CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:
Những năm trở lại đây, tình hình kinh tế-xã hội An Giang đã có những bước chuyển mạnh mẽ. Đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tỉnh An Giang luôn tự hào là tỉnh đứng đầu về sản lượng hàng nông nghiệp xuất khẩu. Với sản lượng ngày một tăng, từ đó góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu cho quốc gia và góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh sự phát triển của ngành nông nghiệp thì tình hình sản xuất kinh doanh của các ngành nghề khác trong tỉnh cũng ngày càng được đẩy mạnh, với sự xuất hiện ngày càng đông của các loại hình doanh nghiệp đã tạo nên một môi trường kinh doanh sôi động, nhộn nhịp và đầy sức cạnh tranh. Không những thế, đối với các làng nghề truyền thống của tỉnh cũng ngày một được quan tâm và phát triển hơn. Tuy nhiên, để quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục và hiệu quả, nguồn vốn được cung cấp một cách kịp thời cho nông dân cũng như các cơ sở sản xuất là hết sức quan trọng và cấp thiết. Và Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang cùng với vai trò trung gian tài chính, cung cấp vốn, đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế tỉnh nhà tiếp tục phát triển và vững bước tiến lên trên con đường hội nhập, hoà mình vào công cuộc chung của đất nước - công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cũng như phần lớn những ngân hàng thương mại khác, hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh An Giang và thu nhập từ hoạt động này chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng việc tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng luôn có mối quan hệ lẫn nhau; bởi ngân hàng cũng là đối tượng “đi vay, để cho vay”; tín dụng tăng trưởng càng cao và có chất lượng thì càng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Trong suốt quá trình hoạt động, Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang luôn quan tâm, bám sát, quản lý chặt chẽ tình hình tăng trưởng tín dụng giúp tăng trưởng kinh tế địa phương; song nợ xấu vẫn còn tiềm ẩn. Do đó, trong tình hình kinh tế đầy biến động như hiện nay càng yêu cầu Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang quản lý chặt chẽ hơn nữa mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng. Từ đó, sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh so với các NHTM khác trên cùng địa bàn tỉnh An Giang. Xuất phát từ những vấn đề trên em quyết định chọn đề tài: “Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương An Giang” để từ đó có những nhận thức rõ về tầm quan trọng của chất lượng tín dụng đối với sự an toàn và vững mạnh của ngân hàng.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu là tìm hiểu, đánh giá chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang trong 3 năm (từ năm 2006 đến 2008). Từ đó, tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang.
1.3 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập số liệu:
+ Trực tiếp thu thập số liệu thực tế về hoạt động của Ngân hàng Công Thương tỉnh An Giang trong 3 năm (từ năm 2006 đến 2008).
+ Thu thập thông tin liên quan từ cán bộ tín dụng.
- Phương pháp phân tích số liệu:
+ Tổng hợp, so sánh số liệu qua 3 năm.
+ Sử dụng một số chỉ tiêu tài chính để phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
- Tham khảo tài liệu: sách, báo và internet.
1.4 Phạm vi nghiên cứu:
Do lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng phong phú và đa dạng nên phạm vi đề tài của tôi chỉ tập trung đánh giá chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang trong 3 năm (từ năm 2006 đến năm 2008) và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh trong thời gian tới.
59 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dư nợ thì Chi nhánh cần dựa vào nhiều chỉ
tiêu khác; đó là chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn, chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng và
chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng.
4.1 Đánh giá chỉ tiêu nợ xấu/tổng dư nợ
Bảng 4.1.1: Chỉ tiêu nợ xấu/tổng dư nợ
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
1. Nợ xấu 2.749 1.997 2.761
2. Tổng dư nợ 662.531 842.246 990.685
3. Tỷ lệ Nợ xấu/Tổng dư nợ 0,41% 0,23% 0,28%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động Ngân hàng của CN.NHCT.AG năm 2006, 2007, 2008)
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng một cách rõ
rệt, nó là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng tín dụng và đo
lường rủi ro. Theo qui định của Ngân hàng Nhà Nước cho phép nợ xấu trên tổng dư
nợ của các ngân hàng không được vượt quá 5%.
Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của Chi nhánh trong 3 năm qua có sự
biến động nhưng vẫn đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh giới hạn của NHNN. Năm
2006 tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ là 0,41%; sang năm 2007 tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn
0,23%; đến năm 2008 tỷ lệ tăng nhẹ lên là 0,28% nhưng không đáng kể. Điều này
cho thấy tỷ lệ nợ xấu ở Chi nhánh thời gian qua đã dần dần được cải thiện, chất
lượng tín dụng của Chi nhánh ngày càng được nâng cao; mặc dù tình hình nợ xấu có
tăng trong năm 2008 nhưng bù lại tổng dư nợ của Chi nhánh cũng tăng rất cao.
Kết quả đáng khích lệ trên thể hiện sự lãnh đạo sát sao của Ban giám đốc và
đội ngũ cán bộ tín dụng đã tích cực đôn đốc thu hồi nợ quá hạn, kết hợp việc kiểm
tra việc cho vay một cách chặt chẽ đã hạn chế được nợ xấu phát sinh. Với kết quả
đó, Chi nhánh không chỉ thu được lợi nhuận qua từng năm hoạt động mà còn góp
phần thúc đẩy nền kinh tế-xã hội trong toàn tỉnh phát triển.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 31
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
Bảng 4.1.2: Chỉ tiêu Nợ xấu/tổng dư nợ theo thành phần kinh tế
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
1.Nợ xấu, trong đó: 2.749 1.997 2.761
-DNNN 0 0 420
-KTNQD 2.749 1.977 2.341
2.Tổng dư nợ 662.531 842.246 990.685
-DNNN 99.281 139.389 175.087
-KTNQD 563.250 702.857 815.598
3.Tỷ lệ Nợ xấu/Tổng dư nợ 0,41% 0,23% 0,28%
-DNNN 0 0 0,24%
-KTNQD 0,49% 0,28% 0,29%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động Ngân hàng của CN.NHCT.AG năm 2006, 2007, 2008)
Qua bảng số liệu ta thấy, dư nợ của các DNNN đều tăng qua các năm nhưng
không phát sinh nợ xấu trong năm 2006, 2007; đến 2008 nợ xấu đã xuất hiện ở
thành phần kinh tế này với số tiền là 420 triệu đồng nên tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của
các DNNN trong năm này là 0,24%. Do đó, trong thời gian tới Chi nhánh cần kiểm
soát chặt chẽ hơn nữa hoạt động tín dụng đối với thành phần kinh tế này.
Và tỷ lệ nợ xấu vẫn tập trung chủ yếu ở thành phần kinh tế ngoài quốc doanh,
vì dư nợ và nợ xấu ở thành phần kinh tế này chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng dư nợ
và tổng nợ xấu của Chi nhánh trong 3 năm qua. Cụ thể, năm 2006 tỷ lệ nợ xấu/tổng
dư nợ ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 0,49%; năm 2007 con số này giảm
xuống còn 0,28%; và đến năm 2008 tỷ lệ này tăng lên là 29% nhưng không đáng kể
(tăng chỉ 1%) so với năm trước.
