Khóa luận Đánh giá môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước ASEAN

Sau hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, tổ chức ASEAN tới nay đã bao trùm toàn bộ 10 nước trong khu vực Đông Nam Á, tỏ rõ là một thực thể mang tính thống nhất trong đa dạng. Tốc độ phát triển kinh tế chung của các nước trong khối ASEAN nhìn chung tăng ổn định qua các năm. Ngay cả khi bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997, song các nước này cùng phục hồi nhanh chóng và tạo lại đà tăng trưởng. Các nước luôn cố gắng phát huy những lợi thế sẵn có (như: tài nguyên thiên nhiên phong phú, lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ .) cùng với sự nỗ lực từ phía Chính phủ, nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước. Bên cạnh đó, các nước còn hợp tác lẫn nhau trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nhằm tạo thuận lợi cho nguồn vốn đầu tư di chuyển giữa các nước. Đặc biệt nó tạo ra một điều kiện chung trong toàn khu vực để thu hút nguồn vốn bên ngoài đổ vào các nước ASEAN. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung luật đầu tư nước ngoài của từng nước theo hướng tạo môi trường đầu tư thông thoáng, tăng thêm các điều kiện ưu đãi, AFTA với công cụ thực hiện chủ yếu là CEPT tác dụng với cả hàng hoá thông thường lẫn vốn đầu tư đã cho phép ASEAN nâng cao khả năng cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các khu vực và các nước trôn thế giới những năm đầu của thập kỷ 90. Kết quả là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN tăng lên nhanh chóng trong những năm qua. ASEAN trở thành nơi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất so với các nước và các khu vực đang phát triển trên thế giới. Nếu như các nước ASEAN tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư của mình theo hướng hoàn thiện, thông thoáng và ưu đãi hơn thì lượng vốn FDI vào khu vực này sẽ không ngừng tăng lên. Nghiên cứu về môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN cũ, trước hết giúp cho Việt Nam và các nước ASEAN đi sau khác nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc cải thiện môi trường đầu tư trong cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên cơ sở đó đưa ra những mục tiêu định hướng và giải pháp nhằm thu hút được nhiều vốn FDI hơn. Quốc gia Biện pháp khuyến khích Mức thuế Thời gian xử lý đơn xin cấp phép FDI BRUNÂY Các công ty hướng qui chế tiên phong được miễn thuế công ty, thuế nhập khẩu nhuyên liệu và tư liệu sản xuất trong thời gian 8 năm. Công ty mở rộng kinh doanh được phê duyệt có thể được miễn thuế 5 năm. - Miễn thuế thu nhập từ vốn. - Thuế chuyển lợi nhuận về nước 20%. - Thuế công ty: 30% Từ 2 đến 3 tháng Campuchia Thuê công ty là 90% trừ một số ngành. - Miễn thuế công ty 8 năm. - Miễn thuế xuất khẩu. - Mức thuế lợi nhuận chuẩn đối với công ty và doanh nghiệp Nhà nước (PES) là 20%. - Thuế luỹ tiến đánh vào cá nhân thường trú có mức trần là 20%. - Người đóng thuế có thể xin chuyển các khoản lỗ sang năm sau trong thời gian 5 năm. Uỷ ban hợp tác phát triển CDC sẽ ra quyết định phê duyệt hay loại bỏ đơn xin cấp phép trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ xin cấp phép đầy đủ.

doc91 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1714 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đánh giá môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam thời gian qua Là một nước đang phát triển có mức thu nhập bình quân đầu người còn rất thấp (325 USD vào năm 1996), đương nhiên mức tiết kiệm nội địa hiện tại của Việt Nam không thể đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày càng tăng và vì vậy việc huy động các nguồn vốn từ nước ngoài là thực sự cần thiết. FDI đã và sẽ tiếp tục là một trong những nguồn vốn nước ngoài quan trọng đối với Việt Nam trong những năm tới. Hiện nay, vốn FDI chiếm gần hai phần ba tổng vốn nước ngoài được đưa vào Việt Nam và khoảng 30% tổng đầu tư toàn xã hội. Vốn FDI hiện chiếm 10% GDP của cả nước và 25 - 30% giá trị xuất khẩu (kể cả dầu khí). FDI góp phần đáng kể vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vai trò quan trọng của FDI trong quá trình phát triển kinh tế hiện tại và tương lai của Việt Nam đã được khẳng định trong nhiều văn kiện chính thức cũng như trong các kế hoạch và chiến lược phát triển của Chính Phủ. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được chính thức ban hành vào tháng 12 năm 1987. Kể từ đó, số lượng các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư ở Việt Nam ngày càng tăng lên nhanh chóng và đầu tư nước ngoài đã xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước. Tính đến hết ngày 31 - 12 - 2000 đã có 3.265 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đạt gần 44,6 tỷ USD. Lượng vốn FDI vào Việt Nam tăng liên tục trong vòng 12 năm qua, trừ hai năm 1997 và 1998. Số vốn FDI cam kết đạt mức cao nhất trong giai đoạn 1991 - 1996. Mức tăng cao FDI vào Việt Nam trong những năm 1991 -1996 chủ yếu là do môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường pháp lý tương đối thuận lợi và do Việt Nam có sức hấp dẫn và cạnh tranh lớn hơn với tư cách là một thị trường đầu tư rất mới so với một số nước khác trong khu vực. Những dấu hiệu giảm sút dòng FDI vào Việt Nam bắt đầu thể hiện vào năm 1996 khi mức vốn cam kết chắc chắn sẽ giảm mạnh so với những năm trước đó. Nguyên nhân của tình hình này phần nào do đầu tư vào các lĩnh vực/ ngành đòi hỏi vốn lớn, đặc biệt là xây dựng khách sạn và văn phòng, mà trước đây vốn thu hút những lượng vốn khổng lồ vào Việt Nam trong những năm 1989 - 1995 đã đáp ứng thậm chí vượt quá nhu cầu trong nước, và do giá thuê đất tăng nhanh trong những năm 1991 - 1995 làm nản chí một số nhà đầu tư nước ngoài mong muốn đầu tư vào Việt Nam. Trong năm 1997 mặc dù số lượng các dự án FDI được cấp giấy phép gần như không giảm so với năm 1996 nhưng số vốn cam kết đã giảm xuống chỉ còn hơn một nửa. Mức thu hút FDI vào Việt Nam trong năm 1998 tiếp tục giảm đi cả về số lượng dự án được cấp phép lẫn số vốn đăng ký. Chính việc Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào vốn FDI từ Châu á đã dẫn tới sự suy giảm mạnh trong tổng lượng FDI vào đất nước kể từ giữa năm 1997. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực cũng có tác động tiêu cực đến một số dự án FDI của các nhà đầu tư Châu á như phải giảm tiến độ thực hiện hoặc tạm ngừng thực hiện dự án do thiếu vốn. 2. Thực trạng môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam 2.1. Môi trường kinh tế vĩ mô Với chính sách đổi mới tại Đại hội Đảng lần thứ sáu tháng 2 năm 1986, Việt Nam đã thực hiện nhiều cuộc cải cách trong hệ thống tài chính và ngân hàng; hệ thống giá cả trong đó tập trung vào việc tự do hoá giá cả của hầu hết các hàng hoá và dịch vụ; vấn đề sử dụng đất; hệ thống pháp lý, bộ máy hành chính Nhà nước; các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) và nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác. Thành công của những cuộc cải cách này đã góp phần tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh, tỷ lệ lạm phát thấp, tỷ giá hối đoái ổn định,... - những nhân tố bảo đảm cho sự ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước. Mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong thời kỳ 1991 - 1995 đạt 8,77% và đến năm 1996 còn đạt cao hơn, 9,34%. Trong năm 1997, tuy Việt Nam bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng kinh tế 8,8%, cao hơn nhiều so với tất cả các nước còn lại trong khối ASEAN. Lạm phát chỉ số giá tiêu dùng (CPI) luôn được duy trì ở mức dưới 10% trong suốt 5 - 6 năm qua. GDP bình quân đầu người đã liên tục tăng lên từ mức 110 USD năm 1989 tới khoảng 330 USD năm 1997. Những thành tựu này cùng với chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của Chính phủ đã góp phần làm tăng nhanh dòng FDI vào đất nước trong những năm 1989 - 1995. Tuy nhiên, những yếu kém trong nền kinh tế Việt Nam, nhất là khả năng cạnh tranh và hiệu quả kém, trình độ phát triển thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính, còn thấp và tình trạng quan liêu còn tồn tại đã bộc lộ rõ hơn trong quá trình phát triển của đất nước trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Những vấn đề này đã ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào triển vọng kinh tế của Việt Nam. 2.2. Môi trường pháp lý Đi liền với cuộc cải cách kinh tế và xã hội nói trên, rất nhiều luật lệ và các qui định mới đã được ban hành để làm cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư ở Việt Nam. Các luật lệ và qui định đó liên tục được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với tình hình mới nhằm góp phần cải thiện môi trường pháp lý của đất nước. Nhưng khung khổ pháp lý hiện hành cho các hoạt động kinh doanh nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng ở Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện. Luật thương mại phần nào khó thực hiện do chậm ban hành các nghị định hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa đầy đủ. Một số bộ luật khác cũng hết sức cần thiết cho việc điều chỉnh các hoạt động kinh doanh hiện chưa ra đời. Rõ ràng là khung khổ pháp lý chưa hoàn thiện này đã gây ra một số trở ngại cho hoạt động đầu tư nước ngoài ở đất nước. Một trong những yếu tố làm giảm dòng FDI vào Việt Nam trong những năm gần đây là việc thiếu rõ ràng trong các luật lệ và qui định hiện hành của Việt Nam liên quan đến đầu tư nước ngoài và các thủ tục hành chính phức tạp và tốn thời gian liên quan đến quá trình đầu tư. 2.3. Môi trường chính trị - xã hội Một đất nước ổn định chính trị, phát triển hài hoà kinh tế văn hoá, chính trị, xã hội chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn một đất nước luôn bị chiến tranh đe doạ bởi chiến tranh, khủng hoảng kinh tế đối với nhà đầu tư nước ngoài. Nước ta sau 25 năm giải phóng hoàn toàn thống nhất đất nước luôn tự hào giữ được ổn định về các mặt. Với đường lối đổi mới do Đảng, Nhà nước ta khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã giành được rất nhiều những thành tựu trong hầu hết các lĩnh vực, mối quan hệ ngoại giao đã được mở rộng khắp thế giới. Sự ổn định và phát triển ấy càng phải được giữ vững và thúc đẩy để tạo thuận lợi cho sự phát triển, trong đó có thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư nước ngoài. Có vậy Việt Nam mới có được vị trí xứng đáng trên thế giới như những chiến công lừng lẫy năm xưa mà thế hệ ông cha chúng ta đã từng làm được. 2.4. Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn được liệt vào hàng yếu nhất trong khu vực. Hệ thống đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống thông tin liên lạc của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài khi đến đây kinh doanh. 2.5. Đánh giá chung về môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng thuận lợi, điều này cho thấy môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đang dần trở nên hấp dẫn. Trong đó, đáng chú ý nhất là nguồn lao động dồi dào, có trình độ học vấn tương đối khá, chế độ chính trị và môi trường xã hội khá ổn định, mức độ đảm bảo an ninh cho các hoạt động đầu tư cao, và hiện được đánh giá là an toàn nhất khu vực Đông Nam á, thị trường tiêu thụ có tiềm năng lớn với số dân 80 triệu người, nguồn tài nguyên khá đa dạng và phong phú, nhiều thứ có trữ lượng lớn, khí hậu và các điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho các hoạt động sản xuất, quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đang làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng thông thoáng hơn. Đặc biệt là trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách quan trọng trong các lĩnh vực và áp dụng những biện pháp mạnh để cải thiện môi trường đầu tư. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 2000 cùng với các văn bản khác đã tạo ra một khung pháp lý có sức hấp dẫn và cạnh tranh cao hơn, góp phần vào việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những nỗ lực cải thiện môi trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã có những hiệu quả tích cực rõ ràng. Song bên cạnh đó, theo phản ánh của các nhà đầu tư thì vẫn còn không ít những khó khăn trở ngại. Đó là: hệ thống luật lệ, qui định về các chế độ thương mại, đầu tư của Việt Nam còn đang trong quá trình điều chỉnh và hoàn thiện nhằm phù hợp với các qui định chung của các cơ chế hợp tác kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia, nên còn thiếu đồng bộ và tính minh bạch chưa cao; nên khả năng dự đoán về thị trường còn khá nhiều hạn chế. Giá cả của các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất còn cao, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật mặc dù đã có nhiều cải thiện đáng kể trong những năm qua nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu phục vụ tốt hơn nữa cho các nhà đầu tư. Đặc biệt nữa là còn khá nhiều ngành và lĩnh vực chưa được cho phép hay còn hạn chế đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài; nhiều ngành và lĩnh vực khác chưa có sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. 3. So sánh môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam với môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước ASEAN khác 3.1. Mặt ưu thế của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam so với một số nước ASEAN khác Trước tiên có thể nói Việt Nam có một vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, giao lưu kinh tế với bên ngoài. Vị trí địa lý của Việt Nam đặc biệt thuận lợi để trờ thành cửa ngõ của ASEAN phát triển các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ... để tận dụng lợi thé của khối ASEAN ngày càng thống nhất qua quá trình hợp tác. Về tình hính chính trị, xã hội thì có thể nói Việt Nam là một nước có chế độ chính trị ổn định nhất trong khu vực. Trong quá trình phát triển, Việt Nam luôn giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Phát huy dân chủ, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống mọi khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích, mọi âm mưu lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối chính trị, chống phá chế độ, can thiệp vào nội bộ nước ta. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Củng cố xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Bên cạnh những lợi thế về vị trí địa lý, tình hình chính trị, Việt Nam còn có một sức mạnh nữa đó là có lực lượng lao động dồi dào về số lượng, cố trình độ tiên tiến, mặt bằng tiền lương thấp hơn một số nước ASEAN khác. Người lao động Việt Nam nhìn chung đều có ý thức tuân thủ kỷ cương kỷ luật lao động, ít có đình công, bãi công tự do. Hơn nữa xét về dung lượng thị trường thì Việt Nam là một trong những thị trường lớn trong khu vực (thị trường tiềm năng), có thể thấy rõ hơn, đó là khi đầu tư vào Việt Nam, với vị trí địa lý thuận tiện, không những tiếp cận được nhu cầu của một thị trường gần 80 triệu dân ở nước sở tại mà còn là địa bàn để cung cấp hàng hoá cho một số thị trường ở nước láng giềng như Lào, Campuchia, Mianma và vùng Tây nam Trung Quốc. Hơn nữa tiềm năng phát triển kinh tế của Việt nam cũng được đánh giá cao.Điều này được chứng minh qua những kết quả mà Việt Nam đã đạt được. 3.2. Mặt hạn chế của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam so với một số nước ASEAN khác Môi trường cạnh tranh của Việt Nam kém hấp dẫn hơn so với các nước khác trong khu vực. Theo diễn đàn kinh tế thế giới, về sức cạnh tranh, Việt Nam xuống 5 hạng so với năm 1999, năm 2000 Việt Nam xếp hạng 53/58 nước được xếp hạng. Trong khi đó, Thái Lan là 31/58; Inđonesia là 44/58. Về môi trường pháp lý: nếu xét về môi trường pháp lý cho việc thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài thì Việt Nam còn phải tiếp tục hoàn thiện nhiều để tương đồng với các nước ASEAN khác. Đồng thời về thủ tục hành chính của Việt Nam còn chồng chéo phức tạp gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư. Về nhân tố lao động: Mặc dù Việt Nam có chi phí lao động thấp, song về lâu dài, khi trình độ sản xuất phát triển, nếu lao động Việt Nam không được đào tạo kịp thời thì lợi thế đó sẽ mất đi trong so sánh với các nước ASEAN khác. Bởi so sánh với các nền kinh tế phát triển thì một số nước ASEAN vẫn đang giữ được lợi thế là thị trường lao động rẻ. Một điều gây cản trở cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam nữa là: chi phí dịch vụ đầu vào quá cao so với một số nước trong khu vực như cước điện thoại quốc tế gấp 7 lần Singapo, 6 lần Malaisia, 4 lần Inđonesia và 3 lần Thái Lan; phí lưu thông giao nhận gấp 3 lần Singapore, 2,5 lần Malaisia và 2 lần Inđonesia; giá thuê đất khu công nghiệp tương đương với các nước trong khu vực nhưng phí sử dụng cơ sở hạ tầng lại cao hơn. Công nghệ hỗ trợ, cung cấp phu tùng nguyên vật liệu, bán thành phẩm... rất non yếu, phát triển chậm và không có định hướng chiến lược rõ ràng. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn yếu kém hơn một số nước như: Thái Lan, Singapore, Inđonesia... Những nước này có hệ thống giao thông, thông tin viễn thông, sân bay, cảng được xây dựng, nâng cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế. Các nước này còn ưu tiên xây dựng hạ tầng tài chính với hệ thống ngân hàng, công ty bảo hiểm, tài chính cùng với hạ tầng xã hội đảm bảo về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội... Bên cạnh đó Việt Nam cũng còn không ít những mặt hạn chế khác, đó là: Từ một nền sản xuất vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong việc tạo lập các điều kiện này. Đây là thử thách lớn của Việt Nam so với các nước ASEAN khác trong cuộc cạnh tranh thu hút vốn FDI. Không những thế Việt nam còn có sự thiếu nhất quán và hiệu lực thi hành các chính sách kinh tế vĩ mô, cộng với sự chậm chễ đổi mới, hiện đại hoá hệ thống tài chính - ngân hàng đang gây trở ngại cho tiến trình đổi mới kinh tế. Ngoài ra, nạn tham nhũng, buôn lậu vẫn tái diễn, chi ngân sách thường xuyên lớn... Tất cả các vấn đề đó đều làm giảm lòng tin từ các nhà đầu tư nước ngoài. Chương III Một số giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam I. Sự cần thiết phải cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam 1. Mục tiêu và định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong thời gian tới 1.1. Mục tiêu Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 và phương hướng nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải phát triển ổn định hơn, đạt kết quả cao hơn, đặc biệt là về chất lượng, so với thời kỳ trước, để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn, hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kỳ 2001 - 2005 phải đạt được các mục tiêu sau: Vốn đăng ký của các dự án cấp giấy phép mới: khoảng 12 tỷ USD. Vốn thực hiện: khoảng 11 tỷ USD. Đến năm 2005 đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 10% tổng thu ngân sách của cả nước (không kể dầu khí). 