạn… để các NHTM có thể thực hiện các biện pháp, nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro đối với trạng thái ngoại tệ của mình. Trong đó, cần mở rộng kỳ hạn cuả các hợp đồng kỳ hạn từ 1-365 ngày thay vì chủ yếu từ 30-180 ngày như hiện nay. Ngoài ra, cũng cần đào tạo một đội ngũ cán bộ kinh doanh hối đoái tinh thông nghiệp vụ và có khả năng làm chủ được các giao dịch nói trên.
Hoàn thiện thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn
Thị trường tín phiếu kho bạc
Các tín phiếu kho bạc có độ rủi ro thấp nên cũng rất được sử dụng rộng rãi trên thị trường tiền tệ, mặt khác chúng là công cụ được sử dụng để bù đắp cho thiếu hụt ngân sách Nhà nước, nên có thể nói đây là bộ phận thị trường quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường tiền tệ. Các kiến nghị đưa ra để hoàn thiện thị trường này bao gồm:
Tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc một cách đều đặn, thường xuyên hơn, đồng thời đảm bảo cung cấp cho thị trường số lượng tín phiếu đủ lớn để làm phát sinh và nuôi dưỡng các giao dịch mua đi bán lại. Tuy nhiên quy mô phát hành tín phiếu phải được đặt trong mối quan hệ với nhu cầu của ngân sách Nhà nước.
Phát hành tín phiếu kho bạc với thời hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 1 năm (nhưng chủ yếu là loại 3 và 6 tháng) với mức lãi suất xấp xỉ bằng mức lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cùng loại của ngân hàng để khuyến khích các chủ thể đầu tư vào công cụ này.
Đẩy mạnh, phát triển các giao dịch thoả thuận mua lại vì đây là phương thức giao dịch phổ biến nhất đối với tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, cần sớm ban hành các quy chế giao dịch cũng như các mẫu cụ thể của các hợp đồng mua lại.
Đẩy mạnh công tác môi giới trung gian các giao dịch mua bán lại tín phiếu sau khi đấu thầu cũng như công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến nghiệp vụ đấu thầu và mua bán lại sau khi đấu thầu.
Đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ giữa NHNN và Bộ Tài Chính trong việc xây dựng kế hoạch và tổ chức phát hành tín phiếu kho bạc qua NHNN một cách đều đặn, đồng thời đảm bảo sự phù hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa chính sách tài chính và CSTT.
Thị trường tín phiếu NHNN
Tín phiếu NHNN là công cụ có ruỉ ro thấp nên cũng được sử dụng rộng rãi trên thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, khi ngân sách còn có thặng dư lớn và lạm phát trong tầm kiểm soát thì không nên phát hành công cụ này mà chủ yếu tập trung vào tín phiếu kho bạc Nhà nước. Việc phát hành song song tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc vừa gây tốn kém cho ngân sách Nhà nước vừa tạo ra sự cạnh tranh không cần thiết và làm chia rẽ thị trường vốn ngắn hạn, do đó, NHNN chỉ nên sử dụng công cụ này khi muốn thực hiện CSTT thắt chặt để rút bớt tiền trong lưu thông, qua đó để kiềm chế lạm phát. Trước tình hình lạm phát như hiện nay, NHNN có thể cân nhắc đến việc phát hành loại công cụ này [18]. Tuy nhiên, để thị trường này hoạt động có hiệu quả cần đảm bảo thực hiện một số yêu cầu sau:
Thực hiện hình thức tín phiếu NHNN ghi sổ để tạo điều kiện thuận tiện cho việc mua bán, chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp.
Cải tiến và thực hiện các thể thức mua lại thuận lợi thông qua phương thức tái cấp vốn, tái chiết khấu ngắn hạn để khuyến khích các ngân hàng mua tín phiếu NHNN thay vì bắt buộc các ngân hàng phải mua như thời gian qua.