Điều này cho thấy, bên cạnh việc để bắt kịp nhịp độ tăng trưởng kinh tế của
tỉnh cũng như của đất nước trong bối cảnh của một nền kinh tế chuyển đổi như hiện
nay (hầu hết các DNNN đã và đang chuyển sang hình thức doanh nghiệp khác như:
công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên,…), Chi nhánh đã đẩy mạnh tăng
trưởng dư nợ để mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
nhưng chất lượng tín dụng của Chi nhánh vẫn được đảm bảo khá tốt.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 32
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
Bảng 4.1.3: Chỉ tiêu Nợ xấu/tổng dư nợ theo ngành nghề kinh tế
ĐVT: Triệu đồng
2006 2007 2008
Chỉ tiêu Nợ
xấu
Tổng
dư nợ
Tỷ lệ
nợ
xấu
Nợ
xấu
Tổng
dư nợ
Tỷ lệ
nợ
xấu
Nợ
xấu
Tổng
dư nợ
Tỷ lệ
nợ xấu
-Công nghiệp 0 275.836 0 0 262.162 0 811 334.798 0,24%
-TM-DV 1.500 238.886 0,63% 1.977 305.423 0,65% 7 300.076 0,002%
-Nông nghiệp 1.046 104.725 0,99% 0 253.397 0 398 334.137 0,1%
-Xây dựng 0 25.181 0 0 5.160 0 1.500 3.500 42,9%
-Ngành khác 203 17.903 1,13% 0 16.104 0 45 18.174 0,25%
Tổng cộng 2.749 662.531 0,41% 1.997 842.246 0,23% 2.761 990.685 0,28%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động Ngân hàng của CN.NHCT.AG năm 2006, 2007, 2008)
Nhìn một cách tổng quan Bảng 4.1.3, ta thấy tỷ lệ nợ xấu /tổng dư nợ theo
ngành nghề kinh tế có sự biến động chuyển dịch qua lại giữa các ngành. Cụ thể:
Năm 2006, tỷ lệ nợ xấu của Chi nhánh là 0,41%, tập trung chủ yếu vào 3 ngành
là TM-DV, nông nghiệp và ngành khác. Trong đó, ngành khác có tỷ lệ nợ xấu là
1,13% cao nhất trong 3 ngành, nguyên nhân chủ yếu là do cho vay tiêu dùng khách
hàng không cân đối được nguồn trả nợ, thậm chí nhiều khách hàng mất luôn khả
năng trả nợ cho Chi nhánh. Tiếp theo là tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của ngành nông
nghiệp là 0,99%; đó là do trong năm 2006 bị ảnh hưởng bởi thời tiết xấu, dịch bệnh
năng suất sản xuất nông nghiệp bị giảm sút, trong khi đó thị trường tiêu thụ của
ngành gặp phải nhiều khó khăn, dẫn đến người dân không bán được hoặc bán với
giá rất thấp từ đó người dân bị lỗ nặng không còn vốn để trả nợ cho ngân hàng. Đối
với ngành TM-DV có tỷ lệ nợ xấu là 0,63% là do một số cơ sở kinh doanh không
hiệu quả sử dụng vốn vay sai mục đích dẫn đến không có nguồn trả nợ cho ngân
hàng.
Năm 2007, do tình hình nông nghiệp của tỉnh tăng trưởng mạnh trở lại người
dân sản xuất có hiệu quả, mặt khác Chi nhánh cũng dùng nhiều biện pháp thu hồi nợ
hiệu quả nên nợ xấu của ngành nông nghiệp và ngành khác không còn nữa. Trong
năm chỉ xuất hiện nợ xấu ở ngành TM-DV, với tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ là 0,65%, có
tăng lên nhưng không nhiều (năm 2006 là 0,63%), nguyên nhân cũng từ việc sử
dụng vốn vay không đúng mục đích nên hoạt động sản xuất kinh doanh không có lợi
nhuận từ đó không có nguồn trả nợ cho Chi nhánh. Tuy nhiên, dưới sự nổ lực của
từng cán bộ nhân viên, sự kiểm soát chặt chẻ của cấp lãnh đạo, tình hình nợ quá hạn
tuy có tăng nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát với tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của Chi
nhánh đã giảm xuống chỉ còn 0,23% trong năm này.
Sang năm 2008, nợ xấu phát sinh ở tất cả các ngành nghề kinh tế nhưng không
cao, tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ ở một số ngành rất thấp. Trong đó, ngành TM-DV có sự
sụt giảm rất lớn từ 0,65% (năm 2007) giảm xuống còn 0,002%; cho thấy đối với
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 33
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
ngành TM-DV, Chi nhánh có sự quan tâm cao, công tác quản lý, kiểm soát nợ xấu
ngày càng chặt chẽ, công tác thu hồi nợ cũng ngày càng hiệu quả. Kết quả này có thể
khẳng định công tác tín dụng của Chi nhánh ở ngành TM-DV (đối tượng đầu tư chủ
yếu của Chi nhánh) ngày càng có chất lượng. Riêng đối với ngành xây dựng thì tỷ lệ
nợ xấu đang ở mức báo động, với tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ là 42,9%; vượt rất xa so
với mức tỷ lệ nợ xấu (tối đa 5%) mà Ngân hàng Nhà Nước cho phép. Tuy tỷ lệ nợ
xấu này không ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ chung của toàn Chi
nhánh (vì dư nợ của ngành xây dựng trong năm 2008 rất thấp chỉ 3.500 triệu đồng),
nhưng Chi nhánh cần nâng cao công tác thẩm định cho các món vay về lĩnh vực xây
dựng, thực hiện nhiều biện pháp để thu hồi nợ để từ đó có thể giảm tỷ lệ nợ xấu
xuống đến mức thấp nhất.
4.2 Đánh giá về hiệu suất sử dụng vốn
Ngoài chỉ tiêu nợ xấu/tổng dư nợ thì chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cũng là một
trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của Chi nhánh. Đây
là chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng vốn huy động của Chi nhánh vào công tác cấp
tín dụng, nếu 100% vốn huy động được đầu tư hết cho hoạt động tín dụng thì hoạt
động kinh doanh của Chi nhánh đạt hiệu quả, do lãi trả cho công tác huy động vốn
được bù đắp bằng mức lãi suất cao hơn khi đầu tư vào cho vay.
Bảng 4.2.1: Hiệu suất sử dụng vốn
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Tổng nguồn vốn huy động 360.281 493.774 693.362
Tổng dư nợ 662.531 842.246 990.685
Hiệu suất sử dụng vốn 184% 171% 143%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động Ngân hàng của CN.NHCT.AG năm 2006, 2007, 2008)
Từ bảng số liệu, ta thấy qua 3 năm cả tổng nguồn vốn huy động và tổng dư
nợ của Chi nhánh đều tăng nhưng tổng nguồn vốn vẫn luôn thấp hơn tổng dư nợ cho
vay. Vì thế, Chi nhánh luôn ở tình trạng thiếu vốn huy động tại chỗ để cho vay mà
phải nhận vốn từ NHCT.VN, hiệu suất sử dụng vốn ở mức cao trong các năm.
Nhưng chỉ tiêu này đang có xu hướng giảm mặc dù dư nợ tăng cho thấy khả năng
huy động vốn tại chỗ đang có xu hướng tăng, đây là một dấu hiệu tốt cho mức hoạt
động kinh doanh an toàn của Chi nhánh.
Cụ thể, năm 2006 hiệu suất sử dụng vốn là 184%; năm sang năm 2007 giảm
xuống còn 171%; đến năm 2008 con số này tiếp tục giảm còn 143%.
