PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong tiến trình phát triển của văn xuôi hiện đại Việt Nam, giai đoạn 1930-1945 là giai đoạn phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Có thể nói đây là giai đoạn nở rộ của những tài năng văn học và đã để lại cho văn đàn Việt Nam những cây bút sáng giá như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao Bên cạnh những gương mặt tiêu biểu ấy, chắc ít ai quan tâm đến sự đóng góp của những nhà văn mà tên tuổi chưa sáng ngời trên trang viết. Trong đó có Nguyễn Đình Lạp - “một cây bút lặng lẽ và kiên nhẫn” (Hoài Anh,2001:845).
Có mặt ở giai đoạn cuối của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945, cùng thời với nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao - người đã kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực phê phán nhưng so với Nam Cao, Nguyễn Đình Lạp ít được chú ý hơn nhiều. Vị trí của Nguyễn Đình Lạp trên văn đàn chưa được khẳng định như Nam Cao.Với số lượng sáng tác ít ỏi, Nguyễn Đình Lạp được chú ý đến ở hai thể loại: phóng sự và tiểu thuyết. Với hai thể loại này, ông đã có những đóng góp nhất định cho nền văn học dân tộc nói chung và cho văn xuôi hiện đại Việt Nam nói riêng.
Ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, chưa đầy 39 tuổi, Nguyễn Đình Lạp “chưa kịp viết hết những điều ông ấp ủ” (Bạch Liên,2003:29). Phương châm mà ông theo đuổi suốt đời đó là “lặng lẽ và kiên nhẫn, kiên nhẫn viết rồi lặng lẽ ra đi” (Hoài Anh,2001;854) thế nhưng “cái công phu kiên nhẫn của ông chỉ được đền đáp bằng sự lặng lẽ của văn đàn” (Hoài Anh,2002:845). Biết bao công trình nghiên cứu, phê bình về trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 chỉ tập trung vào những cây bút tên tuổi chứ không mấy người quan tâm đến một gương mặt âm thầm nơi góc khuất của làng văn như ông. Đặc biệt là đối với hai tiểu thuyết đầu tay và cũng là hai tiểu thuyết duy nhất trong đời văn của Nguyễn Đình Lạp: “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm”. Nếu có chăng chỉ là những bài phê bình rời rạc trên các tạp chí nhận xét về một vài khía cạnh trong tác phẩm.
Sự lặng lẽ của văn đàn đã khiến cho vợ của nhà văn đã tự cất công sưu tầm và tập hợp lại những sáng tác của chồng đem công bố với hi vọng những sáng tác ấy “được phổ biến rộng rãi trong công chúng” (Lê Thị Đức Hạnh,2002:21), người đọc sẽ nhìn nhận, đánh giá đúng mực những đóng góp của người chồng quá cố.
Với luận văn này, chúng tôi hi vọng sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp trước cách mạng tháng tám. Qua đó, chúng tôi muốn khẳng định lại những đóng góp của một nhà văn đã cống hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật và cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Chúng tôi hi vọng, đây là một cách đáp lại tấm lòng của bà Bạch Liên - một người đã hi sinh cả cuộc đời để “làm vợ một nhà văn” (Bạch Liên, 2003:879).
Cuối cùng khi thực hiện đề tài này, khoá luận sẽ giúp chúng tôi mở rộng thêm kiến thức giúp ích cho công tác giảng dạy sau này.
68 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2048 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông biết chú ý soi rọi tâm lí nhân vật ở nhiều góc độ, đặc biệt là chú ý đến
quá trình tâm lí của nhân vật. Việc sử dụng đan xen giữa độc thoại nội tâm và đối thoại nội
tâm, giữa lời trần thuật gián tiếp của tác giả với lời nửa trực tiếp đã làm cho việc miêu tả
tâm lí không đơn điệu mà linh hoạt, đa dạng tạo sự hấp dẫn thu hút người đọc. Cách miêu
tả như vậy càng cho thấy tác giả không đứng ngoài để miêu tả mà như thâm nhập sâu vào ý
thức nhân vật và đã để cho nhân vật tự cất lên tiếng nói bên trong nội tâm của mình. Và
như vậy ngôn ngữ miêu tả đã được cá thể hoá và mang ý thức của nhân vật Tuy còn nhiều
hạn chế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nhưng xét ở khía cạnh miêu tả tâm lí thì thiết
nghĩ, Nguyễn Đình Lạp đã có những đóng góp đáng trân trọng cho việc cách tân thể loại
tiểu thuyết Việt Nam nói riêng và cho việc hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam nói chung tính
đến năm 1945.
2.Giọng điệu kể chuyện:
2.1 Giọng điệu ôn hoà, đằm thắm pha lẫn chất triết lí:
Nếu như mỗi người đều có một giọng nói riêng thì mỗi nhà văn cũng có một giọng
văn riêng đặc trưng cho phong cách văn chương của nhà văn ấy. Có thể nói, giọng điệu là
một trong những yếu tố nghệ thuật cơ bản xác lập tài năng và phong cách độc đáo của tác
giả. Đó là sản phẩm nghệ thuật kết tinh của nhiều năm lao động, sáng tạo của người cầm
bút. Giọng điệu bao giờ cũng gắn với việc bộc lộ tư tưởng, tình cảm, biểu hiện thái độ, cảm
xúc của tác giả qua lời văn nghệ thuật. Giọng điệu luôn xuất phát từ trái tim rung động chân
thành và sâu sắc của người nghệ sĩ. Nghiên cứu tác phẩm văn chương mà không nhận ra
được giọng điệu chung của tác phẩm, giọng điệu riêng của nhà văn thì có nghĩa là chúng ta
cũng không nhận ra được bản sắc độc đáo của tác phẩm cũng như phong cách riêng của nhà
văn ấy. Những nhà văn tên tuổi là những nhà văn đã xác lập được cho mình một giọng điệu
riêng. Chẳng hạn như qua những tác phẩm của Nam Cao, chúng ta nhận ra được ở đó một
giọng trầm buồn, sâu lắng, chuyên chở những bài học nhân sinh. Còn ở những tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng, chúng ta lại nhận ra được một giọng chua chát, sâu cay, bi hài lẫn
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
53
lộn. Nguyễn Đình lạp tuy chưa phải là một nhà văn có tên tuổi nổi bật trong trào lưu văn
học hiện thực phê phán 1930 – 1945 nhưng qua những tiểu thuyết của mình, ông cũng đã
có được giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Trước hết là giọng ôn hoà, đằm thắm, chan chứa tình
yêu thương đối với con người.
Toàn bộ tiểu thuyết là câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba, tức là “người kể chuyện
không xuất đầu lộ diện, anh ta đứng ngoài cuộc quan sát và tường tận về mọi điều lớn nhỏ”
(Nguyễn Ngọc Thiện,1995:34). Điều đó đem lại cho tác phẩm một giọng kể khách quan mà
thoạt đầu người đọc cảm tưởng có vẻ lạnh lùng. Cái giọng khách quan, lạnh lùng ấy được
thể hiện ngay khi mở đầu tác phẩm:
Dãy nhà ở đầu phố Vạn Thái, mười gian hầu hết đã đóng cửa im ỉm. Tiếng
trống, tiếng đàn đáy, tiếng sênh phách, mọi thứ đều đã im bặt từ lâu. Hoạ hoằn, một tiếng
nói rộ lên hay một tiếng cười ròn rã nhưng ngắn ngủi lách qua khe cửa, văng ra đường
phố. Thế rồi im lặng lại trở về im lặng. Nó tố giác sự mệt nhọc, sự chán chường của những
khách hành lạc thấy cuộc chơi đã hồ tàn, cố gây sống lại những phút náo nhiệt gượng gạo.
(Nguyễn Đình Lạp,2003:33)
Cảnh vật, con người, nhịp sống của ngoại ô như lần lượt tự mình hiện lên trên bức
tranh của “khu thị trường to lớn” mà không hề thấy bóng dáng của người kể chuyện ẩn sau
đó. Tuy nhiên, càng đi sâu vào tác phẩm, người đọc mới phát hiện ra người kể chuyện
không hề lạnh lùng, dửng dưng đứng ngoài cuộc mà có lúc còn nhập cuộc bằng tất cả tấm
lòng nhân hậu. Những lúc ấy, ta lại thấy được giọng điệu chan chứa tình yêu thương, xuất
phát từ sự cảm thông sâu sắc với những lầm than, cơ cực của con người. Chẳng hạn khi tác
giả nói về một buổi chợ sớm bắt đầu cho mọi sinh hoạt ở cửa ô:
Cũng như mọi buổi sáng tinh mơ khác, khi những giọt sương khuya hãy còn
rả rích lăn trên tầu lá, rồi lại từ tầu lá rơi đánh bộp xuống đường ẩm ướt thì ở đây, cái cửa
ô tối tăm và chật hẹp này, lòng yêu sống, mong sống, ham sống bắt đầu lôi kéo bao nhiêu
kiếp người vào một cuộc sinh hoạt gay go, tàn nhẫn và nhọc nhằn (Nguyễn Đình Lạp,
2003:74).