Nâng cao năng lực hoạt động và tính độc lập của NHNN
Nâng cao năng lực hoạt động của NHNN
Với tư cách là NHTW cũng như để thực hiện các biện pháp vừa được đề cập ở trên một cách có hiệu quả, NHNNVN trước hết phải tập trung thực hiện tốt các chức năng của một NHTW trong hoạt động của thị trường tiền tệ, phải đảm bảo là người can thiệp cuối cùng vào thị trường. Khi can thiệp, NHNN chỉ nên sử dụng các công cụ quản lý gián tiếp để điều chỉnh. Cụ thể, NHNN cần phải được hoàn thiện theo hướng sau:
Trong điều hành, cần phải tôn trọng các quy luật khách quan và cơ chế thị trường trường. Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho các tổ chức ngân hàng, tín dụng.
Xây dựng chiến lược tổng thể để có kế hoạch, bước đi, chính sách phù hợp trong quá trình tạo dựng, phát triển thị trường tiền tệ.
Đảm bảo bình đẳng theo pháp luật đối với mọi loại hình ngân hàng và TCTD, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh- một tiền đề quan trọng cho thị trường tiền tệ phát triển.
Thiết lập hệ thống thông tin, báo cáo mới giữa NHNN với các bộ, ngành và chính quyền địa phương để phói hợp điều hành CSTT.
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán, xây dựng trung tâm thanh toán quốc gia tại NHNN, phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt để đảm bảo tính hiệu quả cho các hoạt động trên thị trường mở và tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Từng bước cải tiến mô hình tổ chức, cấu trúc lại hệ thống ngân hàng từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh giảm biên chế, khắc phục chồng chéo [14].
Nâng cao tính độc lập của NHNN trong thực thi CSTT
Theo kinh nghiệm của các nước OECD, một NHTW độc lập có thể giảm thiểu hữu hiệu nguy cơ tăng cung tiền vì động cơ chính trị, giữ cho tỷ lệ lạm phát ở mức thích hợp với tăng trưởng kinh tế [12]. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, hình mẫu như vậy chưa chắc đã tạo ra kết quả tốt; nhưng không nên để chính phủ can thiệp tùy tiện, phi kinh tế vào hoạt động của NHTW. Chúng ta nên xem xét lựa chọn mô hình trung gian đó là NHNN sẽ được trao cho sự độc lập như là một công cụ, hay NHNN là cơ quan lập chính sách hàng ngày và thực thi chính sách để đạt một số mục tiêu nhất định; còn các cơ quan chính trị giành quyền lựa chọn mục tiêu. Trước mắt, sự độc lập này có thể được thực hiện bằng cách NHNN chấm dứt cho ngân sách vay, để tránh phải phát hành tiền khi xảy ra thâm hụt ngân sách trầm trọng và tránh tình trạng lạm phát cao.
So với các nước trên thế giới, NHNN Việt Nam hiện nay đang ở mức độ độc lập rất thấp. Minh chứng rõ ràng nhất cho điều này chính là việc NHNN không độc lập trọng việc thiết lập mục tiêu, không độc lập trong xây dựng chỉ tiêu hoạt động và thậm chí là không tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành như quy định trong luật NHNN 2003 [24].
Chẳng hạn, về xây dựng chỉ tiêu hoạt động, theo điều 3 Luật NHNN, Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hàng năm trong mối tương quan với cân đối NSNN và mức tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, Chính phủ chịu trách nhiệm xây dựng dự án CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hàng năm trình Quốc hội quyết định.
Về việc tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành, theo điều 3 và 5, luật NHNN, Chính phủ tổ chức thực hiện CSTT quốc gia; quyết định lượng tiền cung ứng cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội (điều 3). Trong khi đó, NHNN xây dựng dự án CSTT quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này (điều 5).