Điều này cho thấy, trong cả 3 năm nguồn vốn huy động của Chi nhánh thấp
không đủ để tài trợ cho hoạt động cho vay, do đó Chi nhánh phải sử dụng nhiều đến
nguồn vốn điều hoà từ NHCT.VN. Dùng vốn điều hoà để tài trợ cho tín dụng sẽ làm
giảm tính chủ động của Chi nhánh trong đầu tư tín dụng trên điạ bàn. Do đó, để ổn
định trong hoạt động ngân hàng tạo tính chủ động với hiệu quả cao cho công tác tín
dụng, trong thời gian tới Chi nhánh cần tập trung thu hút nguồn vốn huy động tạo
mọi điều kiện thuận lợi để mở rộng cho vay.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 34
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
4.3 Đánh giá vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng và chất
lượng tín dụng của Chi nhánh. Vòng quay tín dụng lớn nói lên sự luân chuyển vốn
nhanh và chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại, vòng quay thấp thể hiện vốn tín dụng
chậm luân chuyển, chất lượng tín dụng chưa tốt, thu nợ kém. Tại Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Ang Giang tình hình vòng quay vốn tín dụng như bảng sau:
Bảng 4.3.1: Vòng quay vốn tín dụng
ĐVT: Triệu đồng, vòng
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Doanh số thu nợ 1.146.815 1.669.914 2,301,239
Dư nợ bình quân 694,389 752,389 916.466
Vòng quay vốn tín dụng 1,65 2,22 2,51
(Nguồn: Báo cáo hoạt động Ngân hàng của CN.NHCT.AG năm 2006, 2007, 2008)
Vòng quay vốn tín dụng của Ngân hàng trong những năm qua có sự biến
động theo chiều ngày càng tăng. Năm 2006 vòng quay vốn là 1,65 vòng và năm 2007
tăng lên là 2,22 vòng. Đến năm 2008 vòng quay vốn vẫn tiếp tục tăng với vòng quay
vốn là 2,51 vòng. Cho thấy vòng quay vốn tín dụng của Chi nhánh qua các năm ngày
càng nhanh hơn, tức là khả năng thu hồi vốn cao hơn, rủi ro ít hơn và chất lượng tín
dụng được nâng cao hơn.
Nguyên nhân của sự gia tăng này là do trong những năm qua Chi nhánh ngày
càng mở rộng cho vay nên dư nợ bình quân ngày càng tăng cao; đặc biệt,
CN.NHCT.AG cũng như các NHTM khác tập trung đầu tư vào loại hình cho vay
ngắn hạn mà đặc điểm của loại hình cho vay này là có vòng quay vốn nhanh, khoản
vay phát sinh sẽ được thu hồi trong năm. Đồng thời, với phương thức trả nợ rất thuận
lợi cho khách hàng, thường kéo dài theo chu kỳ kinh doanh, tạo điều kiện cho khách
hàng trả nợ tốt nên khách hàng chủ động hơn trong việc vay trả giúp cho công tác thu
nợ của Chi nhánh gặp nhiều thuận lợi và có hiệu quả. Từ đó, góp phần hạn chế nợ
xấu làm giảm đi rủi ro cho Chi nhánh và cũng là khẳng định ngày càng cao về chất
lượng trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh.
4.4 Đánh giá chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Để đánh giá xem một hoạt động kinh doanh nào đó có đem lại hiệu quả, có
chất lượng hay không thì người ta thường dựa vào phần lợi nhuận thực tế mà hoạt
động này đã mang lại để xem xét. Và hoạt động tín dụng tại CN.NHCT.AG cũng
không ngoại lệ. Để đánh giá chất lượng trong hoạt động tín dụng Chi nhánh sử dụng
chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng/Tổng dư nợ. Tại CN.NHCT.AG, chỉ tiêu này
được thể hiện trong thời gian 3 năm: 2006, 2007, 2008 như sau:
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 35
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
Bảng 4.4.1: Chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng/Tổng dư nợ
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng 13.755 29.355 24.318
Tổng dư nợ 662.531 842.246 990.685
Lợi nhuận từ hoạt động tín
dụng/Tổng dư nợ 2,08% 3,49% 2,45%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động Ngân hàng của CN.NHCT.AG năm 2006, 2007, 2008)
Chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng này phản ánh khả năng sinh lời của
vốn tín dụng. Chỉ tiêu này càng cao thì càng tốt, chứng tỏ các khoản cho vay của
ngân hàng sinh lời, chất lượng tín dụng tốt; ngược lại chỉ tiêu này thấp thì có nghĩa là
hoạt động tín dụng có hiệu quả không cao.
Từ Bảng 4.4.1, ta thấy chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng/tổng dư nợ
của Chi nhánh có sự biến động qua các năm. Cụ thể:
Năm 2007, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng/tổng dư nợ của Chi nhánh là
3,49%, tăng lên so với năm 2006 (2,08%), cho thấy hiệu quả hoạt động tín dụng của
Chi nhánh tăng hơn so với năm 2006. Có sự gia tăng này là do trong năm 2007 tình
hình kinh tế của tỉnh tăng trưởng mạnh và gặp nhiều thuận lợi, cho nên các hộ cá thể
và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nên đã chủ động trả nợ cho ngân hàng
đúng hạn, góp phần làm cho hoạt động tín dụng của CN.NHCT.AG có nhiều thuận
lợi: nợ xấu giảm xuống 28% so với năm 2006, bên cạnh đó thu nhập từ hoạt động tín
dụng lại tăng lên 49% so với năm 2006, từ đó làm cho lợi nhuận từ hoạt động tín
dụng tăng lên, góp phần làm nâng cao chất lượng tín dụng cho Chi nhánh.
Đến năm 2008, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng/tổng dư nợ của Chi nhánh lại
giảm xuống so với năm 2007, giảm xuống còn 2,45%, cho thấy hiệu quả trong hoạt
động tín dụng của Chi nhánh giảm. Đó là do trong năm 2008 mặc dù tổng thu nhập
có tăng lên với tỷ lệ là 62% so với năm 2007 nhưng tổng chi phí tăng với tốc độ cao
hơn là 89%, từ đó làm cho lợi nhuận chung của Chi nhánh đã giảm đi 16% trong năm
2008, kéo theo lợi nhuận từ hoạt động tín dụng cũng bị sụt giảm. Thực tế là do tình
hình kinh tế trong năm 2008 diễn biến bất thường và phức tạp gây nhiều nguyên
nhân để dẫn đến nợ xấu phát sinh tăng cao trong năm 2008 này như: giá cả hàng hoá
tiêu dùng leo thang từng ngày; giá vật tư, phân bón, giá xăng dầu, giá thép tăng
nhanh làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân cũng như hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp tạo tác động dây chuyền đến khả năng thanh toán nợ
cho Chi nhánh, làm ảnh hưởng khá lớn đến hiệu quả tín dụng của Chi nhánh. Tuy
nhiên, chỉ tiêu này chỉ có tính tương đối trong đánh giá chất lượng tín dụng vì nó còn
chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như: lãi suất, chính sách khách hàng…
4.5 Một số tồn tại về chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương
An Giang
Bên cạnh tăng trưởng tín dụng, chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng
Công Thương An Giang cũng bộc lộ một số hạn chế, tồn tại sau đây:
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 36
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
- Nhìn một cách tổng quát về hoạt động tín dụng của Chi nhánh trong thời
gian 3 năm (từ năm 2006 đến năm 2008), mặc dù vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng tín
dụng, song tốc độ đã chậm lại. Trong đó, nếu doanh số thu nợ năm 2007 đạt mức
tăng trưởng là 46% so với năm 2006 thì đến năm 2008 tốc độ tăng trưởng giảm
xuống còn 38% so với năm 2007, cho thấy hiệu quả thu hồi nợ của Chi nhánh giảm
đi, chứng tỏ chất lượng tín dụng của Chi nhánh phần nào cũng đã giảm đi.
- Đối với tình hình nợ xấu của Chi nhánh có sự biến động qua các năm và có
sự dịch chuyển qua lại giữa các ngành. Cụ thể:
+ Năm 2006, nợ xấu phát sinh ở 3 ngành: TM-DV, nông nghiệp và ngành
khác. Nhưng tập trung nhất là ở ngành khác với tỷ lệ nợ xấu là 1,13%.
+ Năm 2007, nợ xấu chỉ phát sinh ở ngành TM-DV với tỷ lệ nợ xấu là
0,65%.
+ Năm 2008, nợ xấu xuất hiện ở tất cả các ngành kinh tế. Trong đó, tỷ lệ nợ
xấu ở ngành xây dựng là rất cao, cao nhất trong các ngành với tỷ lệ nợ xấu là 42,9%.
Tuy dư nợ của ngành rất thấp: 3.500 triệu đồng trong tổng dư nợ của năm 2008 là
990.685 triệu đồng, nhưng với tỷ lệ này cho thấy chất lượng tín dụng đối với ngành
xây dựng là rất thấp và cần sự quan tâm nhiều hơn.
