Khóa luận Cơ hội và thách thức đối với một số ngành dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Viễn thông cũng như ¬ Ngân hàng đều là các ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là cơ sở cho các nền kinh tế khác phát triển. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã rất chú trọng đến việc đầu tư¬ phát triển hai dịch vụ này. Thực sự Việt Nam đã có những bư¬ớc chuyển mình to lớn trong cả hai lĩnh vực này và đ¬ược đánh giá là một trong các quốc gia có tốc độ phát triển dịch vụ khá nhanh trong khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới - WTO, nhận thức đ¬ược các tiềm năng của dịch vụ Viễn thông và dịch vụ ngân hàng Việt Nam, các đối tác đàm phán rất quan tâm đến hai lĩnh vực này của Việt Nam. Mặc dù vậy, tuy có những phát triển vượt bậc trong thời gian vừa qua nh¬ưng vẫn còn có một khoảng cách khá lớn so với trình độ phát triển của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tham gia Tổ chức Thư¬ơng mại thế giới, mở cửa ngành dịch vụ bên cạnh những cơ hội phát triển là những thách thức và khó khăn hết sức to lớn mà các dịch vụ Việt Nam sẽ phải tự giải quyết, sẽ không có sự bảo hộ của chính phủ trong “sân chơi” rộng lớn này. Các doanh nghiệp viễn thông, ngân hàng Việt Nam bên cạnh sự đổi mới hiện đại công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, cần đổi mới tư¬ duy, nhận thức rõ vai trò của mình trong quá trình hội nhập, họ chính là các chủ thể chính quyết định sự thành bại trong cạnh tranh khi Việt Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới.

doc97 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cơ hội và thách thức đối với một số ngành dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc điện thoại nội hạt trên cơ sở giá thành. Khuyến khích các hình thức khuyến mại cho người sử dụng dịch vụ viễn thông trên cơ sở quy định của pháp luật đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng. Bộ Bưu chính viễn thông cần điều chỉnh mức cước thanh toán quốc tế đến mức trung bình trong khu vực để đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước nghiên cứu đổi mới hệ thống lệ phí, phí cấp phép, sử dụng tài nguyên viễn thông phù hợp với cơ chế thị trường Thứ năm, thực hiện tốt hơn nữa công tác quản lý kết nối và quản lý hệ thống đường trục xuyên quốc gia Trong điều kiện hiện nay, việc dùng chung mạng viễn thông của các doanh nghiệp là rất cần thiết khi cơ sở hạ tầng viễn thông của Việt Nam còn nhiều hạn chế, tuy nhiên, vấn đề này rất dễ gây ra tranh chấp giữa các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động, do vậy đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ từ Bộ Bưu chính viễn thông. Hệ thống đường trục viễn thông quốc gia bao gồm các đường truyền dẫn đường dài trong nước, quốc tế và các cổng thông tin quốc tế, có tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt động của toàn bộ mạng viễn thông quốc gia và ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước do vậy Bộ bưu chính viễn thông cần nâng cao hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với hệ thống này, nhằm đảm bảo sự hoạt động thông suốt của mạng lưới viễn thông quốc gia an toàn, bí mật. 2.2 Giải pháp từ phía các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam Trước hết, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông Việt Nam cần thay đổi nhận thức, tư duy về hội nhập, tìm hiểu rõ các quy định của WTO Một điều rất đáng lo ngại hiện nay là không chỉ các doanh nghiệp viễn thông mà các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn khá mơ hồ về quá trình gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Trong một số bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp vẫn còn tồn tại tâm lý trông chờ ỷ lại vào Chính phủ đặc biệt là các doanh nghiệp từ trước đến nay vẫn quen được Nhà nước bảo hộ trong đó có ngành viễn thông. Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam không phải là công việc của riêng Chính phủ Việt Nam mà nó đòi hỏi phải có nỗ lực của toàn dân, toàn bộ các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, chỉ có sự tổng hợp quyết tâm của toàn bộ nền kinh tế thì Việt Nam mới có thể thu được thành công khi gia nhập WTO. Khi mở cửa lĩnh vực viễn thông, tham gia vào một môi trường cạnh tranh gay gắt và bình đẳng được bảo hộ bởi pháp luật quốc tế, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam sẽ phải tự mình kinh doanh mà không nhận được bất cứ sự bảo hộ nào của Chính phủ, chỉ có những doanh nghiệp nào có tư duy hội nhập đúng đắn, chiến lược cạnh tranh tốt mới có thể tồn tại và phát triển được, ngược lại nếu doanh nghiệp nào trông chờ ỷ lại vào sự bảo hộ của chính phủ, không có khả năng cạnh tranh thì sẽ bị đào thải và không thể tránh khỏi sự sụp đổ ngay chính trên thị trường nội địa. Thứ hai, chủ động hợp tác, liên minh nâng cao khả năng cạnh tranh với các tập đoàn viễn thông mạnh của nước ngoài Khi phải đối mặt với các tập đoàn viễn thông quốc tế lớn, việc liên minh giữa các doanh nghiệp Việt Nam là rất cần thiết. Khi tiến hành liên minh các doanh nghiệp sẽ có cơ hội phát huy tối đa lợi thế so sánh của doanh nghiệp mình đồng thời khắc phục được các hạn chế từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự liên minh còn giúp bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp Việt Nam khi có các cuộc tranh chấp xẩy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh. Thứ ba, tăng cường sử dụng chung cơ sở hạ tầng viễn thông Hiện tại, do điều kiện cơ sở hạ tầng viễn thông của Việt Nam còn hạn chế nên việc sử dụng chung các nguồn lực này là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đặc biệt là với các doanh nghiệp mới tham gia vào cung cấp dịch vụ viễn thông và các doanh nghiệp nhỏ với lượng vốn nhỏ, không có khả năng đầu tư xây dựng một mạng lưới cơ sở hạ tầng riêng. Và hình thức sử dụng chung cơ sở hạ tầng viễn thông cũng được Chính phủ Việt Nam khuyến khích. Bộ Bưu chính viễn thông ban hành quy định về sử dụng chung cơ sở hạ tầng viễn thông theo những nguyên tắc cụ thể, phù hợp. Chẳng hạn: - Cơ sở hạ tầng, bao gồm vị trí lắp đặt thiết bị kết nối, ống cáp, bể cáp, cột trụ ăng ten, thiết bị trong nhà và các phương tiện khác phải được các doanh nghiệp và các chủ mạng dùng riêng sử dụng chung một cách tiết kiệm và có hiệu quả - Chi phí cho việc sử dụng chung địa điểm kết nối và sử dụng chung cơ sở hạ tầng do các doanh nghiệp và các chủ mạng dùng riêng tự thoả thuận trên cơ sở giá thành thông qua hợp đồng kinh tế… Thứ tư, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam cần thực hiện tốt công tác Maketing viễn thông, hoạch định các chiến lược phát triển ngắn, trung và dài hạn của doanh nghiệp một các cụ thể, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp, chủ động trong việc tiếp cận các thị trường trong nước và từng bước mở rộng hoạt động sang các thị trường nước ngoài Chiến lược Marketing trong viễn thông của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn yếu và chưa được chú trọng một cách hợp lý, trong khi yếu tố Marketing là rất cần thiết và quan trọng trong quá trình mở rộng thị trường ra phạm vi quốc tế. Các doanh nghiệp viễn thông VIệt Nam cần có những chiến lược và phát triển thị trường cụ thể, định vị tốt thương hiệu của mình để có thể củng cố vững chắc vị trí của doanh nghiệp mình trên thị trường nội địa và từng bước mở rộng hoạt động của mình ra thị trường quốc tế. Thứ năm, nhạy bén nắm bắt xu hướng phát triển công nghệ trên thế giới, chú trọng đầu tư công nghệ tiên tiến, nâng cao khả năng phân tích đánh giá nhu cầu biến động thị trường để có thể chủ động thích ứng với những thay đổi trong môi trường kinh doanh Thị trường viễn thông Việt Nam nói riêng và đặc biệt là thị trường viễn thông quốc tế có sự thay đổi rất nhanh về mọi khía cạnh như nhu cầu khác hàng, khoa học công nghệ,... do vậy các doanh nghiệp cần nhạy bén nắm bắt được xu hướng thay đổi của thị trường, từ đó có thể chủ động dự báo được chính xác những thay đổi và thích ứng được tốt với những sự thay đổi đó. Thứ sáu, tăng cường công tác đào tạo nhân sự, nâng cao năng lực chuyên môn, khả năng quản lý, làm chủ khoa học công nghệ hiện đại và đặc biệt là nâng cao lập trường quan điểm chính trị cho đội ngũ nhân lực Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố cơ bản góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển của ngành viễn thông trong giai đoạn tới. Tuy nhiên hiện nay, vấn đề đãi ngộ đối với đội ngũ nhân lực của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh còn chưa thoả đáng, chưa tạo ra động lực cho đội ngũ nhân lực có trình độ cao phát huy hết khả năng của mình. Do vậy, các doanh nghiệp viễn thông cần thực hiện tốt hơn nữa công tác đãi ngộ đối với nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ chuyên gia quản lý, kinh tế kĩ thuật giỏi nói riêng, có như vậy mới tạo điều kiện tốt cho đội ngũ này phát huy tốt khả năng của mình, đóng góp vào sự tăng trưởng chung của doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần chủ động điều chỉnh lại cơ cấu lao động trong ngành viễn thông giám sát số lượng lao động hợp đồng dài hạn, tăng cường sử dụng lao động qua hình thức đại lý, bán lại dịch vụ, thuê mướn thời vụ, để tận dụng lực lượng lao động nhàn rỗi trong xã hội nhằm đưa năng suất lao động của Việt Nam đạt bằng mức trung bình trong khu vực và thế giới. Thứ bảy, phát huy lợi thế so sánh, tranh thủ mở rộng quy mô mạng lưới, phổ cập dịch vụ và tạo bàn đạp phát triển trên khắp các địa bàn. Một lợi thế so sánh của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam là đã và đang khai thác một mạng lưới rộng lớn, nhiều dịch vụ đã có mức xâm nhập thị trường khá, khách hàng đã quen. Để phát huy lợi thế này, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam cần đẩy mạnh việc mở rộng quy mô mạng lưới, tạo thế đứng vững chắc trên khắp các địa bàn. Thứ tám, thực hiện đa dạng hoá các dịch vụ, đa phương hoá trong quan hệ bạn hàng, nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ viễn thông, đảm bảo phục vụ khách hàng nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi, văn minh Một yếu tố tiên quyết quyết định sự thành công của doanh nghiệp chính là chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp đó cung cấp đến khách hàng, trong thời gian vừa qua mặc dù chất lượng dịch vụ viễn thông đã được các doanh nghiệp cải thiện đáng kể, đã có thêm các doanh nghiệp mới tham gia vào cung cấp dịch vụ viễn thông, song vẫn còn chưa đáp ứng được tốt nhất các nhu cầu của khách hàng đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ điện thoại di động, các dịch vụ gia tăng. Điều này sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến lòng tin của khách hàng vào các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam. Do vậy, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam cần chú trọng hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ, thái độ, cách thức phục vụ, nhằm duy trì và củng cố vững chắc lòng tin của các khách hàng trong nước vào các doanh nghiệp nội địa Do đặc thù nền kinh tế của Việt Nam nên các giải pháp nhằm phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO không thể thực hiện riêng lẻ độc lập từng cấp, từng ngành, từng doanh nghiệp mà các giải pháp trên cần được thực hiện đồng thời, có sự liên hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau từ các cơ quan quản lý Nhà nước mà cụ thể ở đây là Bộ Bưu chính viễn thông đến các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông. Tuỳ từng giải pháp, từng hoàn cảnh và chiến lược phát triển của từng doanh nghiệp từ đó đưa ra các cách kết hợp các giải pháp để đạt được các mục đích cao nhất. III/ Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ ngân hàng 1. Cơ hội và thách thức 1.1Cơ hội - Cơ hội cải cách triệt để hệ thống ngân hàng Việt Nam Từ trước đến nay, ngành ngân hàng Việt Nam đã có nhiều cải cách nhưng cải cách khi gia nhập WTO mới thực sự triệt để và toàn diện. NHNN đã có những cải cách to lớn đối với chính sách tiền tệ và hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng phù hợp với xu hướng tự do hóa tài chính và mở cửa hệ thống ngân hàng như tự do hóa lãi suất, nới lỏng biện pháp tỉ giá và các biện pháp quản lý ngoại hối, tự do hóa tài khoản vãng lai, cải cách hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế (Basel). Các ngân hàng thương mại được phép toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh, tái cơ cấu lại vốn, hoạt động đa dạng và hiệu quả hơn,... -Nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh Đối với NHNN, gia nhập WTO tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ độc lập; đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá dựa trên cơ sở thị trường, tạo ra lực đẩy lớn cho sự phát triển của thị trường tiền tệ. Hệ thống ngân hàng thương mại và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ góp phần quan trọng tạo môi trường hoạt động chính sách tiền tệ hữu hiệu. Gia nhập WTO cũng thúc đẩy cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng đương nhiên phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ thúc đẩy hiệu quả không chỉ trong huy động, phân bổ các nguồn vốn mà còn hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng. Hội nhập tạo ra những ngân hàng có quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả. Khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết, hợp tác với các đối tác nước ngoài trong chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và khai thác thị