Giọng kể của tác giả như cũng chùng xuống ở mấy từ cuối, lắng đọng lại trong
những từ ngữ “gay go, tàn nhẫn và nhọc nhằn” khiến người đọc như cũng cảm nhận được
cái dư vị chua xót ở đấy.
Khi đi vào thâm nhập, mổ xẻ nỗi đau, những tấn bi kịch của từng cảnh đời cụ thể,
tác giả lại không chỉ kể bằng một giọng điệu chua xót mà còn bằng giọng điệu cảm thông
sâu sắc. Khi nói về cảnh đời của bác Vuông, tác giả đã nói như sau:
Cả một cuộc đời siêng năng và đau khổ của cha mẹ bác và rồi đây…cả một
cuộc đời của vợ chồng bác nữa cũng chỉ như ngọn đèn âm thầm và đen tối này thôi. Cháy
không ai hay mà tắt cũng không ai biết. Thật là buồn, thật là tủi, thật là đau đớn!...(Nguyễn
Đình Lạp,2003:43)
Đến đây thì tác giả đã nhập cuộc thực sự, đau cùng nỗi đau của nhân vật. Cảnh đời
leo lét, héo hắt không có ngày mai của bác Vuông đã khiến trái tim người cầm bút cũng
quặn đau. Không cầm lòng được, tác giả đã thốt lên lời than thở cùng nhân vật: “Thật là
buồn, thật là tủi, thật là đau đớn!”
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
54
Hay khi nói về tình cảnh chua xót của cô đầu Huệ, tác giả cũng dùng giọng cảm
thông, nhẹ nhàng phơi bày những khổ đau của cô đầu:
Huệ bận áo kim tuyến, giầy nhung đen, cổ đeo chuyền vàng, tóc vấn trần
giắt chiếc lược ngà, nhưng người gầy hẳn đi, da xanh mai mái, đôi mắt sâu hoắm. Nguyên
từ ngày bình phục, nhan sắc rực rỡ hẳn lên thì nàng lại có nhiều khách yêu chiều lắm.
Không đêm nào nàng có thể chợp mắt được trước bốn giờ sáng cả. Cái bệnh lao cứ ngấm
ngầm đục buồng phổi nàng. Bây giờ nàng đã bắt đầu ho khan, ho tiếng một và cứ chiều
chiều lại lên cơn sốt cho đến khi lên đèn thì thôi. Nên nàng vẫn phải tiếp khách như thường
(Nguyễn Đình Lạp,2003:188).
Cũng với giọng điệu chua xót đầy cảm thông ấy, tác giả đã nói về tình cảnh điêu
đứng của những con người ở ngoại ô như sau:
Cái lệnh cấm các hàng giò chả ở ngoại ô không được vào thành phố bán là
một tiếng sét dữ dội đánh mạnh trên mái nhà bác Vuông và mái nhà những người đồng
nghề với bác…Ở ô Cầu Dền có tới năm mươi nhà làm nghề giò chả nên lưới pháp luật
càng dầy, càng chắc. Bất cứ ở chỗ nào, hễ có đường giao thông lên với đường của thành
phố, cũng có người đứng canh phòng. Thế mà các hàng giò chả vô tình không biết gì cả.
Sáng sớm hôm ấy, họ vẫn đội thúng đi chợ, ung dung và vui vẻ như những con chuột dại
khờ tối mắt vì miếng mồi thơm, chạy bổ nhào vào cái bẫy sắt (Nguyễn Đình Lạp,2003:156).
Sau giọng điệu chua xót cảm thông ấy còn là niềm thương cảm khi con người bị rơi
vào cái bẫy của sự khốn cùng không lối thoát do chế độ thống trị ấy đặt ra.
Giọng điệu chan chứa tình yêu thương đối với con người của tác giả còn thể hiện
qua cách gọi tên nhân vật một cách trân trọng, tin yêu. Dù đó chỉ là những người lao động
nghèo hèn như những người buôn bán, phu xe, đồ tể…, thậm chí bị vùi dập, khinh bỉ như
cô đầu, gái điếm, ăn trộm…nhưng chỉ cần trong lòng họ còn có những hạt nhân lương thiện
thì tác giả không ngần ngại gọi bằng giọng thân thương, thể hiện qua những đại từ xưng hô
như: bác, cô, bà, cái, chàng, nàng…Nếu như ta từng nghe Nam Cao gọi nhân vật của mình
bằng giọng lạnh lùng qua những đại từ như: hắn, thị, y..., còn Nguyễn Công Hoan thì gọi
bằng giọng khinh miệt như “con mẹ”…thì Nguyễn Đình Lạp đã dành cho nhân vật của
mình - những con người hèn mọn - một cách gọi trân trọng, thương yêu nhất. Trái lại, đối
với bọn ác ôn chuyên ức hiếp, đè nén, bóc lột con người thì tác giả không tiếc gọi bằng
giọng khinh bỉ, mỉa mai qua lớp đại từ xưng hô như: mụ, ả, tên, nó…Giọng điệu ấy cho
thấy tình cảm rạch ròi của bác đối với hai loại người: lương thiện và ác ôn.
Chính vì xuất phát từ trái tim dào dạt yêu thương đối với con người nên trong lúc kể
chuyện, nhà văn còn có nhu cầu bộc lộ tình cảm của mình qua những “lời trữ tình ngoại
đề”. Sự xuất hiện của những lời trữ tình ngoại đề giữa mạch tự sự đã góp phần tạo nên một
giọng điệu thấm đẫm cảm xúc. Chẳng hạn như khi đang kể về cuộc nói chuyện say sưa của
Nhớn, Sẹo, Tin, tác giả bỗng dừng mạch kể lại để xen vào những lời bình phẩm với giọng
điệu yêu thương và tỏ ra rất thấu hiểu ba anh chàng đồ tể:
Là những tâm hồn chất phác, nông nổi, họ thường sống bồng bột theo
những ham muốn chốc lát của bản năng. Những niềm luyến tiếc về quá khứ, những nỗi băn
khoăn về tương lai, những eo sèo của hiện tại bao giờ cũng thoảng qua tâm trí họ như một
làn gió nhẹ làm gợn lăn tăn mặt hồ phẳng lặng. Riêng biệt một mình trong một căn nhà nhỏ
vắng, họ còn có thể bình thản ngồi suy nghĩ để tìm cách giải quyết mọi nỗi khó khăn, trở
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
55
ngại nổi lên giữa bước đường đời. Nhưng một khi đã có hai, ba người sáp nhập thành một
đám đông, họ chỉ còn là một bộ máy thụ động hoàn toàn ồ ạt chạy theo tiếng gọi của một
cuộc sống tưng bừng nhộn nhịp. Họ quên, quên hết. Chỉ còn phút hiện tại náo nhiệt là kích
thích được họ, là đáng kể mà thôi (Nguyễn Đình Lạp,2003:283).
Hay khi đang miêu tả tâm trạng của Nhớn sau khi ra tù trong một đêm tối mưa gió ở
vườn hoa, tác giả lại dành cho mình một khoảng lặng để cảm thương đến những kiếp người
bất hạnh, nhỏ bé:
Mưa gió và gió mưa! Những bông cúc gầy ẻo lả bị đánh ngả rạp hẳn xuống,
phũ phàng như những kiếp người xấu số bị hoàn cảnh và xã hội chà đạp không tài nào
ngóc đầu lên được (Nguyễn Đình Lạp,2003:517).
Có khi những lời trữ tình ngoại đề ấy lại có sự hoà trộn giữa giọng điệu chất chứa
cảm xúc với giọng chiêm nghiệm triết lí. Chẳng hạn như khi bình luận về công việc cực
nhọc của anh đồ tể:
Trong cái phút hăm hở làm bổn phận phải giết thật mau, thật nhanh, thật
nhiều, bác cũng không bao giờ hiểu rõ cái ý nghĩa của công việc mình làm. Bác chưa bao
giờ nghĩ tới cái miếng thịt lợn tươi, lành và béo ngậy do chính tay bác vừa pha ra kia lại có
thể đem lại cho cơ thể con người những chất bổ mới, một nguồn sinh lực mới…Không nơi
nào bằng nơi này, câu nói của Gandhi: “Chính từ cái chết mà sự sống bắt nguồn” được
chứng tỏ một cách hùng hồn và cụ thể (Nguyễn Đình Lạp,2003:77).
Hay trong cảnh khốn đốn của gia đình Nhớn, lúc Nhớn thấm thía sự cần thiết của
tiền thì cũng là lúc tác giả cất lên giọng triết lí về giá trị đồng tiền:
Có tiền, bao nhiêu mỗi khó khăn ở đời sẽ giải quyết một cách mau chóng và
ổn thoả. Có tiền là có sự vui tươi của gia đình, sự niềm nở của chúng bạn, sự tôn trọng của
mọi người. Có tiền là có tất cả. Thiếu tiền thì ôi thôi! Một cuộc đời cay cực, nhục nhằn, đau
khổ, âm thầm đã chực sẵn ngoài ngõ. Dù tài giỏi, dù khôn ngoan cũng đành xếp xó mà thôi
(Nguyễn Đình Lạp,2003:298).
Hoà cùng giọng điệu triết lí ấy là giọng điệu chua xót cho thân phận con người
trong cuộc sống kim tiền đầy ô trọc.
Có lúc tác giả lại triết lí về tình yêu. Trong một lúc để cho Tin ngộ ra được ý nghĩa
của yêu đương, tác giả đã gửi đến người đọc một bài học về tình yêu cao cả bằng giọng
thâm trầm đầy chiêm nghiệm: “Yêu đương là một tình cảm cao rộng, nó vượt qua biên giới
của thù hằn, nó xoá nhoà mọi tội ác, nó hàn rịt các vết đau thương. Yêu là trút bỏ cái bản
ngã eo hẹp để hoà linh hồn vào một linh hồn rồi cả hai linh hồn cùng tan vào khinh thanh
của vũ trụ” (Nguyễn Đình Lạp,2003:475).
Bên cạnh đó, giọng điệu thấm đẫm cảm xúc, chan chứa yêu thương còn thể hiện qua
cách vận dụng phép điệp kết hợp với cách ngắt nhịp ngắn phục vụ cho việc biểu lộ cảm xúc
của tác giả trong từng trường hợp cụ thể. Hơn một lần, tác giả đã nhắc đi nhắc lại lòng yêu
sống, ham sống của những người lao động nghèo ở ngoại ô. Và khi nói đến bác Vuông, tác
giả cũng nhấn mạnh tâm hồn yêu sống, ham sống ấy bằng cách điệp lại một loạt từ “sống”:
“Hôm nay điệu nhạc bình dị ấy là sản phẩm của một tâm hồn vui sống, ham sống, yêu
sống. Sống đầy đủ. Sống thoả mãn” (Nguyễn Đình Lạp, 2003:155). Đoạn văn đã thể hiện
tấm lòng yêu thương, trân trọng những khát vọng chính đáng, nhân bản của con người.
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
56
Còn khi chạm đến nỗi đau của thân phận con người thì giọng điệu của tác giả như
chùng xuống thành một hơi thở dài, uất nghẹn bằng cách điệp lại những từ cảm thán “thật
là”, “rõ thật”. Chẳng hạn như cảnh ế hàng của bác Vuông thì “rõ thật điêu đứng, rõ thật
khốn khổ” (Nguyễn Đình Lạp,2003:41). Hay cái cảnh nghèo truyền kiếp của gia đình bác
Vuông thì “thật là buồn, thật là tủi, thật là đau đớn” (Nguyễn Đình Lạp,2003:43). Còn nói
về cảnh cùng quẫn của gia đình bác Vuông sau khi cái lệnh cấm giò chả thi hành, tác giả lại
nói “cái nghèo cứ lù lù tiến đến. Rõ rệt dần. To lớn dần. Nguy hiểm dần” (Nguyễn Đình
Lạp,2003:233). Điệp từ “dần” kết hợp với những tính từ theo hướng tăng tiến trong câu văn
ngắn đã diễn tả cuộc sống ngày càng cùng quẫn của người dân nghèo đồng thời vừa thể
hiện sự thông cảm, quan tâm của tác giả đối với họ. Giọng văn vì thế như chứa đựng nỗi
day dứt, lo âu, phấp phỏng của nhà văn đối với những “thân phận hèn mọn”.
Có thể nói, giọng điệu ôn hoà, đằm thắm, chan chứa tình yêu thương đối với con
người là một trong những giọng điệu đặc trưng của tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp. Giọng
điệu ấy xuất phát từ sự rung động chân thành và sâu sắc của một trái tim đôn hậu. Đó là sản
phẩm kết tinh của cả một quá trình lao động sáng tạo miệt mài và đầy tâm huyết của nhà
văn. Đồng thời, đó cũng là sản phẩm kết tinh của biết bao tình cảm chất chứa hướng về
những kiếp người lao khổ trên quê hương ruột thịt vùng ven đô.
2.2 Giọng điệu mỉa mai châm biếm nhẹ nhàng mà thấm sâu:
Khi hướng tới đối tượng là những con người nhỏ bé, đáng thương thì nhà văn dành
cho họ một giọng điệu ôn hoà, đằm thắm và chan chứa tình yêu thương. Còn khi đối diện
với những thói hư tật xấu của con người hay những thế lực đã chà đạp lên quyền sống con
người thì tác giả lại dùng giọng mỉa mai, châm biếm tuy nhẹ nhàng mà thấm sâu. Chẳng
hạn như khi đi vào phê phán những thú vui trác táng của dân ngoại ô, tác giả đã sử dụng
một giọng châm biếm nhẹ nhàng:
Nói là một “thị trường” to lớn cũng không ngoa chút nào! Cứ tính nhẩm từ
trong ngõ Vạn Thái chạy ra hai dãy phố Mười gian, người ta đếm được vừa đúng bốn mươi
ba nhà ả đầu nghĩa là bốn mươi ba nhà chuyên việc chứa khách đến thoả mãn nhục dục
dưới cái nhãn hiệu mỹ miều là thưởng thức văn thơ và nghệ thuật hát nhà tơ…Thế là bọn
hàng rong có trung bình trên dưới bốn trăm người khách hàng. Bốn trăm cái miệng khô
khan, đắng chát vì đã gào thét đến cháy cổ, đã nốc nhiều rượu, đã hút nhiều thuốc lá, thuốc
phiện và đã hôn hít tục tằn. Bốn trăm cái dạ dày trống rỗng sau cơn phá phách nô đùa,
chạy lên xuống cầu thang mấy chục lần hoặc đã rã rời sau một phút rú rít về xác thịt
(Nguyễn Đình Lạp,2003:37-38).
Và khi nói về những con người trụy lạc, tác giả lại dẫn chuyện bằng giọng mỉa mai
pha chút bông đùa:
Quan viên nhà này đông quá. Trên cái ghế ngựa kê sát ngay cửa ra vào, một
người đàn ông nằm cuộn trong chiếc chăn bông, thò đầu ra ngoài, gối đùi lên một ả đầu.
Trông hắn, người ta phải nhớ ngay đến con sâu kèn đang thò đầu ra ngọ nguậy. Cuối
phòng bốn năm người trai trẻ khác nằm úp thìa, đầu gối lên bụng nhau xung quanh một cái
khay đèn thuốc phiện. Giữa phòng là một bộ “xa lông” liểu mới. Hai người đàn ông nằm
ườn trên ghế, chân ghệch lên bàn, miệng hát líu lô. Liền ngay đấy, một người thanh niên
nữa ôm chặt lấy một cô đầu mà nhảy đầm (Nguyễn Đình Lạp,2003:44).
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
57
Giọng mỉa mai châm biếm ấy cũng thể hiện rõ khi tác giả đi vào phê phán sự mê tín
của con người. Với lối nói pha chút bông đùa, tác giả đã cho người đọc thấy cách cung kính
hết sức buồn cười của bác Vuông đối với ba vị anh hùng bác tôn kính:
Cứ cái sự xưng hô “các ngài” cũng đủ tỏ bác kính sợ ba bức ảnh đó như ba
bực thánh. Nếu có ai gọi thằng Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi thì tức thời bác trố mắt
ngạc nhiên nhìn người đó và vội vàng cải chính lại ngay bằng giọng nhỏ bé, sợ sệt: “Ấy
chết! Sao bác…lại gọi thế? Các ngài thiêng lắm. Nhất là Quan ngài đã hiển thánh”
(Nguyễn Đình Lạp,2003:108).
Bên cạnh đó, khi đi vào phê phán những thế lực đã chà đạp lên quyền sống con
người, tác giả vẫn sử dụng giọng ôn hoà, từ tốn nhưng cũng không kém phần quyết liệt để
bóc trần cái mặt nạ của bọn chúng. Chẳng hạn như khi nói về bọn hương chức ở địa
phương, tác giả đã miêu tả bộ dạng bên ngoài của bọn chúng bằng giọng thản nhiên và để
bản chất của bọn chúng tự bộc lộ qua vẻ bên ngoài ấy:
Ông Lý là một người đẫy đà, mặt tròn phúng phính, ngăm ngăm nâu, dáng
đi đứng bệ vệ, hách dịch. Ông phó lý thì trái ngược hẳn , vừa gầy vừa cao, nhưng đôi mắt
tỏ vẻ lanh lẹ và ranh mãnh. Theo sau hai ông có ba bốn tên tuần cầm tù và tay thước lâng
láo, sục sạo như thể một đàn gà bới trên đống rác (Nguyễn Đình Lạp,2003:211).
