+ Trong khi nền kinh tế đang gặp khó khăn, đồng EURO liên tục mất giá thì các dấu hiệu của sự không thống nhất trong EU đã bắt đầu xuất hiện bằng việc: Bộ trưởng Tài chính Đức từ chức rồi đến hàng loạt thành viên trong Nghị viện châu Âu, trong khi đó ECB vẫn tuyên bố “không can thiệp vào thị trường tiền tệ nhằm làm ngăn chặn sự mất giá của đồng EURO”. Theo chủ tịch của ECB, ông Duisenberg, các tiến triển của đồng EURO từ trước đến nay chưa gây lên sự lo lắng nào. Trong khi đó,Thống đốc Ngân hàng trung ương Bồ Đào Nha, Antonie-de-Sause, thành viên của ECB cho biết, sự can thiệp của Ngân hàng trung ương không phải là giải pháp dài hạn đối với sự suy yếu của đồng tiền chung. Trong phiên họp ngày 26/5/1999, các Bộ trưởng tài chính EU đã nhất trí ra quyết định về thay đổi tỷ lệ thâm hụt ngân sách mục tiêu cho Italia, gây ra không ít tiêu cực trên thị trường. Các Bộ trưởng đã nhất trí cho phép Italia mở rộng thâm hụt ngân sách trong năm tài khoá 1999 lên 2,4% GDP so với mục tiêu 2%. Sự thay đổi này được đánh giá có thể tạo ra một tiền lệ về khả năng thay đổi ngân sách hàng loạt của các nước, hậu quả là EMU khó có thể thực thi được mức thâm hụt 1% vào năm 2001 như đã thông qua sau khi đồng EURO chính thức đi vào lưu thông.
+ Xét về mặt thị trường, có thể nói khu vực đồng EURO là khá thuần nhất. Song về lợi ích của các quốc gia thành viên thì không phải như vậy. Hiện tại trong EMU đang tồn tại những quan điểm trái ngược nhau: Phía ECB mong muốn có được một chính sách tiền tiền tệ thống nhất càng nhanh càng tốt, nhưng tại các quốc gia riêng lẻ, việc tham gia vào hệ thống tiền tệ chung còn phụ thuộc vào quyết định của dân chúng. Chẳng hạn ở Đức, theo kết quả thăm dò dư luận, có tới 77% dân cư đông Đức không muốn tham gia hoàn toàn vào EMS mà muốn duy trì đồng DM. Tương tự như vậy, 60% dân cư Tây Đức mong muốn duy trì đồng DM. Tại Anh, Bỉ, Đan Mạch, Thuỵ Điển, tỷ lệ dân chúng phản đối việc đất nước họ tham gia EMS là rất cao. Ví dụ, tại nước Anh có tới 69% dân cư được hỏi phản đối việc nước này tham gia đồng EURO. Những con số trên chứng tỏ người dân các nước thuộc EU chưa mặn mà lắm với đồng EURO vì họ lo ngại về sự sụt giá liên tục của đồng tiền này có thể đẩy đất nước họ đến tình trạng lạm phát và do vậy cuộc sống của họ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Như thế, khả năng có thể có hai khu vực kinh tế trong một EU ít nhất là cho tới tháng 1/2002 và tình hình này chắc chắn còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ của đồng EURO.
45 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đánh giá đồng EURO sau hơn 3 năm lưu hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khu vực này. Sự phát triển mạnh của các dòng vốn tư nhân có thể làm giảm nhẹ các vấn đề trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Đồng thời, các ngân hàng vẫn đóng góp vai trò quan trọng trong hệ thống ngân hàng tài chính châu Âu như trong việc quản lý bảo hiểm và tài sản. Các hệ thống ngân hàng hùng hậu có thể cải thiện được tình hình trì trệ trong các thị trường vốn như đã diễn ra trong những năm khủng hoảng tài chính.
Thứ tư: Đối với EMU, các thị trường tài chính đã trở nên liên kết hơn trong khu vực đồng EURO. Các thị trường này đã mở cửa hơn đối với các khách hàng vay và các nhà đầu tư nước ngoài. Quá trình hội nhập của các thị trường tài chính, cả ở khu vực đồng EURO lẫn trên qui mô toàn cầu đang làm tăng mạnh khả năng cho vay và tăng mạnh đầu tư, do đó giúp phân bổ nguồn vốn đầu tư vào những nơi có hiệu quả hơn. Thêm vào đó, việc huỷ bỏ các rào cản đối với quá trình liên kết của các thị trường tài chính cũng có thể góp phần làm mở rộng các khả năng công nghệ trong lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên, mặc dù đã đạt được nhiều thành tích trong quá trình hội nhập của các thị trường tài chính đồng EURO, song quá trình liên kết còn chưa kết thúc, đặc biệt là trong hoạt động của các ngân hàng bán lẻ.
Thứ năm: Với khả năng ổn định lạm phát ở khu vực thấp nên rủi ro lạm phát trong khu vực đồng EURO là không cao. Việc này làm cho các yếu tố khác như các yếu tố rủi ro tín dụng đóng vai trò quan trọng hơn trong cơ chế hình thành giá cả. Với việc xác lập cơ chế kiểm soát lạm phát, sự liên kết của các thị trường tài chính và sự phát triển của các thị trường vốn đối với những người vay tư nhân đã đem lại hiệu quả cho các thị trường tài chính. Việc này sẽ làm giảm những bất ngờ trong việc giảm danh mục đầu tư và giá cả.
1.2. Đối với một số mục tiêu cụ thể
a. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh về kinh tế giữa EU và Mỹ
Sự sụt giá của đồng EURO so với đồng USD cũng gây ra những bối rối cho những nhà chính trị ủng hộ sự ra đời của đồng EURO cũng như cho những người ngây thơ tin tưởng rằng đồng EURO có thể nhanh chóng thay thế được vị trí đồng tiền dự trữ của đồng Đôla. Tuy nhiên độ mạnh hay yếu của một đồng tiền không phải là tiêu chuẩn để xác định xem liên minh đó có phải là một thành công hay không. Sẽ là sai lầm nếu coi một đồng tiền mạnh là một dấu hiệu của một nền kinh tế lành mạnh. Tiêu chí để so sánh sự thành công của đồng của đồng EURO phải là nó có khuyến khích những cải cách không, và nó có tác động như thế nào đến triển vọng tăng trưởng trong tương lai.
So sánh 2 nền kinh tế Mỹ và EU ta thấy: nền kinh tế Mỹ có đặc trưng là đầu tư lớn vào công nghệ cao và tốc độ tăng trưởng nhanh. Cả hai yếu tố này đều không được nhận thấy ở châu Âu. Tuy nhiên, do phương pháp tính toán khác nhau, khoảng cách giữa Mỹ và EU không được đánh giá đúng. Nếu cách tính ở Mỹ và châu Âu là giống nhau thì tốc độ tăng trưởng của châu Âu có thể nâng cao gấp rưỡi.
Nếu tốc độ tăng trưởng của châu Âu được điều chỉnh thì điều gì sẽ xảy ra? Biểu đồ sau thể hiện các chỉ tiêu tăng trưởng trong thập kỷ 90.
Biểu đồ 2:
Năng suấtlao động cá nhân Toàn bộ các yếu tố sản xuất
Nguồn : OECD,
Bộ Lao động Mỹ
0 1 2 3 4
GDP/đầu người
Mỹ Khu vực châu Âu
GDP
GDP/1 lao động
Biểu đồ 2 : Các chỉ tiêu tăng trưởng Tốc độ tăng bình quân năm giai đoạn 1990 - 1999 (%)
- Nếu tính cả giai đoạn 10 năm, nó sẽ loại trừ được một số cách tính sai lệch do chu kỳ kinh tế. Các số liệu cho thấy dù tốc độ tăng trưởng của Mỹ cao hơn của các nước khu vực, khoảng cách về tốc độ tăng GDP trên đầu người nhỏ hơn khoảng cách về tốc độ tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, tốc độ năng suất lao động đầu người là gần tương đương nhau và tốc độ tăng trưởng toàn bộ các yếu tố (chỉ tiêu đo sử dụng hiệu quả vốn và lao động) ở châu Âu lại cao hơn ở Mỹ.