trường. Hội nhập còn tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh do mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với các khu vực thị trường mới, các nhóm khách hàng có mức độ rủi ro thấp. -Cơ hội khơi thông, thu hút nguồn vốn Các ngân hàng trong nước có khả năng huy động vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội. Nguồn vốn trên thị trường tài chính trong nước trở nên sẵn có hơn và được phân bổ có hiệu quả không chỉ do nguồn vốn quốc tế mà còn do tăng khả năng huy động các nguồn tiết kiệm nội địa nhờ tác động của tự do hóa tài chính và đầu tư. Các hạn chế về dầu tư tài chính được dỡ bỏ, các ngân hàng trong nước trở nên linh hoạt hơn trong phản ứng, điều chỉnh hành vi của mình theo các diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để tối đa hóa cơ hội sinh lời và giảm thiểu rủi ro. Quan hệ đại lý quốc tế của ngân hàng trong nước có điều kiện phát triển rộng rãi tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại phát triển, kèm theo đó quan hệ hợp tác đầu tư và trao đổi công nghệ được phát triển. Sự hiện diện của các thể chế tài chính quốc tế sẽ giúp cho các ngân hàng trong nước tiếp cận được dễ dàng hơn với thị trường vốn quốc tế. Tự do hóa tài chính làm giảm chi phí vốn do giảm mức độ rủi ro trên thị trường nội địa, thị trường tài chính trong nước trở nên có tính thanh khoản lớn hơn, vì vậy cả các trung gian tài chính và doanh nghiệp đều được hưởng lợi. - Cơ hội phát triển, mở rộng dịch vụ ngân hàng, đa dạng hóa hoạt động kinh doanh. Gia nhập WTO sẽ thu hút nhiều nhà đầu ta nước ngoài vào Việt Nam, thị trường được mở rộng trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Dịch vụ thanh toán và dịch vụ ngân hàng do đó cũng phải được phát triển và mở rộng để đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Với sự tham gia của các ngân hàng quốc tế có uy tín và nhiều kinh nghiệm, khách hàng có nhiều cơ hội được tiếp cận với các loại hình dịch vụ ngân hàng hiệu quả. Hội nhập là cơ hội để đón nhận các loại hình dịch vụ mới và phát triển các nghiệp vụ truyền thống theo hướng tiến bộ và phù hợp hơn với yêu cầu mới. Hội nhập tạo điều kiện cho việc phát triển thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam thông qua việc áp dụng các loại hình dịch vụ tài chính – ngân hàng phong phú và hiện đại trên thế giới. Ngân hàng thương mại Việt Nam có thể mở rộng và khai thác hơn nữa thị phần hoạt động tới các đối tượng khách hàng thông qua các dịch vụ mới, hấp dẫn, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng bán lẻ vốn là ưu thế của ngân hàng nước sở tại... Các ngân hàng Việt Nam cũng đã tiến hành nhiều loại nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại như hoạt động ngoại hối, kinh doanh mua bán ngoại tệ trong và ngoài nước... và đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng ở Việt Nam hiện nay phát triển rất nhanh với sự áp dụng những công nghệ mới, hiện đại. - Cơ hội học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ công nghệ và quản trị ngân hàng Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo các cam kết song phương và đa phương tức là cho phép ngân hàng nước ngoài thành lập dưới các hình thức hiện diện thương mại khác nhau như chi nhánh, ngân hàng liên doanh, ngân hàng con 100% vốn nước ngoài,... Đây là điều kiện tốt để thu hút đầu tư trực tiếp và lĩnh vực tài chính, đồng thời các công nghệ ngân hàng và các kỹ năng quản lý tiên tiến được ngân hàng trong nước tiếp thu thông qua sự liên kết, hợp tác kinh doanh, quá trình học hỏi và hỗ trợ kỹ thuật của các ngân hàng nước ngoài cho các ngân hàng trong nước. Sự tham gia điều hành quản trị của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố quan trọng để cải thiện nhanh chóng trình độ quản lý kinh doanh ở các ngân hầng trong nước. Các ngân hàng trong nước có nhiều cơ hội nhận được sự hỗ trợ về tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức mới của các ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế; hỗ trợ xây dựng năng lực quản trị ngân hàng tiên tiến. Các ngân hàng trong nước sẽ được tăng cường khả năng phòng ngừa và xử lý rủi ro nhờ áp dụng công nghệ ngân hàng, kỹ năng quản trị, phát triển sản phẩm mới. - Cơ hội nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ so với các nước trong khu vực và trên thế giới; là một thị trường tiềm năng nhất là khi chúng ta gia nhập WTO mở cửa nền kinh tế và cải cách trong thu hút đầu tư nước ngoài. Sự tham gia của các tổ chức tài chính nước ngoài dưới các hình thức liên doanh, chi nhánh,...ngày càng nhiều. Khi đầu tư vào Việt Nam họ sẽ đem theo những kỹ năng và kinh nghiệm quý báu về nghiệp vụ ngân hàng. Qua đó, đội ngũ ngân hàng trong nước có thể học hỏi kinh nghiệm, kiến thức quản lý và tác nghiệp từ các nhà quản lý nước ngoài tham gia liên doanh hoặc nắm cổ phần trong các ngân hàng; hoặc nâng cao nghiệp vụ từ các chương trình đào tạo của họ cho lực lượng lao động địa phương. Đội ngũ nhân viên ngân hàng được đào tạo và tuyển chọn kỹ càng hơn, chất lượng nhân viên được tăng lên là một điều tất yếu. Không chỉ nghiệp vụ chuyên môn mà tác phong làm việc của các nhân viên ngân hàng cũng được nâng cao. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, dứt khoát, chu đáo, cung cấp dịch vụ trọn gói cho khách hàng, hướng tới đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất đồng thời đảm bảo an toàn và tiết kiệm thời gian. 2.2 Thách thức Cho đến nay, trừ một số ít nước trên thế giới không mở cửa và không tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và đã trở nên lạc hậu rõ rệt, hầu hết các nước đều tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Kinh nghiệm cho thấy nếu không tham gia vào tiến trình này thì mất mát còn lớn hơn cả những thách thức phát sinh từ sự tham gia đó. Tuy nhiên không thể đánh giá thấp các thách thức và thua thiệt trong giai đoạn đầu gia nhập WTO. Từ đầu năm đến nay, dịch vụ ngân hàng Việt Nam mặc dù có những biến đối tương đối lạc quan song so chúng ta có xuất phát điểm thấp, ngân hàng lại là một lĩnh vực tương đối nhạy cảm nên cho đến nay dịch vụ ngân hàng Việt Nam sẽ còn gặp khá nhiều thách thức. -Thách thức do năng lực tài chính còn non yếu Theo dự đoán của VAFI - Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam, quy mô trung bình của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong vòng 5 năm tới chỉ vào khoảng 100 triệu USD/ngân hàng, đây là khoảng cách rất xã so với mức trung bình 1-2 tỷ USD/ngân hàng ở các nước trong khu vực. Đến nay, tổng số vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước chỉ mới ở mức trên 25 ngàn tỷ VND, tương đương 1650 triệu USD. Trong khi đó, vốn tự có của một số ngân hàng thương mại trên thế giới là rất lớn. Số lượng vốn tự có của các