- Và trong việc phân loại nợ thành từng nhóm đòi hỏi phải có thông tin chính
xác về tài sản bảo đảm, khả năng trả nợ gốc, lãi của khách hàng theo mức thời gian
cụ thể; đồng thời phải có phần mềm công nghệ để quản lý nhưng hiện tại vẫn chưa
có chương trình phân loại nợ tự động nên việc đánh giá đúng bản chất khả năng suy
giảm và mức độ tổn thất của từng khoản nợ để phân vào các nhóm rủi ro tương ứng
chủ yếu phải dựa vào thao tác phân loại nợ thủ công của CBTD nên dễ dẫn đến tình
trạng phân loại nợ không chính xác từ đó gây khó khăn cho việc đánh giá chính xác
chất lượng tín dụng tại Chi nhánh.
- Hơn nữa, với tình trạng quá tải về công việc của các CBTD tại Chi nhánh
(số lượng CBTD ít trong khi phải quản lý số dư nợ khá cao) làm cho công tác kiểm
tra sử dụng vốn, quản lý khách hàng vay có đôi lúc còn thiếu chặt chẽ, vì thế dễ tạo
nguy cơ nợ xấu phát sinh ngoài tầm kiểm soát của CBTD.
4.6 Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng
Công Thương An Giang
Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng chịu sự tác động của nhiều nguyên
nhân, nhiều yếu tố khác nhau. Và cũng như các lĩnh vực kinh doanh khác, hoạt động
tín dụng của CN.NHCT.AG cũng chịu sự ảnh hưởng từ các nguyên nhân mang tính
khách quan như: tình hình kinh tế, chế độ pháp lý; cho đến một số nguyên nhân khác
đó là: các nguyên nhân thuộc về khách hàng, thuộc về năng lực quản trị bên trong và
một số nguyên nhân thuộc về con người. Cho nên, để nâng cao chất lượng tín dụng
thì vấn đề tiếp theo ở đây là làm sao nhận biết được các nguyên nhân đó. Sau đây là
những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng
Công Thương An Giang:
4.6.1 Những nguyên nhân khách quan về môi trường kinh doanh, môi
trường pháp lý
Môi trường kinh doanh không ổn định. Tình hình kinh tế bị khủng hoảng, lạm
phát tăng cao làm cho việc kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không trả được nợ cho Chi nhánh. Các cơ chế chính
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 37
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
sách thay đổi thường xuyên làm ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của các doanh
nghiệp, gây bất lợi cho hoạt động tín dụng của Chi nhánh.
Nhiều trường hợp do nguyên nhân bất khả kháng mà doanh nghiệp bị tổn thất
không trả được nợ và CN.NHCT.AG phải gánh chịu rủi ro như: do thiên tai, dịch
bệnh, những điều kiện bất thường của thiên nhiên làm ảnh hưởng không thuận lợi
cho người kinh doanh.
Môi trường pháp lý không ổn định, chậm sửa đổi những bất hợp lý. Đặc điểm
nổi bật đó là các văn bản pháp lý liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng ngân
hàng không đầy đủ, thiếu đồng bộ, còn nhiều vấn đề bất cập, chưa phù hợp với thông
lệ hoạt động ngân hàng trên thế giới cũng như cơ chế kinh tế thị trường mà Việt Nam
đang chuyển đổi.
Thực tế là hiệu lực pháp lý chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh
chấp, tố tụng và hợp đồng kinh tế…Thời gian và thủ tục phát mãi tài sản thường kéo
dài, chi phí ngoài cao. Dẫn đến kéo dài thời gian thu hồi nợ của Chi nhánh, gây ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng.
4.6.2 Các nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, nên có tác động rất
lớn đến hoạt động ngân hàng. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả có
thể cạnh tranh được với thị trường trong lộ trình gia nhập WTO của Việt Nam thì vẫn
còn tồn tại ở đa số các doanh nghiệp những bất cập sau:
- Năng lực tài chính của các doanh nghiệp còn yếu, nguồn vốn tự có thấp, hầu
hết vốn kinh doanh phải đi vay ngân hàng, bình quân đều chiếm hơn 50%.
- Năng lực quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp còn hạn chế; máy móc thiết
bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới; năng suất thấp, sản phẩm đơn điệu, hình
thức kém hấp dẫn, sản phẩm kém sức cạnh tranh trên thị trường.
- Mô hình tổ chức và cơ chế quản lý điều hành của các doanh nghiệp còn
cồng kềnh, hoạt động chưa đạt hiệu quả cao.
Những tồn tại trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được nêu
trên đây là nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp làm ăn chưa đạt hiệu quả, và
không trả được nợ cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, một số khách hàng khi tìm đến vay vốn không kê khai đúng tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh khiến Chi nhánh không nắm bắt được khả năng
thực sự của khách hàng vay vốn. Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân nữa là khách
hàng sử dụng vốn sai mục đích, sử dụng vốn vay không hiệu quả…gây nhiều rủi ro
tín dụng, tạo nguy cơ thất thoát vốn cao cho Chi nhánh. Mà rủi ro, thất thoát vốn
càng cao thì chất lượng tín dụng càng thấp, hoạt động của Chi nhánh sẽ kém hiệu
quả.
4.6.3 Những nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
- Nguyên nhân đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng là chính sách tín
dụng vẫn chưa được Chi nhánh quan tâm một cách đúng mức.
+ Chi nhánh cho vay tập trung quá nhiều vào một nhóm các ngành như: công
nghiệp và TM-DV, khi đó nếu có biến động bất thường xãy ra tác động đến ngành thì
Chi nhánh càng gánh chịu nhiều tổn thất do rủi ro không được phân tán.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 38
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
+ Các sản phẩm cho vay chủ yếu theo lối truyền thống, chưa có cơ cấu sản
phẩm đa dạng. Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ ngân hàng còn chiếm tỷ trọng
thấp, chiếm 0,9%/tổng thu nhập của Chi nhánh (tính đến cuối năm 2008) do chưa đa
dạng hóa hoạt động đầu tư. Trong khi đó, nguồn thu từ dịch vụ có rất ít rủi ro hoặc
không có rủi ro.
+ Tập trung, quá chú trọng vào tài sản bảo đảm. Trong thời gian qua, một số
cán bộ tín dụng đặt vai trò của bảo đảm tín dụng không đúng chỗ, coi bảo đảm là cơ
sở để quyết định cho vay, còn các yếu tố khác không chú trọng đúng mức. Đây chính
là nguyên nhân gây rủi ro cho hoạt động tín dụng làm giảm chất lượng tín dụng.
- Một nguyên nhân nữa gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng là liên quan
đến trình độ, năng lực, đạo đức của cán bộ tín dụng. Cụ thể của nguyên nhân này là:
+ Số lượng CBTD tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang đa số là
có trình độ đại học, chiếm khoảng 95% số CBTD. Nhưng phần lớn là các cán bộ trẻ
nên thiếu kinh nghiệm trong nghề nghiệp.
+ Mặt khác, có CBTD trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao đã vô tình hạ
thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng vay vốn để rồi cho vay các khách hàng hay các
dự án sản xuất kinh doanh có độ tín nhiệm thấp, kém hiệu quả. Từ đó, gây khó khăn
cho công tác thu hồi nợ, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tại Chi nhánh.
- Tiếp theo, đó là chất lượng thẩm định dự án đầu tư chưa cao. Dự án, phương
án đầu tư là căn cứ quan trọng để ngân hàng có thể xác định các yếu tố liên quan đến
khoản tín dụng như tổng vốn đầu tư, lãi suất và thời gian đầu tư. Nhưng hiện nay,
thẩm định hiệu quả của dự án đầu tư là vấn đề càng khó đối với cán bộ ngân hàng.