- Quả là nền kinh tế Mỹ đã bứt lên về tốc độ tăng trưởng so với châu Âu kể từ nửa sau thập kỷ 90. Tuy nhiên nếu tính cả thập kỷ thì tốc độ tăng năng suất của Mỹ không cao hơn châu Âu. Nếu xét cả cách tính toán của châu Âu làm tốc độ tăng trưởng thấp đi, thì có thể nói là xét trên cả giai đoạn 10 năm, châu Âu đã hoạt động hiệu quả hơn Mỹ.
b. Mục tiêu việc làm và lao động
Ông Alan Greenspan, Thống đốc Cục dự trữ liên bang Mỹ cho rằng sự cứng nhắc của thị trường lao động sẽ ngăn cản châu Âu hướng toàn bộ những lợi ích của việc đầu tư vào công nghệ cao. Luật lao động với những điều khoản chặt chẽ bảo vệ người lao động làm cho các doanh nghiệp không dễ dàng sa thải người lao động, làm giảm khoản tiết kiệm chi phí từ việc đầu tư vào công nghệ cao. Tất cả những điều đó đều đúng, nhưng mọi việc đã thay đổi nhanh hơn người ta tưởng rất nhiều. Đồng EURO đang tác động như một chất xúc tác cho các cải cách cơ cấu. Những thay đổi nhanh chóng về kỹ thuật, cùng với đồng tiền chung mới đang gây áp lực cho các chính phủ và các doanh nghiệp phải cải tổ lại để đạt hiệu quả cao hơn. Thực ra thì thị trường lao động châu Âu đang dần trở nên linh hoạt hơn một cách không ồn ào. Các chính phủ nới dần các quy chế về thuê lao động nửa ngày hoặc theo thời vụ, tự do hoá các quy chế bảo vệ việc làm và những quy định về đóng góp BHXH cho những người làm công, điều trước đây đã ngăn cản các doanh nghiệp thuê thêm công nhân. Hơn 5 triệu việc làm mới đã được tạo ra tại khu vực đồng EURO từ năm 1997 và tỷ lệ thất nghiệp giảm nhanh nhất so với các giai đoạn phục hồi khác trong 3 thập kỷ qua. Và có những cơ sở để tin rằng tỷ lệ thất nghiệp còn tiếp tục giảm, vì những nới lỏng quy chế trong khi thị trường lao
động sẽ được tiếp tục giữ vững trong thời kỳ lạm phát ổn định. Một thị trường lao
động có hiệu quả hơn sẽ làm tăng tỷ lệ tăng trưởng vì 2 lý do sau:
Thứ nhất: do có nhiều người thất nghiệp gia nhập lại vào thị trường lao động, nó sẽ làm cho kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong một thời gian ngắn hơn so với trước.
Thứ hai: nó cũng giúp tăng năng suất lao động, do việc khuyến khích chuyển những người lao động từ những doanh nghiệp suy thoái sang những doanh nghiệp đang phát triển.
c. Về mục tiêu thu chi ngân sách
Điều gây ngạc nhiên là sau nhiều năm mang tiếng là chi tiêu quá mức, khu vực đồng EURO lần đầu tiên có thặng dư ngân sách sau hơn nửa thế kỷ. Đã có 9 nước thành viên được dự kiến là có bội thu ngân sách. Điều này một phần là do tốc độ tăng trưởng đạt cao hơn, và khoản thu nhập “trời cho” của các chính phủ từ việc bán bản quyền về điện thoại di động thế hệ thứ ba, nhưng cũng một phần là kết quả của nhiều năm thắt lưng buộc bụng. Nếu các chính sách không thay đổi, thì ngay cả khi các khoản thu nhập “trời cho” bị giảm xuống trong các năm sau, khu vực đồng EURO sẽ vẫn còn bội thu ngân sách chút ít.
Các chính phủ đang tận dụng lợi thế này để thực hiện một số cải cách dài hạn về thuế. Một lần nữa, đồng tiền chung lại góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh về thuế. Do đầu tư có thể di chuyển dễ dàng giữa các nước thành viên, các công ty có xu hướng chuyển sang các nước có thuế suất thấp, do đó các chính phủ bị áp lực phải giảm thuế.
Cải cách thuế ở Đức là tầm cỡ nhất, và nó đã gây sức ép cải cách cho các nước khác như Pháp và Italia. Tuy nhiên kế hoạch cải cách thuế ở Pháp không được triệt để như ở Đức. Việc cắt giảm thuế này sẽ thúc đẩy sáng kiến làm cho đầu tư ở các doanh nghiệp trở nên hấp dẫn hơn và mức động viên về thuế của khu vực đồng EURO (43%) vẫn còn ở mức cao so với Mỹ (31%). Nếu như tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 3%, và tỷ lệ thất nghiệp giảm thấp nữa, các chính phủ có thể giảm số thu về thuế 0,7% GDP mỗi năm mà vẫn đảm bảo được cân bằng ngân sách. Nếu như được như vậy thì gánh nặng thuế ở khu vực ở châu Âu sẽ giảm được
xuống ở mức của những năm giữa thập kỷ 70. Đây chỉ là hy vọng vì cho đến khi nó
thành hiện thực, còn rất nhiều điều xảy ra.
Tóm lại, bên cạnh những cải cách mới được thực hiện, thì châu Âu vẫn còn những vấn đề chưa làm được. Tuy nhiên điều đó là dễ hiểu bởi hơn 3 năm, đó chưa phải là khoảng thời gian dài để châu Âu có thể đạt được tất cả các mục tiêu đặt ra và đồng EURO mới chỉ bắt đầu "vòng đời" của nó. Do đó cần phải có thời gian để châu Âu dần tự hoàn thiện và đi đến mục tiêu mình.
2. Đánh giá quá trình lưu hành đồng EURO
2.1. Sự biến động của tỷ giá EURO/USD
a. Đồng EURO yếu - Lợi hay hại?
Việc đồng EURO liên tục sụt giá và đi kèm với tốc độ tăng trưởng thấp có thể dẫn tới hai kết luận: Thứ nhất, EMU là một thất bại. Thứ hai, tình thế ở châu Âu là không thể thay đổi được, châu Âu chỉ có cách chấp nhận là luôn đi sau nước Mỹ, và việc đầu tư vào đồng USD là có hiệu quả hơn đầu tư vào đồng EURO. Tuy nhiên, trái với mọi điều mọi người nghĩ, đồng tiền chung châu Âu không phải là một thất bại, mà nó đang là động lực thúc đẩy kinh tế châu Âu phát triển.
Trong thời gian lưu hành đồng EURO đã có lúc giảm 30% so với mục tiêu ban đầu đặt ra, nhưng đây không phải là mức thấp nhất trong lịch sử. Nhìn lại giỏ tiền của các đồng tiền các nước trong liên minh tiền tệ, có thể thấy năm 1985, giá trị của giỏ tiền này là 69 cent. Hoặc hãy nhìn vào đồng Mark Đức: đồng tiền này đã lên giá 50% so với đồng Đô la kể từ thời điểm nó ở mức thấp nhất năm 1985 (xem biểu đồ 3 trang bên).
Do vậy đứng trên quan điểm lịch sử đồng EURO không phải là quá yếu. Hơn nữa đây chỉ là những xu hướng nhất thời chứ không mang tính chất hệ thống. Sự sụt giá của đồng EURO trong thời gian qua, trên thực tế không quá nghiêm trọng như người ta đã nghĩ, trái lại nó đã tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế EU. Cụ thể là:
+ Xét trong ngắn hạn: “Đồng EURO yếu nhưng nền kinh tế EU không yếu, mà trái lại chính điều này đã tạo động lực tăng trưởng kinh tế EU”.
Đánh giá trên đã được nhiều nhà phân tích kinh tế đưa ra và thực tế cũng
Biểu đồ 3:
Biểu đồ 3: Tỷ giá so với đôla Mỹ
Thang giá trị ngược DM/USD USD/Euro
0,5 1,50
1,0 1,25
1,5 1,00
2,0 0,75
2,5 0,50
3,0 0,25
3,5
Nguồn : Primark Datastream
Euro
DM
1985 90 95 2000
chứng minh điều đó là hoàn toàn đúng.
Nhờ đồng EURO mất giá nên nên xuất khẩu của châu Âu đã tạo được thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Xuất khẩu của Italia, một trong 3 nền kinh tế lớn nhất EMU, đã hoạt động rất tốt nhờ sự tăng khối lượng xuất khẩu. Xuất khẩu trong 4 tháng đầu năm 2000 đã tăng 15,3% so với cùng kỳ năm 1997. Trong khi đó kinh tế Đức, nền kinh tế lớn nhất trong khu vực sử dụng đồng EURO, cũng vận hành tốt. GDP của Đức năm 2000 dự đoán sẽ đạt 3%. Nước Pháp được dự báo với mức tăng cao nhất đạt 3,7%. GDP của toàn khu vực EURO-11 được dự báo sẽ đạt 3,4% trong năm 2000, cao hơn so với mức 2,3% trong năm 1999 và trong năm 2001 có thể đạt mức 2,9%.