Chỉ vài câu, bản chất của bọn chức dịch đã hiện ra qua vẻ bề ngoài thật chân xác: kẻ
thì hách dịch, kẻ thì ranh mãnh, kẻ thì lâng láo…Qua cách nói có vẻ thản nhiên ấy, ta vẫn
thấy được một thái độ khinh bỉ dành cho những kẻ bóc lột.
Tiếp tục để cho bọn hương chức tự bộc lộ bản chất của mình, tác giả ôn tồn dẫn dắt
và bình phẩm cuộc nói chuyện của hai tên chánh phó lý:
Hai ông chánh phó lý thản nhiên đi, bàn chuyện rằm tới này ông Tiên chỉ sẽ
khao tám mươi. Ngày ấy tha hồ mà chè chén, mà xóc đĩa cô đầu. Thật vui như tết. Rồi hai
ông cười ha hả, sánh vai nhau đi hớn hở như đi ăn khao vậy (Nguyễn Đình Lạp,2003:212).
Có lạc điệu chăng khi giữa cái cảnh tang tóc của gia đình bác Vuông, tác giả lại ghé
sang câu chuyện bên lề vô nghĩa của hai tên chánh phó lý? Không hề lạc điệu, không hề vô
nghĩa chút nào mà trái lại chính cái câu chuyện dường như chẳng ăn nhập vào đâu ấy lại tố
cáo sự nhẫn tâm, không tình người của bọn tham quan. Vì thế, sau giọng điệu ôn tồn từ tốn
có phần thản nhiên kia, ta thấy được một sự căm phẫn dồn nén trước thái độ vô tâm, tàn
nhẫn giữa con người với con người.
Khi đi vào phê phán những thói hư tật xấu của con người hay phê phán những thế
lực áp bức con người, ngòi bút của Nguyễn Đình Lạp chưa được nhọn và sắc như Vũ Trọng
Phụng. Nếu như ở Vũ Trọng Phụng, người ta nhận thấy được một giọng điệu bốp chát, cay
cú thì ở Nguyễn Đình Lạp, người ta lại nhận thấy một “giọng điệu ôn hoà hơn nhưng cũng
có công phơi trần hiện thực chứa đầy bi kịch” (Bùi Hiển,2003:846-847). Có thể nói, thông
qua những tác phẩm của mình, Vũ Trọng Phụng đã ném những tiếng chửi thật ác, vung
những cái tát tay thật đau vào bộ mặt xã hội “chó đểu” đương thời. Còn đối với Nguyễn
Đình Lạp, ông chí nhẹ nhàng phê phán, từ tốn bóc tách lần chiếc mặt nạ xấu xa của đời để
nâng niu và bảo vệ những cảnh đời lấm láp bùn đen. Vì thế, sau khi đọc văn của Vũ Trọng
Phụng, người ta có thể phẫn nộ, đập bàn quát tháo hoặc sẽ bộc ra những tiếng cười nhưng
đó là cái cười ra nước mắt, cười mà nghe mặn đắng ở đầu môi. Còn Nguyễn Đình Lạp, văn
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
58
của ông có độ thấm sâu, khiến cho người ta vừa đau đớn vừa “phải suy ngẫm về cuộc sống
quanh mình và rút ra kết luận” (Bùi Hiển,2003:847).
Tóm lại, tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp hấp dẫn người đọc một phần là nhờ vào
giọng điệu kể chuyện linh hoạt, có sự kết hợp nhuần nhuyễn nhiều giọng điệu. Khi hướng
về đối tượng là những con người bé nhỏ, đáng thương thì ông dành cho họ một giọng đầy
cảm thông và chan chứa tình thương. Đôi khi, ông lại bộc lộ tình thương ấy qua những lời
trữ tình ngoại đề với giọng chất chứa cảm xúc pha lẫn chất triết lí sâu xa. Còn khi đối diện
với những thói hư tật xấu của con người hoặc đối với bọn bất nhân, chuyên ức hiếp dân
nghèo thì ông không ngần ngại phê phán bằng giọng mỉa mai, châm biếm đôi lúc pha chút
bông đùa tuy nhẹ nhàng mà thấm sâu. Với việc xác lập được cho mình một giọng điệu
riêng, Nguyễn Đình Lạp xứng đáng để có một vị trí vững chắc hơn trên văn đàn nghệ thuật
nói chung và trong trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 nói riêng.
3. Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị mang hơi thở cuộc sống:
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Ở đó, nhà văn đóng vai trò như một vị tướng chỉ
huy, điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình để cho ra những sáng tạo bất ngờ và thú vị,
sao cho trong từng cách nói, cách nghĩ của mình không chỉ diễn đạt chính xác mà còn phải
hay, phải có tính thẩm mỹ. Mỗi nhà văn đều có một vốn ngôn ngữ riêng thể hiện sự am
hiểu cũng như phong cách của nhà văn ấy. Nguyễn Đình Lạp cũng có vốn ngôn ngữ riêng
và ông cũng đã thể hiện được bản lĩnh của một người chỉ huy tài ba qua một pho từ ngữ rất
bình dị, dân dã mà cũng rất sáng tạo, mới mẻ.
Là một ngườì con sinh ra và lớn lên ở ngoại thành Hà Nội, ngôn ngữ của Nguyễn
Đình Lạp cũng mang đặc trưng của cách nói quen thuộc miền Bắc với những từ địa phương
như: kháu [96], hoài của [91], ghệch càng [23], chõ vào mặt [270], dóm bếp[58], chả bỡn
[34], tẽn [305], hượm [218], chỏng lỏn [131], củng vào đầu [96], choảng nhau [129],…Hay
những cách nói rất mộc mạc, dân dã như: “ai cười thì hở mười cái răng” [140], “mười tám
ăn cám với lợn” [150], “vờ vẫn con tườu” [364], “cô dâu chú rể đội rế lên đầu” [100].
(Nguyễn Đình Lạp,2003)
Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Lạp cũng quay về với suối nguồn vô tận của văn học
dân gian để vận dụng triệt để những ca dao, tục ngữ, thành ngữ…làm giàu thêm kho tàng
ngôn ngữ của mình. Qua tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp, chúng ta thấy được ông là một
người rất am tường văn học dân gian và sử dụng nó một cách thành thạo, linh hoạt. Điều đó
được chứng thực trước hết qua việc sử dụng những thành ngữ quen thuộc và thông dụng
chẳng hạn: đâm lao ta sẽ phải theo lao [186], chuột sa chĩnh gạo [192], chịu thương chịu
khó hay lam hay làm [99], buôn may bán đắt [107], đỏ da thắm thịt [112], giật gấu vá vai
[116], chung vai đấu cật [117], cha nào con nấy [285], lằng nhằng dây cà ra dây muống
[282], ăn no ngủ kĩ [333], chân lấm tay bùn [351], chó mới ngáp phải ruồi [84], nước đổ
đầu vịt [87], cơm chẳng lành canh chẳng ngọt [65]…(Nguyễn Đình Lạp,2003)
Trong đó có không ít thành ngữ được sử dụng một cách đắc địa, tạo nên hiệu quả
nghệ thuật một cách bất ngờ trong cách diễn đạt, miêu tả của tác giả. Chẳng hạn, khi nói về
mụ Táo, tác giả đã diễn tả rất chính xác tính cách hung tợn, dữ dằn, đanh đá của bà trùm
bọn nặc nô bằng thành ngữ “mồm loa mép giải” (Nguyễn Đình Lạp,2003:49). Hay khi nói
về sự may mắn của một chàng trai đần độn, xấu xí như Pháo lại cưới được một cô gái xinh
đẹp như Khuyên, tác giả đã dùng thành ngữ “chuột sa chĩnh gạo” (Nguyễn Đình
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
59
Lạp,2003:92). Và để nói về những cô đầu, gái điếm, những người làm nghề “bán trôn nuôi
miệng” (Nguyễn Đình Lạp,2003:146), tác giả đã cho đó là hạng đàn bà “voi giây ngựa xé”
(Nguyễn Đình Lạp,2003:45), trơ trẽn đến không thể chịu nổi. Có khi những thành ngữ ấy
lại xuất hiện với mật độ đậm đặc trong một đoạn văn ngắn ngủi, chẳng hạn như đoạn đối
thoại giữa cô Huệ với bác Vuông:
…Đó chẳng qua là sự thường xảy ra ở những khác làng chơi chỉ biết vùi
hoa dập liễu. Nhưng đáng ghét nhất là giờ lão ta lại quay trở lại âu yếm tôi. Lại quay trở
lại vì tôi đã đỏ da thắm thịt. Tuy ghét hắn, muốn nhổ ngay vào mặt hắn nhưng vì cái bổn
phận của một người đầu rượu đã vay tiền của chủ, tôi phải cắn răng nuốt quả bồ hòn làm
ngọt, gượng nói gượng cười để chiều lòng khách và để làm lợi cho bà chủ. (Nguyễn Đình
Lạp,2003:112)
Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi có bốn câu đã có tới ba thành ngữ. Những thành
ngữ ấy đã góp phần đắc lực vào việc phơi bày tình cảnh chua xót của cô đầu Huệ.
