Khóa luận Cơ hội và thách thức của sự phát triển thương mại điện tử đổi với các nước đang phát triển

Sự ra đời của xa lộ thông tin, đặc biệt là các ứng dụng công nghệ thông tin dựa trên kỹ thuật số, máy tính xách tay, lưu trữ dữ liệu và hệ thống làm việc network đã đưa đến khái niệm nền kinh tế số hóa và là động lực chủ yếu của quá trình toàn cầu hoá đang biến đổi sâu sắc nền kinh tế thế giới và tác động đến từng quốc gia. Vai trò của công nghệ thông tin và thương mại điện tử đối với nền kinh tế thời kỳ hậu công nghiệp không còn ai nghi ngờ được nữa. Người Mỹ hiện nay đang đứng đầu về công nghệ thông tin và người Nhật đã quyết định bỏ ra hàng nghìn tỷ đố la để giành được vị trí đó. Hàn Quốc cũng đặt mục tiêu phải bắt kịp Nhật, Mỹ. Ấn Độ từ lâu đã xác định công nghệ thông tin là trọng tâm trong chiến lược phát triển của họ.Trung Quốc hiện có thế mạnh tuyệt đối trên thế giới về xuất khẩu đồ chơi trẻ em, hàng dệt may và đồ gia dụng nhưng họ cũng tuyên bố sẵn sàng bỏ ba thế mạnh đó để đi vào công nghệ thông tin. Internet và mạng WWW, một thành tựu trong ứng dụng công nghệ thông tin, được đánh giá là phát kiến vĩ đại nhất thế kỷ XX “Công nghệ thông tin và tác động của nó”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 2, 2002 . Thương mại điện tử qua mạng Internet được chờ đợi sẽ là một trong các xu hướng phát triển nhất trong các xu hướng thương mại quốc tế hiện nay. Thương mại điện tử làm thay đổi mạnh mẽ phương thức thương mại truyền thống, xóa mờ ranh giới địa lý trong giao lưu buôn bán giữa các quốc gia nhờ đem lại khả năng giao dịch trực tuyến liên tục và không hạn chế. Việc ứng dụng thương mại điện tử giúp tiết kiệm chi phí trong sản xuất, giao dịch và bán hàng cũng như mở ra nhiều cơ hội thâm nhập thị trường và thúc đẩy cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các hoạt động kinh tế được số hoá và vận hành trên các siêu xa lộ thông tin, các mạng lưới máy tính lan toả khắp nơi; chu chuyển thông tin trở thành nguồn sống của nền kinh tế. Từ đó, các quan niệm truyền thống về sở hữu, phương thức trao đổi, lưu thông, phân phối, tâm lý tiêu dùng và phương thức quản lý kinh doanh đều sẽ thay đổi. Điều này đòi hỏi các nước phải có sự điều chỉnh một cách toàn diện các điều kiện kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội để thích ứng với yêu cầu mà sự phát triển thương mại điện tử đã đặt ra. Khối lượng và doanh thu từ thương mại điện tử trên thế giới tăng với tốc độ chóng mặt trong mấy năm gần đây và không mấy năm nữa, thương mại điện tử sẽ trở thành phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế. Ưu thế cạnh tranh trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các nước sẽ phụ thuộc trực tiếp vào tốc độ nhanh hay chậm trong việc ứng dụng hệ thống sáng tạo của cải mới. Sự cạnh tranh đó sẽ phân chia ra một bên là những nền kinh tế trì trệ và một bên là những nền kinh tế nhanh lẹ, gia tốc. Nhận thức được điều này, các nước phát triển, nhất là Mỹ, đều chú trọng đến thương mại điện tử và xem việc phát triển nó như một chiến lược cần phải tiến tới. Họ đặt ra mục tiêu đi đầu trong áp dụng phương thức thương mại mới này và đề ra khuôn khổ cho việc áp dụng thương mại điện tử trên toàn thế giới. Sự phát triển của thương mại điện tử cũng đem lại cơ hội cho các nền kinh tế đang phát triển thúc đẩy tốc độ tăng trưởng, hội nhập với các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên, trong điều kiện bị hạn chế về trình độ và tiềm lực kinh tế, các nước đang phát triển bị cuốn vào quỹ đạo này mà chưa có sự chuẩn bị đầy đủ. Họ phải đối diện với thách thức bị lệ thuộc về công nghệ và thụt lùi xa hơn trong nỗ lực bắt kịp các nước khác. Hệ quả có thể thấy được là tính chất bất bình đẳng của trật tự kinh tế quốc tế trong hiện tại sẽ vẫn tiếp tục được duy trì và ngày càng gia tăng.

doc95 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1629 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cơ hội và thách thức của sự phát triển thương mại điện tử đổi với các nước đang phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạng không có kiểm soát trực tiếp nên các thông tin không lành mạnh, độc hại, phản động cũng dễ dàng truyền vào các quốc gia, đe doạ làm băng hoại bản sắc văn hoá truyền thống và những ảnh hưởng xấu về chính trị, an toàn xã hội như: mua bán dâm, ma tuý, truyền kích dục ngay cả đối với trẻ em, buôn lậu, tuyên truyền, kích động bạo lực, phân biệt chủng tộc, kì thị tôn giáo; các hướng dẫn làm bom thư,làm chất nổ phá hoại… do vậy phải có rào cản để ngăn chặn. Việt Nam cũng đã có rào cản và cũng đã có nhiều điều trong Luật hình sự năm 1999 đề cập đến tội tuyên truyền mạng vi tính, tuy nhiên hiệu quả của chúng còn thấp. Tuy nhiên những hạn chế này, khách quan mà nói, không phải xuất phát từ bản chất của thương mại điện tử, mà chính là những hạn chế do việc sử dụng thiếu ý thức những phương tiện điện tử phục vụ cho thương mại mà thôi. Nhận xét chung Thương mại điện tử là một lĩnh vực non trẻ và đầy sức sống, đầy tiềm năng nhưng cũng đầy cạm bẫy cam co. Việc mở rộng phát triển thương mại điện tử ngày nay trở thành một xu thế phát triển tất yếu của thời đại và đang được tất cả các nước trên thế giới quan tâm. Thương mại điện tử phát triển nhanh và làm biến đổi sâu sắc các phương thức kinh doanh, thay đổi hình thức, nội dung, hoạt động kinh tế - văn hoá - xã hội của loài người, nâng cao chất lượng quản lý và năng suất lao động trên toàn thế giới. Tuy nhiên, thương mại điện tử mới tập trung chủ yếu vào một số nước công nghiệp phát triển, những nước đã có cơ sở hạ tầng vững chắc về công nghệ thông tin và đã có thực tiễn giao dịch điện tử. Trong bối cảnh toàn cầu hoá về kinh tế và thương mại, các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, cũng đang tích cực nghiên cứu, ứng dụng thương mại điện tử nhằm tạo cơ hội “đi tắt, đón đầu”, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Vì đang ở thế bất lợi trong nền kinh tế toàn cầu do chưa bắt kịp với cuộc cách mạng về công nghệ thông tin nên để thương mại điện tử được vận hành trôi chảy và đạt được hiệu quả như mong muốn chúng ta cần phải có một thể chế cơ bản mang tính toàn cầu cho thương mại điện tử, vạch ra chủ trương chính sách của Nhà nước phù hợp với chính sách phát triển thương mại điện tử của các nước trên thế giới. Chương III Phương hướng và giải pháp phát triển thương mại điện tử ở các nước đang phát triển 1. Xây dựng chính sách phát triển thương mại điện tử ở các nước đang phát triển Sự phát triển của thương mại điện tử như một xu hướng nổi trội trong thương mại quốc tế và một phần của đời sống kinh tế thế giới trong tương lai là điều được lặp đi lặp lại trong các nghiên cứu dự báo về thế kỷ XXI. Tuy nhiên, không nên xem việc phát triển thương mại điện tử là một mục tiêu phải hướng tới, mà điều quan trọng hơn là phải xem xét những ảnh hưởng của nó đối với mục tiêu kinh tế xã hội mà một nước đang theo đuổi. Từ việc đánh giá những tác động của thương