Tỷ lệ thất nghiệp ở 11 nước sử dụng đồng EURO nhìn chung đều giảm. Tỷ lệ thất nghiệp ở Đức trong tháng 11/2000 là 9,3%, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước. ở Pháp, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 10 là 9,4%, giảm đáng kể so với tháng 10/1999. Tỷ lệ thất nghiệp của toàn bộ khu vực đồng EURO trong tháng 10/2000 là 8,9%, giảm so với mức 9,7% trong tháng 10/1999. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp trên vẫn còn được cho là cao. Theo Eurostat, trong tháng 6/2000, toàn châu Âu có 14,4 triệu người thất nghiệp, riêng ở khu vực đồng EURO có 11,8 triệu. Cho dù còn đứng ở mức cao nhưng tỷ lệ thất nghiệp giảm đã cho thấy rằng đồng EURO yếu đã không gây ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề tạo công ăn việc làm ở châu Âu mà trái lại nó còn có những tác động tích cực. Sự mất giá đã thúc đẩy nền xuất khẩu của Pháp và kích thích tiêu thụ trong nước từ đó tạo được nhiều công ăn việc làm.
Như vậy đồng EURO mất giá so với đồng USD đã tạo điều kiện cho các công ty châu Âu có lợi thế cạnh tranh hơn, thúc đẩy xuất khẩu, sản xuất phát triển, do vậy đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2000 (3,4%).
+ Xét trong dài hạn: Tình thế trên chỉ là trước mắt, về lâu dài nếu ECB không đưa ra các chính sách tiền tệ thích hợp để thay đổi tình trạng này thì sức sản xuất của các doanh nghiệp châu Âu sẽ giảm và các chính phủ sẽ phải đình lại các quá trình cải tổ cơ cấu trong mỗi nước EU.
Sự thật đúng như vậy. Đồng EURO yếu cùng với giá dầu tăng cao đã gây lo ngại cho khu vực EURO-11 về vấn đề lạm phát. Theo Eurostat ngày 21/8/2000, cho biết tỷ lệ lạm phát trong tháng 7 là 2,4% ngang với mức cao hồi tháng 6 nhưng cao hơn nhiều so với một năm trươc đó. Trong khi đó tỷ lệ lạm phát ở 15 nước EU là 2,2% trong tháng 7 so với tháng 6 là 2,1%. Các nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất là Ailen 5,9% và Luc-xăm-bua là 5,7%. Nước có tỷ lệ lạm phát thấp nhất là Anh 1,1%. Theo Dow Jones, giá dầu tăng cao đã làm lạm phát ở khu vực EURO-11 trong tháng 9/2000 lên tới 2,8% cao hơn 0,5% so với tháng 8. Điều này đã dẫn đến việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt của ECB thông qua các lần cắt giảm lãi suất.
Mặt khác sự giảm giá của đồng EURO cũng đã làm các công ty Mỹ tại châu Âu chịu thiệt hại đáng kể. Điều này gián tiếp tác động đến kinh tế EU thông qua con đường đầu tư. Mà ta biết rằng đầu tư là một lĩnh vực quan trọng giúp EU tăng trưởng kinh tế. Đồng EURO yếu làm cho các công ty Mỹ thiệt hại do hàng quý các công ty này phải tính gộp các khoản thu nhập cỉa mình và sau đó chuyển sang đồng Đôla. Do vậy, nếu 1 công ty thu được 12 triệu USD, nhưng giá trị của đồng EURO giảm từ 1 USD = 1 EURO xuống còn 90 cent = 1 EURO thì khoản tiền trên sẽ chỉ còn trị giá 900.000 USD chứ không phải là 1 triệu USD. Trong trường hợp này các công ty có thể thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro song đây luôn là một việc mạo hiểm và chi phí cho biện pháp phòng ngừa là không rẻ. Một biện pháp phòng ngừa có thể được đưa ra ở đây là các công ty nên gắn thu nhập và chi phí vào cùng một loại tiền tệ bằng việc sản xuất và mua nguyên liệu tại bản địa.
Bảng 8: Thiệt hại của một số công ty Mỹ
do đồng EURO mất giá
Công ty
Thu nhập* (triệu USD)
Giảm và đồng EURO** (%)
Good year
368
30
Caterpillar
298
12
Mcdonald’s
910
5
Kimberly-clark
667
2,5
Nguồn: Business Week 4/12/2000
* Quý 3 năm 2000
** Ước tính của các nhà phân tích
Bên cạnh các công ty Mỹ, những người dân châu Âu có thu nhập bằng đồng EURO cũng chịu thiệt hại khi họ đi du lịch hay làm việc bên ngoài châu Âu tại các nước sử dụng hoặc gắn bản tệ với đồng Đôla Mỹ. Đối với những người này giá cả tại nước ngoài trở nên quá đắt đỏ. Ngay tại Anh, một nước EU nhưng đồng Bảng Anh lại gắn chặt với đồng Đôla Mỹ hơn là với đồng EURO, giá cả cũng trở nên khó chấp nhận. Marry Fllain, một nhà văn ở Paris, người cũng có một căn hộ ở London, nói: “Giá cả ở Anh thật khủng khiếp”. Bất cứ khi nào bà sang Anh bà đều mang theo các thứ cần thiết và hàng tạp phẩm, điều mà bà chưa bao giờ làm. Bà nói: “Bà và chồng bà giờ đây phải cẩn thận khi ăn tiệm ở London”. Trong khi đó những người cầm trong tay đồng USD lại đang thích thú. Karent Fawcett, một người Mỹ ở Paris, nói: “Tôi nghĩ mình đang ở thiên đường vậy”. Tuy nhiên sự hưởng lợi của những người này không phải tuyệt đối bởi các loại thuế giá trị gia tăng đánh vào hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ ở châu Âu thường làm mất nhiều những lợi ích mà đồng EURO yếu mang lại. Trên thực tế trong nhiều trường hợp thuế đã làm san bằng giá cả ở hai bờ Đại tây dương.
Mặc dù đồng EURO mất giá liên tục từ khi nó ra đời, nhưng nó đã không có tác động quá tiêu cực đến nền kinh tế châu Âu như nhiều người nghĩ, thậm chí còn cho rằng đó là biểu hiện của sự thất bại của Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu.
Với những chỉ số tăng trưởng kinh tế như đã trình bầy ở các phần trên thì
chúng ta có thể hy vọng vào một triển vọng tốt đẹp của đồng EURO trong tương lai tới.
b. Song rõ ràng là không ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của một đồng tiền chung ở khắp mọi nơi trên thế giới và trên thực tế, các nước thuộc EMU đã viết nên được một bộ sách về việc làm thế nào để hoàn thành được sự ổn định và hội tụ kinh tế. Bất kể những thăng trầm của thị trường hối đoái, bộ sách đó đang trở thành trung tâm ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách kinh tế quốc tế:
+ Thứ nhất: đó chính là những kinh nghiệm mà các nước và khu vực khác trên thế giới có thể học hỏi được từ EMU:
Lý do chủ yếu khiến các khu vực trên thế giới đang tiến tới học hỏi kinh nghiệm của châu Âu đó là lợi ích mà từng nước có thể đạt được nếu chịu sự điều chỉnh của một nguyên tắc tiền tệ. Tấm gương của châu Âu cho thấy, từ liên minh kinh tế và tiền tệ trong khu vực có thể dẫn tới sự hợp tác trong các lĩnh vực khác. Một ví dụ điển hình là các nước thành viên của một liên minh kinh tế và tiền tệ không thể tiến hành việc bảo hộ đối với thị trường nội địa hay đối đầu trong thương mại. Khi sự ổn định tỷ giá hối đoái được bảo đảm, việc thành lập các thị trường tài chính hay một đồng tiền chung là một việc làm cần thiết. Tiêu biểu nhất là đồng EURO đã bắt đầu có ảnh hưởng tại châu Mỹ La Tinh. Các nước thành viên Mercrosur - bao gồm Braxin, Achentina, Paragoay, Urugoay, Bolivia và Chile bắt đầu nói tới một liên minh tiền tệ. Đây không đơn thuần là vấn đề đô la hoá mà là sự hợp sức để tạo ra một đồng tiền chung. Quan hệ giữa Bra-xin và ác-hen-ti-na vốn đã căng thẳng, song kinh nghiệm từ châu Âu cho thấy những trở ngại đó có thể vượt qua. Đức và Pháp đang sử dụng chung một đồng tiền sau 55 năm kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Những tín hiệu từ châu á với ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), cùng góp nguồn lực tài chính để hạn chế sự biến động của tỷ giá hối đoái. Điều này dường như không giống sự ra đời của đồng EURO nhưng nó cho thấy một hướng đi tựa như một số hiệp định bắt đầu đưa châu Âu vào con đường liên minh kinh tế và tiền tệ hồi đầu những năm 70. Đó là những ngày của “con rắn” tỷ giá hối đoái và sau đó là hệ thống tiền tệ châu Âu. Các biện pháp đó nhằm làm giảm sự dễ biến động của các tỷ giá hối đoái châu Âu. Các nước châu á đã bắt đầu đề cập về các biện pháp tỷ giá cố định, đúng như những cuộc đối thoại đã dẫn các nước châu Âu đến một đồng tiền chung. Như vậy tại sao không thể nghĩ đến một đồng tiền chung châu á hay một đồng tiền chung của Liên minh châu Phi (AU) vừa mới ra đời?