Do khả năng dự báo, đánh giá, phân tích còn nhiều yếu kém, thiếu sự nắm bắt tình
hình thị trường. Khi đó, nếu dự án đầu tư không hiệu quả, gây nhiều rủi ro, tổn thất
không nhỏ làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của toàn Chi
nhánh.
- Ngoài ra, công tác quản lý, kiểm tra sử dụng vốn của cán bộ tín dụng chưa
đảm bảo chất lượng. Do khách hàng tại CN.NHCT.AG phần đông là các doanh
nghiệp lớn của Nhà nước; các dự án đầu tư, các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành
phần kinh tế. Ngoài việc phân công CBTD phụ trách khách hàng vay vốn là DNNN,
thì còn phân công cán bộ trực tiếp phụ trách khách hàng vay vốn là các Công ty trách
nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Đối tượng vay này rất phức
tạp, phần lớn là kinh doanh thương mại, làm dịch vụ, tài sản thế chấp đa dạng, mức
vay lớn. Do đó, tính chất vất vả của cán bộ tín dụng ở đây là cường độ làm việc lớn.
Từ đó gây nên tình hình kiểm tra sử dụng vốn của cán bộ tín dụng tại Chi nhánh còn
mang tính sơ sài, thiếu tính nghiệp vụ và chưa đánh giá được khả năng thu hồi nợ từ
khoản vay đã được kiểm tra. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín
dụng.
- Bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ của Chi nhánh vẫn ở trong tình trạng
chưa hiệu quả, chậm phát hiện những tồn tại và sai phạm trong nội bộ đơn vị. Chất
lượng hoạt động chưa đáp ứng được yêu cầu nên có lúc kiểm soát vẫn không phát
hiện được sai phạm trong hợp đồng tín dụng.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 39
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
CHƯƠNG 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG AN GIANG
5.1 Về huy động vốn
Trong hoạt động của Ngân hàng giữa huy động vốn và sử dụng vốn có mối
quan hệ lẫn nhau. Công tác huy động tạo ra nguồn vốn là giải pháp hàng đầu để Chi
nhánh phát triển và đảm bảo kinh doanh. Vì vậy, cần có chính sách tạo vốn phù hợp
nhằm khai thác mọi tiềm năng về vốn, để có được nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng nhu
cầu vay vốn của khách hàng cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác của Ngân
hàng.
Để đẩy mạnh công tác huy động, Chi nhánh cần tập trung vào các công việc
sau:
- Phát động phong trào thi đua huy động tiền gửi tiết kiệm. Tổ chức xét
thưởng kịp thời cho những tập thể, cá nhân thực hiện kế hoạch huy động vốn vượt
chỉ tiêu đề ra. Khuyến khích cán bộ chủ động tìm kiếm những nguồn vốn lớn từ nơi
khác gửi về với thời hạn ổn định.
- Chi nhánh huy động nguồn vốn chủ yếu từ hai nguồn là: doanh nghiệp và cá
nhân. Tuy nhiên, hầu hết tâm lý của người dân thích giữ tiền trong nhà hơn là đem
tiền gửi vào ngân hàng mặc dù họ biết gửi tiền vào ngân hàng họ sẽ có tiền lãi, thế
nhưng họ lại có tâm lý không an toàn khi gửi tiền vào ngân hàng. Vì vậy, Chi nhánh
cần tạo ra sự hấp dẫn cho khách hàng gửi tiền bằng cách:
+ Thực hiện huy động vốn với các mức lãi suất phù hợp, linh hoạt và hấp
dẫn, kết hợp với việc đa dạng hóa thể thức gửi tiền nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của
khách hàng về mọi hình thức kỳ hạn.
+ Áp dụng nhiều chương trình khuyến mãi lớn như: có chính sách lãi suất
thưởng trên số tiền gửi tăng dần, hoặc rút thăm trúng thưởng xe. Tổ chức chương
trình rút thăm công khai nhằm tạo uy tính và cơ hội quản bá tên tuổi. Lãi suất hấp
dẫn và nhiều chương trình dự thưởng giúp Chi nhánh thu hút được khách hàng mới
và ổn định khách hàng cũ, tăng nhanh nguồn vốn huy động và nâng cao khả năng
cạnh tranh với các ngân hàng khác.
- Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng bá thương hiệu của CN.NHCT.AG đến
các doanh nghiệp để có thể thu hút được nguồn vốn lớn từ đối tượng này.
- Quan tâm hơn các hoạt động dịch vụ ngân hàng; đặc biệt là chú trọng phát
triển, tăng cường tiện ích trên thẻ ATM. Việc phát triển các dịch vụ này có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng cho Chi nhánh, bên cạnh từng bước nâng cao khả năng khai thác
các nguồn vốn nhàn rỗi và đáp ứng nhu cầu khách hàng, tạo điều kiện đa dạng hoá
sản phẩm, tạo cơ chế hoạt động linh hoạt mềm dẻo nhằm phục vụ tốt, có hiệu quả
cho hoạt động tín dụng góp phần nâng cao vị thế, thương hiệu VietinBank trên điạ
bàn.
- Bên cạnh đó, Chi nhánh phải luôn coi trọng tới việc nâng cao trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức. Đội ngũ nhân viên giao dịch phải năng
động, sáng tạo, thân thiện tạo cảm giác an toàn, thoải mái cho khách hàng.
Nếu thực hiện được các hoạt động trên thì không những công tác huy động
vốn tại Chi nhánh sẽ có điều kiện để phát triển tăng tốc mà các sản phẩm dịch vụ
khác cũng có điều kiện để phát triển theo, do thu hút được một lượng vốn khách hàng
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 40
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
mới sử dụng nhiều sản phẩm của ngân hàng và ổn định các khách hàng truyền thống.
Điều này rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh tại ngân hàng, đáp ứng được nhu
cầu về vốn cho nền kinh tế và nâng cao tính cạnh tranh với các ngân hàng khác trên
cùng điạ bàn tỉnh An Giang.
5.2 Về hoạt động tín dụng
Nhìn lại, trong thời gian 3 năm (từ năm 2006 đến năm 2008), qua thực tế đã
phân tích, đánh giá chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương An
Giang, nợ xấu vẫn phát sinh qua các năm. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tại
Chi nhánh vẫn chiếm tỷ lệ thấp (tính đến cuối năm 2008 là 0,28%). Đây là kết quả
của việc Chi nhánh đã thực hiện tốt công tác cho vay, thu hồi nợ; chính sách tín dụng
thay đổi phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế; đội ngũ cán bộ tín dụng đã
từng bước tự hoàn thiện, học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn và hiểu biết thực tế
xã hội,...
Nhưng thực trạng nợ xấu vẫn phát sinh và tồn tại ở bất cứ một ngân hàng nào.
Do đó, quan trọng là cần phải nhận biết được nguyên nhân phát sinh của nó, cũng
như tìm ra một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng như đã trình bày
ở phần trên; để từ đó đưa ra các giải pháp hạn chế đến mức thấp nhất nợ xấu phát
sinh, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, để hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
ngày càng an toàn và vững mạnh.
Trong bối cảnh nhu cầu về vốn phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội ngày
càng tăng, để nâng cao được chất lượng, đạt hiệu quả trong hoạt động tín dụng thì
cần phải có nhiều giải pháp được thực hiện đồng bộ. Sau đây, em xin đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động
của Chi nhánh.
5.2.1 Xây dựng chính sách tín dụng có hiệu quả
Chính sách tín dụng là một hệ thống các biện pháp liên quan đến mở rộng tín
dụng hoặc hạn chế để đạt mục tiêu đã được hoạch định của NHTM đó và hạn chế rủi
ro, bảo đảm an toàn trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng.