Có khi tác giả lại sử dụng một cách biến hoá, linh hoạt những thành ngữ quen thuộc
ấy để diễn tả một cách minh bạch, sáng tỏ hơn vấn đề. Chẳng hạn, chúng ta đã quen nghe
thành ngữ “trai tài gái sắc” thì tác giả lại biến đổi thành “trai cầu tài, gái mới cầu sắc”
(Nguyễn Đình Lạp,2003:96) để nói về việc Khuyên lấy một anh chồng xấu xí như Pháo là
chuyện thường. Một số thành ngữ khác lại được thay đổi ở một hoặc một số từ của phương
ngữ Bắc Bộ làm cho những thành ngữ ấy mang cách nói đặc trưng của người dân xứ Bắc.
Để thấy rõ sự thay đổi đó, ta có thể đối chiếu một số thành ngữ được sử dụng trong tiểu
thuyết với những thành ngữ quen thuộc ở miền Nam:
Chuột sa chĩnh gạo [94] - Chuột sa hủ nếp
Ăn dưng ngồi rồi [160] – Ăn không ngồi rồi
Hỏng keo này ta bày keo khác [68] – Hư keo này ta bày keo khác
Dát như cáy [182] – Nhát như cáy
Trái nắng giở giời [2;332] – Trái nắng trở trời
Lành như bụt [285] - Hiền như bụt
(Nguyễn Đình Lạp,2003)
Có khi nhà văn lại biến đổi thành ngữ theo cách chơi chữ độc đáo để châm biếm,
chửi xéo kẻ xấu. Chẳng hạn như để châm chọc mẹ con mụ Ấm chua ngoa, lắm điều, nhà
văn đã sửa thành ngữ “cha nào con nấy” (Nguyễn Đình Lạp,2003:285) thành “Ấm nào
Chén nấy” (Nguyễn Đình Lạp,2003:285) bởi mụ tên Ấm và con mụ tên Chén.
Bên cạnh những thành ngữ quen thuộc, nhà văn còn rất hay sử dụng những câu
ngạn ngữ, châm ngôn, tục ngữ như: “lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm
pha” (294), “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” (331), “một vía trai bằng hai vía gái” (43),
“đồn vui nào thấy đâu vui, bưởi non tám tháng có cùi không tôm” (106)…(Nguyễn Đình
Lạp,2003). Có khi tác giả lại xen vào những câu ca dao, những điệu hát đối đáp dân gian
làm cho ngôn ngữ tác phẩm thêm mượt mà. Chẳng hạn, trong những dòng suy nghĩ cảm
kích của Khuyên đối với Nhớn, tác giả lại xen vào một câu ca dao “bõ công tô điểm má
hồng răng đen” (Nguyễn Đình Lạp,2003:183) để cho thấy nỗi ao ước, mãn nguyện của
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
60
Khuyên khi tưởng sẽ lấy được người chồng như Nhớn. Hay trong khung cảnh lao động đơn
sơ của những cô gái ngoại ô, tác giả lại đưa vào những câu hát đối đáp làm cho không khí
rộn rã hẳn lên. Những câu hát với nhiều giọng điệu, sắc thái khác nhau:
Khi thì châm biếm chua ngoa:
“Tiền chì mua được cá tươi
Mua rau mới hái (ố a) mua người nở nang
Tiền trinh mua vội mua vàng
Mua phải rau héo (ứ ư) mua người ngẩn ngơ”
Khi thì dí dỏm vui tươi:
“Tốt duyên lấy được vợ già
Vừa sạch cửa nhà vừa dẻo cơm canh
Hoài hơi mà lấy trẻ ranh
Ăn vụng xó bếp (ớ á ơ) ỉa quanh (là quanh) đầu nhà”
Cũng có khi ngọt ngào tha thiết:
“Ta nghe tiếng hát đâu đây
Ta về (là ta…aa) rút thuyền mây đi tìm
Ta nghe tiếng hát bên kia
Ta về ta bảo (tình bằng ta bảo ớ a ơ) mẹ cha sang mời”
(Nguyễn Đình Lạp,2003:407-408)
Ngôn ngữ của Nguyễn Đình Lạp không chỉ bình dị, gần gũi do việc vận dụng kho
tàng văn học dân gian mà còn do ông biết vận dụng lời ăn tiếng nói hằng ngày vào văn học
nhưng không hề làm giảm sút tính thẩm mỹ của lời văn mà trái lại, nó còn làm cho tác
phẩm của ông có một nét đặc sắc riêng. Điều đó thể hiện khi đi vào từng trang của tác
phẩm, ta bắt gặp mỗi nhân vật đều phát ngôn bằng một thứ ngôn ngữ dân dã, đời thường,
phù hợp với từng tính cách, từng hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn như lời nói đay nghiến, xỉa
xói, chua ngoa của một cô gái điếm: “Thà cứ mặc mẹ người ta sống cuộc đời khốn nạn như
thế lại hơn, úi dào ồi! Thế mà cũng khoe với mọi người rằng “ra tay tế độ vớt người trầm
luân”; cứu người ta mà hoá ra giam người ta vào nhà tù, bôi tro bôi trấu vào mặt người ta
như thế này..Có khốn nạn đau đớn cho người ta không?” (Nguyễn Đình Lạp,2003:121)
Còn đây là ngôn ngữ của bà trùm du côn trong một cuộc cãi vã:
Chúng mày liệu thần hồn. Muốn yên ổn mà làm ăn ở cái đất này thì phải
kiềng cái mặt bà này đi. Nghe ra chửa? Các con!...Láo chứ! Chúng nó láo chứ! Chúng nó
không biết mẹ nó là ai mà lại còn dám mở mồm ra đòi. Đòi cái mả tổ nhà nó nữa ấy à!
(Nguyễn Đình Lạp,2003:132-133).
Và ngay cả đối với Ả Quay, một người Tàu lai, tác giả cũng sáng tạo cho hắn một
thứ ngôn ngữ nửa Tàu nửa Ta thật ngộ nghĩnh: “Cái nị “kông” tốt lớ. Một người tả nhau
với một người, ngộ “kông” sợ lớ” (Nguyễn Đình Lạp,2003:181)
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
61
Nhà văn dường như rất am tường mọi thứ ngôn ngữ của đời sống. Đối với mỗi
người, mỗi hạng người, ông đều dành cho họ một ngôn ngữ riêng. Hay nói khác hơn, ngôn
ngữ của nhân vật đã được cá thể hoá cao độ, nhân vật nào ứng với ngôn ngữ đó. Đây là
tiếng quát tháo hách dịch và tàn nhẫn của bọn hương chức ở nông thôn:
Đi bán sống bán chết suốt năm không sao, động về đến nhà là y như làm
bận đến người ta…Thiu thối thì mặc mẹ nó thiu thối! Chúng ông chỉ biết làm tròn phận sự
của chúng ông thôi. Cút! Làm gì mà lằng nhằng như đỉa thế? (Nguyễn Đình Lạp,2003:213-
214].
Hay đó là lời nựng yêu của một bà mẹ đối với con nhỏ: “Úi chà! Con tôi ngoan
“cá”… Ối giời ơi? Bố nó mắng…Bố nó mắng con tôi đây mà. Sôi mẹ đền, mẹ đền”
(Nguyễn Đình Lạp,2003:336-338)
Dù ở những trạng thái khác nhau: giận dữ, quát nạt, chửi mắng hay yêu thương, dù
đối với những hạng người khác nhau, tác giả đều chọn được thứ ngôn ngữ riêng đối với
từng trường hợp, từng cá nhân cụ thể.
Điểm đặc sắc trong ngôn ngữ của tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp còn thể hiện ở việc
ông đã huy động được một hệ thống từ láy phong phú góp phần hiệu quả vào việc diễn tả
những trạng thái tâm lí, hoạt động của con người hoặc trạng thái của sự vật. Chẳng hạn:
nhai bỏm bẻm [110], nói niềm nở [110], ốm lừ khừ [112], nhăn nhở cười [113], lổm
ngổm bò [129], nhai nhồm nhoàm [46], uống chồm chộp [250], nông choèn choèn [70],
đỏ lòm lòm [60], xanh mai mái [188]… (Nguyễn Đình Lạp,2003). Và đặc biệt là sự xuất
hiện đông đúc của những từ láy tư vừa góp phần đắc lực cho việc miêu tả vừa mang lại một
âm điệu riêng cho tác phẩm. Đó là những từ như: tất ta tất tưởi [39], kĩu cà kĩu kịt [37], rắn
gan rắn ruột [44], nhai ngấu nhai nghiến [46], ốm ho ốm hem [55], béo ụt béo ịt [59], nhắc
đi nhắc lại [61], nhìn ngược nhìn xuôi [64], vơ quàng vơ xiên [87], xô đi xô lại [142], hớt
hơ hớt hải [157], giật lấy giật để [130], rỗ nhằng rỗ nhịt [147], vung va vung vẩy [259]…
(Nguyễn Đình Lạp,2003).