Việc trả lãi đối với tiền gửi DTBB của từng loại hình TCTD, từng loại tiền gửi trong từng thời kỳ do Chính phủ quy định (Điều 20, Luật NHNN). Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHNN cho vay đối với các TCTD tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD (Điều 30 Luật NHNN).
Ngoài ra, theo điều 38, Bộ Tài chính kiểm tra việc quản lý Dự trữ ngoại hối Nhà nước do NHNN thực hện theo quy định của Chính phủ.
Các quy định trên cho thấy tính độc lập trong hoạt động của NHNNVN còn rất thấp, nhất là trong việc xây dựng và thực thi CSTT. Vì vậy, cần thiết phải có sự thay đổi các qui định trong Luật NHNN hiện tại để có thể nâng cao hơn nữa vị thế độc lập của NHNN. Mức độ độc lập trong thực thi CSTT nên ở mức tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành. Ở mức độ tự chủ này, Ngân hàng Nhà nước có đủ thẩm quyền để quyết định cung tiền, lựa chọn các công cụ CSTT một cách tốt nhất sao cho đạt được các tiêu chí về CSTT, cơ chế tỷ giá và lạm phát được Chính phủ hoặc Quốc hội giao trên cơ sở ý kiến đệ trình của NHNN.
Sở dĩ phải giao cho NHNN thẩm quyền quyết định cung tiền, lựa chọn các công cụ CSTT trong điều hành là vì các thông tin kinh tế có tác động đến tiền tệ và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô là không hoàn hảo và những đặc tính kỹ thuật của thị trường tài chính là rất phức tạp, đòi hỏi cơ quan quản lý phải có tính linh hoạt, mềm dẻo trong cách tiếp cận, quyết định nhanh trước những thay đổi của thị trường. Ngoài ra, hình thức tự chủ này còn cho phép có sự phối hợp hài hoà giữa CSTT với các mục tiêu của chính sách kinh tế tổng thể của một nước trong một giai đoạn nhất định, thường từ 3 tới 5 năm. Đồng thời, điều này cũng nâng cao tính trách nhiệm của NHNN trong việc giải trình đầy đủ những hành động của mình về CSTT trước Quốc hội và Chính phủ, tính công khai minh bạch đầy đủ về hoạt động của NHNN. Mặt khác nó cũng hạn chế sự can thiệp của các nhà chính trị đến các quyết định cuả NHNN... [24]
Đẩy nhanh tốc độ cải cách các NHTM
Như đã phân tích ở chương I, vai trò của NHTM trong hệ thống tiền tệ là rất quan trọng. Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của NHTM là cần thiết để đảm bảo CSTT và thị trường tiền tệ hoạt động có hiệu quả. Trong nền kinh tế hội nhập, lĩnh vực tài chính ngân hàng được coi là nhạy cảm và dễ bị ảnh hưởng nhất. Theo Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ cũng như các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam phải đối xử bình đẳng với các NHTM từ các nước khác nhau tham gia kinh doanh tại Việt Nam. Các ngân hàng ở Mỹ và EU có tiềm lực rất lớn với số vốn hàng tỷ đôla. Trong khi đó, với một NHTM quốc doanh của Việt Nam hiện nay, vốn pháp định chỉ khoảng 80 triệu USD [16]. Vì vậy, để thị trường tiền tệ tiếp tục phát triển thì việc tạo ra hệ thống NHTM vững mạnh, hiệu quả, sức cạnh tranh cao có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nhiệm vụ trong tâm hiện nay và những năm tiếp theo là phải đẩy mạnh và kiên quyết lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, các TCTD. Để đạt được mục tiêu này cần:
Có biện pháp nâng cao tiềm lực tài chính, mức vốn tự có cho các NHTM.