NHTM là một trong những điều kiện quyết định năng lực cạnh tranh trên thị trường. Với mức độ vốn tự có như hiện nay, các NHTMNN Việt Nam khó có thể cạnh tranh với các NHTM thế giới. Một điều khá quan ngại hiện nay là tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại khá cao, chất lượng tín dụng tuy đã được cải thiện nhiều nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn còn nhiều non kém. Trong khi hệ số ROA( Tỷ lệ lợi nhuận ròng sau thuế so với tài sản) của hệ thống NHTM Việt Nam chỉ khoảng 0,38% thì hệ số này của nhóm các ngân hàng thuộc khu vực Châu Á -Thái Bình Dương là 0,94, hệ số ROA ở các ngân hàng thuộc nước mới nổi là 0,77. Hệ số lợi nhuận/vốn ROE của các NHTM Việt Nam cũng khá thấp so với các nước. Điều này chứng tỏ hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Hiện nay, tuy số lượng các ngân hàng thương mại cố phần của Việt nam đã khá nhiều, hơn 30 ngân hàng nhưng quy mô vốn và hoạt động vẫn còn nhỏ bé, do đó hạn chế khả năng mở rộng mạng lưới trong nước và quốc tế, đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng hiện đại để đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ cũng như mở rộng đối tượng khách hàng. -Thách thức do gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các ngân hàng nước ngoài ngay tại thị trường trong nước. Gia nhập WTO, các NHTM Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh không cân sức của các ngân hàng nước ngoài trên các mặt: Tài chính, công nghệ, năng lực và kinh nghiệm quản lý, các sản phảm dịch vụ đa dạng,... Bộ máy nhân sự gọn nhẹ có chất lượng cao, công nghệ hiện đại và an toàn, tập trung vào các dự án và thiên về hoạt động ngân hàng bán buôn là thế mạnh cơ bản trong cạnh tranh của các chi nhánh ngân hầng nước ngoài và liên doanh. Đồng thời các ngân hàng nước ngoài còn có lợi thế về vốn, cách thức tiếp thị rất bài bản, vì thế ngay khi xâm nhập thị trường Việt Nam họ có thể thu hút khách hàng. Với ưu thế về mức vốn điều lệ, sự cạnh tranh trong việc huy động tiền gửi giữa các ngân hàng Việt Nam và các ngân hàng nước ngoài sẽ trở nên ngày càng gay gắt... Trong khi đó các ngân hàng trong nước vẫn chỉ tập trung vào các dịch vụ huy động và cho vay truyền thống, chất lượng dịch vụ chưa cao. Trước sự tham gia thị trường ngày càng sâu rộng của các ngân hàng nước ngoài, trong bối cảnh hội nhập ngày càng tăng, các ngân hàng trong nước sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ với mạng lưới các kênh phân phối và cơ sở khách hàng đã có sẵn. Một cuộc điều tra của chương trình phát triển LHQ cho biết: 45% khách hàng được hỏi( Kể cả doanh nghiệp và cá nhân) đều trả lời sẽ chuyển sang vay vốn ngân hàng nước ngoài, 50% số người được hỏi sẽ lựa chọn dịch vụ ngân hàng nước ngoài, 50% còn lại lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền, nhất là gửi ngoại tệ. Lý do khách hàng lựa chọn chính là thủ tục đơn giản, chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp cao. Việc mở cửa thị trường tài chính ngân hàng cũng sẽ mở đường cho các ngân hàng nước ngoài lũng đoạn tài chính trong nước, trong khi đó, con số những đối thủ cạnh tranh lớn mạnh sẽ tăng lên. Các ngân hàng Việt Nam thực sự đứng trước những thách thức về cạnh tranh rất lớn. Không những thế, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng không chỉ buộc các ngân hàng trong nước cạnh tranh thị trường với các ngân hàng nước ngoài mà còn phải cạnh tranh thị trường với các định chế tài chính phi ngân hàng. Nhiều quỹ đầu tư, nhiều công ty bảo hiểm, công ty tài chính nước ngoài đang nghiên cứu thị trường Việt Nam, một thị trường được đánh giá là rất tiềm năng, với tốc độ tăng trưởng nhanh trong khi mức độ và trình độ cung cấp dịch vụ tài chính còn ở giai đoạn phát triển ban đầu. -Thách thức về công nghệ Hệ thống CNTT của các NHTM Việt Nam nhìn chung còn yếu kém, tính liên kết giữa các ngân hàng về giải pháp công nghệ chưa cao... dẫn đến các dịch vụ ngân hàng chưa phong phú, tiện lợi và hấp dẫn. Theo tính toán và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài CNTT có thể làm giảm tới 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Nhưng đây là một lĩnh vực đòi hỏi đầu tư rất lớn, ví dụ như để xây dựng hệ thống thông tin quản lý cho một NHTM Nhà nước cần phải chi phí tới 500 - 600 tỷ VND. Sự phát triển của CNTT, viễn thông,... tạo nền tảng cho sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử, nhưng hiện nay an ninh mạng trong hoạt động ngân hàng của Việt Nam còn chưa đảm bảo. Thực tiễn cho thấy, trong thời gian gần đây, mức độ hiện đại hóa công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng đang diễn ra khá nhanh chóng: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng nay đã có trên 200 chi nhánh của 50 thành viên tham gia, hệ thống thanh toán bù trừ cũng phát triển nhanh thay thế hoàn toàn việc trao đổi trực tiếp bằng chứng từ... Bên cạnh đó, các NHTM đã tích cực đầu tư công nghệ, ứng dụng CNTT vào cung ứng dịch vụ ngân hàng như: hệ thống ATM, Home Banking, Mobile Banking, Phone Banking, Internet Banking... Tuy nhiên, hiện đại hóa công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào khả năng tài chính của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào thói quen tiêu dùng của dân cư. Nhìn chung, hiện nay chúng ta đã có những quan tâm nhất định về vấn đề công nghệ nhưng vẫn chưa đảm bảo được những vấn đề rủi ro công nghệ và an toàn hệ thống. Chưa có một ngân hàng nào của Việt Nam có một trung tâm dữ liệu dự phòng ngoài trung tâm dữ liệu chính. Và nếu có sự cố xẩy ra thì sự tê liệt hoạt động là không thể tránh khỏi. -Thách thức về nguồn nhân lực Cải cách ngân hàng sẽ dẫn đến cắt giảm bộ máy hoạt động cho gọn nhẹ và hiệu quả hơn. Lao động trong ngành có thể bị dư thừa và phải được đào tạo lại hoặc bố trí công việc khác phù hợp. Ngành ngân hàng là một ngành kén lao động, đòi hỏi lao động giỏi chuyên môn, có tính cẩn thận, trung thực. Do đó, việc thanh lọc cán bộ đủ năng lực và điều kiện làm việc trong môi trường cạnh tranh là một thách thức không nhỏ cho cán bộ quản lý ngân hàng. Những lao động giỏi và có chuyên môn cao có xu hướng chuyển sang làm việc cho các ngân hàng nước ngoài vì họ có chế độ lương hấp dẫn và đào tạo rất bài bản. Hiện nay, các ngân hàng quốc doanh đang và sẽ phải đối mặt với nạn chảy máu chất xám do nghịch lý: mặt bằng thu nhập thấp hơn so với các ngân hàng liên doanh và nước ngoài nhưng không thể tăng thu nhập cho người lao động một cách thích ứng cho dù có ngân hàng làm ra lợi nhuận rất cao bởi họ chỉ được phép trả theo quỹ tiền lương mà Bộ đã duyệt. Nghịch lý này làm cho người làm ngân hàng thiếu công cụ tài chính và khó chủ động trong việc thực hiện chính sách nhân sự, nhân viên thiếu động lực làm việc nên không