Vì vậy, việc xây dựng một chính sách tín dụng là nhằm thực hiện mục tiêu
kinh doanh của Chi nhánh, đồng thời hình thành cơ chế để bảo đảm nâng cao lợi
nhuận và hạn chế rủi ro. Một chính sách tín dụng cần phải có những quy định rõ ràng
và phải được truyền đạt đến tất cả các bộ phận liên quan tại Chi nhánh dưới hình
thức văn bản cụ thể. Chính sách tín dụng có thể bao gồm các yếu tố sau:
- Mục tiêu và chiến lược về hoạt động tín dụng ngân hàng, xác định mức cho
vay tối đa đối với các loại khách hàng, các ngành nghề kinh tế; đưa ra xem xét các
khoản cho vay, chọn lựa các khoản mục cho vay vào các lĩnh vực thích hợp nhất;
đồng thời xem xét các tài sản bảo đảm.
- Hướng dẫn chính sách và thủ tục liên quan đến việc tính lãi suất, phí và thời
hạn cho vay. Chính sách tín dụng phải xác định được nguyên tắc định lãi suất áp
dụng đối với từng loại khách hàng, phù hợp với quy mô của các món vay và phương
pháp tính lãi tương ứng,..
- Xác định rõ mức tăng của các khoản mục cho vay năm nay so với năm
trước, tỷ trọng cho vay so với tài sản Có của ngân hàng.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 41
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
- Nêu rõ các dấu hiệu mà một khoản vay có thể không được hoàn trả đúng
hạn và các biện pháp giải quyết cụ thể.
- Ngoài ra, chính sách tín dụng phải phân định rõ quyền hạn cho vay đối với
các cán bộ tín dụng. Chính sách cho vay phải xác định trách nhiệm của cán bộ tín
dụng về việc giải quyết một hồ sơ xin vay, mức phán quyết và trách nhiệm đối với
những hồ sơ vượt quá giới hạn phán quyết của mình.
- Một yếu tố nữa mà chính sách tín dụng nên có là xác định khu vực kinh
doanh của mình để tập trung cho vay, đầu tư có hiệu quả và an toàn.
5.2.2 Thực hiện tốt việc thu thập thông tin về khách hàng
Để đầu tư tín dụng có chất lượng, hiệu quả, giảm thiểu được rủi ro, đòi hỏi
cán bộ tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang phải thường xuyên
thu thập, phân tích, xử lý chính xác nhiều thông tin liên quan đến khách hàng như:
- Thông tin về tình hình tài chính khách hàng: Bao gồm các thông tin liên
quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: khả năng tài chính, kết quả kinh
doanh, nợ phải thu, nợ phải trả, nhu cầu vốn hợp lý, kết quả sản xuất kinh doanh, khả
năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp... Yêu cầu của thông tin là chính xác, đầy đủ, kịp
thời. Để đạt được yêu cầu đó, phải có rất nhiều kênh thông tin khác nhau. Trong thực
tế, rất khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin một cách chính xác, kịp thời. Đã có rất
nhiều khoản đầu tư bị rủi ro, thất thoát do thiếu thông tin. Do vậy, các CBTD cần
thường xuyên khai thác sử dụng một cách có hiệu quả nguồn thông tin từ Trung tâm
thông tin tín dụng (CIC) của NHNN để phục vụ công tác tín dụng đối với khách hàng
có quan hệ với ngân hàng, đặc biệt CBTD cần xem xét kỹ thông tin về các khách
hàng mới đặt quan hệ tín dụng.
- Thông tin thu thập từ bên ngoài:
+ Thông tin trực tiếp: Cán bộ tín dụng cần nắm bắt các thông tin về tư cách,
uy tín, năng lực quản lý, năng lực SXKD, quan hệ xã hội, gia đình, kinh tế của người
vay hoặc người được bảo lãnh,...bằng cách trực tiếp phỏng vấn khách hàng, trực tiếp
đến tại nơi sản xuất kinh doanh của khách hàng thu thập các thông tin.
+ Thông tin gián tiếp: Cán bộ tín dụng tại Chi nhánh phải thường xuyên theo
dõi, nắm bắt sự biến động của tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn hoạt động; nắm
bắt thông tin về xu hướng phát triển, khả năng cạnh tranh của ngành nghề; theo dõi
bám sát những thay đổi do khách quan ảnh hưởng đến khu vực kinh doanh.
Nếu cán bộ tín dụng của Chi nhánh thu thập một cách có hiệu quả hai thông
tin cơ bản nêu trên về khách hàng, chắc chắn chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao,
hoạt động tín dụng sẽ phát triển tốt, hạn chế được rủi ro và có hiệu quả.
5.2.3 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định
Đối với công tác cho vay tại CN.NHCT.AG, thẩm định là khâu quan trọng
nhất trong tất cả các bước. Công tác thẩm định giúp ngân hàng đưa ra các quyết định
đầu tư một cách chuẩn xác, từ đó nâng cao được chất lượng của các khoản vay, hạn
chế nợ quá hạn phát sinh, bảo đảm hiệu quả tín dụng vững chắc.
- Tùy thuộc vào điều kiện thực tế ở địa bàn, từng loại khách hàng và dự án,
phương án mà khi thẩm định các dự án, phương án cụ thể, cán bộ tín dụng cần vận
dụng tốt các kỹ thuật phân tích tín dụng trong quá trình thẩm định, trong đó có
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 42
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
nguyên tắc 6C; tránh thẩm định tuỳ tiện, sơ sài hoặc không chính xác. Từ đó, nâng
cao chất lượng và hiệu quả của công tác thẩm định, tái thẩm định.
- Thường xuyên cập nhật các thông tin về kinh tế - kỹ thuật, các thông tin dự
báo phát triển của các ngành, giá cả trên thị trường, tỷ suất lợi nhuận bình quân của
một ngành, của các loại sản phẩm,.... để phục vụ cho công tác thẩm định và ra quyết
định cho vay.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ và kinh nghiệm
thẩm định, cho vay cho cán bộ tín dụng.
Trong công tác thẩm định cán bộ tín dụng cần chú trọng hơn nữa công tác
thẩm định phi tài chính.
- Một dự án đầu tư sẽ không đạt thành công nếu như không có được kỹ năng
quản lý thành thạo của người chủ dự án trong việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát
và theo dõi mọi mặt của dự án. Do đó, các cán bộ tín dụng cần phải đánh giá một
cách thích đáng và đưa ra nhận xét về khả năng quản lý, uy tín, tư cách, tính trung
thực và ý thức trả nợ của bên vay, của người chủ dự án.
- Thực trạng hiện nay đa số cán bộ tín dụng chỉ chú trọng thực hiện thẩm định
kỹ và có những nhận xét thích đáng về các báo cáo tài chính, tài sản bảo đảm rồi
quyết định cho vay hay không cho vay. Điều này là cần thiết nhưng chưa đủ mà cần
phải quan tâm nhiều hơn nữa vấn đề đánh giá, thẩm định về uy tín, năng lực quản lý
của chủ dự án, thiện chí trả nợ của người vay.
5.2.4 Tăng cường công tác đánh giá và xếp hạng khách hàng
Cán bộ tín dụng cần bám sát, thường xuyên theo dõi để từ đó đánh giá, xếp
hạng các khách hàng mà mình quản lý cả về mặt tài chính lẫn phi tài chính. Khi cán
bộ tín dụng tiến hành đánh giá và xếp hạng khách hàng sẽ giúp họ quản lý các khoản
vay hiệu quả hơn, hạn chế rủi ro tín dụng do không nắm bắt được tình hình thực tế
của khách hàng. Khi đánh giá, xếp hạng về khách hàng sẽ mang lại cho Chi nhánh
những lợi ích sau:
- Phát hiện sớm các khoản vay có khả năng bị tổn thất, để đề xuất với ban
lãnh đạo, từ đó có biện pháp xử lý thích hợp đối với từng khách hàng.
- Cho phép các CBTD có nhận định chung về rủi ro các khoản cho vay
- Cán bộ tín dụng có thể xác định được khi nào cần tăng sự giám sát đối với
khách hàng.