+ Thứ hai: Kinh nghiệm hoà hợp châu Âu đã làm thay đổi cách suy nghĩ của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ trên toàn thế giới.
Trước khi có đồng EURO, vấn đề hợp tác tiền tệ chỉ có nghĩa là tuân theo những mệnh lệnh lặng lẽ của Cục dự trữ liên bang Mỹ, vì đồng Đôla Mỹ là đồng tiền trao đổi chính trên thị trường thế giới. Song đồng EURO đã chứng minh là có sự thay đổi, đó là việc tạo ra những điều kiện kinh tế và tài chính cho một đồng tiền ổn định giữa một nhóm nước. Giá trị đích thực của một mô hình kiểu đó lại không nằm trong đồng tiền thống nhất đó mà là sự hội tụ kinh tế và tài chính phát sinh từ quá trình đó. Chúng ta hãy nhớ lại hiệp ước Maastricht, mặc dù lúc đó có nhiều ý kiến trái ngược, có những đòi hỏi phải ổn định kinh tế vĩ mô, nhưng những nước tham gia EMU đã chấp nhận năm 1992 và điều này đã chứng tỏ khả năng thành công của một đồng tiền chung duy nhất.
+ Thứ ba: Hiện nay, mặc dù Liên minh tiền tệ có cái gì đó không quen đối với các nước đang phát triển ở châu Mỹ Latinh và châu á, trong đó có cả tính ổn định và những gượng ép trong các chính sách tài chính của chính phủ, nhưng việc hội tụ kinh tế có thể là một đóng góp thực sự vào việc giải quyết những vấn đề nổi cộm nhất. Việc thiết lập theo hiệp ước Maastricht về thâm hụt ngân sách, về nợ và mức lạm phat sẽ tạo ra sự khó chịu đối với các nước có thị trường mới nổi lên. Đầu tiên, những nước này phải chịu một nguồn vốn lớn được đưa vào, sau đó nguồn vốn bị đột ngột rút đi và cuối cùng là chịu sự khắc nghiệt của các hành động cứu trợ của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là nếu tất cả các nước trong một khu vực đều tuân theo trât tự cần thiết cho việc thống nhất tiền tệ theo kiểu các hiệp ước Maastricht thì đơn giản là sẽ có ít lý do hơn để cho lượng tiền nóng bị tuôn ra khỏi nước này hay nước kia trong số các nước đó. Và để chống lại sự suy sụp đó, các khu vực có đồng tiền thống nhất là những mục tiêu rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Những khu vực đó đặt ra cho các nhà đầu tư khả năng về những thị trường tài chính rộng rãi và thông thoáng hơn, khó bị mất ổn định hơn. Do đó mà thân phận của đồng EURO sẽ không thể bị phán xét bởi các thị trường hối đoái hiện nay. Thay vào đó đồng EURO sẽ được đánh giá bằng thực tế. Châu Âu đã chứng minh cho phần còn lại của thế giới thấy, bằng cách nào để thực hiện việc cải thiện có ý nghĩa về chính sách kinh tế tổng thể trên khắp một khu vực địa lý rộng lớn. Hiệp ước Maastricht bị chỉ trích và cho rằng sẽ không chịu đựng nổi những sức ép chính trị của châu Âu, đánh giá thấp liều thuốc bổ đối với các nền kinh tế trong khu vực đồng EURO. Bằng cách chứng minh có thể tiến hành hợp tác khu vực ở mức độ cao hơn, EMU đã trở thành một khuôn mẫu cho nhiều nước đang phát triển hướng tới. Chúng ta cũng đừng để bị lung lạc bởi những tin tức và sự mất giá tạm thời của đồng EURO so với đồng USD. Các thị trường đều có lúc lên lúc xuống, song việc ra đời của đồng EURO đã mở ra một hướng suy nghĩ mới về chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái trên toàn thế giới. Có thể trong vòng 20 năm nữa, hầu hết các nước sẽ tham gia vào các liên minh tiền tệ tương tự như khu vực đồng EURO, khi hầu hết các nhà hoạch định đều có thể thừa nhận vấn đề là nếu cứ mỗi nước trong tổng số 200 nước trên toàn thế giới đều có ngân hàng trung ương và đồng tiền riêng thì thật là ngớ ngẩn. Và như vậy thì đúng là việc thống nhất tiền tệ châu Âu đã tiên phong mở đường cho quá trình này.
c. Mặc dù trong thời gian gần 4 năm qua đồng EURO đa số được đánh giá thấp hơn đồng USD nhưng từ khi đồng tiền “thực” chính thức được đưa vào lưu thông, đồng EURO đang dần mạnh lên, cụ thể là hiện nay đồng USD đang bị mất giá so với đồng EURO. Điều đó là do một số nguyên nhân sau đây:
+ Thứ nhất: Trong mấy năm qua sở dĩ EU yếu hơn trong cuộc cạnh tranh với
Mỹ, chủ yếu là vì việc phát triển “kinh tế mới” của EU lạc hậu hơn so với Mỹ. Biểu hiện cụ thể là ở các ngành công nghệ cao như kỹ thuật vi điện tử, kỹ thuật tin học, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học của EU đều kém Mỹ, nhất là thiếu đội ngũ chuyên gia công nghệ cao và đầu tư cho công nghệ cao chưa đúng mức. Nhưng gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế ngày càng gay gắt, EU đã tăng cường việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cải tạo kỹ thuật đối với các ngành sản xuất. Tại hội nghị cao cấp Lisbon tháng 3/2000, các nhà lãnh đạo châu Âu đã phát động kế hoạch cải cách và phát triển kinh tế xã hội 10 năm, được gọi là “tiến trình Lisbon” với mục đích làm cho kinh tế EU trở thành một nền kinh tế năng động và có tính cạnh tranh cao nhất thế giới vào năm 2010. Nội dung chính trong các hội nghị thượng đỉnh EU tiếp theo tại Barcelona, Seville cũng đều xoay quanh các vấn đề như mở cửa thị trường tự do về năng lượng, giao thông vận tải và tài chính; từ nay đến năm 2010, tăng chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) lên 3% GDP, đưa EU trở thành một khu vực có năng lực cạnh tranh nhất thế giới, đuổi kịp và vượt Mỹ. Mặc dù việc thực hiện mục tiêu đó còn cần đợi thời gian trả lời, nhưng dù sao nó cũng đã mang lại cho người ta niềm hy vọng về sự phát triển của EU và tương lai của đồng EURO.
+ Thứ hai: Từ năm 2000, kinh tế Mỹ (đối thủ cạnh tranh chủ yếu của EU) đã xuất hiện những dấu hiệu cần phải điều chỉnh. Từ sau cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động cùng với sự suy thoái chung của nền kinh tế thế giới, chỉ số tiêu dùng, chỉ số lòng tin đã bị giảm xuống đến mức thấp kỷ lục. Trong khi đó, các nước thuộc EU đều lần lượt đạt tiêu chuẩn quy định thành viên, nhu cầu nội khối tăng, môi trường hợp tác giữa các nước thành viên được cải thiện đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã phục hồi và bắt đầu đi vào quỹ đạo tăng trưởng. Đây là những nhân tố quan trọng khiến người ta có cách nhìn lạc quan hơn đối với đồng EURO trong tương lai. Ngoài ra, mức độ tăng trưởng kinh tế gần giống nhau giữa các nước thành viên cũng có lợi ích cho việc thực hiện chính sách tiền tệ thống nhất tiền tệ. Sau khi đồng EURO ra đời, kinh tế các nước thành viên vẫn có những điểm khác nhau về cơ cấu, mức thu nhập, tỷ lệ thất nghiệp, năng lực chống đỡ khi suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính. Nhưng trong quá trình tăng cường sự điều tiết và hợp tác nội khối, tình hình của các nước thành viên đều có biểu hiện tốt. Điều đó có tác dụng quan trọng đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ thống nhất, ổn định vị thế của đồng EURO.