mại điện tử đối với nước mình, chính phủ một nước đó mới có thể quyết định xem đâu là cơ hội, đâu là thách thức và đâu là vị trí của nước mình trong không gian thương mại điện tử quốc tế. Chúng ta cần lưu ý rằng thứ tự, tầm quan trọng của các điều kiện thương mại điện tử đòi hỏi là không giống nhau. Ví dụ như tại thời điểm hiện nay, các nước EU quan tâm nhiều nhất đến phát triển nguồn nhân lực cho thương mại điện tử, trong khi đó các nước phát triển châu á lại quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố môi trường kinh tế và luật pháp, còn Mỹ lại cho rằng vấn đề bảo mật thông tin và an toàn cho mạng là điều kiện quan trọng. Đối với các nước đang phát triển, hệ thống các điều kiện cho thương mại điện tử chỉ mới đang hình thành, chưa đồng bộ, nhiều điều kiện còn thiếu, những điều kiện đã có thì chưa tiên tiến, chưa hoàn toàn phù hợp với các thông lệ quốc tế và chưa đáp ứng được yêu cầu của thương mại điện tử, nên mọi điều kiện đều quan trọng. Tuy nhiên mức độ khó khăn của từng điều kiện khác nhau là khác nhau, có điều kiện có thể thực hiện được trong một thời gian ngắn, có điều kiện lại phải mất một thời gian dài mới có thể thực hiện được. Chính từ các vấn đề trên đòi hỏi mỗi quốc gia phải có một định hướng phát triển thương mại điện tử phù hợp với các điều kiện của mình. Ngay cả một nước phát triển như Pháp cũng phải mất nhiều năm để khẳng định Internet là cơ hội. Các nước đang phát triển cần có hiểu biết, nhận định và áp dụng phương thức thương mại tiên tiến này phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển công bằng, trong khi hạn chế đến mức thấp nhất có thể những tác động tiêu cực của nó đối với lợi ích quốc gia. Khả năng làm được việc đó phụ thuộc vào việc hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin sẵn có, nguồn nhân lực trong nước, một môi trường kinh tế-pháp lý có đáp ứng được yêu cầu của thương mại điện tử hay không và tùy thuộc trên hết vào một chiến lược tiếp cận thương mại điện tử hợp lý. 2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử . 2.1 Kinh nghiệm của một số nước phát triển Chính sách thương mại điện tử của hầu hết các nước phát triển đều áp dụng các nguyên tắc tự do, Chính phủ không can thiệp mà chỉ tạo điều kiện thuận lợi; sự phát triển của thương mại điện tử do thị trường tự quyết định; khu vực doanh nghiệp tư nhân đi đầu và chủ động. Kinh nghiệm của Mỹ Thận trọng và có bước đi rõ ràng trong việc tổ chức quản lý quá trình hình thành và phát triển của thương mại điện tử. Khi Chính phủ Mỹ công bố bản “Khuôn khổ cho thương mại điện tử toàn cầu” (tháng 7/1997) thì việc chuẩn bị cơ sở hạ tầng đồng bộ cho thương mại điện tử về căn bản đã được hoàn tất. Sau 10 năm (1990 - 2000) thử nghiệm và ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử, với những kinh nghiệm thu được từ thực tiễn thì Mỹ mới công bố Chiến lược phát triển thương mại điện tử. Kinh nghiệm của Canada Chính phủ chủ động và đóng vai trò của một “bà đỡ” cho sự ra đời và phát triển thương mại điện tử ở Canada thông qua: (i) Chính phủ đóng vai trò chủ chốt trong việc quảng bá các lợi thế của thương mại điện tử và đi đầu thí điểm các công nghệ mới; (ii) Đầu tư thực hiện các dự án thí điểm về quản lý điều hành các cơ sở hạ tầng công nghệ then chốt; (iii) Thực hiện các ứng dụng an toàn và dịch vụ quản lý trọng điểm; (iv) Đi đầu thực hiện các dự án lưu trữ điện tử và hoạch định thực thi chiến lược an ninh và bảo mật mạng. Kinh nghiệm của các nước EU Định hướng chiến lược thương mại điện tử của EU đã xác định hướng ưu tiên hành động trong triển khai thương mại điện tử là đào tạo và phát huy lợi thế “nguồn nhân lực” kết hợp với yếu tố “văn hoá châu Âu” - coi đây là nhân tố hàng đầu đảm bảo thực hiện ý đồ đuổi kịp Mỹ và thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ về công nghệ. 2.2 Kinh nghiệm của một số nước đang phát triển trong việc chuẩn bị chấp nhận và tham gia thương mại điện tử: Kinh nghiệm của Singapore Đề cao vai trò của Nhà nước, của Chính phủ trong việc hoạch định và thực thi luật pháp, chính sách thương mại điện tử ; coi luật pháp là nền móng dưới cùng của hạ tầng cơ sở thương mại điện tử và làm hài hoà các luật và chính sách thương mại điện tử. Kinh nghiệm của các nước A-rập Thận trọng trong việc tiếp cận các vấn đề chấp nhận và tham gia thương mại điện tử, chú trọng chuẩn bị nhân lực cho thương mại điện tử, xúc tiến sự hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân trong lĩnh vực thương mại điện tử. 3. Giải pháp xây dựng chiến lược thương mại điện tử ở các nước đang phát triển Trong bối cảnh năng lực của khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế, việc xây dựng chiến lược phát triển thương mại điện tử ở các nước đang phát triển đòi hỏi vai trò tiên phong và dẫn dắt của chính phủ. Vai trò đó được thể hiện trên bình quốc gia và quốc tế. ở cấp độ quốc gia, chính phủ tạo lập môi trường thuận lợi cho thương mại điện tử và phát triển năng lực quốc gia về công nghệ thông tin qua các chính sách đầu tư, khuyến khích cạnh tranh và phát triển nhận thức về thương mại điện tử. Hợp tác giữa chính phủ và giới doanh nghiệp cần được đẩy mạnh, trong đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) là đối tượng chủ yếu cấn được hướng tới. ở cấp độ quốc tế, các nước đang phát triển cần xây dựng lập trường riêng về thương mại điện tử khi tham gia vào các diễn đàn chính sách thương mại điện tử quốc tế đa phương, đặc biệt là trong WTO. Chính phủ các nước này cần phải nêu lên mối quan tâm về khoảng cách phát triển và vận động các nước khác đưa những quy tắc đối xử đặc biệt vào khuôn khổ điều chỉnh thương mại điện tử quốc tế để đảm bảo cơ hội công bằng cho tất cả các nước. Do thương mại điện tử vẫn là một lĩnh vực khá mới mẻ, việc xây dựng lập trường đàm phán đòi hỏi phải có một thời gian phân tích và thảo luận lâu dài. Trong thời gian đó, các nước đang phát triển cần tranh thủ mọi sự giúp đỡ từ bên ngoài về kinh nghiệm và đầu tư, đồng thời phải thúc đẩy sự hợp tác Nam - Nam để thống nhất lập trường và tạo đối trọng với các nước phát triển trên bàn đàm phán. Thương mại điện tử là một vấn đề mang tính chiến lược kinh tế - xã hội quốc gia. Trước mắt cũng như lâu dài, hàng loạt vấn đề về kinh tế - an ninh - văn hoá mà thương mại điện tử đặt ra cho mỗi quốc gia đều cần được đáp ứng và giải quyết ở tầm vi mô, vĩ mô và tầm quốc tế. Những đòi hỏi đó là một tổng thể hàng chục vấn đề phức tạp trong mối quan hệ hữu cơ cần được xử lý một cách toàn diện và đồng bộ. Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện hiệu quả và thực tế khi tính pháp lý của nó được thừa nhận cả ở phạm vi quốc gia và quốc tế; khi có hạ tầng công nghệ thông tin đủ năng lực, tiên tiến, hiện đại, phù hợp với túi tiền của đại đa số dân chúng; khi có đội ngũ kỹ thuật thông tin đủ mạnh; có đông đảo công dân và người lao động có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và có thói quen làm việc trên máy vi tính, trên mạng Internet, khi có hệ thống bảo mật an toàn và cơ chế an ninh hữu hiệu. Đồng thời nó chỉ có thể được áp dụng rộng rãi khi Nhà nước có các chính sách phát triển thương mại điện tử; khi nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển đủ mức cho phép triển khai thanh toán tự động và đi liền với việc thiết lập toàn bộ hệ thống mã thương mại trên cơ sở các chuẩn và định chế quốc tế; khi có cơ chế trung gian đảm bảo chất lượng hàng hoá để bảo vệ người tiêu dùng; khi quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm dịch vụ-hàng hoá số hoá truyền gửi trên mạng Internet và bản quyền của các thông tin trên Web được bảo vệ trước khả năng xâm phạm, sao chép của các nhà kinh doanh dung liệu số hoá; khi đã thiết lập được khuôn khổ pháp lý trang bị kỹ thuật hiện đại và có cơ chế an ninh quốc gia hữu hiệu đủ khả năng chống lại sự xâm nhập với mục đích bất hợp pháp của các thế lực thù địch và các loại tội phạm hoạt động trên mạng. Như vậy để đáp ứng đòi hỏi của việc phát triển thương mại điện tử, trong giai đoạn tới các nước đang phát triển nên thực hiện sự ứng dụng và phát triển thương mại điện tử theo hướng sau: Một là, nâng cao nhận thức và kiến thức về thương mại điện tử cho mọi người dân nhất là đối với các cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế, thương mại và những ngành có liên quan. Hai là, xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi và các chính sách kinh tế-xã hội mềm dẻo, khuyến khích đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, mở rộng thị trường và tăng cường trao đổi thương mại, phát triển dịch vụ, chuyển giao công nghệ, và hợp tác quốc tế nhằm tạo thuận lợi để ứng dụng thương mại điện tử. Xây dựng hệ thống các luật pháp các quy tắc về thương mại điện tử của quốc gia phù hợp với các quy tắc của Liên hợp quốc (như luật về chữ ký điện tử, các thoả thuận về bảo vệ nhãn hiệu, bản quyền và sở hữu trí tuệ, tên miền Internet và nội dung trên Internet, giữ bí mật thông tin, luật về bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp và người tiêu dùng trong các trường hợp có giả mạo hoặc gian lận thương mại, mất an toàn trong thanh toán….). Rà soát, phân loại hệ thống nội luật hiện hành thành loại có thể sửa đổi bổ sung và loại không thể sửa đổi được cần thay thế bằng đạo luật khác, từ đó xây dựng các luật đặc thù để quản lý các hình thức hoạt động khác nhau của thương mại điện tử, chấp nhận thương mại điện tử về mặt pháp lý quốc tế. Ba là, triển khai xây dựng một chiến lược quốc gia về hình thành “nền kinh tế số hoá” nói chung và thương mại điện tử nói riêng. Thiết lập một chương trình hành động phù hợp với tình hình thực tế của mỗi nước cũng như các khuôn khổ và nguyên tắc của các tổ chức kinh tế và thương mại quốc tế trên thế giới, đặc biệt cần triển khai nhanh chóng việc phổ cập, đào tạo, thử nghiệm… Bốn là, tạo lập đồng bộ cơ sở hạ tầng kinh tế - văn hoá - xã hội cho thương mại điện tử, bắt đầu từ nền móng là tài nguyên nhân lực kế sau là công nghệ thông tin. Nhà nước phải quan tâm khuyến khích và tạo điều kiện nhằm nâng cao trình độ tin học cho nguồn nhân lực sẵn sàng tham gia thương mại điện tử , đồng thời tạo ra một đội ngũ các chuyên gia tin học kỹ thuật thông tin đủ mạnh để vừa đáp ứng yêu cầu của “kinh tế số hoá” của thương mại điện tử , vừa tránh bị động, lệ thuộc vào công nghệ của nước ngoài, giải quyết các vấn đề bảo mật, an toàn. Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ cần thiết cho phát triển thương mại điện tử, xây dựng các chuẩn kỹ thuật và công nghệ thống nhất quốc gia và quốc tế. Năm là, triển khai thể nghiệm rộng rãi các loại hình dịch vụ của thương mại điện tử ở các mức độ khác nhau để rút kinh nghiệm và nhân rộng. Chính phủ phải chủ động trong việc tổ chức, thử nghiệm trong vai trò người sử dụng mẫu mực công nghệ mới, đi đầu trong đầu tư và thực hiện các dự án thí điểm về quản lý điều hành các cơ sở hạ tầng công nghệ then chốt. Sáu là, xây dựng hệ thống tổ chức quản lý thương mại điện tử phù hợp. Bảy là, chính sách hội nhập kinh tế cần chú trọng trong việc phối hợp với các nước, các tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử ở các nước đang phát triển và sự tiến triển thương mại điện tử trên quy mô toàn cầu. 4. Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam 4.1 Tính tất yếu phải phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam Những tiến bộ to lớn về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, đã tạo ra bước ngoặt mới cho sự phát triển kinh tế và xã hội toàn cầu. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và một nền kinh tế mới dựa trên tri thức và thông tin đã trở thành đích đến của kinh tế toàn cầu, đặc biệt là ở các nước phát triển. Sự hình thành và phát triển các siêu lộ thông tin (information highway) với khả năng phục vụ ngày càng hoàn hảo đã tăng cường phương tiện cho quá trình toàn cầu hoá vốn đã và đang chi phối mọi mặt đời sống quốc tế từ cuối thập kỷ 80 đến nay. Trên nền tảng đó, thương mại điện tử xuất hiện với tư cách một phương thức thương mại quốc tế mới. Nhận thức được vai trò của thương mại điện tử trong chiến lược phát triển kinh tế tri thức, nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực đang chú trọng đầu tư phát triển lĩnh vực này. Với nước ta, đòi hỏi bắt kịp với nền kinh tế tri thức có tính toàn cầu đã trở thành vấn đề “tồn tại hay không tồn tại”. Một câu hỏi lớn được nêu ra là: từ thực trạng kinh tế xã hội nước ta hiện nay - một nước nông nghiệp đang phát triển, nghèo thông tin và thiếu tri thức - liệu chúng ta có thể xây dựng kinh tế tri thức được không? Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng không thể “đốt cháy giai đoạn” mà chỉ có thể thực hiện một giai đoạn “quá độ” thúc đẩy nhanh các điều kiện phát triển cần thiết. Vì vậy, chỉ có cách là phải nỗ lực nhiều lần để thực hiện một nhiệm vụ kép hay nói chính xác hơn là phải nỗ lực đổi mới chính mình, về tư duy, về nhận thức và hành động để tạo dựng những yếu tố nền móng cho sự phát triển trong tương lai. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường hướng phát triển cho đất nước là phải tiến hành quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá được đặt ra trong bối cảnh của kỷ nguyên thông tin và xu thế toàn cầu hoá. Thách thức đối với chúng ta là phải đồng thời thực hiện cuộc cách mạng về công nghiệp, vừa phải thực hiện cuộc cách mạng về thông tin trong khi mà nhiều nước trên thế giới đã đạt đến trình độ cao về công nghệ và liên kết chặt chẽ. Hai giải pháp lớn để thực hiện đường hướng chiến lược đó là đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển khoa học công nghệ. Kế thừa và phát triển quan điểm của các Đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới, Đại hội Đảng IX đặt ra nhiệm vụ tiếp tục chủ động và tích hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu để tận dụng mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Liên quan đến khoa học công nghệ, Văn kiện Đại hội Đảng IX xác định: “... cần tạo bước phát triển mới có hiệu quả trong các lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng các thành quả khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng trong từng ngành, từng sản phẩm và từng lĩnh vực kinh tế... Việc đổi mới công nghệ sẽ hướng vào chuyển giao công nghệ, tiếp thu làm chủ công nghệ mới,...đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao như tin học, công nghệ thông tin và viễn thông...”. Ngày nay, thương mại điện tử được đẩy đi trước, kéo theo sau nó là hàng loạt vấn đề khác. Với khả năng mua bán toàn cầu, thị trường mở ra gần như vô tận với các doanh nghiệp nếu như sản phẩm hàng hoá của họ đạt tiêu chuẩn quốc tế, được người tiêu dùng ưa thích và các điều kiện hỗ trợ kèm theo hoàn hảo; thương mại điện tử cũng giúp cho việc trao đổi thông tin và tiếp cận với khoa học công nghệ mới nhanh hơn. Môi trường thuận tiện giúp chúng ta phát triển nhanh chính là Internet và môi trường để cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam làm quen và thử sức hội nhập với quốc tế là thương mại điện tử. Vì vậy, cần thiết phải sử dụng hiệu quả những công cụ đó để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong lộ trình hội nhập với cộng đồng thế giới hiện nay, Việt Nam đã có những bước tiến dài và vững chắc vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Một mốc quan trong đánh dấu quá trình đó là việc ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ năm 2000, mở ra cơ hội hợp tác, đầu tư và tăng cường xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, việc hiện thực hóa những tiềm năng đó đòi hỏi nhiều điều kiện, một trong số đó là việc làm quen với tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với doanh nghiệp Mỹ và chính sách ngoại thương của Mỹ. Như chúng ta đã biết, thương mại điện tử đã trở thành một phương thức kinh doanh và giao dịch được ứng dụng rộng rãi trong giới kinh doanh ở Mỹ, chính sách của Mỹ là đi đầu trong thương mại điện tử quốc tế. Mỹ đã và đang nêu lên vấn đề này trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương. Do đó, việc nhiều doanh nghiệp Mỹ tìm cơ hội hợp tác và đầu tư ở Việt Nam thông qua con đường điện tử sẽ là việc phổ biến. Nếu doanh nghiệp Việt Nam không sớm làm quen và thích nghi với phương thức thương mại này, một rào cản vô hình sẽ được dựng lên, ngăn cách doanh nghiệp hai bên trong việc tiếp cận và tìm hiểu cơ hội làm ăn. Những tiềm năng và cơ hội phát triển sẽ chỉ mãi còn nằm trên giấy tờ. Hơn nữa, theo cam kết trong Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, Việt Nam sẽ đưa hình thức liên doanh vào viễn thông và Internet bắt đầu từ năm 2006; trong thời gian hiện nay, Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước để tập dượt cho việc hội nhập này. Do đó, phát triển thương mại điện tử là một trong các giải pháp cần được thực hiện để đón bắt cơ hội và đáp ứng các đòi hỏi trong việc thực thi hiệp định này. Trong một kế hoạch lâu dài , Việt Nam đang trên đường đàm phán để gia nhập WTO trong thời gian sớm nhất có thể (dự kiến là năm 2008). Để có thể là thành viên của WTO, Việt Nam cần đạt các thoả thuận với tất cả các nước thành viên trong tất cả các lĩnh vực thương mại hàng hoá và dịch vụ dưới sự điều chỉnh của các cam kết theo Hiệp định WTO. Thương mại điện tử đang được các nước thảo luận trong tổ chức này và có khả năng trở thành một phần trong các cam kết dưới Hiệp định WTO. Đón đầu thương mại điện tử sẽ là bước chuẩn bị có tính chất chiến lược giúp Việt Nam khỏi bỡ ngỡ và thúc đẩy nhanh hơn quá trình đàm phán gia nhập tổ chức này, nhờ đó chúng ta có thể hội nhập rộng rãi và vững chắc vào nền kinh tế thế giới trong thời gian tới. 4.2. Thực trạng thương mại điện tử ở Việt Nam 4.2.1 Tình hình phát trỉển công nghệ thông tin Công nghệ thông tin được bắt đầu tiếp cận và hình thành ở nước ta vào giữa thập kỷ 60, đến nay đã trên 35 năm. Có thể chia quá trình phát triển công nghệ thông tin ở nước ta làm 3 giai đoạn: Từ 1965-1982 là giai đoạn khởi đầu của công nghệ thông tin ở nước ta, sử dụng các máy tính điện tử cỡ lớn thế hệ 2 và 3 vào các ứng dụng xử lý thông tin phục vụ nghiên cứu khoa học, phân tích thống kê. Từ 1982-1992 là giai đoạn tiếp cận với máy vi tính và các ngôn ngữ lập trình, các phần mềm công cụ và bước đầu phổ cập xử lý thông tin đơn giản trên các máy tính các nhân trong xã hội. Từ 1993 đến nay là giai đoạn chuyển về chất trong công nghệ tổ chức và xử lý thông tin. Chính công nghệ thông tin là nền tảng cho quá trình hội nhập, toàn cầu hóa. Trong vòng 10 năm, ngành viễn thông của Việt Nam đã phát triển vượt bậc, đặc biệt là về mặt công nghệ. Tính sau 15 năm đổi mới, trong khi các ngành kinh tế kỹ thuật của Việt Nam đổi mới công nghệ trung bình khoảng 3% thì riêng ngành viễn thông đổi mới hơn 90% “Viễn thông Việt Nam: ngang bằng khu vực, Thời báo kinh tế Sài Gòn số 38, 2002 . Sự phát triển đột phá của ngành viễn thông đã đưa trình độ công nghệ của chúng ta lên mức tương đương với các nước trong khu vực. Việt Nam đã chuyển đổi hầu hết hệ thống tổng đài viễn thông sang công nghệ số. Chúng ta đã đưa hầu hết những dịch vụ có trên thế giới vào Việt Nam: Internet, điện thoại qua Internet, truyền số liệu, VOIP, các dịch vụ ISDN và ASDL Các dịch vụ cung cấp công nghệ đường truyền cho Internet, xem thêm Báo cáo dự án quốc gia “Kỹ thuật thương mại điện tử”, Bộ Thương mại, 2001 .. Tuy vậy, mức độ phổ cập viễn thông và Internet của Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với thế giới. Hiện nay mức độ sử dụng điện thoại trung bình trên thế giới là 18-20 máy/100 dân, còn ở Việt Nam mới có 6 máy/100 dân. Về Internet, mức độ phổ cập chung trên thế giới là 7% dân số, riêng khu vực châu á Thái Bình Dương là 3%, còn ở Việt Nam chỉ mới đạt hơn 1.5% “Viễn thông Việt Nam: ngang bằng khu vực, Thời báo kinh tế Sài Gòn số 38, 2002 Theo tính toán của Tổng cục Bưu điện, tới tháng 6 năm 2002 Việt Nam có hơn 1 triệu người sử dụng Internet (theo thống kê không chính thức con số đó hiện nay vào khoảng 2.5 triệu) và theo các hợp đồng đã ký thì có 2500 đại lý Internet. Nhưng điều quan trọng là giá cước sử dụng điện thoại và Internet còn quá cao, gấp 2-3 lần nhiều nước trong khu vực. Chất lượng dịch vụ còn nhiều hạn chế do Việt Nam phát triển sau thế giới và do các cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập không khuyến khích được cạnh tranh. Ngày 23/8/2001 chính phủ đã ban hành nghị định 55/2001-NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, thay thế cho nghị định số 2-CP năm 1997. Năm 2002, Tổng cục Bưu điện đã chính thức cấp giấy phép cung cấp dịch vụ và kết nối Internet cho hai nhà cung cấp mới là FPT và Vietel, chấm dứt sự độc quyền của VDC trong vai trò IXP (nhà cung cấp đường truyền Internet) duy nhất trước đó. Về nguồn nhân lực công nghệ thông tin, tính đến năm 2001 đội ngũ cán bộ chuyên môn trong trong ngành này khoảng 20000 người trong đó có 2000 người chuyên về phần mềm tin học. Ngoài ra còn