Vốn tự có của các NHTM quốc doanh có thể được bổ sung bằng cách: Thực hiện cổ phần hoá một số NHTM quốc doanh để tăng vốn; phát hành trái phiếu Chính phủ để lấy nguồn bổ sung hoặc NHNN cho vay dưới hình thức tái cấp vốn để tăng tiềm lực tài chính; Nhà nước cho phép các ngân hàng giữ lại một phần hoặc toàn bộ khoản nộp về sử dụng vốn NSNN.
Vốn tự có của các NHTM cổ phần có thể được bổ sung bằng cách: Giải thể hoặc sát nhập các đơn vị yếu kém; Nhà nước cho phép gọi vốn nước ngoài thông qua bán cổ phiếu cho người nước ngoài; phát hành cổ phiếu mới; tăng quy định về vốn pháp định đối với loại hình NHTM cổ phần
Củng cố và lành mạnh hoá tài chính của các NHTM trên cơ sở:
Cơ cấu lại nợ, thống kê phân loại nợ, phần nợ cho vay những NHNN sẽ được tách bạch rõ ràng để xử lý. Cải thiện chất lượng quản lý tài sản nợ của các NHTM, đặc biệt là cần phân định rõ bản chất và mức độ rủi ro của các loại tài sản, tăng cường giám sát quản lý thu hồi nợ, cải tiến điều kiện tín dụng, trích lập quỹ để bù đắp các khoản vốn thất thoát [16].
Ban hành cơ chế xử lý tài sản thế chấp, phát triển các công ty mua bán nợ để tạo điều kiện cho các ngân hàng tiến hành phát mại được tài sản thế chấp, thu hồi các khoản nợ.
Xác định NHTM thực sự là NHTM: tách bạch chức năng chính sách ra khỏi thương mại. Loại bỏ độc quyền nhằm tạo điều kiện và sức ép nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM quốc doanh.
Nâng cao năng lực quản trị, kinh doanh của NHTM, áp dụng các công cụ và cách thức quản lý mới cho phù hợp và theo kịp các nước trong khu vực.
Sớm thực hiện đề án ứng dụng công nghệ tin học vào dịch vụ thanh toán của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Áp dụng hệ thống kế toán theo thông lệ quốc tế, thực hiện kiểm toán định kỳ và công khai tài chính đối với các NHTM.
Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ, xử lý nghiêm minh những tổ chức và cá nhân có sai phạm.
Tóm lại, chương III đã trình bày dự báo tình hình lạm phát ở Việt Nam về trung hạn sắp tới và một số kiến nghị đối với việc sử dụng các công cụ CSTT để kiểm soát vấn đề này. Tình hình lạm phát trong giai đoạn 2008-2010 được dự báo sẽ duy trì ở mức cao do giá cả thế giới diễn biến phức tạp, lượng tiền cung ứng trong lưu thông cao, tác động của quá trình hội nhập, của thâm hụt NSNN và của tiến độ chậm chạp trong cải cách khu vực kinh tế nhà nước. Trước hiện trạng như vậy, việc đặt mục tiêu ổn định giá cả trong trung hạn cũng như việc nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ CSTT phải được đặt ưu tiên lên hàng đầu bởi đây là hai nhân tố có tác động trực tiếp đến khả năng kiềm chế lạm phát ở Việt Nam. Song song với đó, cũng cần phải tính đến các biện pháp có tính chất lâu dài như phát triển thị trường tiền tệ, nâng cao năng lực hoạt động cũng như tính độc lập của NHNNVN và cải cách hệ thống các NHTM.
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, việc điều hành CSTT trong giai đoạn 2001-2006 của NHNNVN đã đạt được những bước tiến bộ đáng kể cả về lượng và chất. Các công cụ CSTT gián tiếp đã được sử dụng nhiều hơn và đem lại hiệu quả tích cực hơn mà điển hình chính là nghiệp vụ thị trường mở, điểm nhấn của hoạt động điều hành CSTT. Hơn thế nữa, việc sử dụng các công cụ khác như công cụ lãi suất cơ bản, tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, quản lý ngoại hối, quản lý tỷ giá hối đoái cũng đang dần được điều chỉnh theo hướng tự do hoá và theo sát diễn biến với thị trường hơn.