+ Thứ ba: Trong lúc thị trường cổ phiếu của Mỹ gặp khó khăn, một số nhà đầu tư có xu hướng rút khỏi thị trường Mỹ để chuyển sang đầu tư ở thị trường châu Âu. Mặt khác do trong các gia đình ở châu Âu người ta chỉ sử dụng 5% số tiền của mình để mua cổ phiếu, tỷ lệ này ở Mỹ là 25% nên nếu kinh tế thế giới bị suy thoái thì ảnh hưởng của nó đối với châu Âu sẽ ít hơn đối với Mỹ. Điều đó sẽ cũng có lợi cho vị thế đồng EURO trong dài hạn. Trong lúc đó tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ đang giảm sút, cục diện tăng trưởng kinh tế EU đã bắt đầu xuất hiện. Điều này sẽ có lợi cho sự đi lên và duy trì sự ổn định của đồng EURO. Tuy nhiên, do thực lực kinh tế của Mỹ vẫn rất lớn nên trong một thời gian tương đối dài, vị trí bá chủ của đồng Đôla vẫn tồn tại và trong tiến trình thống nhất châu Âu vẫn còn có một số yếu tố phản đối.
+ Thứ tư: ECB là một động lực cho thế đi lên của đồng EURO, do vậy sự mạnh lên của đồng EURO sẽ chỉ ở mức của một tổ chức siêu quốc gia do các nước thành viên lập nên. nó khác với Ngân hàng trung ương Mỹ ở chỗ, Ngân hàng trung ương Mỹ có thể thực hiện chính sách tiền tệ độc lập ở một nước có chủ quyền, còn ECB phải dựa vào thực lực kinh tế của mình để duy trì sự ổn định của đồng EURO. Đó là một việc khó khăn, nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Nhưng nhờ sự tăng trưởng kinh tế của châu Âu và quá trình tích luỹ kinh nghiệm của ECB, nên chính sách tiền tệ của EU đã dần thuần thục, đồng thời có sự phối hợp về chính sách của các lĩnh vực khác nên năng lực điều hành vĩ mô của ECB cũng được tăng cường, tạo điều kiện về mặt chính sách cho sự vận hành của đồng EURO sau khi đưa vào lưu thông đồng EURO trên thị trường.
+ Thứ năm: Một nguyên nhân khác nữa khiến đồng EURO vận hành tốt là sự phối hợp chặt chẽ và hữu hiệu giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính thống nhất của EU. Theo quy định của EU, thâm hụt ngân sách của các quốc gia thành viên không được vượt qúa 3% GDP và dần dần tiến tới cân bằng thu chi. Hiện nay, chênh lệch giữa các nước thành viên về mặt này đang ngày càng thu hẹp. Chính sách thuế của các nước thành viên cũng đang tiến tới thống nhất, nếu nó thật sự nhận được sự hậu thuẫn của chính sách tài chính thống nhất thì đồng EURO sẽ có được sự bảo đảm về mặt chính sách.
+ Thứ sáu: Nguyên nhân tiếp nữa là nhu cầu thị trường châu Âu đối với đồng EURO ngày càng tăng. Trước đây, các hoạt động kinh tế đối ngoại của khu vực đồng EURO vẫn sử dụng các đồng tiền quốc gia nên nhu cầu thực tế về đồng EURO trên thị trường thương mại, thị trường vốn rất ít. Theo một điều tra của Uỷ ban châu Âu vào cuối năm 1999, chỉ có khoảng 0,8% dân cư khu vực đồng EURO sử dụng đồng tiền này để thanh toán, 0,4% dân cư mở tài khoản tại ngân hàng; các xí nghiệp, nhà kinh doanh, nhà đầu tư trong và ngoài khu vực đồng EURO càng ít sử dụng đồng này. Hiện nay, khi các đồng tiền quốc gia của EU rút khỏi thị trường, đồng EURO đã trở thành đồng tiền chung duy nhất của 12 nước thành viên. Nhu cầu của thị trường châu Âu đối với đồng EURO do vậy mà sẽ tăng nhanh, đó là điều dễ hiểu.
+ Thứ bẩy: Ngoài ra vì lợi ích căn bản của nước Anh và thị trường tài chính Luân đôn, chính phủ Anh đã tuyên bố sẽ gia nhập đồng EURO vào thời gian thích hợp. Như vậy, tỷ trọng của đồng EURO trong dự trữ thế giới sẽ càng tăng thêm bởi vì đồng Bảng Anh có vị trí quan trọng trong hệ thống tiền tệ quốc tế và còn vì sau khi Anh tham gia EU một cách toàn diện, thực lực kinh tế của khu vực đồng EURO sẽ được tăng cường, lòng tin của nhiều nước đối với đồng EURO càng được nâng cao và sẽ sử dụng đồng EURO làm công cụ can thiệp thị trường ngoại tệ. Khi địa vị quốc tế của đồng EURO được nâng cao thì giá trị của nó tất sẽ mạnh lên.
+ Thứ tám: Hơn nữa, đồng EURO sẽ mạnh lên còn do EU rất quan tâm đến qua hệ kinh tế quốc tế. Hiện nay, kim ngạch xuất nhập khẩu của EU đã chiếm 20 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu toàn thế giới. Nhiều nước ngoài EU đã đồng ý dùng đồng EURO làm đơn vị tính toán trong giao dịch ngoại thương và sẽ tăng mức dự trữ đồng EURO khi đồng tiền này được đưa vào lưu thông trên thị trường. Do nền kinh tế Mỹ hiện nay không mấy sáng sủa, những quốc gia có quan hệ chặt chẽ với đồng Đôla Mỹ, nhất là các nước và vùng lãnh thổ ở châu á, sẽ có thể bán
đồng đôla, mua đồng EURO để phân tán bớt rủi ro. Điều đó cũng sẽ làm tăng tỷ
trọng đồng EURO trong dự trữ ngoại tệ thế giới.
Tóm lại, quá trình lưu hành đồng EURO trong thời gian qua vẫn còn có nhiều vấn đề cần phải xem xét, tuy nhiên có một điều chúng ta thừa nhận đó là, việc đồng EURO ra đời đúng như kế hoạch đặt ra, không có một chục chặc gì về măt kỹ thuật đã thực sự là một thành công lớn đối với EMU trong tiến trình thống nhất tiền tệ, và sự giảm giá của đồng EURO trong thời gian qua không gây ra
những hậu quả khắc nghiệt như nhiều người đã từng nghĩ. Đồng EURO chắc chắn
sẽ tạo ra những bước phát triển mới cho EU trong tương lai.
2.2. Các chính sách điều hành của ECB trước những biến động của đồng euro
Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) được chính thức ra đời vào ngày 1/7/1998, nhưng chính thức nhận trách nhiệm hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ thống nhất châu Âu vào ngày 1/1/1999. Tiền thân của ECB là Viện tiền tệ châu Âu, có trụ sở đặt tại Francfort. ECB hoàn toàn độc lập với các nhà nước thành viên và với Uỷ ban châu Âu trong hoạch định và tổ chức điều hành chính sách tiền tệ thống nhất. Điều này vừa ngăn cản hữu hiệu việc lạm dụng tiền tệ để tài trợ cho các mục tiêu chính trị, nguồn gốc của lạm phát và bất ổn định tiền tệ, vừa đảm bảo cho đồng EURO mạnh và ổn định.
Hiệp ước Cộng đồng châu Âu đã đặt ra mục đích quan trọng nhất đối với ECB là duy trì sự ổn định giá cả của toàn khu vực đồng EURO. Mục đích rõ ràng, dứt khoát và quan trọng này phản ánh được sự tin tưởng cao độ vào: Sự ổn định giá cả sẽ là điều kiện tiên quyết tạo ra môi trường ổn định để khuyến khích các hoạt động kinh tế, tạo công ăn việc làm và nói một cách tổng quát là tăng được phúc lợi xã hội do đó sẽ góp phần đạt được các mục tiêu chung của cộng đồng.