Việc đánh giá, xếp hạng khách hàng phải được thực hiện với tất cả khách
hàng không phân biệt cũ và mới, không cho khách hàng biết đánh giá rủi ro về món
tiền cho vay trong mọi trường hợp để tránh tình trạng khách hàng làm sai lệch thông
tin. Phải thường xuyên thực hiện xếp hạng khách hàng để khi có sự thay đổi về khả
năng trả nợ của khách hàng, CBTD kịp thời tiến hành đánh giá lại.
5.2.5 Tăng cường công tác quản lý tín dụng, kiểm tra, kiểm soát
Mỗi cán bộ tín dụng cần thường xuyên tiến hành kiểm tra, kiểm soát các khâu
trước, trong và sau khi cho vay. Quản lý cho vay phải được thực hiện từ khâu bắt đầu
nhận hồ sơ xin vay đến khi thu hết nợ gốc và lãi. Trong đó, Chi nhánh cần tập trung
kiểm tra, kiểm soát các khâu:
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 43
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
- Kiểm tra chặt chẽ hồ sơ vay vốn, kiểm tra khả năng trả nợ của các đối tượng
vay vốn trước khi cho vay; bằng cách Chi nhánh cần chỉ đạo cán bộ phụ trách bám
sát địa bàn, rà soát, kiểm tra kỹ khả năng trả nợ của khách hàng.
- Kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay xem khách hàng sử dụng vốn có đúng
mục đích vay vốn không.
- Kiểm tra kết quả sản xuất kinh doanh, theo dõi thời gian tiêu thụ và thanh
toán tiền hàng để đôn đốc thu nợ và lãi kịp lúc theo định kỳ.
Để từ đó, ra quyết định thành lập các đoàn kiểm tra và tiến hành kiểm tra
quyết toán niên độ năm, kiểm tra hoạt động tín dụng, công tác thẩm định, vốn dự án,
phương thức sử dụng vốn vay và việc chấp hành thanh toán của những hộ vay vốn.
Đồng thời tăng cường kiểm tra và giải quyết đơn khiếu nại tố cáo của khách hàng.
Thực trạng đến năm 2008, với nợ xấu phát sinh là 1.500 triệu đồng, tỷ lệ nợ
xấu trên tổng dư nợ ở lĩnh vực ngành xây dựng rất cao là 42,9%, một tỷ lệ đáng báo
động mặc dù dư nợ của ngành trong tổng dư nợ của Chi nhánh là không cao, với
3.500 triệu đồng. Do đó, trong thời gian tới, Chi nhánh cần phải tăng cường quản lý,
kiểm soát trong cho vay các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị và khu công
nghiệp, đảm bảo tỷ lệ thích hợp dư nợ cho vay các dự án này. Đồng thời, phối hợp
với các bộ, ngành địa phương và khách hàng vay vốn để khẩn trương thu hồi nợ vay
đối với các đơn vị vay vốn để thi công công trình xây dựng cơ bản, nhằm xử lý dứt
điểm nợ xấu tồn đọng của ngành xây dựng vào cuối năm 2008.
Tóm lại, hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động có nhiều khả năng
xảy ra rủi ro. Do vậy, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của ngân hàng có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng, đảm bảo hoạt động tín dụng đạt chất lượng cao. Trên cơ sở nhận
thức tầm quan trọng của công tác kiểm tra kiểm soát và đánh giá chất lượng tín dụng
của Chi nhánh, thì công tác kiểm tra, kiểm soát là một trong những giải pháp quan
trọng để nâng cao chất lượng tín dụng.
5.2.6 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng
Cũng như các NHTM khác, tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương An Giang
bên cạnh nhiều yếu tố khác thì yếu tố con người là một yếu tố quan trọng quyết định
đến chất lượng tín dụng tại Chi nhánh.
Nền kinh tế Việt Nam thực sự đã hoà mình vào dòng chảy nền kinh tế thị
trường, vì vậy vấn đề nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp là hết sức quan trọng trong
việc mở rộng kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh mang tính cấp thiết, mà nhu
cầu vốn được đáp ứng kịp thời đó chính là vay tại các ngân hàng, đó cũng là lý do để
hoạt động ngân hàng trong những năm gần đây phát triển mạnh hơn.
Hệ thống các ngân hàng phát triển với số lượng ngày càng tăng, vấn đề cạnh
tranh giữa các ngân hàng không thua kém các doanh nghiệp sản xuất, để có thể đứng
vững và lớn mạnh đòi hỏi vốn kinh doanh phải lớn, đội ngũ nhân viên có năng lực,
sáng tạo trong công việc hơn hẳn các ngân hàng khác để thu hút khách hàng. Để thực
hiện điều này đòi hỏi CN.NHCT.AG cần chú trọng, quan tâm hơn nữa đến công tác
tổ chức cán bộ tín dụng. Vì vậy, Chi nhánh cần tập trung thực hiện các công việc sau:
- Đào tạo và đào tạo lại trình độ của cán bộ tín dụng để thực hiện tốt các
nghiệp vụ của ngân hàng.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 44
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
- Mở các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn, tập huấn kiến thức pháp luật
tại Chi nhánh.
- Ngoài chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng, cần bổ sung thêm kiến thức về các
lĩnh vực kinh doanh khác cho cán bộ tín dụng nhằm phục vụ công tác thẩm định
khách hàng trước khi quyết định cho vay vốn.
- Tạo cơ hội để các cán bộ phát huy hết khả năng tiềm ẩn của mình.
- Bên cạnh, cần nâng cao nhận thức về đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ,
để họ nhận thức nhiều hơn nữa về điều này và đây chính là biện pháp hữu hiệu nhất
để thu hút khách hàng.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 45
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
6.1 Kết luận
Qua phân tích đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân
hàng Công thương An Giang trong ba năm (từ năm 2006 đến năm 2008) thông qua
việc phân tích về tình hình huy động vốn; phân tích tình hình sử dụng vốn: phân tích
doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ, nợ xấu; ta thấy hoạt động tín dụng tại Chi nhánh
ngày một phát triển mạnh và chất lượng tín dụng ngày càng cao. Với phương châm:
gắn tăng trưởng tín dụng với nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh đã làm tăng
hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh, góp phần thúc đẩy tình hình
kinh tế An Giang ngày càng phát triển.
Bên cạnh nguồn vốn huy động được ngày càng tăng, với 693.362 triệu đồng
vào cuối năm 2008 (với tốc độ tăng là 40% so với năm 2007), Chi nhánh còn nhận
được sự tài trợ của nguồn vốn điều hoà từ Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tạo
thuận lợi cho Chi nhánh mạnh dạn mở rộng cho vay mà không bị sức ép do thiếu
vốn.
Và kết quả là trong 3 năm qua doanh số cho vay liên tục tăng cao từ
1.222.024 triệu đồng năm 2006 đến 1.849.629 triệu đồng năm 2007 và vượt lên
2.449.678 triệu đồng trong năm 2008 với tốc độ tăng là 51% giai đoạn năm 2006-
2007 và 32% trong giai đoạn năm 2007-2008. Mặc dù tốc độ tăng trưởng có chậm lại
nhưng không lớn, và sự tăng trưởng của doanh số cho vay trong 3 năm qua đã góp
phần nâng cao vị thế, thương hiệu VietinBank An Giang trong hệ thống tín dụng điạ
phương; và luôn phù hợp với mục tiêu mà Chi nhánh Ngân hàng Công thương An
Giang đặt ra đồng thời cũng phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế của
địa phương.
Công tác thu nợ của Chi nhánh cũng diễn ra nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả
nên đạt doanh số thu nợ cao. Và kết quả đạt được là năm 2007 doanh số thu nợ tăng
46%, tương ứng với số tiền tăng lên là 523.099 triệu đồng so với năm 2006; đến
năm 2008 doanh số tăng 38%, chính xác là tăng 631.325 triệu đồng so với năm
2007. Điều đó cho thấy khả năng thẩm định tín dụng, lựa chọn khách hàng của các
cán bộ tín dụng tại Chi nhánh là khá chính xác, an toàn, đảm bảo uy tín trả nợ ngân
hàng.