kích thích được họ phát huy sáng tạo. Việc cán bộ ngân hàng “dứt áo ra đi” để lại những tổn thất vô hình: Xáo trộn tổ chức, rò rỉ thông tin kinh doanh, chi phí tuyển dụng bị đội lên và nếu là những cán bộ chủ chốt thì tổn thất vô hình còn lớn hơn nhiều. Do vậy, các ngân hàng trong nước sẽ ngày càng phải chịu những sức ép lớn hơn nhiều về nạn chảy máu chất xám do chính sách “Săn đầu người” mà các ngân hàng nước ngoài chắc chắn sẽ sử dụng. -Thách thức đối với ngân hàng trung ương trong việc quản lý Việc mở cửa và tiến tới tự do hóa trong lĩnh vực ngân hàng đặt ra những thách thức mới về quản lý và giám sát của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan quản lý khác. Bằng chứng cho thấy việc tự do chuyển hóa vốn giữa các quốc gia không đem lại tăng trưởng nhanh mà ngược lại đi kèm với nó là tình hình bất ổn. Vì vậy, việc giám sát và điều tiết hoạt động tài chính trên phạm vi toàn quốc của Ngân hàng trung ương sẽ trở nên vô cùng phức tạp. 2. Giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức 2.1 Tiếp tục điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực ngân hàng Lĩnh vực tài chính nói chung, lĩnh vực ngân hàng nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế. Việc tự do hoá tài chính phải gắn liền với những biện pháp quản lý thận trọng và hiệu quả. Hiện nay số chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã khá lớn (khoảng 30 chi nhánh). Nên thứ nhất, để đảm bảo sự ổn định của thị trường tiền tệ cũng như ổn định vĩ mô chung của nền kinh tế, Việt Nam có thể hạn chế quyền của chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc chấp nhận tiền gửi bằng VND của các tổ chức, cá nhân Việt Nam mà chi nhánh không có quan hệ tín dụng theo một tỷ lệ nhất định so với vốn điều lệ của chi nhánh. Tỷ lệ này có thể tăng dần và sẽ được loại bỏ theo lộ trình nhất định. Thứ hai, không ngừng hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Chúng ta cần có các quy định rõ ràng và thích hợp để thúc đẩy hoạt động ổn định của ngân hàng, đặc biệt phải đáp ứng những yêu cầu và quy định tối thiểu về kế toán, kiểm toán,… Thứ ba, tiến hành sửa đổi bổ sung những điểm bất cập trong Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng. Thứ tư, hoàn thiện và tăng cường khuôn khổ pháp lý cho các công cụ thương lượng (negotiable instruments). Cụ thể, cần nghiên cứu soạn thảo và ban hành các văn bản có hiệu lực cao hơn tạo ra cơ sở pháp lý có hiệu quả cho việc xác lập, chuyển nhượng và kết thúc các công cụ thương lượng và các giấy tờ thương mại như séc, hối phiếu, hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ nhằm tiếp cận vững chắc thực tiễn quốc tế trong lĩnh vực này. Ngoài ra, không ngừng tăng cường khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý ngoại hối. 2.2 Nâng cao khả năng điều hành và quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHNN Việt Nam hiện nay, hoạt động dưới hai chức năng vừa là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng vừa là Ngân hàng Trung ương của Việt Nam (Điều 1 Luật NHNN Việt Nam). Với vị thế này, NHNN chưa đảm bảo sự độc lập tương đối trong điều hành chính sách tiền tệ; hơn nữa, các công cụ điều hành chính sách tiền tệ còn hạn chế, thiên về các công cụ trực tiếp, các công cụ gián tiếp còn sơ khai. Để dần loại bỏ những hạn chế này, nội dung cải cách đổi mới NHNN trong những năm tới phải bao gồm: -Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ; -Hiện đại hoá hệ thống thanh toán và thông tin; -Cơ cấu lại hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng; -Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy quản lý của hệ thống NHNN theo hướng tăng cường vai trò ngân hàng Trung ương của NHNN (độc lập hơn trong hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ trong phạm vi cả nước). 2.2.1 Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ Việc thực hiện các chính sách tiền tệ là để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trên cơ sở xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính, xây dựng và hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ đưa toàn bộ hệ thống từng bước tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập quốc tế, cụ thể: - Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do hoá có sự điều tiết gián tiếp của Nhà nước thông qua lãi suất định hướng của NHNN (lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản); - Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng vừa linh hoạt trong ngắn hạn vừa ổn định trong dài hạn, khuyến khích xuất khẩu, góp phần ổn định thị trường tiền tệ đặc biệt là thị trường vốn; - Hoàn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của thị trường này đặc biệt là các công cụ, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá hối đoái như Forward, Future, Option... - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống nghiệp vụ thị trường mở, phát triển một số trung tâm giao dịch nghiệp vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ, giúp NHNN điều tiết kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung ứng phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo từng thời kì; - Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng các hệ thống các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn quốc tế đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài, kiểm soát và hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam (hạn chế tình trạng đôla hoá) trên cơ sở nâng cao vị thế của đồng Việt Nam; - Xây dựng hệ thống thanh toán cảnh báo sớm trên cơ sở thu thập và phân tích các thông tin để đưa ra các khuyến nghị hợp lý cho các ngân hàng nhằm giúp các ngân hàng phòng chống được các rủi ro về lãi suất, tỷ giá, nợ, thanh khoản...đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. 2.2.2 Hiện đại hoá hệ thống thanh toán và thông tin Hiện nay tỷ lệ giao dịch bằng tiền mặt ở Việt Nam là vẫn còn khá cao. (trên 40%). Việc cải cách hệ thống thanh toán cho hệ thống ngân hàng Việt Nam là rất có ý nghĩa về mặt quản lý hiện nay. Hệ thống thanh toán của ngân hàng nhanh chóng hiện đại, chính xác và an toàn cho phép những tín hiệu của thị trường tài chính- ngân hàng được phản ánh đầy đủ, qua đó NHNN có thể phản ứng một cách hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ. Công tác hiện đại hoá trước mắt cần tập trung vào hệ thống thanh toán bù trừ; các hoạt động thanh toán bằng tiền mặt, cung ứng, thu hồi và điều hoà tiền mặt phải được cải tiến, đảm bảo an toàn, thuận tiện và phù hợp với điều kiện của từng vùng. Công tác hiện đại hoá hệ thống thông tin trong ngành ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp giữa các bộ phận, nâng cao hiệu quả quản lý điều hành của hệ thống, trong đó bao gồm những việc cần thực hiện như: - Nâng cấp hệ thống mạng cục bộ tại các chi nhánh của NHNN và các chi nhánh của ngân hàng thương mại; - Đầu tư trang thiết bị chuyên dụng để nâng cấp mạng diện rộng của hệ thống NHNN; - Nghiên cứu, thiết kế và xây dựng các chiến lược triển khai ứng dụng công nghệ viễn thông hiện đại phù hợp với ngân hàng, bảo đảm phục vụ có hiệu quả việc triển khai các ứng dụng vào dịch vụ ngân hàng; - Nghiên cứu, đầu tư hiệu quả các thiết bị mã hoá cứng, ứng dụng phần mềm bảo mật hiện đại trong ngân hàng, bảo đảm an toàn dữ liệu và an toàn tài sản trong quá trình khai thác ứng dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử, thương mại điện tử trên mạng Internet; - Nâng cấp, hoàn thiện và triển khai rộng các trang Web của NHNN và các ngân hàng thương mại nhằm phục vụ tốt hơn công tác quản lý, điều hành và kinh doanh của ngành, đẩy mạnh khai thác các thông tin, dịch vụ qua mạng Internet. 