Bên cạnh đó, điểm sáng tạo trong ngôn ngữ tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp còn
thể hiện ở việc phát huy hiệu quả tối ưu của những biện pháp tu từ như nhân hoá, so sánh,
điệp từ…Có những lúc, phép nhân hoá và phép so sánh được kết hợp nhuần nhuyễn đã đem
lại cho tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp những trang miêu tả tài tình, vừa sinh động vừa sắc
nét. Chẳng hạn như trong giấc mơ đầy chuột gớm ghiếc của Nhớn, tác giả đã biến những
chú chuột thành những tên ranh mãnh, dữ tợn:
Đàn chuột nghểnh đầu, hớn mũi, , vểnh hai tai, nghếch hai chòm râu dài và
cứng. Chúng nghe ngóng, chúng dò xét. Đoạn thoắt chân chúng chạy vào xóm cầu tre, rào
rào và mau lẹ như hàng ngàn, hàng vạn củ thục địa từ một cái bị khổng lồ và bí mật nào ồ
ạt rơi ra…Con đi đầu mạnh dạn hơn leo lên bạo cửa…Nó lanh lẹ cắn rách toan áo
cánh…Con chuột hí hửng chạy chờn vờn quanh…Nó sung sướng nghếch đầu nhìn ngang
nhìn dọc (Nguyễn Đình Lạp,2003:274-275).
Hay trong cái đêm vui sướng đầu tiên Nhớn và Khuyên trốn đi trên tàu, cái phút
tình tứ của họ làm những con đom đóm như cũng vui lây: “Mấy con đom đóm nhấp nháy
như mỉm cười chế nhạo trong những rặng cây đen tối bên vệ đường” (Nguyễn Đình
Lạp,2003:295).
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
62
Phát huy những đặc sắc ngôn ngữ ở phóng sự, đến những tiểu thuyết của mình,
Nguyễn Đình Lạp tiếp tục sáng tạo ra những hình ảnh so sánh ví von, tạo sự liên tưởng thú
vị nơi người đọc. Những hình ảnh so sánh độc đáo ấy trước hết góp phần đắc lực vào việc
khắc hoạ bức tranh ngoại cảnh của tác phẩm. Chẳng hạn như một bức tranh trưng bày hàng
hoá trong chợ được tác giả sử dụng chuỗi so sánh để vẽ nên thật cụ thể, sinh động và đủ
màu sắc:
Những con tôm tươi cong mình lại nhảy lên cao bộp bộp như những quả cao
su bị ném mạnh…Những quả cà chua chín mọng, đỏ thắm như những quả son tí hon làm
cho trẻ em chơi. Những khóm hành lá xanh tươi, rễ trắng dài y hệt những củ thuỷ tiên nhỏ
trồng cát. (Nguyễn Đình Lạp,2003:357).
Có khi chỉ là một sự vật hết sức bình thường nhưng nó lại hiện lên trong tác phẩm
một cách hết sức sinh động, lạ lẫm bởi sự so sánh của một cặp mắt quan sát tinh tường và
một trí tưởng tượng phong phú. Chẳng hạn như hình ảnh một cây nến được nhà văn so sánh
có “lúc im lìm, thẳng tắp như một cây bút lông đứng dựng, lúc đổ xệp xuống tợ hồ một con
rắn trắng ngóc cao cổ, thè lưỡi ra chực liếm một vật gì” (Nguyễn Đình Lạp,2003:267). Hay
hình ảnh của “những tro trắng bay lên cao, tan tác như những cánh thiêu thân bị xé nát”
(Nguyễn Đình Lạp,2003:34).
Có khi tác giả lại tạo ra những hình ảnh so sánh bình dị, giản đơn nhưng lại chứa
đựng những ngụ ý sâu xa. Đó là hình ảnh của những người dân tội nghiệp ở ngoại ô lâm
vào cảnh khốn đốn được ví như những “con chuột dại khờ tối mắt vì miếng mồi thơm chạy
bổ nhào vào cái bẫy sắt” (Nguyễn Đình Lạp,2003:156]. Hình ảnh ấy vừa ẩn chứa một nỗi
xót thương vừa thể hiện một sự căm phẫn đối với chính sách bất nhân của bọn thống trị.
Hay thân phận của những con người hèn mọn, bế tắc không có ngày mai như Nhớn thì
được tác giả so sánh như một “ngọn cỏ”, “một tầu lá”: “Đời hắn không có giá trị bằng đời
ngọn cỏ trên vườn hoa. Ngọn cỏ còn được người ta cắt xén, tưới bón chứ như thân hắn thì
có ai để ý đến…”. Hay “thân hắn rồi đây cũng chỉ là một tầu lá trước cơn giông tố phũ
phàng của cuộc đời” (Nguyễn Đình Lạp,2003:516-524).
Biện pháp so sánh không chỉ giúp khắc hoạ bức tranh ngoại cảnh mà còn giúp khắc
hoạ tâm trạng của nhân vật. Nó giúp tác giả diễn tả nội tâm nhân vật một cách thấu đáo và
tinh tế hơn. Chẳng hạn như tâm hồn của một đứa con trai mới lớn háo hức muốn vợ được
tác giả diễn tả “náo nhiệt như một ấm nước sôi già” (Nguyễn Đình Lạp,2003:68). Hay tâm
trạng thất vọng của Nhớn đối với Khuyên, giấc mộng gia đình êm ấm của Nhớn được tác
giả ví như “áng mây năm sắc loáng mắt tan tác trước trận gió phũ phàng” (Nguyễn Đình
Lạp,2003:514). Ngay cái tâm trạng ngổn ngang như mối tơ vò của Tin cũng được tác giả
tìm những hình ảnh diễn tả một cách chính xác. Trong giây phút Tin tưởng tượng Còi sẽ tự
tử, Còi sẽ chết, Tin “có cảm tưởng rằng một cái gì giá buốt như băng rơi vào giữa tâm hồn.
Và một cái gì quý báu vừa rời bỏ hắn như con rắn lột da xong, vùn vụt bò đi” (Nguyễn
Đình Lạp,2003:474).
Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Lạp còn phát huy tác dụng của phép điệp trong việc
miêu tả. Chẳng hạn để tô đậm ấn tượng trong lòng Nhớn về cuộc sống cấn lao nhưng đầm
ấm mà hai vợ chồng đã trải qua. Tác giả đã sử dụng phép điệp: “Rồi hai vợ chồng hì hục
cuốc, hì hục xúc, hì hục đội, hì hục khuân…” (Nguyễn Đình Lạp,2003:296). Từ “hì hục”
được lặp lại vừa nhấn mạnh sự vất vả vừa gợi lên nhịp điệu, hơi thở dồn dập của sự lao
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
63
động mệt nhọc. Hay để tô đậm lời nói đùa của Nhớn, tác giả để nhân vật liên tiếp nhấn
giọng bằng những điệp từ: “Để rồi tao kiếm một con mèo thật sộp, thật oách, thật sụ, thật
cóc vàng” (Nguyễn Đình Lạp,2003:278).
Trên đây là những nét độc đáo trong ngôn ngữ tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp. Có thể
nói, qua tiểu thuyết đầu tay của mình, Nguyễn Đình Lạp đã chứng tỏ ông là một vị tướng
tài ba trong việc chỉ huy đội quân ngôn ngữ hùng hậu và đã tạo ra được những cách nói mới
mẻ dựa trên việc phát huy sự phong phú của văn học dân gian và kho từ vựng của dân tộc.
Bên cạnh đó, ông cũng vận dụng rất linh hoạt, tự nhiên lời ăn tiếng nói hằng ngày, dân dã
mang đặc trưng của phương ngữ Bắc Bộ. Vì vậy, ngôn ngữ trong tác phẩm của ông là một
thứ ngôn ngữ mộc mạc, chân chất, bình dị mang hơi thở cuộc sống. Chính nhờ thế mà tác
phẩm của ông luôn có một sức xuyên thấm mạnh mẽ, sức lan toả rộng rãi và một sức sống
lâu bền trong lòng người đọc.