1.2. Định hướng Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các Khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt. Khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư và Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển; tiếp tục thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực. Có kế hoạch vận động các tập đoàn, công ty lớn đầu tư vào Việt Nam, đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại; khuyến khích, tạo thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Để đạt được những mục tiêu đó, Việt Nam cần phải tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó việc cải thiện môi trường đầu tư là một việc cần thiết và quan trọng. 2. Cải thiện môi trường đầu tư là một nhân tố quan trọng trong cạnh tranh thuhút vốn FDI Xu thế FDI trên thế giới ngày càng gia tăng và phát triển, đây là thời cơ thuận lợi cho Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn này. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Việt Nam đã coi chiến lược mở cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như một quốc sách để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế. Bên cạnh thuận lợi nguồn FDI trên thế giới ngày một gia tăng, Việt Nam cũng phải đương đầu với cuộc cạnh tranh gay gắt với các nước trong việc thu hút nguồn vốn này. Trước tiên đó là cạnh tranh diễn ra ngay với các nước công nghiệp phát triển. Trong thập kỷ 93 - 98, FDI từ các nước tư bản phát triển chiếm hơn 90% tổng FDI toàn thế giới. Điều này cho thấy, các công ty đa quốc gia ở các nước tư bản phát triển có những lợi thế so sánh thực sự trong việc thực hiện các dự án đầu tư ra nước ngoài. Chẳng hạn như Mỹ, Mỹ không chỉ là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất mà còn là nước nhận đầu tư FDI lớn nhất thế giới, đạt tới con số xấp xỉ 100 tỷ USD bình quân mỗi năm. Việc các nước chủ đầu tư lớn nhất cũng đồng thời là nước nhận đầu tư lớn nhất nói lên một điều rằng trong thời đại ngày nay, các nước phát triển tìm mọi cách để thâm nhập và chi phối nhau. Sự liên kết và hội nhập đó làm cho các nước công nghiệp phát triển vừa phát huy được lợi thế tương đối của mình đồng thời lại vừa tận dụng, tranh thủ được điểm mạnh của nước khác. Mặt khác, phải thừa nhận rằng các nước phát triển đã tạo dựng được một môi trường kinh doanh hoàn hảo để thu hút các nhà đầu tư. Tình trạng đó tạo nên sự cạnh tranh dữ dội giữa các nước đang phát triển trong việc thu hút FDI. Cùng với các nước công nghiệp phát triển, các nước đang phát triển cũng đang vươn lên nhanh chóng giành giật nguồn vốn này. Họ cũng có lợi thế gống như Việt Nam: giá lao động rẻ, có tài nguyên thiên nhiên, có thị truờng mở rộng và họ cũng có nhu cầu lớn về vốn, công nghệ, kiến thức quản lý và công ăn việc làm... Hiện nay, các nước đang phát triển cần tới 1000 tỷ USD tiền vốn FDI. Để thu hút nguồn vốn này, họ đang duy trì tình hình chính trị - xã hội ổn định, tăng trưởng kinh tế. Họ cải cách Luật đầu tư nước ngoài theo hướng rộng mở, xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng hệ thống pháp luật, hệ thống tài chính ngân hàng hoàn chỉnh, đào tạo nâng cao tay nghề người lao động, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, Việt Nam còn phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực Đông Nam á. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ bắt đầu nổ ra ở Thái Lan và sau đó lan ra hầu hết các nền kinh tế trong khu vực, để lại những hậu quả kinh tế - xã hội hết sức nghiêm trọng cho các nước này. Cuộc khủng hoảng đã làm cho sức hấp dẫn FDI của các nước trong khu vực giảm đi. Sau khủng hoảng, vào những năm sau, các nước trong khu vực mới thấy được cần phải cải thiện môi trường đầu tư, từ đó tạo ra cuộc chạy đua cạnh tranh nhằm thu hút FDI. Song ta thấy rằng, cuộc khủng hoảng này đã làn cho sức hấp dẫn FDI ở Việt Nam giảm so với các nước khác trong khu vực. Bởi ý thức được tác động của cuộc khủng hoảng tới thu hút FDI, nên các nước đã nhanh chóng khắc phục hậu quả, phục hồi kinh tế lấy lại lòng tin từ các nhà đầu tư nước ngoài. Các nước đã đẩy mạnh xu hướng nới lỏng những ràng buộc đối với luồng FDI, mở rộng quyền sở hữu của người nước ngoài. Sự thay đổi nổi bật nhất là việc mở cửa khu vực tài chính - ngân hàng. Về lâu dài, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á sẽ khiến các nước Đông Nam á định ra những chính sách ưu đãi hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài, hình thành nên cục diện cạnh tranh gay gắt với Việt Nam. Đây là sự thách thức lớn đối với Việt Nam. Việt Nam cũng có sự cải thiện đáng kể môi trường đầu tư của mình, song việc cải thiện diễn ra không nhất quán, triệt để như các nước trong khu vực, nên đạt hiệu quả không cao. Mặc dù Việt Nam không bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng, song xét hậu quả trong một thời kỳ dài thì Việt Nam sẽ bị thiệt hại rất nhiều từ cuộc khủng hoảng này. Đó là: Thứ nhất, trong khi chúng ta chưa thiết lập mối quan hệ lâu dài và bền vững với những tập đoàn, công ty xuyên quốc gia có tiềm năng về vốn và công nghệ thì đầu tư của các nước trong khu vực chiếm tỷ trọng chủ yếu (khoảng 2/3). Cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ kéo dài sẽ làm giảm sút vốn FDI từ các nước trong khu vực. Thứ hai, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, giá bất động sản, trái phiếu ở các nước ASEAN bị giảm mạnh, kèm theo là khả năng đầu tư mở cửa của các nước này sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài và mua đầu cơ bất động sản, chứng khoán để chờ thời cơ bán đi khi giá tăng trở lại. Thứ ba, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, nhiều công ty, doanh nghiệp của các nước trong khu vực bị phá sản hàng loạt, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài mua lại với giá rẻ các cơ sở sẵn có (không phải đầu tư thêm). Hơn nữa, giá các nhân tố sản xuất rẻ hơn tương đối so với Việt Nam khiến cho các nhà đầu tư đổ vốn vào các nước này hơn là vào Việt Nam. Thứ tư, do cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, trong quan hệ thương mại, Việt Nam cũng phải chịu nhiều sức ép. Hiện nay, 25 - 30 % tổng kim nghạch xuất khẩu sang ASEAN và khoảng 30 - 35% tổng kim nghạch nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN luôn gấp 1,5 lần mức xuất khẩu thì phần lợi thu được của Việt Nam do giá nhập khẩu từ ASEAN có xu hướng giảm; giá nhập khẩu thấp hơn nhiều so với giá xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này đang và sẽ tạo điều kiện cho làn sóng nhập khẩu từ ASEAN vào Việt Nam tăng nhanh. Điều này dễ xảy ra nếu xét cả về danh mục hàng nhập quen thuộc và xu thế giảm thuế, nới lỏng hàng rào phi thuế quan mà Việt Nam phải thực thi từ nay tới năm 2006 theo như cam kết trong khuôn khổ Hiệp ước CEPT để gia nhập AFTA. Xét trên phạm vi toàn thế giới thì sự sụt giảm cảu các đồng tiền trong khu vực sẽ giúp cho hàng xuất khẩu của các nước ASEAN (không kể Việt Nam) sang thị trường các khu vực Bắc Mỹ, Nhật, EU,... sẽ rẻ hơn hiện nay, tạo thêm ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu từ ASEAN so với sản phẩm của Việt Nam. Như vậy, thị trường xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng bị thu hẹp, nhập khẩu có xu hướng tăng nhanh. Điều này sẽ gây đình đốn sản xuất trong nước (kể cả doanh nghiệp có vốn FDI), thâm hụt các cân thương mại tăng nhanh, quy mô GDP bị giảm sút, thu nhập bình quân đầu người bị giảm theo, làm thị trường trong nước vốn nhỏ hẹp lại càng nhỏ hẹp hơn. Mặt khác, sản xuất đình đốn làm cho nguồn thu của ngân sách nhà nước từ thuế giảm đáng kể, dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách tăng nhanh. Những doanh nghiệp trong nước trước đây vốn sản xuất ra các nặt hàng để xuất khẩu hoặc các nguyên vật liệu, phụ tùng, linh kiện cung cấp cho các doanh nghiệp có vốn FDI, trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp thì sản xuất của các doanh nghiệp trong nước cũng bị suy giảm theo. Điều đó có nghĩa là, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, đầu tư trong nước sẽ bị thu hẹp Thứ năm, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, môi trường đầu tư của cả khu vực bị giảm sút sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, do đó Việt Nam cũng bị ảnh hưởng theo. Nói đến thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong cuộc cạnh tranh nhằm thu hút FDI thì không thể không nói đến hiện tượng Trung Quốc. Vốn FDI vào khu vực giảm nhưng Trung Quốc vẫn là một trong những trung tâm thu hút vốn FDI lớn nhất tên thế giới. Cũng giống như Việt Nam, Trung Quốc coi hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là lĩnh vực quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của mình. Những năm gần đây, FDI vào Trung Quốc tăng mạnh. Lượng đầu tư của Trung Quốc hàng năm tương đối lớn, xếp hàng đầu trong các nước đang phát triển, xếp thứ hai thế gới về thu hút đầy trực tiếp nước ngoài, chỉ sau Mỹ. Tính tới cuối năm 1998, Trung Quốc đã phê chuẩn 324.712 dự án hợp tác với nước ngoài, với số vốn ký kết theo hiệp định là 572,52 tỷ USD, số vốn sử dụng thực tế đạt 268,977 tỷ USD. Sức lôi cuốn vốn FDI của Trung Quốc thật đáng kinh ngạc. Năm 1996, Trung Quốc thu hút được 42,7 tỷ USD, chiếm khoảng một nửa số vốn FDI và tất cả các nước ở Châu á. Sở dĩ Trung Quốc đạt được kết quả trong thu hút FDI như vậy là do Trung Quốc luôn chú trọng đến việc thu hút nguồn vốn này. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, Hội Nghị trung ương 3 khoá X, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đặt trọng tâm và việc thực hiện chiến lược mở cửa với bên ngoài. Trung Quốc coi chiến lược này như một quốc sách để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế. Môi trường thu hút FDI ở Trung Quốc được cải thiện và có nhiều thuận lợi, ngày càng hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Thể hiện: Điều kiện tự nhiên - chính trị - kinh tế - xã hội thuận lợi, sự can thiệp của Chính phủ đã dần hạn chế... là điều kiện lý tưởng để các nhà đầu tư tiến hành sản xuất kinh doanh. Trung Quốc đã mở cửa trên tất cả các ngành và khu vực, nhiều hạn chế trước đây bị loại bỏ. Thị trường nội địa rộng lớn chưa được khai thác hết vẫn là ưu thế lớn của Trung Quốc, sẽ tạo ra cho các nhà đầu tư nước ngoài rất nhiều cơ hội làm ăn kiếm lời. Với những chính sách thu hút FDI vào Trung Quốc ngày càng hoàn thiện. Nó sẽ khuyến khích các thương gia nước ngoài đến Trung Quốc đầu tư nhiều hơn nữa. Trung Quốc đang dần bước vào cạnh tranh ngang hàng nới các cường quốc, nếu không có ưu thế kỹ thuật và sự độc đáo trong kỹ thuật của riêng mình thì rất khó khai thác được thị trường quốc tế... mà sự nghiệp công nghiệp hoá đòi hỏi. Vì vậy Trung Quốc vẫn cần phải nhập và tiêu hoá những kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài qua việc thay thế kỹ thuật, thiết bị, linh kiện máy móc... Do đó, nhu cầu về vốn của phía Trung Quốc phục vụ cho mục tiêu hiện đại hoá của họ là rất lớn. Đồng thời với việc tích cực huy động vốn trong nước, Trung Quốc sẽ còn tiếp tục khuyến khích đầu tư từ bên ngoài. Như vậy, ta có thể thấy, mặc dù xu hướng FDI trên thế giới đang ngày một gia tăng, song không phải nước nào cũng dễ đàng thu hút được. Chính vì thế sự cạnh tranh giành giật nguồn vốn này đang ngày càng diễn ra quyết liệt hơn. Trước những thách thức này, nếu Việt Nam có những chính sách thích hợp, môi trường đầu tư cải thiện hơn thì nguồn vốn của các nước này vẫn có nhiều khả năng chảy vào Việt Nam. II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam 1. ổn định kinh tế vĩ mô ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiền đề cơ bản cho mọi sự tăng trưởng, do đó, cho việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài. Kinh