có hơn 50000 người Việt Nam ở nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực này Báo cáo dự án quốc gia “Kỹ thuật thương mại điện tử”, Bộ Thương mại, 2001 .Bảy trường lớn ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Trung được nhà nước hỗ trợ đầu tư cho các khoa công nghệ thông tin với mục tiêu đào tạo khoảng 2000 cử nhân và kỹ sư tin học mỗi năm. Trung bình một năm có khoảng 3500 người được đào tạo cơ bản về tin học, nhưng so theo mức bình quân đầu người thì ta còn kém Singapore khoảng 50 lần. Nhìn chung, nước ta còn thiếu nhân lực về công nghệ thông tin, đặc biệt là chuyên gia phần cứng, đồng thời các chuyên gia Việt Nam cũng còn hạn chế trong năng lực xử lý các hệ thống và các phần mềm ứng dụng toàn cục với quy mô lớn do chất lượng và hình thức đào tạo còn nhiều bất cập. Mặt khác, một phần lực lượng cán bộ được đào tạo về công nghê thông tin lại không được sử dụng đúng vị trí. 4.2.2 Mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử Các ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử trên thế giới đã được giới thiệu trên các báo PCWorld Việt Nam, Điện tử và tin học, Tin học và đời sống...và trong chương trình “Sự lựa chọn cho tương lai” của VTV3 Đài truyền hình Việt Nam trong mấy năm gần đây. Trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến nay, đã có nhiều cuộc hội thảo chuyên đề về ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử với sự tham gia của một số công ty tin học tầm cỡ quốc tế như IBM, INTEL do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Bộ Thương mại tổ chức. Nhờ các biện pháp tuyên truyền đó, giới doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ đã có được hiểu biết phần nào về thương mại điện tử. Tuy nhiên, nhận thức đó chỉ mới ở tầm kiến thức bề ngoài, còn mức độ ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh và các dịch vụ công (public services) thì mới chỉ ở bước sơ khởi. Rất nhiều người và nhiều cơ quan quản lý vẫn còn hiểu thương mại điện tử chỉ là buôn bán qua mạng, chưa nhận thức được vai trò của thương mại điện tử trong nền kinh tế hội nhập, toàn cầu hoá. Mặt khác, các hoạt động phổ cập kiến thức thường nghiêng nhiều về quảng cáo siêu thị điện tử, các cửa hàng ảo hoặc tiếp cận thương mại điện tử chỉ ở một trong các hình thái hoạt động có liên quan. Nhiều cơ quan nhà nước còn cho rằng thương mại điện tử là công việc của Bộ Thương mại và Tổng Cục Bưu điện. Nhận thức như vậy gây cản trở cho quá trình nhanh chóng hoàn thiện kỹ thuật thương mại điện tử như một giải pháp tổng thể cho toàn bộ các cơ sở hạ tầng cần thiết cho phương thức thương mại này. Việc nhận thức thiếu đầy đủ về nội dung và ý nghĩa của thương mại điện tử không chỉ xảy ra riêng ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước khác, kể cả một số nước phát triển. Tính đến hết năm 2002, cả nước có khoảng hơn 6000 doanh nghiệp nhà nước, 38.000 doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Số doanh nghiệp có ứng dụng công nghệ thông tin, tham gia thương mại điện tử chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp có trang web riêng, 8% tham gia có tính chất phong trào hoặc mới bắt đầu nghiên cứu sử dụng, còn lại 90% chưa tham gia và thậm chí chưa biết cách sử dụng. Ngay tại tại thủ đô Hà Nội hiện nay chỉ có khoảng 24% doanh nghiệp có trang web riêng, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ thậm chí không có cả máy Fax lẫn máy vi tính “Khía cạnh văn hóa trong TMĐT”, NXB CTQG, Hà Nội, 2003 . Bảng 4: Tỷ lệ các đơn vị ở Hà Nội có trang web riêng Danh mục nhóm Không Có 1. Các bộ, cơ quan quản lý cấp ngành 67% 27% 2. Các doanh nghiệp khối quốc doanh 79% 21% 3. Các doanh nghiệp tư nhân 76% 24% 4. Các loại khác 100% Tổng cộng 75% 24% Nguồn: Công ty InvestConsult Group, Hà Nội, 2003 Trong số các doanh nghiệp đã tham gia vào thương mại điện tử, các doanh nghiệp lớn chiếm 69%. Trong giao dịch thương mại điện tử các doanh nghiệp chủ yếu dừng lại ở khâu trao đổi thông tin và đặt hàng, trong đó 55% chưa đạt được kết quả mong muốn, 58% gặp khó khăn về phần cứng, 37% chưa đủ nhân lực đạt trình độ tương ứng, 97% chưa thanh toán qua ngân hàng . Theo số liệu tổng hợp từ 3 công ty VASC, VDC và FPT, đến hết tháng 6 năm 2003 có 3000 doanh nghiệp trong nước thuộc đủ mọi loại thành phần đã thuê hoặc nhờ đặt trang web của mình lên máy chủ (server) của các ISP (nhà cung cấp dịch vụ Internet) này nhằm mục đích giới thiệu thông tin tiếp thị. Tuy nhiên, các website này có nội dung rất “khô cứng”, thiếu cập nhật và tốc độ truy cập chậm dẫn đến hiệu quả tương tác không cao, số lượng người truy cập cũng hạn chế. Có thể nói, đa số các doanh nghiệp chưa thật sự sẵn sàng cho thương mại điện tử. Theo điều tra của tổ chức nghiên cứu kinh tế EIU, mức độ e-readiness của Việt Nam nằm trong nhóm cuối bảng trong tổng số các nước được xếp hạng trên thế giới. Năm 2001 Việt Nam xếp hạng 58/60, năm 2002 là 56/60 “Thách thức cũ - cơ hội mới”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 52, 2002 . Có nhiều lý do khiến các doanh nghiệp Việt Nam còn ngần ngại khi tham gia thương mại điện tử. Vấn đề bức xúc nhất chính là ở khâu con người chỉ đạo quản lý và thực hiện. Phần lớn các doanh nghiệp đều thiếu vốn đầu tư phát triển công nghệ kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh cũng như thuê những người quản lý có chuyên môn tốt, thành thạo về công nghệ thông tin. Nhiều doanh nghiệp còn chưa tin tưởng vào khả năng đem lại lợi nhuận của thương mại điện tử do thói quen của người tiêu dùng Việt Nam khi mua sắm vẫn là “xem tận mắt, sờ tận tay”. Hạ tầng kỹ thuật còn yếu, trong đó tốc độ đường truyền thấp và giá thuê còn cao so với khả năng cũng là một trở ngại. Hơn nữa, điều kiện thiết yếu cho giao dịch thương mại điện tử là phương thức thanh toán điện tử vẫn còn đang ở mức độ phát triển thấp, đa số các trường hợp đều phải phụ thuộc vào phương thức thanh toán truyền thống. Nhiều doanh nghiệp coi đây là rào cản chính đối với việc ứng dụng đầy đủ thương mại điện tử. Bao trùm lên tất cả những vấn đề trên, sự thiếu vắng một khung pháp lý về thương mại điện tử cũng làm cho hoạt động này trở nên manh mún và thiếu cơ sở vững chắc. Tuy vậy, ở Việt Nam vẫn có những hệ thống thương mại điện tử đang tồn tại và hoạt động đắc lực, ví dụ như www.vietetrade.com và www.bvom.com, nơi hàng hoá và cơ hội mua bán được giao tiếp chuyên nghiệp và miễn phí. Hệ thống thương mại điện tử này đã bền bỉ nằm trong các danh mục địa chỉ quan trọng nhất của Việt Nam trên hệ thống nổi tiếng toàn cầu Google.com và Excite.com từ hơn hai năm nay. Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động tích cực ở đây vì hệ thống này mang lại sự thiết thực và gần gũi với doanh nghiệp và hơn hết là vì những cơ hội thực sự được mở ra từ phương pháp làm việc chuyên nghiệp. Ngoài ra, ngày càng nhiều công ty có chiến lược tham gia thương mại điện tử rất cụ thể, và đã đạt được những thành công nhất định. Công ty thương mại An Dan (Gami Group) là một trong những công ty đi đầu trong áp dụng thương mại điện tử vào kinh doanh. An Dan có 4 website trong đó website www.nhaxinh.com.vn về bất động sản hoạt động rất hiệu quả. Bất cứ ai có nhu cầu đều có thể đăng ký là thành viên của An Dan để giới thiệu tài sản bán hoặc cho thuê. Thông tin khách hàng truy cập trên website này thường xuyên được cập nhật về thị trường bất động sản, xu hướng và sở thích của khách hàng, giới thiệu mua và bán. Từ khi website này được giới thiệu từ năm 2000 đến nay, đã có 50 căn nhà được đem ra bán. Giải thích về hoạt động của mình, công ty cho biết muốn đặt nền tảng phát triển cho tương lai. ở một điển hình khác, qua website riêng, công ty Phát Thành ở thành phố Hồ Chí Minh tìm được cơ hội xuất khẩu sản phẩm nhựa trị giá 100.000 USD sang Phần Lan. Hay gần đây, hình thức kinh doanh sách qua mạng cũng được phát triển khá rầm rộ, đi đầu là nhà sách Minh Khai và trung tâm Tiền phong-VDC. Dịch vụ việc làm trực tuyến Vietnamworks.com cũng trở thành một cầu nối rất thành công giữa nhà tuyển dụng và người tìm việc qua kênh nộp hồ sơ trực tuyến với hàng trăm việc làm được cập nhật hàng ngày. Ngoài ra, hàng loạt các trang web hoạt động có hiệu quả khác của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch và văn hoá cũng đang đem lại diện mạo và tiềm năng mới cho thương mại điện tử Việt Nam. Liên quan đến dịch vụ công, các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng đã thực hiện bước đầu mô hình chính phủ điện tử (e-government) ở một số khu vực với mục tiêu rút ngắn thời gian và tăng hiệu quả trong việc xử lý các thủ tục hành chính. ở thành phố Hồ Chí Minh, nếu trước đây một doanh nghiệp phải chờ 15 ngày mới có được giấy phép kinh doanh kể từ ngày đăng ký thì hiện nay, việc đăng ký và cấp phép này chỉ mất từ 3 đến 5 giờ đồng hồ, tiết kiệm rất nhiều chi phí và công sức cho cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân. Nhìn chung, phần lớn các hoạt động thương mại điện tử thời gian qua chỉ mới trên hướng biểu thị sự hưởng ứng đối với xu thế phát triển của thương mại điện tử trên thế giới, còn phân tán, thiếu tính đồng bộ và hệ thống. Đó là do một môi trường thực sự và toàn diện cho thương mại điện tử chưa hình thành. Hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam muốn thực sự sôi động cũng phải chờ thêm một thời gian nữa để hội đủ các điều kiện cần thiết. Mặc dù vậy các hoạt động đó cho thấy tiềm năng phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam là rất rõ ràng. Đã đến lúc chính phủ cần bắt tay vào tạo ra một môi trường thông thoáng, đầy đủ và đồng bộ khuyến khích thương mại điện tử phát triển và sẵn sàng áp dụng thương mại điện tử trên cả nước để đáp ứng nhu cầu phát triển theo định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và chủ động hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. 4.3 Xây dựng chiến lược phát triển và hội nhập thương mại điện tử toàn cầu Theo kinh nghiệm trên thế giới, việc tiếp cận thương mại điện tử một cách tổng thể và vững chắc cần được tiến hành qua nhiều bước và nhiều giai đoạn: (i) Hình thành một hệ thống quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo thương mại điện tử; (ii) Phổ cập kiến thức và nhận thức về thương mại điện tử tới các doanh nghiệp và từng cá nhân; (iii) Xác định các cản trở hiện hữu trong nước và trong khu vực đối với thương mại điện tử. Từ đó, quá trình xây dựng một chiến lược phát triển thương mại điện tử phù hợp với điều kiện đặc thù của từng nước mới có thể được tiến hành. Việc thực hiện chiến lược phát triển thương mại điện tử thường gồm các bước: (i) xây dựng một chương trình tổng thể về thương mại điện tử xuất phát từ các nguyên tắc chỉ đạo khung; (ii) Đề ra các chương trình hành động cụ thể cho từng lĩnh vực và triển khai đồng bộ các chương trình đó. Thực tế thương mại điện tử trên thế giới và ở Việt Nam thời gian qua cho thấy hoạt động thương mại điện tử chủ yếu là do các doanh nghiệp tiến hành. Chính phủ có nhiệm vụ chủ yếu là tạo môi trường và xúc tiến, nhưng chính phủ sẽ đi tiên phong trong xuất xây dựng chiến lược và số hoá các dịch vụ công. 4.3.1 Các chương trình chính phủ đã triển khai về thương mại điện tử Mặc dù chính phủ Việt Nam chưa có tuyên bố chính thức nào về thương mại điện tử nhưng trên thực tế chính phủ đã có những bước đi chắc chắn và bài bản. Có thể nói vấn đề đặt ra hiện nay của Việt Nam không phải là có chấp nhận thương mại điện tử hay không mà là sẽ áp dụng thương mại điện tử sao cho phù hợp với lợi ích, điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam, có tính đến môi trường quốc tế và khu vực. Bên cạnh những chỉ thị, nghị quyết về phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, công nghiệp phần mềm như Nghị quyết 49/CP, Nghị quyết 07/2000, Chỉ thị 58-CT/TW, Quyết định 128/2000 Ttg..., ngay từ năm 1998 chính phủ đã giao cho Bộ Thương mại và Tổng Cục Bưu điện xây dựng phương án từng bước tham gia và áp dụng thương mại điện tử ở Việt Nam. Cuối năm 1999, chính phủ quyết định chi 1 tỷ đồng dể thực hiện dự án “Kỹ thuật thương mại điện tử” bao gồm 14 dự án phụ nhằm mục đích chuẩn bị cho thương mại điện tử một cách toàn diện về các mặt nhận thức của công chúng, cơ sở pháp lý, cơ sở kỹ thuật, bảo mật, thanh toán điện tử, tiêu chuẩn hoá ngành, bảo vệ người tiêu dùng, đảm bảo an ninh quốc gia, quản lý của nhà nước, quản lý nguồn nhân lực... và đã bổ nhiệm cho các tổ chức có liên quan để thực hiện. Dự án này được đặt dưới sự điều hành của Ban Thương mại điện tử thuộc Bộ Thương mại. Cuối năm 2001, kết quả dự án đã được trình lên chính phủ phê duyệt. Trong quá trình hội nhập và tham gia các hoạt động của các tổ chức quốc tế và khu vực, Việt Nam đã tham gia thảo luận và ký kết các cam kết về thương mại điện tử. Trong APEC, Việt Nam đã thoả thuận tham gia vào “Chương trình hành động về thương mại điện tử của APEC”. Trong ASEAN, Việt Nam tham gia hoạt động trong Tiểu ban điều phối về thương mại điện tử (CCEC) của ASEAN. Ngày 24/11/2000, Thủ tướng chính phủ Phan Văn Khải đã ký “Hiệp định khung về E-ASEAN” khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc phát triển không gian điện tử và thương mại điện tử trong khuôn khổ các nước ASEAN. Tuy vậy, so với tốc độ phát triển của thương mại điện tử trên thế giới thì các hành động của chúng ta vẫn còn chậm và chưa đầy đủ. Cho đến nay, lộ trình tổng thể trong được kiến nghị trong “Dự án Kỹ thuật thương mại điện tử” vẫn còn đang trong quá trình xem xét phê duyệt. Chúng ta vẫn chưa có một đầu mối ở tầm quốc gia để điều hành, chỉ đạo giúp chính phủ hoạch định các chính sách liên quan đến phát triển thương mại điện tử hoặc phối hợp các nỗ lực chung của các ngành các cấp có liên quan trong quá trình triển khai và ứng dụng thương mại điện tử (Bộ Thương mại đã đệ trình kiến nghị thành lập Hội đồng quốc gia về thương mại điện tử). 