Để điều chỉnh nền kinh tế đi vào đúng quỹ đạo và để thực hiện mục tiêu đặt ra, ECB đã sử dụng lãi suất như là một thứ vũ khí lợi hại đối với kiểm soát lạm phát. Bằng việc tăng lãi suất, ECB có thể giảm số người vay tiền và làm giảm nguy cơ lạm phát. Bằng việc giảm lãi suất, ECB làm cho khoản vay giành cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng nhẹ lãi suất hơn và điều này khuyến khích phát triển kinh tế. Với quan điểm như vậy, trong thời gian gần 4 năm qua, mặc dù còn nhiều ý kiến xoay quanh chính sách tiền tệ của ECB, tuy nhiên theo đa số các nhà phân tích kinh tế của EU thì việc ECB điều hành chính sách tiền tệ như thời gian qua là hoàn toàn phù hợp với tình hình biến động của kinh tế thế giới nói chung và kinh tế EU nói riêng.
a. Nhìn lại các chính sách tiền tệ của ECB thời gian qua ta thấy nổi lên và đáng chú ý hơn cả là ở hai lần cắt giảm lãi suất vào ngày 10/5/2001 và 30/8/2001.
Lần thứ nhất vào ngày 10/5/2001:
ECB đột ngột cắt giảm lãi suất chủ đạo cuả mình từ 4,75% xuống còn 4,5%. Hành động này của ECB làm cho thị trường tài chính thế giới ngạc nhiên bởi vì đây là lần cắt giảm lãi suất đầu tiên sau 2 năm ra đời của đồng EURO, nó bất ngờ bởi trước đó ECB luôn luôn khăng khăng cự tuyệt việc cắt giảm lãi suất cho dù nhận được nhiều lời khuyến cáo.
Lần thứ 2 vào ngày 30/8/2001:
ECB thông báo quyết định giảm lãi suất 0,25% mức lãi suất trần và lãi suất sàn.
Cả 2 lần giảm lãi suất, ông Duisenberg đều đưa ra những lời giải thích của mình:
Lần thứ nhất, ông nói: Trước đó ECB không giảm lãi suất vì các điều kiện tiền tệ chưa cho phép, triển vọng tăng trưởng kinh tế ở khu vực đồng EURO vẫn rất vững chắc trước tình hình kinh tế toàn cầu suy giảm và áp lực lạm phát vẫn còn rất lớn. Ông cho biết, giờ đây (5/2001) ECB tin tưởng rằng áp lực lạm phát về trung hạn tại khu vực đồng EURO có thể kiểm soát được do có bằng chứng mới rằng việc tính toán tốc độ cung tiền M3 của ECB đã có nhầm lẫn khiến các chỉ số ước tính trước đó cao hơn thực tế. Và ông khẳng định, suy giảm kinh tế Mỹ hiện nay sẽ chỉ ảnh hưởng hạn chế đến kinh tế khu vực đồng EURO, và khu vực này vẫn tăng trưởng khoảng 2,5% năm 2001.
Đến lần thứ hai, ông giải thích rằng: Thời điểm hiện nay rất an toàn để cùng với các ngân hàng trung ương khác như: Ngân hàng trung ương Anh và ngân hàng trung ương Nhật ra quyết định giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng kinh tế. Ông khuyến khích chính phủ ở các nước châu âu cải cách thị trường lao động và sản phẩm, nhưng đồng thời cảnh báo không được vi phạm giới hạn của chính sách thắt chặt ngân sách đã được ban hành nhằm củng cố sự ổn định của đồng EURO.
Trước những lời giải thích của ông Duisenberg, nhiều nhà phân tích đã đưa ra những ý kiến đánh giá như sau:
Những người phản đối:
+ “Cách lý giải cho việc giảm lãi suất để chống lạm phát của ECB chỉ là tấm bình phong để che đậy cho lý do chính đó là tránh nguy cơ bị quy trách nhiệm cho sự suy giảm kinh tế của EU trong tương lai”.
+ Ông Thomas Mayer, nhà kinh tế học cao cấp của tập đoàn tài chính Goldman, Sachs co. nói: “tôi không thể coi lời giải thích đó là nghiêm túc được. Thật là nực cười nếu cho rằng một sự sai khác 0,5% về lượng cung tiền lại quan trọng đến như vậy”.
+ Còn ông Reiner Guntermann, nhà phân tích hàng đầu của ngân hàng đầu tư Presdner Kleinwort Wassertein lại cho rằng: “Ngoài việc kinh tế Mỹ đang giảm dốc nhanh chóng thì chính sách thắt chặt tiền tệ của ECB thời gian qua là nguyên nhân quan trọng đằng sau việc giảm sút lòng tin của giới kinh doanh và tăng trưởng kinh tế tại châu âu”.
+ Ông Adotf Rosenstock, nhà kinh tế học hàng đầu của công ty chứng khoán Nomura nói: “ECB đã làm thị trường phải bất ngờ trong vòng 4 tuần, trước hết bằng việc không chịu cắt giảm lãi suất vào tháng 4/2001, sau đó lại đột ngột cắt giảm lãi suất vào đầu tháng 5/2001. Điều này đã phản ánh chính sách không nhất quán của ECB”.
Người ủng hộ:
+ Các nhà phân tích ủng hộ: “Việc ECB dùng liều thuốc giảm lãi suất 0,25% ngày 30/8 là hoàn toàn phù hợp với thời điểm hiện tại của nền kinh tế EU và thế giới”.
+Nhà phân tích tài chính của công ty vốn Barclays ở London là Jane Foley cho rằng: “Thị trường rât hoan nghênh quyết định giảm lãi suất của ECB vì nó hỗ
trợ quan điểm cho rằng ít nhất ECB cũng đang có chính sách hướng tới sự tăng
trưởng kinh tế”.
Với hai hướng ý kiến như trên, thì câu hỏi đặt ra là: Những hành động của ECB trong thời gian qua là đúng hay sai? Điều này chỉ có thực tế mới trả lời được chính xác nhất.
Điểm qua tình hình kinh tế EU giai đoạn tháng 5/2001 trở đi, ta thấy: lạm phát ở khu vực EU hồi cùng kỳ năm ngoái đã tăng nay đang giảm từ mức cao nhẩt trong 8 năm qua là 3,4% vào tháng 5/2001 đến tháng 7/2001 giảm xuống còn 2,8%. Mặt khác ngay sau quyết định giảm lãi suất được công bố ngày 30/8/01, đồng EURO đã liên tục tăng giá so với đồng USD từ 0,9102 USD/EUR lên 0,9174 USD/EUR. Đây là những dấu hiệu khả quan chứng tỏ chính sách cắt giảm lãi suất của ECB là khả thi và phù hợp với tình hình lúc bấy giờ. Trước tình hình kinh tế thế giới suy giảm nghiêm trọng: kinh tế Mỹ, Nhật Bản đang gặp đầy rẫy những khó khăn trở ngại rồi lại đến cảnh cả thế giới phải chịu thảm hoạ 11/9 tại Mỹ... thì việc tạo ra được một dấu hiệu khả quan như trên đối với kinh tế EU đã là một sự thành công đáng kể. Mặt khác, quyết định cắt giảm lãi suất này cũng phần nào chứng tỏ được sự độc lập của ECB, mà từ trước đến nay người ta thường nói rằng: Mọi động thái từ ECB đều theo sau những hành động của Ngân hàng trung ương Mỹ.
b. Ngay từ khi đảm nhận trách nhiệm điều hành chính sách tiền tệ của EMU, ECB đã sớm vạch ra chiến lược chính sách tiền tệ của mình với 2 “trụ cột” chính:
Thứ nhất là cung tiền tệ - phản ánh một thực tế là lạm phát về dài hạn là một hiện tượng tiền tệ. ECB tăng cường vai trò của mình trong việc kiểm soát tiền tệ (kiểm soát chặt chẽ mức cung tiền M3, với mục tiêu tăng trưởng 4,5% trong tổng số tiền lưu hành). Theo ECB, với mức cung tiền như vậy sẽ tốt hơn nhiều so với việc áp dụng một biên độ khác bởi nó khắc phục được sự hiểu lầm của công chúng khi họ cho rằng với việc quy định một biên độ cho mức cung tiền có thể tự động thay đổi lãi suất nếu M3 vượt quá biên độ cho phép.
Thứ hai là sự vận động của giá cả và những ảnh hưởng ngắn hạn khác tới mức giá cả. Theo ECB, giá cả ổn định tương đương với một mức tỷ lệ tăng chỉ số giá tiêu dùng hàng năm nhỏ hơn 2%. Trong bất cứ trường hợp nào, ECB cũng chỉ chịu trách nhiệm duy trì giá trị nội tại của đồng EURO với việc theo đuổi “chính sách tiền tệ mục tiêu lạm phát” chứ không phải là tỷ giá hối đoái.