2.2.3 Cơ cấu lại hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng Việc Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ quốc tế để cam kết mở cửa dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ thị trường tài chính (từ 2006 đối với ASEAN, từ 2008 đối với Mỹ và sau đó là WTO trên cơ sở Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ GATS) sẽ khiến sự cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ ngân hàng nội địa trở nên gay gắt hơn. Rủi ro của các NHTM trên thị trường trong nước và quốc tế tăng lên rõ rệt. Vì vậy, công tác thanh tra cần phải được cải tiến về cả nội dung và mô hình tổ chức đảm bảo hạn chế rủi ro nói trên. Hướng cơ cấu lại và cải tiến cơ bản công tác thanh tra phải tuân thủ nguyên tắc của Uỷ ban quốc tế về thanh tra ngân hàng (Bassel) gồm các chuẩn mực quốc tế về thanh tra đảm bảo ổn định hệ thống thanh tra ngân hàng trong nước và quốc tế. Việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế bắt buộc nói trên vào lĩnh vực thanh tra ngân hàng đòi hỏi Việt Nam phải đào tạo đội ngũ thanh tra viên có trình độ cao, xây dựng cơ cấu tổ chức hiệu quả. NHNN không thanh tra chi nhánh của các ngân hàng thương mại mà chỉ tập trung thanh tra tại các hội sở chính nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực của cơ quan thanh tra, giám sát và kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại cũng như trách nhiệm quản lý của hội đồng quản trị và ban giám đốc các ngân hàng này. 2.2.4 Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy quản lý của hệ thống ngân hàng nhà nước NHNN đã và đang thực hiện đổi mới công cụ điều hành và thực thi chính sách tiền tệ theo hướng sử dụng các công cụ gián tiếp; hơn nữa, môi trường trong nước và quốc tế cũng đã thay đổi, xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Do đó, vấn đề đổi mới bộ máy tổ chức của NHNN là yêu cầu cấp thiết. Cải cách mô hình tổ chức hệ thống NHNN nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể: - Nâng cao vị thế tương đối độc lập của ngân hàng thương mại trong việc thực thi chính sách tiền tệ; - Tạo điều kiện thực hiện các công cụ mới của chính sách tiền tệ như chiết khấu- tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, hoàn thiện thị trường tiền tệ và liên ngân hàng cả về nội tệ và ngoại tệ; - Nâng cao chất lượng và hiệu lực của công tác thanh tra giám sát theo chuẩn mực quốc tế Bassel; - Thực hiện có hiệu quả, với chi phí thấp các hoạt động kho quỹ, thanh toán, cung ứng và thu hồi tiền mặt. 2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại Việt Nam 2.3.1 Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh Sự lành mạnh của hệ thống NHTM quốc doanh nói riêng và hệ thống NHTM nói chung trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế chính là cơ sở cho sự lành mạnh của hệ thống kinh tế vĩ mô. Đối với NHTM quốc doanh thì tiến trình cơ cấu lại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cần tập trung vào các nội dung sau: - Lành mạnh hoá tài chính của NHTM quốc doanh trên cơ sở cơ cấu lại nợ, làm sạch bảng cân đối tài sản và áp dụng các biện pháp ngăn ngừa phát sinh nợ xấu mới.Tăng vốn điều lệ của các NHTM quốc doanh bằng các nguồn vốn từ ngân sách, tái đầu tư hoặc bằng cổ phần hoá khi có điều kiện - Xây dựng và áp dụng mô hình tổ chức NHTM theo tiêu chuẩn quốc tế. Theo đó, cơ cấu tổ chức chủ yếu của các NHTM quốc doanh là quản lý theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ của một ngân hàng đa năng, thay thế cho việc quản lý theo chức năng và nghiệp vụ như hiện nay, đồng thời tổ chức và cơ cấu lại các định chế nội bộ như các cơ quan quản lý rủi ro, quản lý tài sản Nợ - tài sản Có, thanh tra và kiểm soát nội bộ, trên cơ sở đó hình thành một số tập đoàn tài chính, ngân hàng có khả năng hoạt động và cạnh tranh trên phạm vi trong nước và quốc tế; - Đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng, chuẩn bị những bước đi phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của quá trình tự do hoá lĩnh vực ngân hàng. Thật vậy, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng giúp nâng cao đáng kể hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. - Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng trên cơ sở thực hiện chiến lược đầu tư phát triển công nghệ của toàn hệ thống ngân hàng. Công việc hiện đại hoá sẽ di cùng với việc xây dựng và chuyển đổi hệ thống kế toán Việt Nam hiện nay để tiến tới áp dụng các tiêu chuẩn kế toán quốc tế (International Accounting Standards - IAS ) và kiểm toán quốc tế vừa làm cơ sở để chuyển giao công nghệ hiện đại vừa tạo điều kiện áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực thanh tra quốc tế (Bassel). - Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và viên chức ngân hàng. Trên thực tế, đây là chương trình rất tốn kém và cần có thời gian, tuy nhiên sự cần thiết của yêu cầu này là không thể phủ nhận bởi nguồn nhân lực tốt luôn là chiếc chìa khoá cơ bản nhất dẫn đến thành công. - Việc cơ cấu lại hệ thống các NHTM quốc doanh phải được tiến hành đồng thời với việc cải cách khu vực doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước. Hệ thống ngân hàng là bức tranh phản chiếu tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong nước. Cải cách khu vực doanh nghiệp trong nước là rất cần thiết đảm bảo cho cải cách ở khu vực ngân hàng thành công. 2.3.2 Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Hệ thống NHTMCP cũng cần được sắp xếp lại đảm bảo vững mạnh, an toàn và hiệu quả. Để thực hiện tốt mục tiêu đó một số biện pháp cần phải đưa ra đối với khu vực ngân hàng này bao gồm: - Sáp nhập những ngân hàng nhỏ, đang trong trạng thái hoạt động bình thường với các NHTM khác, tạo ra một ngân hàng lớn mạnh về vốn, phạm vi hoạt động, tăng khả năng quản lý tập trung, cũng như hoạt động kinh