Để qui mô tín dụng ngày càng mở rộng, tăng trưởng dư nợ luôn là kế hoạch,
là mục tiêu phát triển của CN.NHCT.AG không những trong 3 năm qua mà còn là kế
hoạch lâu dài, xuyên suốt trong quá trình hoạt động của Chi nhánh. Năm 2006 dư nợ
đạt 662.531 triệu đồng, năm 2007 tăng lên 842.246 triệu đồng với tốc độ tăng 27%
so với năm 2006 và đến năm 2008 tăng lên 990.685 triệu đồng đạt mức gia tăng là
18% so với năm 2007. Với sự tăng trưởng của dư nợ cho vay qua các năm qua, Chi
nhánh đã tạo niềm tin đối với từng khách hàng, đã góp một phần cung ứng vốn vào
sự phát triển của nền kinh tế tỉnh nhà.
Nợ xấu tại Chi nhánh vẫn phát sinh và có sự biến động qua lại giữa các ngành
nghề kinh tế. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ thấp với tỷ lệ 0,28% (cuối năm
2008) nhưng không gây thiệt hại nhiều đến lợi nhuận của Chi nhánh và chất lượng
tín dụng vẫn luôn đảm bảo. Đây là kết quả của sự nổ lực của từng cán bộ nhân viên,
sự kiểm soát chặt chẻ của các cấp lãnh đạo tại Chi nhánh trong công tác quản lý,
kiểm tra, đôn đốc thu hồi nợ.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 46
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
Bên cạnh những thành công đã đạt được, CN.NHCT.AG khó tránh khỏi việc
gặp phải những khó khăn trong hoạt động. Và chất lượng tín dụng tại Chi nhánh vẫn
còn một số tồn tại và hạn chế do bị ảnh hưởng và tác động từ nhiều yếu tố, nhiều
nguyên nhân khác nhau. Nhưng, nhờ những chủ trương và biện pháp chỉ đạo điều
hành đúng đắn của lãnh đạo Chi nhánh bên cạnh sự đóng góp nhiệt tình của toàn thể
cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh, mỗi người đều nhận thức sâu sắc rằng đoàn
kết nội bộ là nhân tố quyết định thành công mọi việc nên đã thể hiện được tinh thần
trách nhiệm của mình và phấn đấu hoàn thành công việc được giao, từ đó giúp hạn
chế và khắc phục được những khó khăn, tồn tại mà Chi nhánh đã gặp phải.
Nhìn chung tình hình hoạt động tín dụng tại Chi nhánh trong 3 năm là hiệu
quả và có chất lượng cao. Chi nhánh đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế
chung của toàn tỉnh. Tài trợ vốn cho các đối tượng có nhu cầu về vốn và sử dụng vốn
đúng mục đích, đầu tư vốn cho những chương trình kinh tế trọng điểm, các ngành
mũi nhọn đầy tiềm năng của tỉnh. Bên cạnh tính năng hoạt động nhạy bén trong cạnh
tranh, biết hướng vào hệ khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp; Chi nhánh Ngân
hàng Công thương An Giang cũng ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng
của mình với phương châm: tăng trưởng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín
dụng; đã phát huy được tên tuổi, vị thế của Chi nhánh trong hệ thống tín dụng địa
phương, từng bước nâng cao sức cạnh trạnh của Chi nhánh với các NHTM khác trên
địa bàn tỉnh.
6.2 Kiến nghị
6.2.1 Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam
Hiện nay các ngân hàng thương mại quốc tế có xu hướng sáp nhập tạo thành
ngân hàng thương mại có qui mô vốn sở hữu rất lớn, hơn nữa qui mô vốn tự có giữ
vai trò quyết định đến qui mô cho vay, đầu tư vốn cho các doanh nghiệp, tốc độ phát
triển công nghệ, hiện đại hóa ngân hàng, do đó NHCT.VN cần có giải pháp kịp thời
về nâng cao nguồn vốn. Từ đó để có nguồn vốn đủ mạnh để hỗ trợ kịp thời nhu cầu
về vốn cho các chi nhánh trong các món vay lớn, trong đó có Chi nhánh Ngân hàng
Công thương An Giang.
Những năm vừa qua tuy công nghệ hiện đại, các dịch vụ đã và đang được ứng
dụng trong họat động kinh doanh của ngân hàng (máy rút tiền tự động ATM, thẻ tín
dụng quốc tế,...)nhưng thu nhập mang lại từ dịch vụ này chưa cao nguyên nhân có
thể từ nhiều phía nhưng chủ yếu vì đại bộ phận người dân chưa thật sự nắm được
cách sử dụng, công dụng, tiện ích cũng như những thông tin về nó. Do đó ngân hàng
cần đưa ra những cấp thông tin khác nhau phù hợp cho từng đối tượng .
Ngân hàng Công thương Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo
cán bộ tại trung tâm đào tạo của Ngân hàng để tiêu chuẩn hóa nguồn nhân lực, phát
triển nguồn nhân lực nhằm phục vụ kế họach phát triển dài hạn của toàn hệ thống
Ngân hàng Công thương.
6.2.2 Đối với Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cần phải đi sâu, đi sát với các Ngân hàng thương mại
nhằm phát hiện kịp thời những khó khăn vướng mắc để có những hướng giải quyết
và quyết định kịp thời.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 47
Đánh giá chất lượng tín dụng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Tú Trang 48
Các cấp chính quyền cố gắng hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho nhân dân tránh trường hợp tranh chấp xãy ra có liên quan đến quyền sử
dụng đất đã thế chấp.
Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, nên quá
trình sản xuất không tránh được rủi ro bất khả kháng. Đề nghị Nhà nước có văn bản
hướng dẫn xử lý rủi ro cụ thể, khi rủi ro phát sinh phải được xử lý kịp thời, giảm bớt
khó khăn cho người vay và Ngân hàng.
Cần tổ chức thiết lập hệ thống các tiêu chuẩn để đánh giá về hiệu quả kinh tế
của các ngành kinh tế, tạo cơ sở thuận lợi cho ngân hàng thẩm định, đánh giá khách
hàng một cách thích đáng.
Các ngành chức năng cần tạo điều kiện hỗ trợ ngân hàng thu hồi nợ, nếu có
xảy ra tranh chấp thì sử dụng luật dân sự, không nên hình sự hoá các quan hệ tín
dụng. Luật các tổ chức tín dụng là hành lang pháp lý cao nhất buộc các tổ chức tín
dụng phải tuân thủ, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tổ chức tín dụng
theo đúng pháp luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
# "
Nguyễn Đăng Dờn. 2005. Tiền tệ ngân hàng. Nhà xuất bản Thống Kê.
Nguyễn Minh Kiều. 2006. Tiền tệ ngân hàng. Nhà xuất bản Thống Kê.
Nguyễn Thị Mùi. 2005. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Nhà xuất bản Tài
chính.
Bùi Thanh Quang. Tài liệu giảng dạy Nghiệp vụ ngân hàng thương mại.
Lâm Hồng Bảo Chinh. 2008. Phân tích tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng Công
Thương An Giang. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Kế toán. Khoa Kinh tế -
Quản trị kinh doanh. Trường Đại học An Giang.
Website:
Website:
Ngân hàng Công thương An Giang: Hiệu quả từ hoạt động kinh doanh đa dạng
[trực tuyến]. Đọc từ:
- 21k –
Nguyễn Khắc Bình. 30.08.2008. Suy nghĩ về hai yếu tố nâng cao chất lượng tín
dụng [trực tuyến]. Đọc từ:
www.vdb.gov.vn/Trangchu.aspx?ID=DETAIL&INFOID=164 - 77k -
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh gia chat luong tin dung va mot so giai phap nang cao chat lung tin dung tai chi nhanh ngan .PDF