Về vấn đề lạm phát, có thể nói, giai đoạn 2001-2006 là giai đoạn chứng kiến hai diễn biến tương đối đối lập nhau khi trong ba năm đầu, từ 2001 đến 2003, lạm phát được duy trì ở mức thấp và ổn định, nhưng trong ba năm cuối, từ 2004 đến 2006, và trong gần như cả năm 2007, đây lại là chủ đề thu hút nhiều sự chú ý do tốc độ tăng giá ở mức cao. Cả hai diễn biến trên của lạm phát đều có mối quan hệ với tính chất của CSTT trong từng thời kỳ.
Chính vì vậy, trước khả năng tình hình lạm phát về trung hạn sắp tới sẽ vẫn ở mức cao do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc thực hiện CSTT hướng đến kiểm soát lạm phát sẽ phải là một ưu tiên hàng đầu của Chính phủ nói chung và của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng.
Bài viết này chắc chắn còn tồn tại nhiều điểm thiếu sót và hạn chế, do đó, rất mong nhận được sự góp ý và nhận xét của người đọc cũng như của những người quan tâm!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Đại học Ngoại thương (1999), Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Frederic S. Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Hà An (2007), Các biện pháp can thiệp vô hiệu tác động luồng vốn vào -Sự lựa chọn của ngân hàng trung ương, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 64, Hà Nội.
Học viện Tài chính (2000), Lý thuyết tài chính, NXB Tài chính Hà Nội, trang 279, Hà Nội.
Hồng Phúc (2004), Tăng dự trữ bắt buộc để kiểm soát độ nở của tiền tệ, www.vietnamnet.vn/kinhte/2004/07/171690/, truy cập: 15/09/2007
Hoàng Xuân Quế (2005), Nghiệp vụ ngân hàng trung ương, NXB Thống kê, Hà Nội.
Khuê Anh (2007), Thách thức ổn định giá cả của ngân hàng trung ương trong bối cảnh toàn cầu hoá, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 63, Hà Nội.
Kiều Oanh (2007), Fed cắt giảm lãi suất USD xuống còn 4,5%, www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=82&ItemID=48020, truy cập: 02/11/2007.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2003, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Minh Tâm (2007), Lãi suất cơ bản đã hết thời, www.tinnhanhchungkhoan.vn/tintuc.php?nid=4306, truy cập: 11/10/2007.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm 2004, 2005, 2006, Hà Nội.
Ngân hàng Thế Giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi- Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
Nguyễn Minh Phong (2000), Lý thuyết lạm phát- giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
Nguyễn Quang Thép (2006), Xây dựng ngân hàng trung ương hiện đại ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 19 ngày 30/10/2006
Nguyễn Thị Kim Thanh (2007), Xu hướng lạm phát gia tăng – Nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 62, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Tài (2007), Cơ hội và thách thức đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 60, Hà Nội.
Nguyệt Quế (2006), Kiều hối: nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước, www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/doisongnvx/hdvktrongnuoc/2006/ 04/563928/, truy cập: 10/10/2007
Phương Anh (2007), Điều hành chính sách tiền tệ trước bối cảnh gia tăng luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 63, Hà Nội.
Phan Văn Tiệm (1991), Chặng đường 10 năm cải cách giá 1981-1991, NXB Thông Tin, Hà Nội.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế (2002) số 288
Tổng cục Thống Kê (1991), Kinh tế và tài chính Việt Nam 1986-1990, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.
Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê các năm, NXB Thống kê, Hà Nội
Thông tấn xã Việt Nam (2007), ADB: Kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh, www.vnanet.vn/TrangChu/VN/tabid/58/itemid/213784/Default.aspx, truy cập: 06/10/2007
Tú Anh (2007), Tính độc lập của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam trong thực thi chính sách tiền tệ, www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin= 445, truy cập: 22/10/2007
Trần Ngọc Thơ (2007), Lạm phát 2004 và 2007 có gì khác?, www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=99426&CatId=26, truy cập 10/10/2007
Vũ Nguyên Hoà (2005), Mười điểm nhấn quan trọng của nghiệp vụ thị trường mở năm 2004, www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=56, truy cập: 10/9/2007.
Vneconomy (2007), Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 15%?, www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id=ec495e6dd7c993, truy cập: 15/09/2007
Website Bộ Công thương (2004), Chính sách tiền tệ hiện nay: Bất cập và hướng khắc phục, www.moi.gov.vn/BForum/detail.asp?Cat=14&id=420, truy cập: 20/9/2007
Tài liệu tiếng Anh
Carol Baker, Patrizia Tumbarello và Faisal Ahmed (2006), Vietnam: Selected Issues, IMF Country Report No. 06/422, Washington, D.C.
Frederic S. Mishkin (2004), Money, Banking and Financial Markets 7th edition, NXB Pearson Addison – Wesley, London.
Gregory Mankiw (2000), Principles of Macroeconomics 3rd edition, NXB The Dyren Press.
IMF (2003), Vietnam: Statistical Appendix, IMF Country Report No. 03/382, Washington, D.C.
IMF (2006), Vietnam: Statistical Appendix, IMF Country Report No. 06/423, Washington, D.C.
Michael Parkin (1999), Macroeconomics, NXB Addison – Wesley, London.
Olaf Unteroberdoerster (2004), Banking Reforms in the Lower Mekong Countries, IMF Policy Discussion Paper PDP/04/5, Washington, D.C.
DANH MỤC BẢNG - HÌNH
Danh mục bảng
Bảng 1. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu của NHNNVN thời kỳ 2004-2006 38
Bảng 2. Quy định về DTBB của NHNN giai đoạn 2001-2006 44
Bảng 3. Lượng kiều hối và dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2001-2006 49
Bảng 4. Tỷ giá VND/USD do NHNNVN quy định giai đoạn 2001-2006 50
Bảng 5. Tăng trưởng GDP và lạm phát giai đoạn 1986-1990 52
Bảng 6. Chỉ số giá tiêu dùng theo nhóm hàng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đôla Mỹ 2004-2006 58
Bảng 7. Một số chỉ tiêu về DNNN và công ty cổ phần có vốn NN 75
Bảng 8. Tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2000-2006 76
Bảng 9. Tỷ lệ lao động có trình độ ĐH và trên ĐH trong ngành ngân hàng ở một số nước năm 2004 77
Danh mục hình
Hình 1. Lạm phát do cầu kéo 24
Hình 2. Lạm phát do chi phí đẩy 25
Hình 3. Diễn biến LSCB ở Việt Nam giai đoạn 2001-2006 36
Hình 4. Doanh số giao dịch thị trường mở 2000-2006 41
Hình 5. Diễn biến tỷ giá VND/USD năm 2006 51
Hình 6. Tình hình lạm phát từ năm 1991 đến năm 1998 52
Hình 7. Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2001-2006 54
Hình 8. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2001 55
Hình 9. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2002 56
Hình 10. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2003 57
Hình 11. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2004 59
Hình 12. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2005 61
Hình 13. Diễn biến CPI qua các tháng của năm 2006 62
Hình 14. CPI nhóm hàng lương thực thực phẩm 2002-3/2006 64
Hình 15. CPI nhiên liệu và phi nhiên liệu 2/2002-3/2006 65
Hình 16. Tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán giai đoạn 2000-2006 67
Hình 17. Lạm phát trung bình và tốc độ tăng M2 trung bình của Việt Nam và một số nước trong khu vực 2003-2006 68
Hình 18. Diễn biến tổng phương tiện thanh toán năm 2006 72
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNH021.doc