Hai trụ cột trên cũng cho thấy rõ mục tiêu của ECB là mục tiêu tiền tệ và mục tiêu lạm phát. Việc thực hiện chính sách tiền tệ thống nhất của ECB từ khi đồng EURO ra đời đến nay chứng tỏ ECB không những có khả năng duy trì sự ổn định của đồng EURO mà còn có khả năng bảo hộ đồng EURO, nâng cao lòng tin của mọi người đối với đồng EURO.
c. Với các công cụ chính sách tiền tệ của mình, ECB đã triển khai tốt các chính sách tiền tệ cũng như phối hợp có hiệu quả hoạt động giữa các ngân hàng trung ương quốc gia với nhau, tạo nên một sự kết hợp chặt chẽ trong hệ thống thanh toán của toàn liên minh tiền tệ.
Trước tiên phải xét đến hệ thống TARGET (European Automated Real - Time Gross Settlement Express Transfer - Hệ thống thanh toán tự động đồng EURO toàn châu Âu) trong tháng 3 và tháng 4 chiếm chiếm 37% giá trị thanh toán toàn châu Âu cả nội địa lẫn qua biên giới cho thấy vai trò đặc biệt của hệ thống thanh toán này. Hơn nữa việc sử dụng liên tục, ở mức độ cao mô hình đại lý giữa các ngân hàng trung ương các nước thành viên (Correspondent Central Banking Model - CCBM) - mô hình mà các đối tác sử dụng trong hoạt động chính sách tiền tệ - để chuyển giao đồ vật ký quỹ qua biên giới các quốc gia, cũng là một dấu hiệu cho thấy sự hội nhập rộng rãi trên toàn khu vực. Điều này được chứng minh bằng thực tế là đồ ký quỹ qua biên giới các quốc gia trong bối cảnh các hoạt động chính sách tiền tệ của hệ thống đồng EURO gần đây đã chiếm tới 25% tổng số ký quỹ trên toàn châu Âu.
Nếu có một cái nhìn hẹp hơn đến các công cụ đa dạng được trao đổi trên các thị trường tiền tệ, thì có một đặc điểm đáng được chú ý là, những người tham gia thị trường trên cả 11 nước thành viên khu vực đồng EURO có xu hướng tin tưởng vào các công cụ được giao dịch. Ví dụ, công cụ được gọi là “overnight indexed swaps” đã trở thành công cụ phái sinh quan trọng trên thị trường tiền tệ khu vực đồng EURO. Điều này có thể nhìn thấy được ở mức chênh lệch rất thấp giữa giá mua và giá bán được yết giá trên thị trường của công cụ này. Đây là một công cụ có tính lỏng cao của thị trường tiền tệ khu vực đồng EURO. Một công cụ khác cũng rất được quan tâm trên thị trường tiền tệ là hợp đồng mua lại. Sự phát triển của thị trường các hợp đồng mua lại ở khu vực đồng EURO rõ ràng là đi kèm với sự phát triển của hệ thống những người nhận giữ hộ chứng khoán, hệ thống thanh toán và giao dịch chứng khoán trên diện rộng. Điều này sẽ làm giảm chi phí giao dịch và nâng cao tính hiệu quả chuyển giao chứng khoán qua biên giới các quốc gia thông qua các hoạt động mua lại.
Nhìn về tương lai, chúng ta hy vọng sẽ có những phát triển trên thị trường tiền tệ trong thời gian tới. Đó là mục đích thiết lập những tiêu chuẩn rộng rãi cho thị trường các hợp đồng mua lại, với tiêu chí vượt qua những khác biệt về mô hình giữa các quốc gia. Những tiêu chuẩn mới này rõ ràng là sẽ cùng tồn tại với những tiêu chuẩn khác và với những quy ước rộng hơn trong giao dịch quốc tế.
Cuối cùng chúng ta thấy một điều đáng chú ý khác là các trung tâm lưu giữ chứng khoán quốc tế gần đây đang phát triển mối liên kết với nhau, điều này cho phép những người tham gia thị trường ở một quốc gia có thể sử dụng trực tiếp chứng khoán đang được gửi ở nước khác. Hiện nay có 26 trung tâm trên toàn châu Âu đã thiết lập được liên kết này.
Tóm lại, đến nay sau gần 4 năm thực hiện chính sách tiền tệ thống nhất, các nước khu vực đồng EURO vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế của mình, tránh được sự suy thoái kinh tế trước tác động suy thoái kinh tế của Mỹ, Nhật Bản. Tuy vậy những áp lực lạm phát vẫn còn theo đuổi đòi hỏi ECB cần phải điều hành chính sách tiền tệ một cách cẩn trọng. Một đồng tiền quốc tế khi ra đời đem theo cả thuận lợi và bất lợi. Vị thế quốc tế của đồng EURO càng lớn, tính không ổn định tiềm ẩn càng cao, việc hoạch định chính sách trong nước càng phức tạp, công việc của ECB vì thế mà càng dài hơn.
3. Vậy nguyên nhân gì dẫn đên sự giảm giá của đồng EURO và những tồn tại trong EMU?
Trong gần 4 năm lưu hành đồng EURO vừa qua, ta thấy xu hướng chung là đồng EURO rơi vào tình trạng mất giá so với đồng USD. Nhưng theo các nhà phân tích, đồng EURO giảm giá không có nghĩa là EMU suy yếu. Nhiều nhà nghiên cứu đều có chung quan điểm rằng: đồng EURO sẽ được phản ánh bởi ảnh hưởng của nó chứ không phải bởi tỷ giá hối đoái của nó, và vì thế mà quá trình lưu hành đồng EURO vừa qua thực sự là đã thành công. Nhưng sự “trao đảo” của đồng EURO trên các thị trường ngoại hối, cùng với những tồn tại trong EMU thời gian qua xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa của nó:
a. Thứ nhất: Kinh tế mạnh hay yếu, đều có tác động trực tiếp đến mọi mặt của một quốc gia, một liên minh. Do vậy mà nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng trên là: Kinh tế các nước EU có biểu hiện chững lại trong giai đoạn đầu (1999), và mặc dù sau đó (2000) có biểu hiện tốt nhưng kinh tế Mỹ lại đạt được những thành công lớn hơn.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước EMU trong cả năm 1998 chỉ đạt 2,4% so với mức sự báo là 2,7%. Bước sang năm 1999, tăng trưởng của các nước này thậm chí còn ảm đạm hơn nhiều. Theo các chuyên gia, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong khu vực đồng EURO cũng chỉ đạt ở mức 2% tức thấp hơn so với mức dự báo 2,6% từ cuối năm 1998. Trong khi nền kinh tế các nước EMU đang tăng trưởng với tỷ lệ không mấy lạc quan thì nền kinh tế Mỹ lại đạt tốc độ kỳ diệu, riêng quý IV đạt 6,1%, cao hơn mức dự báo là 5,6%. Tỷ lệ thất nghiệp trong 2 tháng là 4,4%, chỉ số giá tiêu dùng là 0,1%.
Bước sang năm 2000, cùng với xu hướng chung của nền kinh tế thế giới, kinh tế EU cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể (như đã trình bầy ở trên), tuy nhiên kinh tế Mỹ lại có những bước phát triển cao hơn. Theo IMF và WB, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ đạt mức 5,2% cao hơn mức 4,2% năm 1999 và 3,4% năm 1998. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 16 năm qua (năm 1984 mức tăng GDP của Mỹ là 7,3%). Lạm phát của Mỹ trong năm 2000 là 3,2% lớn hơn 0,2% so với dự định ban đầu song đây cũng là mức thấp nhất kể từ năm 1985 trở lại đây. Năng suất lao động trong quý II/2000 tăng 5,3 % trong khi suốt 20 năm năng suất của Mỹ cũng chỉ tăng bình quân 1,5%/năm. Theo tổng thống Mỹ B.Clinton, thặng dư ngân sách của Mỹ năm 2000 ít nhất cũng là 230 tỷ USD- lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Nhiều nhà phân tích đã nhận định rằng EU xây dựng liên minh tiền tệ trong điều kiện kinh tế tốt nhất trong vòng một thập kỷ trở lại đây, nhưng so với Mỹ thì thành tích của khu vực đồng tiền chung còn thấp hơn nhiều. Tăng trưởng GDP tính theo gía thị trường của khu vự đồng EURO trong năm 2000 là 3,37%, năm 1999 là 2,63% so với mức 5,2% và 4,2% của Mỹ. Năm 1999, khu vực đồng EURO vẫn thâm hụt ngân sách ở mức 1,3% chỉ sang năm 2000 ngân sách mới thặng dư ở mức độ khiêm tốn 0,3% GDP. Tỷ lệ thất nghiệp của khu vực đồng EURO trong năm 2000 khoảng 8,5% lớn hơn 2 lần của Mỹ (4%). Trước sức
mạnh vượt trội của nền kinh tế Mỹ, đồng EURO liên tục giảm giá so với đồng
USD trong thời gian này là dễ hiểu.