nghiệm quốc tế cũng như ở Việt Nam những năm qua cho thấy, để ổn định vĩ mô, trong môi trường phát triển đầy biến động hiện nay, trước tiên Chính phủ phải có năng lực điều chỉnh chính sách sao cho các chính sách luôn luôn có độ phù hợp cao nhất với các điều kiện phát triển thường xuyên thay đổi. Thực tiễn thời gian qua chứng tỏ những nỗ lực đúng hướng của Chính phủ trong việc tạo lập và duy trì ổn định tiền tệ. Song, không thể phủ nhận một thực tế là trong khi lạm phát và bất ổn định trền tệ là một hiểm hoạ thường trực đối với bất cứ nền kinh tế nào thì việc sử dụng hệ công cụ tiền tệ nhằm ổn định vĩ mô ở nước ta cho đến nay vẫn còn rất nhiều điểm phải sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh. Đối với vấn đề ổn định tiền tệ, vấn đề không chỉ là đưa ra được hệ giải pháp đúng cho một thời ký xác định. Điều quan trọng hơn là năng lực điều chỉnh chính sách và hệ công cụ để chúng thích nghi được với những biến động nhanh chóng của tình hình. Không đạt được điều đó, chắc chắn không nhà đầu tư nước ngoài nào an tâm với sự ổn định, tuy là có thực nhưng không được bảo đảm về tính vững chắc, của môi trường vĩ mô khi ra quyết định đầu tư. Đối với nước ta trong giai đọan tới, do điều kiện phát triển đã thay đổi, để tạo lập ổn định vĩ mô vững chắc và thúc đẩy tăng trưởng nhanh, cần thiết phải thực hiện loại chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu ổn định để hướng tới tăng trưởng. Những mội dung chủ yếu của chính sách tiền tệ này là: Kiên trì chính sách lãi suất dương để phát triển mạnh môi trường tài chính, huy động tối đa nguồn tiết kiệm trong nền kinh tế để tăng năng lực đầu đầu tư cho nền kinh tế. Một chính sách lãi suất dương nói chung luôn luôn có tác động tích cực đến mục tiêu kiềm chế lạm phát. Hạn chế định mức tín dụng không phải trả lãi suất để tăng khả năng hấp dẫn các nguồn vốn nhàn rỗi. Qui định mức dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại không quá cao để tạo cho chúng điều kiện hoạt động thuận lợi hơn. áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái ổn định có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Cùng với việc thi hành các biện pháp trên, thì cũng không được phép bao cấp, không phát hành để bù đắp chi tiêu ngân sách, giảm chi tiêu ngân sách để tăng lượng tiết kiệm và đầu tư nhà nước. Nói một cách cụ thể hơn, để giải quyết tốt vấn đề tiền tệ này, trong thời gian tới, Ngân hàng Trung ương cần hướng nỗ lực chủ yếu của mình vào mục tiêu chính của chính sách tiền tệ là kiểm soát lượng tiền cung ứng. Nhiệm vụ này phù hợp với đòi hỏi của hệ thống kinh tế thị trường hiện đại đối với việc điều hành chính sách tiền tệ. Điều thiết yếu nhất ở đây là Ngân hàng Trung ương có vai trò chủ động và độc lập trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Về các hoạt động ngân sách. Có thể nói mức ổn định của tiền tệ và lạm phát tuỳ thuộc trước tiên vào tình trạng ngân sách. Đối với nước ta, vấn đề cải thiện nguồn thu ngân sách đang là đặt ra gay gắt. Nội dung chính ở đây là hoàn thiện cơ chế thu thuế. Việc áp dụng một hệ thống thuế đơn giản, hiệu quả hơn trong việc tăng và ổn định nguồn thu ngân sách đòi hỏi vai trò hạt nhân của hệ thống thuế tính theo giá trị gia tăng và nguyên tắc đơn giản các sách thuế, mức thuế chung giảm xuống để có thể mở rộng diện thu thuế. Đồng thời cũng cần phải hợp lý hoá các khoản chi tiêu của chính phủ. Mặt khác trong quan hệ trực tiếp với hoạt động đầu tư, cần tạo ra môi trường tài chính trực tiếp bảo đảm cho sự vận động của vốn nói chung, vốn nước ngoài nói riêng. Có thể nêu ra một số yếu tố chính cấu thành môi trường này là: lãi suất, tỷ giá hối đoái và thị trường tài chính. Về vấn đề tỷ giá hối đoái thì cần thực hiện một chính sách tỷ giá hối đoái sao cho vừa bảo đảm thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, vừa không gây ra sự xáo động trong hệ thống lưu thông tiền tệ. Giữ tỷ giá ổn định trong trạng thái động, tức là điều chỉnh tỷ giá tương ứng với mức lạm phát của các đồng tiền và góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cơ chế tăng trưởng xuất khẩu. Sự vận động của tỷ giá hối đoán phải tuân theo qui luật cung cầu, song vẫn phải có sự điều tiết của Nhà nước. Sự khó khăn nằm ở chỗ huy động vốn nước ngoài là để tăng trưởng. Mà tăng trưởng, theo nghĩa thực của nó, hàm chứa những yếu tố động, gây mất ổn định. Một chiến lược tăng trưởng, nếu không xử lý tốt mối quan hệ song đôi này, sẽ có nguy cơ gây mất ổn định và đặt ra những trở ngại khó khắc phục cho quá trình tăng trưởng lâu bền. Nhiều quốc gia, do không giải quyết được vấn đề này, đã tự đánh mất hoặc thu hẹp cơ may tiếp cận đến nguồn vốn nước ngoài. 1.1. Về chính sách ngân sách Đảm bảo thu ngân sách: tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc do sản xuất kinh doanh, thực hiện những điều chỉnh cần thiết một số qui định về thuế, làm cho thuế trở nên đơn giản, công bằng, phù hợp với điều kiện thực tế. Ngành thuế và hải quan theo sát tình hình sản xuất, kinh doanh để thu đúng, thu đủ, chống thất thu, khai thác các nguồn thu còn nhiều tiềm năng, nhất là diện chịu thuế còn bị bỏ sót. Quản lý chặt chẽ chi tiêu ngân sách: triển khai tích cực pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, sử dụng nguồn dự phòng ngân sách. 1.2. Về chính sách tiền tệ ngân hàng Đẩy mạnh việc chấn chỉnh, củng cố toàn diện hệ thống ngân hàng bảo đảm an toàn hệ thống và ổn định xã hội. Kiện toàn các ngân hàng thương mại quốc doanh, sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần. Ngân hàng nhà nước khẩn trương hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng: yêu cầu đặt ra là phải đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, (cơ cấu lại tài sản có, cơ cấu lại nợ, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính, tăng thêm vốn và cơ cấu lại vốn sở hữu trong ngân hàng, cơ cấu lại mô hình tổ chức và quản lý). Thực hiện chính sách tiền tệ có kiểm soát chặt chẽ, kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt, tạo điều kiện giảm lãi suất để đẩy mạnh huy động vốn, mở rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế. Thực hiện điều hành tỷ giá hối đoái theo cơ chế linh hoạt, gắn với quan hệ cung cầu ngoại tệ qua theo dõi chặt chẽ diễn biến thị trường trong và ngoài nước nhằm đảm bảo khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ. 2. Cải thiên môi trường pháp lý 2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển theo đúng định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Ngiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng: Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh; đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ. Đa dạng hóa hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn; nghiên cứu khu kinh tế mở. Mở rộng lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được xây dựng, kinh doanh nhà ở và xây dựng, kinh doanh phát triển khu đô thị mới; khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ khoa học, công nghệ dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; từng bước mở rộng khả năng hợp tác đầu tư trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục giảm dần, tiến tới xoá bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất theo các nguyên tắc của thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm; cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ phục vụ hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Bảo hộ có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng. Giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm việc cho phép tư nhân trong nước đã được cấp quyền sử dụng lâu dài được cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê lại đất trong thời hạn được cấp quyền sử dụng đất. 2.2. Cải cách thủ tục hành chính Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngiên cứu xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở Trung ương và địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết vấn đề phát sinh; thực hiện chế độ giao ban định kỳ giữa các Bộ, ngành Trung ương với các địa phương có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài; duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cải tiến mạnh thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư. Lập tổ công tác liên nghành do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì để rà soát có hệ thống tất cả các loại Giấy phép, các quy định liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trên cơ sở đó có kiến nghị bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các Bộ, nghành, địa phương quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục không cần thiết; kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền. 3. Nâng cấp cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay là yếu kém so với khu vực. Tình trạng này không chỉ làm kìm hãm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy, những quốc gia chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng thì rất nhanh chóng thu hút vốn đầu tư nước ngoài với khối lượng lớn. Các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng vì vốn lớn và thời gian thu hồi vốn dài. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì điện, nước, phương tiện giao thông, thông tin liên lạc... là các yếu tố hàng đầu của một công cuộc đầu tư thuận lợi. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Nó đòi hỏi sự tham gia và phối hợp đồng bộ của các cấp các ngành. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là một quá trình đầu tư lớn, đòi hỏi phải có sự tính toán kỹ lưỡng, quy hoạch chi tiết của các ngành, vùng, nên tập trung vào những vùng trọng điểm, các Khu công nghiệp, tạo ra những nơi hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cũng cần phải cân nhắc tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Xây dựng các dự án khả thi để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn nhanh. Khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng áp dụng hình thức BOT. Kết hợp xây dựng hạ tầng cơ sở với các dự án khai thác tài nguyên với các chính sách ưu đãi nhà đầu tư khai thác, sử dụng, sản xuất và tiêu thu sản phẩm. 4. Một số giải pháp khác 4.1. Thống nhất nhận thức về vai trò của FDI đối với quá trình phát triển kinh tế Việt Nam Để đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài điều quan trọng trước tiên là phải có sự thống nhất về nhận thức xã hội. Phải thấy được vai trò to lớn của vốn FDI đối với nền kinh tế, và phải thấy được cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt về thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các nước trong khu vực. Từ đó để thấy được việc cải thiện môt trường đầu tư là một việc làm đòi hỏi tính liên tục và nhất quán. 4.2. Nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu lực điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài Thời gian qua các cơ quan quản lý Nhà nước của Việt Nam còn coi nhẹ công tác quản lý: các cơ quan quản lý Nhà nước không nắm được tình hình hoạt động của doanh nghiệp làm kéo dài tình trạng sản xuất đình trệ, thủ tục hành chính rườm rà ảnh hưởng đến mồi trường đầu tư. Nhiều trường hợp xử lý không đúng pháp luật mà thiên về biện pháp quản lý hành chính, một số cơ quan tự đề ra một số quy định riêng về quản lý doanh nghiệp, giá bán điện... trái với quy định chung của Nhà nước làm cho các nhà đầu tư hoài nghi về chính sách và pháp luật của Việt Nam. Có thể nói, trong toàn bộ chu trình của dự án, khâu quản lý là khâu quan trọng nhất quyết định đến sự thành công của từng dự án cụ thể và theo đó là toàn bộ hoạt động hợp tác đối tác. Vì thế cần phải nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm và xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ tổng hợp, các bộ quản lý nghành trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài, kịp thời sử lý các vấn đề phát sinh, bổ sung và điều chỉnh chính sách, cơ chế tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các dự án đầu tư. Đồng thời giám sát các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đúng các mục tiêu hoạt động, quy định của pháp luật, hướng dẫn và quản lý hoạt động đầu tư ở các cấp ngành. Cụ thể: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng chế độ giao ban với Bộ tài chính, Bộ thương mại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục địa chính, Tổng cục Hải quan về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài; chủ trì giao ban cùng với các địa phương để nắm tình hình đầu tư theo địa bàn. Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh và thành phố chủ trì xây dựng chế độ giao ban với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn.Việc kiểm tra doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần được chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh theo đúng quy định hiện hành; kiên quyết xoá bỏ tình trạng ra quyết định và kiểm tra không đúng pháp luật; lợi dụng kiểm tra để gây phiền hà cho doanh nghiệp. Đồng thời phải quy định rõ thời hạn giải quyết các yêu cầu của nhà đầu tư đối với tất cả các Bộ, nghành và địa phương, nghiêm trị mọi hoạt động sách nhiễu gây khó khăn phiền hà cho các nhà đầu tư... 4.3. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo, tăng cường hoạt động của tổ chức Đảng, Công đoàn Chú trọng tăng cường công tác cán bộ và đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật làm việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể theo các Đề án sau: Xây dựng quy chế các bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, quy định rõ tiêu chuẩn tuyển chọn về chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng đề án tổ chức đào tạo theo nhều hình thức đối với các bộ làm công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tổ chức thường xuyên việc tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng Đề án tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước hết là phục vụ cho các khu công nghiệp lớn. 4.4. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư Đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư. Triển khai các chương trình cụ thể, hướng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ nguồn. Căn cứ và Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư quan trọng, lựa chọn, mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong nghành, lĩnh vực đó vào để đàm phán, tham gia đầu tư và các dự án. Chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam. Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác AIA, ASEAN, APEC, ASEM, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp.. Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội. Các cơ quan đại diện ngoại giao - thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư và Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, nghành và địa phương. Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, nghành, địa phương. Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. Xây dự hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang web về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biều dương những dự án thành công. Kết luận Sau hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, tổ chức ASEAN tới nay đã bao trùm toàn bộ 10 nước trong khu vực Đông Nam á, tỏ rõ là một thực thể mang tính thống nhất trong đa dạng. Tốc độ phát triển kinh tế chung của các nước trong khối ASEAN nhìn chung tăng ổn định qua các năm. Ngay cả khi bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997, song các nước này cùng phục hồi nhanh chóng và tạo lại đà tăng trưởng. Các nước luôn cố gắng phát huy những lợi thế sẵn có (như: tài nguyên thiên nhiên phong phú, lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ ...) cùng với sự nỗ lực từ phía Chính phủ, nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước. Bên cạnh đó, các nước còn hợp tác lẫn nhau trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nhằm tạo thuận lợi cho nguồn vốn đầu tư di chuyển giữa các nước. Đặc biệt nó tạo ra một điều kiện chung trong toàn khu vực để thu hút nguồn vốn bên ngoài đổ vào các nước ASEAN. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung luật đầu tư nước ngoài của từng nước theo hướng tạo môi trường đầu tư thông thoáng, tăng thêm các điều kiện ưu đãi, AFTA với công cụ thực hiện chủ yếu là CEPT tác dụng với cả hàng hoá thông thường lẫn vốn đầu tư đã cho phép ASEAN nâng cao khả năng cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các khu vực và các nước trôn thế giới những năm đầu của thập kỷ 90. Kết quả là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN tăng lên nhanh chóng trong những năm qua. ASEAN trở thành nơi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất so với các nước và các khu vực đang phát triển trên thế giới. Nếu như các nước ASEAN tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư của mình theo hướng hoàn thiện, thông thoáng và ưu đãi hơn thì lượng vốn FDI vào khu vực này sẽ không ngừng tăng lên. Nghiên cứu về môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN cũ, trước hết giúp cho Việt Nam và các nước ASEAN đi sau khác nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc cải thiện môi trường đầu tư trong cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên cơ sở đó đưa ra những mục tiêu định hướng và giải pháp nhằm thu hút được nhiều vốn FDI hơn. Quốc gia Biện pháp khuyến khích Mức thuế Thời gian xử lý đơn xin cấp phép FDI Brunây Các công ty hướng qui chế tiên phong được miễn thuế công ty, thuế nhập khẩu nhuyên liệu và tư liệu sản xuất trong thời gian 8 năm. Công ty mở rộng kinh doanh được phê duyệt có thể được miễn thuế 5 năm. - Miễn thuế thu nhập từ vốn. - Thuế chuyển lợi nhuận về nước 20%. - Thuế công ty: 30% Từ 2 đến 3 tháng Campuchia Thuê công ty là 90% trừ một số ngành. - Miễn thuế công ty 8 năm. - Miễn thuế xuất khẩu. - Mức thuế lợi nhuận chuẩn đối với công ty và doanh nghiệp Nhà nước (PES) là 20%. - Thuế luỹ tiến đánh vào cá nhân thường trú có mức trần là 20%. - Người đóng thuế có thể xin chuyển các khoản lỗ sang năm sau trong thời gian 5 năm. Uỷ ban hợp tác phát triển CDC sẽ ra quyết định phê duyệt hay loại bỏ đơn xin cấp phép trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ xin cấp phép đầy đủ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoaluan.DOC
  • docBia.doc
  • docLV.doc
  • docPHULUC.DOC
Tài liệu liên quan