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
64
PHẦN KẾT LUẬN
---X W---
Bước vào tìm hiểu giai đoạn văn học 1930 – 1945, người đọc như bị choáng ngợp
trước một khu vườn đầy hương sắc. Quả thật, đây là giai đoạn văn học phát triển rực rỡ và
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để góp phần tạo nên diện mạo văn học rực rỡ ấy, chúng ta
cần ghi nhận sự đóng góp to lớn của những cây bút xuất sắc và tiêu biểu đã lưu danh lại
trên văn đàn giai đoạn này. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần thiết phải nhìn nhận lại những
đóng góp âm thầm, lặng lẽ mà không ít ý nghĩa của những cây bút chưa khẳng định được vị
trí xứng đáng trên văn đàn. Xuất phát từ mục đích ấy, chúng tôi đã chọn và nghiên cứu đề
tài “Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp” để có thể khám phá phong cách tiểu thuyết
độc đáo của Nguyễn Đình Lạp qua hai tiểu thuyết đầu tay và duy nhất của ông. Đồng thời,
qua đó, chúng tôi muốn khẳng định những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho việc cách
tân thể loại tiểu thuyết nói riêng và cho quá trình hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam nói chung
tính đến năm 1945. Trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm qua hai tiểu thuyết “Ngoại ô” và
“Ngõ hẻm”, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Đình Lạp đã có nhiều sáng tạo độc đáo ở lĩnh vực
tiểu thuyết cũng như có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học giai đoạn này, cụ thể là ở
những phương diện sau:
1.Trước hết là những đóng góp về mặt nội dung. Đến với tiểu thuyết trong tâm thế
của một người đến muộn, Nguyễn Đình Lạp đã chọn cho mình một góc hiện thực mới còn
ít người khai phá đó là cuộc sống dân nghèo thành thị ở ngoại ô Bạch Mai Hà Nội trước
Cách mạng tháng tám – 1945. Trên mảnh đất hiện thực màu mỡ ấy, ông đã chứng tỏ mình
là một người canh tác có hiệu quả. Bằng cặp mắt quan sát tinh tường và tấm lòng thiết tha
với quê hương xứ sở, Nguyễn Đình Lạp đã tái hiện một cách chân thực và cảm động cuộc
sống cơ cực, lầm than, bế tắc của những kiếp người cần lao ở ven đô. Nếu như khi viết về
cuộc sống thành thị, Vũ Trọng Phụng rất thành công khi đi vào phơi bày những cái nhố
nhăng của xã hội tư sản đang trên đường Âu hoá thì Nguyễn Đình Lạp lại rất thành công
khi xoáy sâu vào bi kịch của những thân phận hèn mọn sống chui rúc trong các ngõ hẻm
của vùng ngoại ô. Không chỉ đi sâu vào những bi kịch của họ, tác giả còn nhìn thấy được
những nguyên nhân chính dẫn đến bi kịch của họ đó là do chế độ xã hội tàn bạo, bất công
với những chính sách cai trị vô lí và bọn thống trị bất nhân, bọn tay sai dã man đã tìm cách
bóc lột người dân đến tận xương tuỷ. Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra nỗi khổ của con người
còn do chính con người tự tạo lấy bằng những sự mê tín viễn vông, những hủ tục lạc hậu đã
ăn sâu vào nếp nghĩ của mỗi người. Tất cả đã nhấn chìm những con người ở chốn cửa ô tối
tăm này trong màn đêm của sự lầm than, bế tắc không có ngày mai.
Không chỉ phơi bày nỗi khổ đau của con người một cách dửng dưng, hời hợt mà sau
khi nhìn thấy được nguyên nhân nỗi khổ ấy, tác giả còn lên tiếng phê phán, tố cáo xã hội và
đấu tranh bênh vực những con người thấp cổ bé họng bằng tất cả tấm lòng và trái tim của
người cầm bút. Bên cạnh đó, tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả còn thể hiện qua niềm
tin yêu dành cho con người trong mọi hoàn cảnh. Niềm tin yêu ấy đã giúp tác giả soi rọi và
phát hiện ra biết bao phẩm chất tốt đẹp của con người, dù đó là những con người thấp hèn
hay đã bị hoàn cảnh tha hoá. Hơn nữa niềm tin yêu còn giúp cho nhà văn nâng niu, trân
trọng và giữ gìn những phẩm chất tốt đẹp của con người, không để cho nó bị nhơ nhớp bùn
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
65
đen. Đồng thời, nó cũng giúp nhà văn nâng đỡ, dìu dắt những người lầm đường lỡ bước
được trở về trong sự vị tha, bao dung của cộng đồng.
Và có lẽ, đóng góp lớn nhất của nội dung tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp đó là cách
nhìn nhận, đánh giá và giải quyết vấn đề của một nhân sinh quan mới mẻ, tiến bộ. Điều đó
thể hiện qua cách hành xử giữa các nhân vật, qua mối quan hệ giữa những con người trong
tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp. Cụ thể đó là thái độ ứng xử thật đẹp giữa các nhân vật: ứng
xử trong tình bạn, tình yêu, tình làng nghĩa xóm.Cách ứng xử ấy khiến cho những con
người trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp vừa mang những phẩm chất tốt đẹp của con
người Việt Nam vừa mang mầm mống đạo đức của giai cấp vô sản, của những con người
mới thuộc thế hệ Cách mạng sau này. Bên cạnh đó, nhân sinh quan mới mẻ, tiến bộ của nhà
văn còn thể hiện ở việc ông đã để cho những nhân vật của mình trong bước đường cùng đã
vùng dậy đấu tranh có ý thức. Đó là điểm sáng của toàn bộ tác phẩm. Đồng thời, ở điểm
này, tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp cũng trở thành một điểm sáng hiếm thấy trên văn
đàn hiện thực phê phán 1930 – 1945 khi hầu hết những tác phẩm giai đoạn này thường có
chung một kết cục bế tắc, bế tắc trong hướng đi của nhân vật cũng như trong tư tưởng của
nhà văn. Vì vậy, sự đấu tranh có ý thức của nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
còn có vai trò dự báo cuộc Cách mạng long trời lở đất của dân tộc sắp nổ ra. Chính nhân
sinh quan mới mẻ, tiến bộ ấy đã đưa ông bước vào một con đường mới rất có tiền đồ, con
đường của chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa hiện thực Xã hội chủ nghĩa.
2. Để chuyển tải nội dung hiện thực bề bộn ấy một cách trọn vẹn và sâu sắc,
Nguyễn Đình Lạp cũng đã có những sáng tạo riêng trong nghệ thuật tiếp cận và phản ánh
hiện thực. Vì vậy, bên cạnh những đóng góp có giá trị về nội dung là những cống hiến
khiêm tốn mà ý nghĩa về mặt nghệ thuật.
Trước hết, sở dĩ văn của Nguyễn Đình Lạp có sức thấm, lay động lòng người đó là
nhờ giọng điệu kể chuyện ôn hoà, đằm thắm mà chan chứa tình yêu thương đối với con
người. Vì thế trước sự dẫn dắt cố làm ra vẻ khách quan của người dẫn chuyện, người đọc
vẫn thấy được một giọng điệu chua xót, đầy cảm thông hướng về những cảnh đời đầy bi
kịch. Đôi khi nhu cầu được bộc lộ tình yêu thương đối với con người của nhà văn còn bộc
lộ qua những lời trữ tình ngoại đề với giọng chất chứa cảm xúc pha lẫn chất triết lí, chiêm
nghiệm. Còn khi đối diện với những thói hư tật xấu, những nếp nghĩ lạc hậu của con người
hay đối diện với bọn người chuyên ức hiếp, chà đạp lên quyền sống con người thì tác giả
không ngần ngại phê phán bằng giọng mỉa mai, châm biếm tuy nhẹ nhàng mà thấm sâu.
Không bốp chát, không cay cú như giọng điệu phê phán của Vũ Trong Phụng, giọng điệu
phê phán của Nguyễn Đình Lạp tuy nhẹ nhàng, ôn tồn hơn nhưng cũng giáng được những
đòn khiến kẻ thù phải nhức óc, khiến người đọc phải day dứt, trăn trở. Đó không những là
tiếng nói phê phán đả kích, bài bác mà còn là tiếng nói phê phán xây dựng, góp phần hoàn
thiện con người và cải thiện cuộc sống.
Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Lạp cũng thể hiện năng lực của một cây bút tiểu thuyết
vững chãi qua những đặc sắc về mặt ngôn ngữ. Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Đình
Lạp đã chứng tỏ được bản lĩnh của một vị tướng chỉ huy đội quân ngôn ngữ tài ba qua một
pho từ ngữ rất bình dị, dân dã mà cũng rất sáng tạo mới mẻ. Điều đó chứng tỏ trước hết qua
một loạt những từ ngữ địa phương mang cách nói đặc trưng của phương ngữ Bắc Bộ xuất
hiện trong tiểu thuyết cộng với việc sử dụng thành thạo và linh hoạt ca dao, tục ngữ, châm
ngôn. Đặc biệt là sự xuất hiện với tần số cao những thành ngữ quen thuộc, thông dụng. Bên
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
66
cạnh đó, sự sáng tạo trong ngôn ngữ tiểu thuyết của Nguyễn Đình Lạp còn thể hiện ở việc
phát huy hiệu quả của những biện pháp tu từ như nhân hoá, so sánh, phép điệp… Những
biện pháp ấy không chỉ giúp miêu tả bức tranh ngoại cảnh sinh động có hồn mà còn giúp
khắc hoạ tâm trạng của nhân vật một cách sâu sắc và thấu đáo hơn. Bản lĩnh ngôn ngữ của
Nguyễn Đình Lạp còn thể hiện ở sự am tường mọi thứ ngôn ngữ của đời sống. Đối với mỗi
loại người, trong từng hoàn cảnh cụ thể, ông đều lựa chọn cho họ một thứ ngôn ngữ riêng
rất phù hợp, mang tính cá thể hoá cao. Đó là một thành công trong ngôn ngữ tiểu thuyết
Nguyễn Đình Lạp.
Cuối cùng, phần đáng chú ý không thể bỏ qua khi đi vào tìm hiểu thế giới nghệ
thuật tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp đó là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Đây cũng là
phần đóng quan trọng nhất của Nguyễn Đình Lạp cho tiểu thuyết giai đoạn này. Tuy còn
nhiều hạn chế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật như: chưa xây dựng được nhân vật điển
hình có bề sâu, chú ý tả việc hơn tả người…nhưng bù lại Nguyễn Đình Lạp đã có được sự
khéo léo thậm chí tài tình khi đi vào khám phá thế giới nội tâm nhân vật. Nguyễn Đình Lạp
bước vào con đường viết tiểu thuyết khi trên văn đàn, thể loại tiểu thuyết nói chung và nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tiểu thuyết nói riêng đã phát phát triển đến đỉnh cao với
tiểu thuyết “Sống mòn” của Nam Cao. Trên cơ sở tiếp thu thành tựu của người đi trước,
Nguyễn Đình Lạp cũng có những sáng tạo riêng của mình để nâng nghệ thuật miêu tả tâm lí
lên một tầm cao mới, đưa tiểu thuyết Việt Nam ngày càng tự tin hoà vào vòng xoáy của quá
trình hiện đại.
Tóm lại, chúng ta có thể khẳng định những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho kho
tàng văn học Việt Nam qua hai tiểu thuyết “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” là những đóng góp có
giá trị và đáng trân trọng. Có thể, tiểu thuyết của ông còn nhiều hạn chế so với tiểu thuyết
của những nhà văn bậc thầy trong cùng trào lưu nhưng không vì thế mà chúng ta có thể
lãng quên những đóng góp đầy tâm huyết của cuộc đời cầm bút mà nhà văn đã dồn hết vào
những tác phẩm của mình. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại, phải góp nhặt ở đâu đó nơi
góc khuất của khu vườn văn học dân tộc những bông hoa kém hương sắc như Nguyễn Đình
Lạp để bức tranh văn học nước nhà không còn “bị những nét mờ không đáng có” như
PGSTS Lê Thị Đức Hạnh đã nhận định.
Trên đây là đề tài của chúng tôi về đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp, một
mảng đề tài còn ít người chú ý. Khoá luận chỉ là một công trình nhỏ bé của người viết với
mong muốn khẳng định sự đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho tiến trình hiện đại hoá văn
xuôi Việt Nam. Do điều kiện thời gian, do giới hạn của một khoá luận tốt nghiệp đại học và
phần nào do hạn chế về khả năng nghiên cứu, đề tài của chúng tôi có thể còn nhiều thiếu
sót và chưa đạt được yêu cầu như mong muốn nhưng nếu có điều kiện nghiên cứu tiếp,
chúng tôi sẽ khai thác sâu hơn một số vấn đề nghệ thuật của tiểu thuyết chẳng hạn như lời
văn nghệ thuật hay kết cấu của tiểu thuyết. Trong quá trình tìm hiểu, nếu có gì sai sót kính
mong nhận được sự đóng góp nhiệt tình của quý thầy cô để luận văn được sửa chữa hoàn
thiện hơn.
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
67
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bạch Liên (sưu tầm tập hợp).2003. Tác phẩm Nguyễn Đình Lạp. Hà Nội: NXB Văn hoá
thông tin
2. Bạch Văn Hợp (sưu tầm, tuyển chọn). 2001. Nguyên Hồng - Những tác phẩm tiêu biểu
trước 1945. NXB Giáo dục
3. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên). 2004. Từ điển văn học (bộ mới). NXB Thế giới
4. Hoài Anh. 2001. Chân dung văn học. NXB Hội nhà văn
5. Lê Thị Đức Hạnh. 2002. Bài viết “Sáng tác của Nguyễn Đình Lạp”. Tạp chí VH số 3:
20-26.
6. Lữ Huy Nguyên (chủ biên) - Phan Cư Đệ giới thiệu. 1996. Ngô Tất Tố toàn tập. Hà Nội.
NXB Văn học
7. Mã Giang Lân (Chủ biên) . 2000. Quá trình hiện đại hoá VHVN 1900 – 1945. Hà Nội.
NXB Văn hóa thông tin.
8. Mai Hương (tuyển chọn). 2000. Vũ Trọng Phụng một tài năng độc đáo. Hà Nội. NXB
Văn hoá thông tin.
9. Nam Cao.1999. Sống mòn. NXBVH
10.Ngô Tất Tố. Tắt đèn. NXB Đồng Nai
11.Ngô Thị Hy. 2003. Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Hồ Dzếnh. Luận văn thạc sĩ KH ngữ
văn. ĐHSP TPHCM
12.Nguyễn Ánh Ngân (tuyển chọn, biên soạn). 2002. Nguyên Hồng tấm lòng qua trang
viết. Hà Nội. NXB Văn hoá thông tin.
13.Nguyễn Công Hoan. 2002. Ngựa người và người ngựa. NXB Văn học
14.Nguyễn Đăng Điệp. 2002. Giọng điệu trong thơ trữ tình. Hà Nội: NXBVH
15.Nguyễn Đăng Mạnh. 1999. Vũ Trọng Phụng toàn tập. Hà Nội: NXB Hội nhà văn
16.Nguyễn Đăng Mạnh - Bùi Duy Tân - Nguyễn Như Ý (đồng chủ biên). Từ điển tác giả,
tác phẩm VHVN dùng cho nhà trường. NXB ĐH sư phạm
17.Nguyễn Ngọc Thiện. 1995. Bài viết “Những cuộc đời bị dồn đẩy trong tiểu thuyết tả
chân của Nguyễn Đình Lạp”. Tạp chí văn học số 12: 34 – 36
18.Nguyễn Quang Trung. 2002.Tiếng cười Vũ Trọng Phụng. Hà Nội: NXB Văn hoá thông
tin
19.Nguyễn Thị Dư Khánh. 2006.Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà
trường. NXB Giáo dục
20.Nguyễn Thị Dư Khánh. 1995. Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp.
NXBGD
21.Nhiều tác giả.1978. Lịch sử VHVN (tập 5). NXB Giáo dục
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
68
22.Nhiều tác giả. 2003. Tổng tập VHVN (tập 33). Hà Nội: NXB Khoa học xã hội
23.Nhiều tác giả. 2000. VHVN 1900 – 1945. NXB Giáo dục
24.Nhiều tác giả. 1992. Nghĩ tiếp về Nam Cao. Hà Nội: NXB Hội nhà văn.
25.Phan Cư Đệ. 1978. Tiểu thuyết hiện đại (tập 1). Hà Nội: NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp
26.Phương Ngân (tuyển chọn và biên soạn). 2000. Nam Cao – Nhà văn hiện thực xuất
sắc. Hà Nội: NXB Văn hoá thông tin
27.Thạch Lam. 2000. Tập truyện ngắn Gió đầu mùa. NXB Đồng Nai
28.Trần Mạnh Thường (biên soạn). Từ điển tác gia VHVN thế kỉ XX. NXB Hội nhà văn
29.Tuấn Thành, Vũ Anh tuyển chọn. 2002. Tắt đèn tác phẩm và dư luận. Hà Nội:NXBVH
30.Vũ Dương Quỹ (tuyển chọn, biên soạn).1998. Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường:
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. TPHCM. NXB Giáo dục
31.Vũ Ngọc Phan. 1989. Nhà văn hiện đại (tập 2). Hà Nội: NXB Khoa học xã hội tái bản
32.Vũ Trọng Phụng. Giông tố. NXBVH
33.Vũ Tuấn Anh – Bích Thu (chủ biên). Từ điển tác phẩm văn xuôi VN. NXBVH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac diem tieu thuyet nguyen dinh lap.PDF