b. Thứ hai: Xuất hiện bất đồng trong EU:
+ Trong khi nền kinh tế đang gặp khó khăn, đồng EURO liên tục mất giá thì các dấu hiệu của sự không thống nhất trong EU đã bắt đầu xuất hiện bằng việc: Bộ trưởng Tài chính Đức từ chức rồi đến hàng loạt thành viên trong Nghị viện châu Âu, trong khi đó ECB vẫn tuyên bố “không can thiệp vào thị trường tiền tệ nhằm làm ngăn chặn sự mất giá của đồng EURO”. Theo chủ tịch của ECB, ông Duisenberg, các tiến triển của đồng EURO từ trước đến nay chưa gây lên sự lo lắng nào. Trong khi đó,Thống đốc Ngân hàng trung ương Bồ Đào Nha, Antonie-de-Sause, thành viên của ECB cho biết, sự can thiệp của Ngân hàng trung ương không phải là giải pháp dài hạn đối với sự suy yếu của đồng tiền chung. Trong phiên họp ngày 26/5/1999, các Bộ trưởng tài chính EU đã nhất trí ra quyết định về thay đổi tỷ lệ thâm hụt ngân sách mục tiêu cho Italia, gây ra không ít tiêu cực trên thị trường. Các Bộ trưởng đã nhất trí cho phép Italia mở rộng thâm hụt ngân sách trong năm tài khoá 1999 lên 2,4% GDP so với mục tiêu 2%. Sự thay đổi này được đánh giá có thể tạo ra một tiền lệ về khả năng thay đổi ngân sách hàng loạt của các nước, hậu quả là EMU khó có thể thực thi được mức thâm hụt 1% vào năm 2001 như đã thông qua sau khi đồng EURO chính thức đi vào lưu thông.
+ Xét về mặt thị trường, có thể nói khu vực đồng EURO là khá thuần nhất. Song về lợi ích của các quốc gia thành viên thì không phải như vậy. Hiện tại trong EMU đang tồn tại những quan điểm trái ngược nhau: Phía ECB mong muốn có được một chính sách tiền tiền tệ thống nhất càng nhanh càng tốt, nhưng tại các quốc gia riêng lẻ, việc tham gia vào hệ thống tiền tệ chung còn phụ thuộc vào quyết định của dân chúng. Chẳng hạn ở Đức, theo kết quả thăm dò dư luận, có tới 77% dân cư đông Đức không muốn tham gia hoàn toàn vào EMS mà muốn duy trì đồng DM. Tương tự như vậy, 60% dân cư Tây Đức mong muốn duy trì đồng DM. Tại Anh, Bỉ, Đan Mạch, Thuỵ Điển, tỷ lệ dân chúng phản đối việc đất nước họ tham gia EMS là rất cao. Ví dụ, tại nước Anh có tới 69% dân cư được hỏi phản đối việc nước này tham gia đồng EURO. Những con số trên chứng tỏ người dân các nước thuộc EU chưa mặn mà lắm với đồng EURO vì họ lo ngại về sự sụt giá liên tục của đồng tiền này có thể đẩy đất nước họ đến tình trạng lạm phát và do vậy cuộc sống của họ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Như thế, khả năng có thể có hai khu vực kinh tế trong một EU ít nhất là cho tới tháng 1/2002 và tình hình này chắc chắn còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ của đồng EURO.
c. Thứ ba: Sự chênh lệch về lãi suất giữa Mỹ và EU: Trong một thế giới mà quá trình tự do lưu chuyển vốn đã diễn ra mạnh mẽ, sự khác biệt về tỷ lệ lãi suất đóng một vai trò rất quan trọng trong xu hướng biến động của tỷ giá hối đoái vì các nhà đầu tư có thể chuyển vốn trên phạm vi toàn cầu. Trong khoảng thời gian từ tháng 6/1999, sự chênh lệch của tỷ lệ lãi suất dài hạn giữa Mỹ và khu vực EURO có xu hướng tăng, mức chênh lệch lãi suất đạt cao nhất là 1,6%, làm cho đồng EURO trở lên yếu đi.
d. Thứ tư: Việc gia nhập Liên minh EU của một số nước thuộc Đông Âu thời gian tới, xét về khả năng kinh tế của các quốc gia này đang còn là vấn đề bàn cãi. Các quốc gia Đông Âu sau hàng loạt các nỗ lực tư nhân hoá nền kinh tế theo các kịch bản EU đưa ra cho đến nay vẫn chưa có được kết quả như mong muốn. Vì vậy, nếu các quốc gia này, đặc biệt là Ba Lan hay Hungari, tham gia vào EU sẽ tạo thêm sức nặng cho gánh nặng tài chính đối với khu vực đồng EURO trong việc nỗ lực lấy lại giá trị của đồng tiền này. Bên cạnh đó các mâu thuẫn trong quan điểm giữa các quốc gia thành viên về các vấn đề liên quan đến tình hình quốc tế hay an ninh khu vực đang tiếp tục diễn biến phức tạp. Gần đây nhất trước cuộc tấn công Nam Tư của NATO, các cuộc tranh luận nổ ra giữa một bên là Hy Lạp và Anh với một bên là Pháp và các nước phản đối chiến tranh khá gay gắt. Tương tự như vậy, mâu thuẫn giữa các thành viên trong EU về việc khắc phục dịch lở mồm long móng của gia súc cũng đã gây thiệt cho kinh tế các nước thuộc khu vực đồng EURO. Những cản trở đó sẽ còn ảnh hưởng không tốt đến việc các nước EU phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế và chạy đua với nền kinh tế Mỹ.
e. Thứ năm: Các yếu tố tâm lý: Trước mắt có nhiều yếu tố tâm lý không có lợi cho đồng EURO bao gồm:
+ Chính sách kinh tế của 12 nước thành viên không giống nhau, cách nhìn nhận giữa các nước thành viên khu vực đồng EURO và Ngân hàng trung ương châu Âu khác nhau...Các quan chức không có tiếng nói nhất trí làm cho bên ngoài có ấn tượng là khu vực này không thống nhất, trong đó ít nhất là ở chính sách điều tiết.
+ Về ảnh hưởng tiêu cực của tình hình chiến sự ở một số khu vực thuộc châu Âu. Điều này không chỉ gây mất ổn định về an ninh, chính trị trong khu vực mà còn là gánh nặng kinh tế đối với các nước tham chiến. Cuộc đàm phán không thành giữa các nhà lãnh đạo cũng đã đưa đến những giải pháp không an toàn đối với các nhà đầu tư chuyển sang nắm giữ đồng USD. Theo đó luồng vốn bắt đầu rời khỏi thị trường châu Âu để đến những nơi khác an toàn hơn như Mỹ, Nhật Bản. Các cuộc khủng hoảng chính trị ở Nga, rồi việc ác-hen-ti-na tuyên bố có thể sẽ huỷ bỏ tỷ giá hối đoái gắn liền đồng Pêso với đồng USD cũng đã gây lên tâm lý xấu trên thị trường Mỹ Latinh cộng với sự suy giảm trên thị trường tài chính tiền tệ Brazil, Mẽico...đều là những nhân tố không nhỏ gây tác động tới sự giảm giá của đồng EURO trong thời gian qua.
+ Trước tháng 1/2002, dù sao đồng EURO vẫn là “đồng tiền trên sổ sách”. Nó là đồng tiền mới sinh do “nhân tạo”, lại là “đồng tiền không có chính phủ”. Do vậy đồng EURO muốn nhận được sự coi trọng và tín nhiệm của thế giới thì cần phải có thời gian. Trong nội bộ khu vực đồng EURO cũng vậy. Thêm vào đó chính bản thân người dân châu Âu cũng sử dụng đồng EURO rất hạn chế, một phần vì họ không buộc phải sử dụng đồng EURO, một phần do thói quen sử dụng đồng tiền quốc gia hay các đồng tiền truyền thống trong các giao dịch như đồng USD, DEM, GBP...Việc sử dụng đồng EURO hạn chế đã dẫn đến sự sụt giá liên tục của nó.
Nói tóm lại, vấn đề đồng EURO phải được mọi người nhìn nhận
như một dự án lớn mang tính lịch sử dù là người ủng hộ hay chống đối. Những người coi việc làm này như việc làm táo bạo và những người chỉ đơn thuần là xuyên tạc, thậm chí là bóp méo các giả thiết, tất cả đã bị sai lầm trong các ghi nhận kết quả thực tế của quyết định này. Dù bất kể ý kiến gì thì Liên minh châu Âu cũng phải tin tưởng vào tương lai sáng lạng của mình, vào những bước tiến tiếp theo của đồng tiền chung châu Âu - EURO.