doanh, góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh khi thống nhất lại. Tuyệt đối không sáp nhập hai ngân hàng đang gặp khó khăn và có nguy cơ phá sản với nhau. - Sáp nhập các NHTMCP nhỏ, vốn nhỏ, hoạt động kém hiệu quả hoặc rơi vào tình trạng khó khăn, đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán với các ngân hàng lớn hoặc các NHTM quốc doanh dưới hình thức mua lại cổ phần hoặc mua lại thông qua việc góp vốn giữa các NHTM khác có khả năng. Giải pháp này giúp tiếp tục duy trì sự tồn tại của hệ thống ngân hàng cũ đang có những điều kiện hoạt động như địa bàn, khách hàng, trụ sở... - Giải pháp cuối cùng đối với các NHTMCP quá yếu kém là đóng cửa, giải thể những ngân hàng này. Đây là giải pháp mạnh khi không thể tiếp tục hỗ trợ về vốn hoặc sáp nhập với các ngân hàng khác. Tuy nhiên, việc giải thể xoá bỏ một ngân hàng cần phải được cân nhắc do không chỉ ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng mà còn gây tác động không có lợi cho đời sống xã hội và tâm lý dân cư. Do vậy, giải pháp này chỉ nên áp dụng trong trường hợp thật cần thiết và không thể không xử lý. Đồng thời, để hỗ trợ về mặt pháp lý cho giải pháp này cần sớm chuyển các NHTM sang mô hình kinh doanh thực sự, loại bỏ sự can thiệp của Nhà nước ( đặc biệt về vốn) nhằm có thể áp dụng Luật phá sản đối với các NHTM một cách dễ dàng theo pháp luật. 2.3.3 Đối với các ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài (NHTM có vốn ĐTNN) Nếu như việc tăng cường năng lực cạnh tranh cho các NHTM trong nước là điều kiện cần nhằm chuẩn bị cho những ngân hàng thực lực và khả năng ứng phó cần thiết trong môi trường tự do hoá và hội nhập thì việc tăng cường năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam bằng cách thiết lập một môi trường kinh doanh bình đẳng là điều kiện đủ để Việt Nam thực hiện mong muốn của mình trong quá trình gia nhập WTO cũng như tạo tiền đề cho những cam kết cụ thể của Việt Nam sau này. Tuy nhiên, theo như thực trạng hoạt động kinh doanh của khối ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài (chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh) thì để thoả mãn những yêu cầu đặt ra trong khuôn khổ GATS còn rất nhiều việc cần phải thực hiện trong thời gian tới: - Rà soát để xây dựng các khung pháp lý nhằm đảm bảo sân chơi bình đẳng, an toàn cho các NHTM (trong nước và nước ngoài) hoạt động trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cũng như những nghiệp vụ tài chính khác; - Xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, bảo hộ đối với NHTM Việt Nam mà đặc biệt là các NHTM quốc doanh đồng thời với việc nới dần các hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài, đi đôi với việc củng cố lành mạnh hoá các NHTM trong nước, đổi mới công cụ điều hành chính sách tiền tệ, thanh tra ngân hàng như đã nêu ở phần trên; - Cụ thể hoá, nới lỏng thủ tục cấp phép cho các ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh và hoạt động tại Việt Nam. Nhiệm vụ này gắn với việc giảm bớt các hạn chế về hoạt động của ngân hàng nước ngoài trên thị trường trong nước, tăng cường khuôn khổ pháp lý về giám sát ngân hàng nói chung... đảm bảo để Việt Nam có thể tham gia đầy đủ vào GATS về lĩnh vực ngân hàng. KẾT LUẬN Viễn thông cũng như  Ngân hàng đều là các ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là cơ sở cho các nền kinh tế khác phát triển. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã rất chú trọng đến việc đầu tư phát triển hai dịch vụ này. Thực sự Việt Nam đã có những bước chuyển mình to lớn trong cả hai lĩnh vực này và được đánh giá là một trong các quốc gia có tốc độ phát triển dịch vụ khá nhanh trong khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới - WTO, nhận thức được các tiềm năng của dịch vụ Viễn thông và dịch vụ ngân hàng Việt Nam, các đối tác đàm phán rất quan tâm đến hai lĩnh vực này của Việt Nam. Mặc dù vậy, tuy có những phát triển vượt bậc trong thời gian vừa qua nhưng vẫn còn có một khoảng cách khá lớn so với trình độ phát triển của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tham gia Tổ chức Thương mại thế giới, mở cửa ngành dịch vụ bên cạnh những cơ hội phát triển là những thách thức và khó khăn hết sức to lớn mà các dịch vụ Việt Nam sẽ phải tự giải quyết, sẽ không có sự bảo hộ của chính phủ trong “sân chơi” rộng lớn này. Các doanh nghiệp viễn thông, ngân hàng Việt Nam bên cạnh sự đổi mới hiện đại công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, cần đổi mới tư duy, nhận thức rõ vai trò của mình trong quá trình hội nhập, họ chính là các chủ thể chính quyết định sự thành bại trong cạnh tranh khi Việt Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cần hoàn thiện, bổ sung hơn nữa hệ thống luật pháp, tạo ra một khung pháp lý hoàn chỉnh đảm bảo cho quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước, tận dụng tốt cơ hội biến chúng thành thế mạnh của doanh nghiệp đồng thời hạn chế các thách thức trong quá trình gia nhập WTO. Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước cần nghiên cứu và áp dụng một cách linh hoạt các biện pháp hỗ trợ được phép trong khuôn khổ WTO để tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác quốc tế của các doanh nghiệp viễn thông và ngân hàng Việt Nam nói riêng và cho toàn ngành dịch vụ Việt Nam nói chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Đỗ Đức Bình - TS. Nguyễn Thường Lạng (2004), Giáo trình Kinh tế quốc, Nhà xuất bản Lao Động-Xã hội, trang 208 - 225. 2. “Tổ chức Thương mại thế giới và triển vọng gia nhập của Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 1997, trang 66-74. 3. Quốc Đạt, “Giải đáp các vấn đề về thủ tục gia nhập WTO” (2005), Nhà xuất bản Thế giới, trang 296-311,326-341 4. Nguyễn Vũ Hoàng ,“Các liên kết kinh tế thương mại quốc tế” (2005), Nhà xuất bản Thống kê năm, trang 105-127. 5. Từ điển Kĩ thuật Bách khoa, Nhà xuất bản Khoa học và Kĩ thuật 6. PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ, Thương mại dịch vụ trong WTO và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam. Tạp chí luật học, số 5/2000. 7. Lê Nin - Tư bản. 8. GS-TS Bùi Xuân Phong-TS Nguyễn Đăng Quang, “Một số biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam trong cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển-Số 94 tháng 4 năm 2005, trang 29 9. Quyết định số 158/2001/QĐ-TTg, phê duyệt chiến lược phát triển Bưu chính-Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 10. Viện chiến lược Bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin - Bộ Bưu chính viễn thông, “ Dự thảo Quy hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010”. 11. Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, GATS 2000 Mở cửa thị trường dịch vụ - NXB Chính trị quốc gia. 12. Bộ ngoại giao, Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá. Vấn đề và giải pháp, NXB chính trị quốc gia. 13. Ngân hàng trong nước và cuộc chiến trên sân nhà, Báo Tiền phong (27/10/2006). 14. Viễn thông Việt Nam sau 1 năm gia nhập WTO, Báo Vietnamnet (3/10/2007). 15. Những cam kết về dịch vụ khi Việt Nam gia nhập WTO, Báo Vietnamnet (15/11/2006). 16. Những chuyển biến của hệ thống NHTM trong nước từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Thị trường tài chính tiền tệ số 16/2007. 17. Cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, tạp chí ngân hàng số 1/2007. Các trang Web: - ww.mpt.gov.vn - www.vnn.vn - www.mpi.gov.vn - ww.worldbank.org.vn DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT WTO Tổ chức Thương mại Thế giới ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á EU Liên minh Châu Âu GATS Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ MFN Tối huệ quốc NT Đãi ngộ quốc gia Bassel Các nguyên tắc và chuẩn mực thanh tra quốc tế GDP Tổng thu nhập quốc nội ITU Liên minh viễn thông quốc tế APT Tổ chức viễn thông Châu á - Thái Bình Dương VAFT Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam CPC Hệ thống phân loại các sản phẩm chủ yếu CNTT Công nghệ thông tin NHTM Ngân hàng thương mại NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần STB Ngân hàng Sài gòn thương tín ACB Ngân hàng TMCP Á châu TCTD Tổ chức tín dụng IPO Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng SMS Công nghệ nhắn tin di động MMS Công nghệ truyền số liệu CDMA Công nghệ di động WDM Công nghệ chuyển tải quang NGN Công nghệ mạng hội tụ VoIP Dịch vụ thoại sử dụng giao thức Internet WIMAX Công nghệ mạng không dây băng rộng PSTN Mạng điện thoại dịch vụ công cộng PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: CÁC DOANH NGHIỆP VIỄN THÔNG VÀ INTERNET CỦA VIỆT NAM 1. Thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông cố định – 5 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) Công ty thông tin Viễn thông điện lực (ETC) Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thôn g Sài Gòn (SPT) Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) 2. Thiết lập mạng và cung cấp các dịch vụ viễn thông quốc tế – 3 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) Công ty thông tin Viễn thông điện lực (ETC) Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) 3. Cung cấp các dịch vụ điện thoại đường dài trong nước và quốc tế sử dụng giao thức IP – 6 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) Công ty thông tin Viễn thông điện lực (ETC) Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thông Sài Gòn (SPT) Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) Công ty Thông tin điện tử hàng hải (Vishipel) 4. Cung cấp dịch vụ thông tin di động – 5 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) – 2 giấy phép Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thôn g Sài Gòn (SPT) Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) 5. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy cập Internet – 15 doanh nghiệp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) Công ty thông tin Viễn thông điện lực (ETC) Công ty Viễn thông quân đội – Vietel Corporation (VIETEL) Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính viễn thông Sài Gòn (SPT) Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) Công ty Thông tin điện tử hàng hải (Vishipel) Công ty Cổ phần dịch vụ Internet (OCI) Công ty Đầu tư phát triển công nghệ (FPT) Công ty điện tử quận 10 (TIENET) Công ty Điện tử hoá chất Bộ quốc phòng (ELINCO) Công ty cổ phần công nghệ mạng (QTNET) Công ty cổ phần Thanh Tâm Công ty Netnam (NETNAM) Công ty Đầu tư kĩ nghệ (TECHCOM) Công ty Việt Khang (XVNET) MỤC LỤC 1.2. Kết quả vòng đàm phán Urugoay về dịch vụ viễn thông 18 2.Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng 21 2.1 Khái niệm và chức năng dịch vụ ngân hàng 21 2.1.1 Khái niệm 21 2.1.2 Chức năng của ngân hàng 21 2.2 Các dịch vụ ngân hàng cung cấp 22 2.3 Đàm phán về dịch vụ tài chính 23 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG DỊCH VỤ VIỄN THÔNG VÀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 26 I/ Thực trạng ngành dịch vụ Việt Nam trước và sau khi gia nhập 26 1. Dịch vụ Việt Nam trước khi gia nhập WTO 26 2. Dịch vụ Việt Nam sau khi gia nhập WTO 27 II/ Dịch vụ viễn thông trước và sau khi gia nhập 29 1. Vài nét về dịch vụ viễn thông trước khi Việt Nam gia nhập WTO 29 2. Thực trạng phát triển dịch vụ viễn thông sau khi gia nhập 33 2.1 Cam kết gia nhập của Việt Nam trong lĩnh vực viễn thông 33 2.2 Tình hình phát triển của dịch vụ viễn thông sau khi gia nhập 34 III. Dịch vụ ngân hàng trước và sau khi gia nhập 39 1. Dịch vụ ngân hàng trước khi gia nhập 39 2. Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng sau khi gia nhập WTO 43 2.1 Các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng trong biểu cam kết dịch vụ 43 2.2 Thực trạng phát triển của dịch vụ ngân hàng sau khi gia nhập WTO 45 CHƯƠNG III. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC SAU KHI GIA NHẬP - GIẢI PHÁP TẬN DỤNG CƠ HỘI VƯỢT QUA THÁCH THỨC 49 I/ Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ Việt Nam nói chung 49 II/ Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ viễn thông 50 1. Cơ hội và thách thức 50 1.1 Cơ hội 50 1.2 Thách thức 52 2. Giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức 54 2.1 Giải pháp từ phía các cơ quan quản lý nhà nước 54 2.1.1 Đối với chính phủ 54 2.1.2 Đối với Bộ Bưu chính viễn thông và các Bộ ngành khác 56 2.2 Giải pháp từ phía các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam 59 III/ Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ ngân hàng 63 1. Cơ hội và thách thức 63 1.1Cơ hội 63 2.2 Thách thức 66 2. Giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức 71 2.1 Tiếp tục điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực ngân hàng 71 2.2 Nâng cao khả năng điều hành và quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 72 2.2.1 Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ 72 2.2.2 Hiện đại hoá hệ thống thanh toán và thông tin 73 2.2.3 Cơ cấu lại hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng 74 2.2.4 Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy quản lý của hệ thống ngân hàng nhà nước 75 2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại Việt Nam 76 2.3.1 Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh 76 2.3.2 Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) 77 2.3.3 Đối với các ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài (NHTM có vốn ĐTNN) 78 KẾT LUẬN 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT 84 PHỤ LỤC 85

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT072.doc
Tài liệu liên quan