4.3.2 Một số kiến nghị về định hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới Kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực và mạnh mẽ theo xu thế hội nhập và triển khai thực các cam kết CEPT/AFTA, Hiệp định thương mại Việt Mỹ và tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong nước, quá trình tiếp tục hoàn thiện các cơ chế quản lý kinh tế, khung luật pháp về thương mại và tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, phát triển thị trường chứng khoán... đã có những bước tiến rõ rệt. Song song với những thuận lợi đó, nước ta vẫn còn đang phải đối mặt với những thách thức về trình độ công nghệ còn lạc hậu so với thế giới, sức cạnh tranh kém và thiếu vốn đầu tư cho phát triển. Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử cần được thực hiện trên 3 quan điểm cơ bản: (i) Thương mại điện tử phải được nhìn nhận và xử lý trên bình diện toàn xã hội; (ii) Thương mại điện tử cần được nhìn nhận vừa như một cơ hội, vừa như một thách thức đòi hỏi sự hiểu biết về tinh thần và trách nhiệm quốc gia; (iii) Cần tranh thủ tối đa các nguồn lực và hỗ trợ từ bên ngoài. Trên các quan điểm này, một số hướng hoạt động cần được tập trung xem xét như sau Hoàn thiện từng bước môi trường pháp lý cho thương mại điện tử Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, phổ biến kiến thức về thương mại điện tử đến mọi doanh nghiệp và người dân trên cơ sở thường xuyên tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc hội thảo..., phổ cập hoá Internet thông qua các chương trình đào tạo cấp đại học và phổ thông; đảm bảo kỹ thuật và giảm cước viễn thông, phí truy cập; đưa đầu tư về cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử vào kế hoạch phát triển kinh tế hàng năm, ban hành các chính sách ưu đãi về thuế và thủ tục cho các đơn vị tham gia chương trình thương mại điện tử và kinh doanh công nghệ thông tin. Thúc đẩy hợp tác quốc tế và khu vực trên các lĩnh vực pháp lý, khoa học công nghệ; các cán bộ ngành và các đơn vị quản lý ký kết các thoả thuận hợp tác triển khai một số thử nghiệm với các nước khu vực về thương mại, thuế, kỹ thuật để thực hiện các dự án thương mại điện tử quốc gia theo tiêu chuẩn quốc tế; trước mắt nên thúc đẩy các chương trình hợp tác trong APEC, ASEAN và tham gia chương trình TRADEPOINT (tâm điểm mậu dịch) của Liên Hiệp Quốc như một thí điểm có liên quan tới thương mại điện tử và giới hạn trong lĩnh vực thúc đẩy buôn bán giữa các công ty vừa và nhỏ trên thế giới, đầu mối Tradepoint nên được đặt ở các thành phố có điều kiện kinh tế và hạ tầng thông tin tốt; đồng thời Việt Nam nên tiếp tục xây dựng lập trường cụ thể về thương mại điện tử quốc tế và cập nhật về chương trình thương mại điện tử của WTO. Tạo môi trường tin cậy và an toàn cho các giao dịch qua việc xây dựng hệ thống pháp luật đảm bảo thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại điện tử và giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử trên các nội dung chữ ký điện tử và hợp đồng điện tử, tiêu chuẩn hoá, cung cấp các dịch vụ xác thực (CA), sản phẩm mật mã; phổ biến các biện pháp chống truy cập bất hợp pháp, đề phòng tin tặc, đề ra các quy định xử lý về vi phạm bí mật an toàn riêng tư, thuế quan và bảo vệ sở hữu trí tuệ phù hợp với các tiêu chuẩn và nguyên tắc quốc tế. Hỗ trợ đào tạo kiến thức về quản lý dự án thương mại điện tử qua khoá đào tạo ngắn hạn và dài hạn, trao đổi kinh nghiệm giữa các nhà quản lý và các doanh nghiệp. Phát triển cơ sở hạ tầng thông tin và hoạt động chuẩn hoá thông tin, giảm dần độc quyền nhà nước trong ngành thông tin viễn thông, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia cạnh tranh, đặc biệt chú ý đến các công ty viễn thông uy tín trên quốc tế để tận dụng cơ hội tiếp thu công nghệ cao; thành lập các trung tâm khoa học nghiên cứu ứng dụng về thương mại điện tử; hoàn chỉnh các chương trình đào tạo cán bộ công nghệ thông tin và nhân lực ứng dụng thương mại điện tử trong các trường đại học, mời chuyên gia và gửi người đi đào tạo ở nước ngoài. (Hiện nay nhà nước đã có quyết định mở cửa thị trường công nghệ thông tin cho các công ty nước ngoài vào đầu tư dưới hình thức liên doanh nhưng vẫn chủ trương nhà nước sở hữu 51%.) Thành lập đầu mối quốc gia có sự tham gia của tất cả các thành phần có liên quan làm công tác tư vấn và giúp chính phủ hoạch định chương trình điều hành công tác phát triển thương mại điện tử trong cả nước một cách đồng bộ và toàn diện. Trong các định hướng trên, vấn đề xuyên suốt nhất là phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin nói chung và thương mại điện tử nói riêng, vì con người luôn là nhân tố trung tâm của mọi sự phát triển, từ khâu quản lý điều hành đến trực tiếp thực hiện. Trong điều kiện trình độ khoa học cơ bản và công nghệ còn thấp, vốn đầu tư ít, Việt Nam không thể tự mình đầu tư phát triển công nghệ trong điều kiện các nước khác trên thế giới đã tiến rất xa. Chiến lược phát triển hợp lý vì vậy là “đứng trên vai người khổng lồ”, nghĩa là tận dụng thành tựu phát triển đã có trên thế giới và nghiên cứu áp dụng vào Việt Nam. Nhờ đó, chúng ta có thể rút ngắn thời gian và tiết kiệm tiền bạc đầu tư vào nghiên cứu phát triển, đồng thời thực hiện quá trình “đi tắt, đón đầu” công nghệ tiên tiến trên thế giới. Khi thực hiện quá trình đó, Việt Nam có một lợi thế rất cơ bản là nguồn nhân lực. Nhiều chuyên gia trên thế giới đã nhận xét lợi thế so sánh của Việt Nam trong toàn cầu hoá kinh tế nằm ở chính con người Việt Nam với tư chất thông minh, sáng tạo, tính cần cù chịu khó và khả năng thích ứng nhanh với công nghệ mới, đặc biệt là trong lĩnh vực ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin. Điều này đã được nhiều hãng ngoại quốc có uy tín như Crédit Lyonais, Pepsicola, Caterpillar hay Microsoft xác nhận; khi thuê dùng người Việt Nam quản lý thông tin của hãng, họ nhận thấy các nhân viên Việt Nam đã nắm rất vững các công tác phức tạp chỉ qua một thời gian đào tạo và thực tập rất ngắn. Nguồn nhân lực để tham gia vào phát triển thương mại điện tử của nước ta rất lớn vì nước ta có lực lượng sinh viên dồi dào tốt nghiệp đại học hàng năm từ các chuyên ngành khác nhau. Cuộc thi “Trí tuệ Việt Nam” do VTV3 Đài Truyền hình Việt Nam và các cuộc thi viết phần mềm tin học khác cho thấy khả năng ứng dụng và sáng tạo công nghệ thông tin không chỉ giới hạn trong các trường đại học chuyên về lĩnh vực này. Hơn nữa, hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử đòi hỏi số lượng lớn chuyên gia các chuyên ngành khác nhau từ quản lý, kinh doanh, khoa học kỹ thuật đến xã hội nhân văn. Do vậy việc áp dụng thương mại điện tử sẽ tạo điều kiện cho nguồn nhân lực này phát huy hết tiềm năng. Tận dụng tốt lợi thế đó sẽ là chìa khoá để mở ra thành công trong ứng dụng thương mại thương mại điện tử ở Việt Nam. Tuy vậy nguồn nhân lực cho thương mại điện tử của Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế (xem phần ). Vì thế cần có những điều chỉnh và đổi mới trong phương thức đào tạo ở các trường đại học và phổ thông, đưa ứng dụng tin học vào chương trình đào tạo, lập thêm các khoa đào tạo về thương mại điện tử ở trình độ đại học và cao hơn. Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo công nghệ thông tin và các lĩnh vực khác cũng là một hướng khắc phục các hạn chế về trình độ khoa học công nghệ và phát huy nhân tố con người thúc đẩy nhanh quá trình ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử ở nước ta. Trong thời gian từ 2001 đến 2005, thương mại điện tử Việt Nam hướng vào mục tiêu dưa hoạt động này ứng dụng an toàn trên khắp cả nước, tuyên truyền nâng cao nhận thức, trình độ sử dụng máy tính cũng như dịch vụ mạng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ và người tiêu dùng tiếp xúc với phương thức kinh doanh tiên tiến của thế giới. Nhìn xa hơn, với nỗ lực của toàn xã hội và những bước đi vững chắc của chính phủ, chắc chắn thương mại điện tử Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện phát triển và tìm được chỗ đứng vững chắc trong cơ chế thị trường, góp phần đưa thương mại nước nhà hoà nhập chung với thế giới theo xu thế tự do hoá thương mại và hướng đến nền kinh tế tri thức. Kết luận Sự ra đời của xa lộ thông tin, đặc biệt là các ứng dụng công nghệ thông tin dựa trên kỹ thuật số, máy tính xách tay, lưu trữ dữ liệu và hệ thống làm việc network đã đưa đến khái niệm nền kinh tế số hóa và là động lực chủ yếu của quá trình toàn cầu hoá đang biến đổi sâu sắc nền kinh tế thế giới và tác động đến từng quốc gia. Vai trò của công nghệ thông tin và thương mại điện tử đối với nền kinh tế thời kỳ hậu công nghiệp không còn ai nghi ngờ được nữa. Người Mỹ hiện nay đang đứng đầu về công nghệ thông tin và người Nhật đã quyết định bỏ ra hàng nghìn tỷ đố la để giành được vị trí đó. Hàn Quốc cũng đặt mục tiêu phải bắt kịp Nhật, Mỹ. ấn Độ từ lâu đã xác định công nghệ thông tin là trọng tâm trong chiến lược phát triển của họ.Trung Quốc hiện có thế mạnh tuyệt đối trên thế giới về xuất khẩu đồ chơi trẻ em, hàng dệt may và đồ gia dụng nhưng họ cũng tuyên bố sẵn sàng bỏ ba thế mạnh đó để đi vào công nghệ thông tin. Internet và mạng WWW, một thành tựu trong ứng dụng công nghệ thông tin, được đánh giá là phát kiến vĩ đại nhất thế kỷ XX “Công nghệ thông tin và tác động của nó”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 2, 2002 . Thương mại điện tử qua mạng Internet được chờ đợi sẽ là một trong các xu hướng phát triển nhất trong các xu hướng thương mại quốc tế hiện nay. Thương mại điện tử làm thay đổi mạnh mẽ phương thức thương mại truyền thống, xóa mờ ranh giới địa lý trong giao lưu buôn bán giữa các quốc gia nhờ đem lại khả năng giao dịch trực tuyến liên tục và không hạn chế. Việc ứng dụng thương mại điện tử giúp tiết kiệm chi phí trong sản xuất, giao dịch và bán hàng cũng như mở ra nhiều cơ hội thâm nhập thị trường và thúc đẩy cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các hoạt động kinh tế được số hoá và vận hành trên các siêu xa lộ thông tin, các mạng lưới máy tính lan toả khắp nơi; chu chuyển thông tin trở thành nguồn sống của nền kinh tế. Từ đó, các quan niệm truyền thống về sở hữu, phương thức trao đổi, lưu thông, phân phối, tâm lý tiêu dùng và phương thức quản lý kinh doanh đều sẽ thay đổi. Điều này đòi hỏi các nước phải có sự điều chỉnh một cách toàn diện các điều kiện kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội để thích ứng với yêu cầu mà sự phát triển thương mại điện tử đã đặt ra. Khối lượng và doanh thu từ thương mại điện tử trên thế giới tăng với tốc độ chóng mặt trong mấy năm gần đây và không mấy năm nữa, thương mại điện tử sẽ trở thành phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế. ưu thế cạnh tranh trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các nước sẽ phụ thuộc trực tiếp vào tốc độ nhanh hay chậm trong việc ứng dụng hệ thống sáng tạo của cải mới. Sự cạnh tranh đó sẽ phân chia ra một bên là những nền kinh tế trì trệ và một bên là những nền kinh tế nhanh lẹ, gia tốc. Nhận thức được điều này, các nước phát triển, nhất là Mỹ, đều chú trọng đến thương mại điện tử và xem việc phát triển nó như một chiến lược cần phải tiến tới. Họ đặt ra mục tiêu đi đầu trong áp dụng phương thức thương mại mới này và đề ra khuôn khổ cho việc áp dụng thương mại điện tử trên toàn thế giới. Sự phát triển của thương mại điện tử cũng đem lại cơ hội cho các nền kinh tế đang phát triển thúc đẩy tốc độ tăng trưởng, hội nhập với các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên, trong điều kiện bị hạn chế về trình độ và tiềm lực kinh tế, các nước đang phát triển bị cuốn vào quỹ đạo này mà chưa có sự chuẩn bị đầy đủ. Họ phải đối diện với thách thức bị lệ thuộc về công nghệ và thụt lùi xa hơn trong nỗ lực bắt kịp các nước khác. Hệ quả có thể thấy được là tính chất bất bình đẳng của trật tự kinh tế quốc tế trong hiện tại sẽ vẫn tiếp tục được duy trì và ngày càng gia tăng. So sánh một cách khập khiễng, việc chấp nhận thương mại điện tử ở các nước đang phát triển giống như đi máy bay; nó cho phép đi nhanh hơn, xa hơn nhưng rủi ro, tổn thất khi xảy ra cũng rất lớn. Mặc dù vậy, không mấy ai nghĩ đến việc rút lui và không đi máy bay nữa mà cách tốt hơn là chủ động tìm mọi biện pháp đảm bảo an toàn. Tận dụng mọi điều kiện sẵn cóvà tranh thủ tối đa sự hỗ trợ từ bên ngoài để thúc đẩy công nghệ thông tin và các điều kiện trong nước cho thương mại điện tử phát triển, đồng thời hình thành lập trường về thương mại điện tử để bảo vệ lợi ích quốc gia trên bàn đàm phán đa phương là nhiệm vụ cấp bách của các nước này. Là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng đứng trước những cơ hội và thách thức mà xu thế phát triển khoa học công nghệ nói chung và quá trình toàn cầu hóa nói riêng mang lại. Chiến lược phát triển đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định là phải tiến hành quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sự hội nhập ấy có thành công hay không phụ thuộc ngày càng nhiều vào sự kết hợp hữu hiệu giữa đổi mới giáo dục cơ bản, khoa học công nghệ với những dạng kỹ năng, khả năng và năng lực mới. Để chuyển dịch lên phía trên trong chuỗi giá trị (value-chain) và tránh cái bẫy chi phí lao động thấp mà nhiều nước đang phát triển đã mắc phải, Việt Nam cần phải có những chính sách mới để xây dựng một hệ thống kinh tế xã hội hiện đại, năng động và linh hoạt, có tác dụng khuyến khích tư duy sáng tạo, đổi mới và tận dụng được các công nghệ thông tin mới nhất. ứng dụng thương mại điện tử có lẽ là con đường mà xu thế phát triển của nhân loại đã đặt ra trước mắt. Điều này đòi hỏi chính phủ và mọi thành phần kinh tế phải nỗ lực hết mình xây dựng và hoàn thiện các điều kiện phát triển thương mại điện tử một cách bền vững. Trong đó, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sẽ là ưu tiên chiến lược dài hạn quan trọng nhất của đất nước ta./. s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV.doc
  • docáTangDung.doc
  • docBia ngoai thuong.doc
  • docDanh muc bang bieu.Doc
  • docTai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan