Khóa luận Đánh giá triển vọng phát triển hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang

MỤC LỤC MỤC LỤC ii DANH MỤC CÁC BẢNG ii DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ ii DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ii Chương 1: Giới thiệu 2 1.1. Lý do chọn đề tài: 2 1.2. Mục tiêu nghiên cứu: 2 1.3. Phương pháp nghiên cứu: 2 1.4. Phạm vi nghiên cứu: 2 1.5. Ý nghĩa đề tài: 2 Chương 2: Cơ Sở Lý Luận 2 2.1. Các khái niệm: 2 2.1.1. Vai trò của protein và chất lượng protein thức ăn: 2 2.1.2. Việc sử dụng khô dầu đậu nành trong thức ăn chăn nuôi 2 2.1.3. Hành vi mua của khách doanh thương: 2 2.1.4. Chu kì sống của sản phẩm: 2 2.2. Mô hình nghiên cứu: 2 Chương 3: Giới thiệu về công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang (ANGIMEX) 2 3.1. Sơ lược về công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang: 2 3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển: 2 3.1.2. Lĩnh vực hoạt động: 2 3.1.3. Cơ cấu tổ chức: 2 3.2. Tình hình kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang qua các kì 2 3.2.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần XNK An Giang 2 3.2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành qua các kì 2 Chương 4: Nội dung nghiên cứu 2 4.1. Nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành 2 4.1.1. Đánh giá nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành trên thế giới 2 4.1.2. Đánh giá nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành trong nước: 2 4.2. Nguồn cung khô dầu đậu nành 2 4.2.1. Nguồn cung khô dầu đậu nành thê giới 2 4.2.2. Nguồn cung khô dầu đậu nành trong nước: 2 4.3. Triển vọng phát triển của hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang: 2 4.3.1. Giai đoạn sống của sản phẩm: 2 4.3.2. Năng lực của công ty: 2 Chương 5: Kết Luận 2 Giới thiệu 1.1. Lý do chọn đề tài: Chúng ta đều biết việc gia nhập WTO đã tạo cho Việt Nam một số thuận lợi như được giảm thuế, hàng hóa rẻ hơn Nhưng cũng phải thừa nhận rằng ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và ngành chăn nuôi nói riêng cũng đang gặp không ít khó khăn. Đó là một trong những vấn đề cần được giải quyết sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Thật vậy, theo các chuyên gia ngành nông nghiệp, người chăn nuôi trong nước sẽ bị tác động rõ rệt nhất sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bà Lê Kim Dung, chuyên gia về WTO của Tổ chức Oxfam tại Việt Nam, cho rằng một trong những thách thức rất lớn đối với ngành chăn nuôi Việt Nam thời kỳ hậu WTO là khả năng cạnh tranh hiện rất thấp cả về năng suất, chất lượng và giá cả sản phẩm (1). Nguyên nhân do đâu? Giá nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi ngày một tăng là một trong những nguyên nhân có thể thấy rõ nhất hiện nay khiến giá cả sản phẩm ngành chăn nuôi Việt Nam có khả năng cạnh tranh thấp. Chỉ trong vòng 2 tháng 10 và 11 vừa qua, nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi đã 8 lần tăng giá trong khi chi phí cho thức ăn chăn nuôi chiếm tới 65 – 70% giá thành sản phẩm chăn nuôi điều này đã làm tăng giá thành sản phẩm chăn nuôi cao hơn so với các nước khoảng 25% và đã làm giảm sức cạnh tranh sản phẩm chăn nuôi so với các sản phẩm của nước khác. Chiếm từ 10 – 20% trong khẩu phần thức ăn chăn nuôi hỗn hợp và 60 – 70% trong thức ăn đậm đặc, khô dầu đậu nành là thành phần quan trọng trong thức ăn chăn nuôi, do đó viêc tăng giá khô dầu đậu nành đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tăng chi phí trong chăn nuôi. Có nhiều nguyên nhân khiến giá nguyên liệu này tăng điển hình như do nguồn nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi ở nước ta còn phụ thuộc vào nước ngoài (theo thống kê của cục chăn nuôi, chúng ta đang phải nhập khẩu từ 20 – 25% nguyên liệu giàu năng lượng, 65 – 70% nguyên liệu giàu đạm và 85 – 90% thức ăn bổ sung để chế biến thức ăn chăn nuôi, phải bỏ ra mấy tỷ đô la để nhập khẩu bã bắp và bã đậu nành hay còn gọi là khô dầu đậu nành từ Hoa Kì, Argentina .); trong khi đó, sản lượng Ethanol trên thế giới (được sản xuất chủ yếu từ ngô, khô đậu nành) tăng nhanh từ 10.770 triệu gallon năm 2004 lên 13.500 triệu gallon năm 2007; điều này cộng với việc Trung Quốc từ một nước xuất khẩu ngô và đậu nành đã chuyển sang nhập khẩu một lượng lớn mặt hàng này; thêm vào đó, Mỹ đã giảm diện tích trồng đậu nành . Thực tế cho thấy cầu sử dụng khô dầu đậu nành đang lớn hơn cung do đó giá nguyên liệu này ngày càng tăng. Vì thế, việc định hướng, đánh giá triển vọng phát triển của ngành hàng này là rất quan trọng đối với đơn vị đang kinh doanh khô dầu đậu nành. ANGIMEX cũng thế, kinh doanh khô dầu đậu nành là một trong những hoạt động kinh doanh tại công ty. Công ty sẽ tiếp tục đầu tư vào hoạt động kinh doanh này không hay sẽ chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác? Đó là vấn đề cần phải được đánh giá thật kỹ để có giải pháp tốt nhất. Vì thế, đề tài “Đánh giá triển vọng phát triển hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang” được triển khai thực hiện hy vọng góp phần giúp công ty có thể đề ra giải pháp phù hợp cho hoạt động kinh doanh này tại công ty. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài “Đánh giá triển vọng phát triển hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang” nhằm thực hiện các mục tiêu sau:  Đánh giá nhu cầu tiêu thụ của mặt hàng này trên thị trường nói chung và các khách hàng của công ty nói riêng.  Đánh giá khả năng cung ứng khô dầu đậu nành trên thị trường nói chung và công ty đối tác nói riêng  Đánh giá triển vọng phát triển của hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty xuất nhập khẩu An Giang

doc49 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1794 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đánh giá triển vọng phát triển hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhu cầu thế giới bằng cách tổng hợp các thông tin từ Internet và các bài báo. Riêng đối với thông tin nhu cầu tiêu dùng trong nước, một mặt điều tra các hộ chăn nuôi, các đối tác là khách hàng công ty, một mặt cũng phải thu thập thông tin từ Internet và các chính sách của chính phủ. Kết luận nhu cầu tiêu dùng thông qua sự đánh giá nhu cầu trong nước và thế giới Đánh giá nguồn cung cũng phải đánh giá nguồn cung trong nước và nguồn cung nước ngoài. Do đa phần công ty phải nhập khẩu sản phẩm nên việc thu thập thông tin đối tác cũng không phải dễ dàng nên thông tin nguồn cung chủ yếu thu thập từ Internet. Kết hợp thông tin về nhu cầu tiêu dùng và nguồn cung, bên cạnh đó còn phải xem xét đến sản phẩm thay thế khô dầu đậu nành và đánh giá giai đoạn của khô dầu đậu nành trong chu kì sống sản phẩm. Từ đó mới có thể đánh giá được triển vọng phát triển của hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phẩn xuất nhập khẩu An Giang. Chương 3: Giới thiệu về công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang (ANGIMEX) Sơ lược về công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang: Lịch sử hình thành và phát triển: Năm 1976: Ngày 23 tháng 7, UBND tỉnh An Giang ban hành Quyết định số 73/QĐ-76, do Chủ tịch tỉnh Trần Tấn Thời ký, thành lập Công ty Ngoại thương An Giang. Tháng 9/1976, Công ty chính thức đi vào hoạt động, trụ sở đặt tại Châu Đốc. Năm 1979: Đổi tên thành Công ty Liên hợp xuất khẩu tỉnh An Giang, trụ sở tại thị xã Long Xuyên. Năm 1981: Nhận Bằng khen của Bộ Ngoại thương. Năm 1982: Nhận Cờ thi đua xuất sắc ở 9 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Thành lập Trạm giao nhận TP. Hồ Chí Minh (nay là chi nhánh TP.HCM) Năm 1983: Đón nhận Huân chương lao động hạng 3. Năm 1985: Đón nhận Huân chương lao động hạng 2. Năm 1988: Đổi tên thành Liên hiệp Công ty Xuất Nhập Khẩu tỉnh An Giang. Năm 1989: Nhận Cờ luân lưu của Hội đồng Bộ trưởng tặng đơn vị dẫn đầu ngành Ngoại thương. Năm 1990: Nhận Cờ thi đua xuất sắc của Bộ Thương mại. Năm 1991: Thành lập Công ty liên doanh ANGIMEX – KITOKU. Nhận cờ thi đua xuất sắc của Bộ Nội vụ. Năm 1992: Đổi tên thành Công ty Xuất Nhập Khẩu An Giang. Năm 1995: Đón nhận Huân chương lao động hạng 1. Năm 1998: Được Bộ Thương Mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp. Thành lập đại lý ủy nhiệm đầu tiên của hãng Honda. Năm 2004: Thành lập Trung tâm Phát triển Công nghệ thông tin NIIT – ANGIMEX. Năm 2005: Đón nhận chứng chỉ ISO 9001 – 2000. Khai trương đại lý điện thoại S-Fone – ANGIMEX. Năm 2007: Được bình chọn 500 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam. Năm 2008: Chính thức chuyển đổi thành công ty cổ phần Tên doanh nghiệp: CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU AN GIANG. Tên giao dịch quốc tế: AN GIANG IMPORT – EXPORT COMPANY. Tên viết tắt: ANGIMEX. Trụ sở chính: Số 1, đường Ngô Gia Tự, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Điện thoại: 84.76.841548 – 841048 – 841286 Fax: 84.76.843239. E-mail: rice@angimex.com.vn Website: www.angimex.com.vn Mã số thuế: 1600230737-1. Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín các năm: 2004, 2005, 2006, 2007. Lĩnh vực hoạt động: Xuất nhập khẩu: ANGIMEX có năng lực sản xuất 350.000 tấn gạo/năm với hệ thống các nhà máy chế biến lương thực được phân bố tại các vùng nguyên liệu trọng điểm, giao thông thuận lợi, sức chứa kho trên 70.000 tấn và hệ thống máy xay xát, lau bóng gạo hiện đại, chất lượng sản phẩm được quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Mỗi năm công ty xuất khẩu từ 300.000 – 350.000 tấn gạo các loại sang các thị trường như: Singapore, Malaysia, Philippines, Indonesia, Africa, Iran, Iraq, Cuba, Hongkong, Cambodia. Sản phẩm : Gạo: 5% tấm, 10% tấm, 15% tấm, 25% tấm. Nếp. Gạo thơm. Gạo nhật. Nhập khẩu các thiết bị, vật tư nông nghiệp, phân bón và hàng tiêu dùng thiết yếu khác. Thức ăn chăn nuôi: Thông tin liên hệ : ĐT: 076. 833437 – Fax: 076. 833436 Email: xnbb-angimex@hcm.vnn.vn Phân bón: Thông tin liên hệ : ĐT: 076. 833437 – Fax: 076. 833436 Email: xnbb-angimex@hcm.vnn.vn Honda: Honda dẫn đầu trên thế giới trong việc sản xuất xe gắn máy, phân phối đến quý khách xe gắn máy với chất lượng tuyệt vời. Công ty hiện có 3 cửa hàng bán xe và làm dịch vụ do Honda ủy nhiệm. Đảm bảo thoả mãn mọi nhu cầu về phụ tùng chính hiệu Honda với cùng một chất lượng và giá cả thống nhất trên toàn quốc. Đến với CỬA HÀNG BÁN XE VÀ DỊCH VỤ do Honda ủy nhiệm để được cung cấp: Trang thiết bị hiện đại theo tiêu chuẩn của Honda. Đội ngũ kỹ thuật viên lành nghề được Honda trực tiếp đào tạo. Phụ tùng chính hiệu Honda với chất lượng toàn cầu. Bảo hành cho chất lượng sửa chữa 3 tháng miễn phí.  Tư vấn Dịch vụ miễn phí. Mọi thông tin vui lòng liên hệ: Cửa hàng Honda Long Xuyên (ANGIMEX 1): Số 4, Ngô Gia Tự, Mỹ Long, Long Xuyên, An Giang – ĐT: 076. 845338 Đại lý ủy nhiệm 2 của Honda Long Xuyên: 207, Trần Hưng Đạo, Mỹ Bình, Long Xuyên, An Giang – ĐT: 076. 859667 Cửa hàng Honda Châu Đốc (ANGIMEX 2): Nguyễn Văn Thoại, Châu Phú A, Châu Đốc, An Giang – ĐT: 076. 866520 Cửa hàng Honda Bà Khen (ANGIMEX 3): 16/5A Trần Hưng Đạo, Mỹ Quý, Long Xuyên, An Giang – ĐT: 076. 933439 - Fax: 076. 933439 Điện thoại: Angimex Mobile : Chuyên cung cấp sỉ và lẻ các loại điện thoại của các hãng: Nokia, Samsung, Motorola, Sony Ericson, Vcall, Mobell, Welcome,…. Thông tin liên hệ: Tầng trệt Siêu thị Co.op Mart Long Xuyên, 12 Nguyễn Huệ A, Long Xuyên, An Giang. ĐT: 076. 240258 – 940263 Fax: 076. 940263 Email: angimex_mobile@vnn.vn Cửa hàng điện thoại S-Fone : Cung cấp tất cả các sản phẩm và dịch vụ, bảo hành và chăm sóc khách hàng của mạng điện thoại di động CDMA mang thương hiệu S-Fone. CDMA (Code Division Multiple Access) là một công nghệ mới mang tính đột phá được ứng dụng rộng rãi trên khắp thế giới và mang ý nghĩa là tiêu chuẩn chung toàn cầu của thế hệ điện thoại di động thế hệ 3 mà thế giới mong muốn đạt tới. CDMA cung cấp chất lượng âm thanh trung thực và rõ ràng hơn hệ thống di động sử dụng công nghệ khác, tính bảo mật cao, ít tốn pin và truyền dữ liệu với tốc độ cao. Cửa hàng  SFone với chức năng của Trung tâm chăm sóc khách hàng sẽ cung cấp các thông tin về : Các dịch vụ của S-Fone. Cách sử dụng máy điện thoại di động. Các vấn đề liên quan đến thanh toán và cước phí. Các vấn đề nảy sinh khi sử dụng dịch vụ. Giải quyết các thắc mắc, khiếu nại về dịch vụ. Địa chỉ: 02 – Ngô Gia Tự, thành phố Long Xuyên, An Giang. Điện thoại : 076 – 944850. Email: sfone-angimex@vnn.vn Đào tạo: Trung tâm có chức năng Đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và sản xuất kinh doanh. Năm 2004, Công ty ANGIMEX ký thỏa thuận với Học viện NIIT (Ấn Độ) – một trong những học viện CNTT hàng đầu thế giới, nhượng quyền thương hiệu và công nghệ đào tạo của học viện này. Theo đó, NIIT sẽ cung cấp và kiểm soát việc thực hiện công nghệ đào tạo tên gọi Master Mind do Trung tâm Phát triển CNTT của Angimex đảm nhiệm. Master Mind là chương trình đào tạo chuyên viên CNTT hệ hai năm cho các chuyên ngành: chuyên viên phần mềm và chuyên viên quản trị mạng. Học viên tốt nghiệp sẽ nhận được bằng do NIIT cấp là DNIIT (phần mềm) hoặc Honors Diploma in NETWORK ENGINEERING (quản trị mạng) có giá trị quốc tế. Với bằng cấp này, học viên tốt nghiệp có thể liên thông để có thể lấy bằng cử nhân tại các trường đại học quốc tế liên kết với NIIT. Định hướng phát triển: Củng cố dịch vụ đào tạo lập trình viên quốc tế với hai chuyên ngành: công nghệ mạng (Network Engineering) và công nghệ phần mềm (Software Engineering). Mở rộng dịch vụ đào tạo khác như: sửa chữa máy tính, thiết kế và quản lý mạng, thiết kế website, ….. Mở rộng dịch vụ sang thiết kế web, xây dựng phần mềm ứng dụng, lắp đặt hệ thống mạng cho doanh nghiệp, thiết kế - lắp đặt phòng game, internet; sửa chữa máy vi tính. Chuyên doanh thiết bị, linh kiện máy vi tính. Phương châm hoạt động: “tất cả vì lợi ích của khách hàng”. Địa chỉ: 02 – Ngô Gia Tự, thành phố Long Xuyên, An Giang Điện thoại: 076 – 842522 Fax : 076- 842544 Email: it-angimex@hcm.vnn.vn Cơ cấu tổ chức: Đại hội đồng cổ đông Đại Hội Đồng Cổ Đông Hội Đồng Quản Trị Tổng Giám Đốc Ban Kiểm Soát Giám Đốc TT KD TH ANGIMEX Giám Đốc TT Honda ANGIMEX Giám Đốc Lương Thực Giám Đốc TT KD TH ANGIMEX P. Bán Hàng Phó Tổng Giám Đốc Chi Nhánh TP.HCM P. Hành Chính P. Nhân Sự P. Tài Chính Kế Toán P. Phát Triển Chiến Lược P. Điều Hành KH Lương Thực CH Honda Long Xuyên CH Honda Châu Đốc CH AGM 3 BPKD Phân Bón BPKD Điện Thoại BPKD Thức Ăn Chăn Nuôi CNLT AGM LX CNLT AGM TS Sơ đồ 3-1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang Tình hình kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang qua các kì Đặc điểm hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần XNK An Giang Khô dầu đậu nành – bã đậu nành là phụ phẩm của quá trình chế biến hạt đậu nành thành đậu phụ hoặc thành sữa đậu nành. Nó có mùi thơm, vị ngọt vật nuôi thích ăn. Hàm lượng prôtêin trong bã đậu nành rất cao 46% - 48% và hàm lượng chất béo thấp. Kinh doanh khô dầu đậu nành là một trong những hoạt động kinh doanh tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang và một trong những hoạt động kinh doanh có hiệu quả tại công ty. Nguyên liệu chủ yếu được công ty nhập khẩu từ các nước Ấn Độ, Achentina với số lượng tương đối lớn có thể lên đến 2000 tấn/1 lần nhập khẩu, bình quân mỗi lần nhập khẩu từ 400 – 1000 tấn/ lần với giá nhập khẩu theo điều kiện CNF FO (Cost and Freight Free Out). Nguyên liệu cũng được công ty mua từ các công ty khác trong nước nhưng vơi số lượng tương đối ít không đáng kể so vơi lượng nhập khẩu, chỉ mua nguyên liệu khi hàng nhập về không đủ cung cấp cho khách hàng. Khách hàng mua nguyên liệu khô dầu đậu nành của công ty thường là các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, một số khách hàng là các hộ chăn nuôi với quy mô vừa và quy mô tương đối lớn, ngoài ra còn có một số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ nếu họ có nhu cầu sử dụng nguyên liệu. Nguyên liệu sau khi được nhập khẩu về, công ty phân phối sản phẩm cho các khách hàng theo hợp đồng cho nên giảm được phần nào chi phí lưu kho góp phần tạo nên sự cạnh tranh về giá so với các đối thủ như Gentraco, Afiex, công ty cổ phần du lịch An Giang. Tình hình hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành qua các kì Hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty luôn tăng qua các kì kể từ khi hoạt động kinh doanh mặt hàng này đến nay. Nếu năm 2007, công ty thu được 37,5 tỷ đồng từ việc kinh doanh mặt này thì chỉ trong vòng 4 tháng đầu năm 2008 doanh thu đã vượt mức 2007 đạt 58 tỷ đồng và theo kế hoạch dự kiến doanh thu từ hoạt động kinh doanh mặt hàng sẽ tăng trên 2 lần so với năm 2007 cụ thể mức doanh thu dự kiến sẽ đạt 82,2 tỷ trong năm 2008. Biểu đồ 3-1: Doanh thu hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang chỉ đạt gần 1,6 tỷ trong năm 2007 thì tính đến tháng 4 năm 2008, lợi nhuận đã đạt trên 3 tỷ. Biểu đồ 3-2: Lợi nhuận kinh doanh khô dầu đậu nành Nhìn chung, tình hình kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang đang có xu hướng tăng trưởng kể từ khi hoạt động kinh doanh đến nay. Doanh thu và lợi nhuận gia tăng nhanh và ở mức cao. Chương 4: Nội dung nghiên cứu Nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành Đánh giá nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành trên thế giới FAO cho rằng nhu cầu tiêu dùng thịt trên toàn cầu có thể tăng 58% trong 25 năm từ năm 1995 đến năm 2020 lên 313 triệu tấn. Trong số này, các nước đang phát triển chiếm hơn 85% lượng gia tăng. Nói một cách tổng thể, nhu cầu tại các nước đang phát triển dự kiến tăng nhanh hơn ở các nước phát triển 3 lần. Nhu cầu thịt gia cầm dự kiến tăng hơn 85%, thịt bò hơn 80% và thịt lợn tăng hơn 45%. Theo báo cáo “Triển vọng thị trường nông nghiệp và mức thu nhập giai đoạn 2005 – 2012” của Ủy ban Châu Âu (EC), bảy năm sắp tới vùng Châu Á Thái Bình Dương sẽ là vùng nhu cầu sản phẩm chăn nuôi tăng mạnh nhất. Do tăng dân số và tăng thu nhập Châu Á và Châu Mỹ Latinh nên dự báo thịt lợn sẽ tiếp tục tăng cả về khối lượng sản xuất cũng như mức độ tiêu thụ. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Chính sách Thực Phẩm – Nông nghiệp Mỹ (FAPRI) và Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD), trong 7 năm sắp tới sản xuất thịt lợn thê giới tiếp tục tăng vừa phải ở mức 7 – 13%. Mậu dịch toàn cầu dự báo sẽ tăng từ 2,6 đến 3,9%/năm. Mức tăng chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu lớn của một số nước Châu Á, nhất là Nhật Bản, Trung Quốc và Hồng Kông. Dưới đây là dự báo nhu cầu nhập khẩu thịt lợn (000T thân thịt) của Viện Nghiên cứu Chính sách Thực Phẩm – Nông nghiệp Mỹ. Bảng 4-1: Dự báo nhu cầu tiêu dùng thịt lợn ở Châu Á ĐVT: Nghìn Tấn Năm 2004 Năm 2012 Nhật 1.225 1.482 Nga 499 435 Hàn Quốc 189 246 Mehico 315 544 Trung Quốc - 142 Hồng Kông 317 390 (Nguồn: tạp chí khoa học kĩ thuật Chăn nuôi – năm thứ 14 Số 8[90] – 2006 trang 50.) Thật vậy, Tổng cục Thống kê Trung Quốc cho biết, trong 7 tháng đầu năm 2007, Trung Quốc đã nhập khẩu 30.000 tấn thịt lợn tăng 6% so với cùng kì. Nhu cầu sử dụng thịt lợn cũng tăng ở Anh, theo các số liệu từ Tập đoàn nghiên cứu thị trường TNS của Anh, trong vòng 12 tuần trở lại vào tháng 02/2008 số lượng bán các mặt hàng chân lợn và xương sườn lợn ở quốc gia này đã tăng khoảng 10% phần lớn là hàng tươi sống và đông lạnh. Ở một vài cơ sở bán lẻ, chân giò chiên có giá tăng 33% trong khi, xương sườn chiên tăng 37% so với cùng kỳ. Hơn thế, giá thịt lợn mua tại các cửa hàng bán lẻ và số lượng người mua cũng tăng hơn so với 3 tháng trước. Nhà quản lý marketing người tiêu dùng của BPEX - Cơ quan điều hành và kiểm soát thịt lợn ở Anh, Chris Lamb cho biết: “ điều này cho thấy rằng nhu cầu tiêu dùng thịt lợn tăng như thế nào cho dù giá của mặt hàng này tăng mạnh trong thời gian vừa qua”. Nhu cầu tiêu thụ thịt lợn tăng theo đó sản lượng và quy mô chăn nuôi sẽ tăng dẫn đến nhu cầu khô dầu đậu nành sẽ tăng. Theo số liệu thống kê việc nhập khẩu khô dầu đậu nành của Trung Quốc qua các năm ngày càng tăng, giai đoạn 1996/97, sản lượng đậu nành trong nước và nhu cầu khá tương đồng sản lượng chỉ khoảng 13,5 triệu tấn trong khi nhu cầu chỉ khoảng 14,1 triệu tấn, lượng nhập khẩu là không đáng kể chỉ khoảng 0,04%. Tuy nhiên kể từ giai đoạn 2000/2001 đến nay, nhu cầu tại TQ thực sự bùng nổ kéo theo nhu cầu nhập khẩu cực kỳ lớn, năm 2004/2005 lượng nhập khẩu là 25,8% chiếm hơn 63% nhu cầu sử dụng, năm 2006/2007 lượng nhập khẩu khô dầu đậu nành tăng lên 28,8 triệu tấn cụ thể qua bảng sau: Bảng 4-2: SẢN LƯỢNG, NHU CẦU VÀ KHỐI LƯỢNG NHẬP KHẨU CỦA TRUNG QUỐC (triệu tấn) Năm Sản lượng Nhu cầu Nhập khẩu 1995/96 13,5 14,1 0,8 1996/97 13,2 15,3 2,3 1997/98 14,7 15,5 2,9 2000/01 15,4 26,7 13,2 2003/04 15,4 34,7 16,9 2004/05 17,4 40,6 25,8 2005/06 16,4 45,5 28,3 2006/07 16,2 46,2 28,8 2007/08 14,0 48,5 34,0 (Nguồn: USDA, số liệu 2007/08 được dự đoán bởi WPI ) Bên cạnh đó, sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ thủy sản cũng dẫn đến sự gia tăng nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành. Theo số liệu xuất khẩu thủy sản nước ta sang các thị trường nước ngoài cho thấy nhu cầu nhập khẩu của các nước ngày càng tăng, cụ thể ở thị trường ASEAN tổng lượng 8 tháng đầu năm 2006 xuất khẩu vào thị trường này tăng 29% so với cùng kì năm 2005 và 8 tháng đầu năm 2007 tăng 5% so với cùng kì năm 2006, hay ở thị trường Châu Phi 8 tháng đầu năm 2006 tăng 128,9% so với cùng kì năm 2005 thì đến 8 tháng đầu năm 2007 tăng 134,1% so với cùng kì năm 2006 (3) Số liệu được tổng hợp từ trang 3). Số liệu minh họa như sau: Biểu đồ 4-1: Số lượng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị trường (Nguồn: Theo WWF cho biết nhu cầu đậu nành làm thức ăn gia súc từ Châu Âu và Trung Quốc đã kích thích việc xuất khẩu. Dự tính trong vòng 20 năm tới nhu cầu này sẽ tăng thêm 60%. Tổ chức còn cho biết thêm rằng sản lượng xuất khẩu đậu nành (chủ yếu dùng làm thức ăn súc vật) đã tăng hơn gấp đôi trong vòng 20 năm. Các phân tích trên cho thấy thế giới đang có nhu cầu về khô dầu đậu nành cả hiện tại và tương lai. Đánh giá nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành trong nước: Theo bài “Phân tích nhu cầu về thức ăn chăn nuôi ở vùng Đông Nam Bộ” của Thạc sỹ Lê Thị Lan thì dự báo đến năm 2010 nhu cầu thức ăn công nghiệp vào khoảng 9,1 – 10,3 triệu tấn, nhưng chưa tính đến nhu cầu thức ăn của nuôi trồng thủy sản. Kết quả dự báo ở bảng sau: Bảng 4-3: Dự báo nhu cầu TACN đến năm 2010 Loại sản phẩm Lượng TA cho 1kg sản phẩm (kg) Khối lượng (tr.tấn) Nhu cầu TACN (tr.tấn) Heo 3,01 12,76 + Heo nuôi công nghiệp (20%) 3,20 0,60 1,93 + Heo nuôi bán thâm canh (80%) 4,50 2,41 10,84 Thịt gia cầm 2,80 0,34 0,95 Bò thịt 0,60 0,17 0,10 Bò sữa 0,50 0,26 0,13 Tổng 13,94 (Nguồn: Lê Thị Thanh Lan. (không ngày tháng). Phân tích cầu về thức ăn chăn nuôi (TACN) ở vùng Đông Nam bộ. Đọc từ: Theo quy hoạch ngành chăn nuôi thức ăn, đến năm 2010, nhu cầu thức ăn tinh cần khoảng 18,6 triệu tấn và năm 2015 là 24,1 triệu tấn (4) 4). Nhu cầu thức ăn chăn nuôi tăng cho thấy nhu cầu khô dầu đậu nành cũng tăng vì đây là thành phần tương đối quan trọng cung cấp protein cho vật nuôi và là một trong những loại nguyên liệu chính để sản xuất thức ăn chăn nuôi. Mặt khác, theo sự khảo sát diễn biến giá khô dầu đậu nành cho thấy, thời gian vừa qua khô dầu đậu nành tăng giá từ 4.200đ/kg lên 7.700đ/kg tăng 83% so với đầu năm 2007. Giá nhập khẩu trung bình trong tháng 8/2007 ở mức 300 USD/tấn (tất cả các thị trường đều có lô hàng có mức giá trên 300 USD/tấn-CFR), mức cao nhất trong 3 năm qua; tăng 48 USD/tấn so với đầu năm và tăng 66 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước. Nhìn vào biểu đồ phía dưới về giá nhập khẩu trung bình từ các thị trường thì giá nhập khẩu từ các thị trường luôn bám sát nhau và trên lệch giữa các thị trường là không lớn, trong 3 tháng trở lại đây, giá nhập khẩu có dấu hiệu dừng tăng và duy trì ở mức 300 USD/tấn. Chỉ có duy nhất là giá nhập khẩu từ Ấn Độ tiếp tục tăng và đã lên mức 313 USD/tấn-CFR trong tháng 8/2007. Biểu đồ 4-2: Giá nhập khẩu trung bình từ các thị trường (đvt USD/Tấn) (Nguồn: Cung không đủ cầu là một trong những nguyên nhân dẫn đến giá nguyên liệu này tăng. Thật vậy, Việt Nam là một nước nông nghiệp nhưng ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi đang gặp phải nghịch lí khi không chủ động được các nguồn nguyên liệu chủ chốt có nguồn gốc từ nông nghiệp như ngô, khô dầu đậu nành, bột cá, thức ăn xanh ... Theo thông tin từ bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cho biết, hiện nay nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 70% so với nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu, trong đó khoảng 20% là nguyên liệu giàu năng lượng (ngô, cám, gạo), 80% các loại thức ăn bổ sung, 60 – 70% thức ăn giàu đạm (khô đậu nành, khô dầu lạc, khô dầu bông) và hơn 90% chất phụ gia phải nhập khẩu, chiếm tới 45% giá trị nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi. Số lượng cụ thể theo Cục trưởng Cục chăn nuôi Hoàng Kim Giao cho biết, năm 2007, nhu cầu về nguyên liệu thức ăn chăn nuôi vào khoảng 17 triệu tấn trong đó, trong nước đáp ứng được 13,3 triệu tấn, nhập khẩu 3,7 triệu tấn. Sản lượng 3,7 triệu tấn nhập khẩu hầu hết là những mặt hàng có giá tăng cao hàng chục phần trăm trong năm 2007 như ngô (585.000 tấn), khô dầu đậu nành (2 triệu tấn), thức ăn bổ sung (319.000 tấn). Nếu cả năm 2006 lượng nhập khẩu khô dầu đậu nành đạt 1,7 triệu tấn với kim ngạch 336 triệu USD thì tính đến tháng 8 năm 2007, tổng lượng khô dầu đậu nành nhập khẩu đạt 1,6 triệu tấn với kim ngạch 449 triệu USD, tăng 38% về lượng và 67% về kim ngạch so với cùng kì năm trước. Biểu đồ 4-3: Số lượng và kim ngạch nhập khẩu khô dầu đậu nành 8 Tháng năm 2006 8 Tháng năm 2007 8 Tháng năm 2006 8 Tháng năm 2007 Bộ trưởng bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao Đức Phát cho biết, dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh trong những năm gần đây nhưng ngành chăn nuôi vẫn tăng trưởng khá, tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiệp tăng từ 22% năm 2005 lên 24% năm 2007. Thật vậy, theo kết quả điều tra của cục chăn nuôi tại thời điểm 1/8/2007, quy mô đàn trâu trên cả nước tăng 2,58%, đạt 2.996 triệu con; trong đó đàn trâu nuôi lấy thịt tăng 7,3%; trâu cày kéo tiếp tục xu hướng giảm nhẹ như các năm trước do làm đất bằng máy tăng. Đàn bò đạt 6.724 triệu con, tăng 3,29%; trong đó đàn bò thịt tăng 5,4%, đàn bò sữa giảm 14,5 nghìn con (-12,9%). Đàn gia cầm đạt 226.027 triệu con tăng 5,3%; trong đó đàn gà 157.967 triệu con tăng 3,9%, đàn thuỷ cầm trên 68 triệu con tăng 8,8%. Bảng 4-4: Thống kê số lượng gia súc, gia cầm, thủy cầm cả nước tính đến tháng 8/2007 ĐVT: Triệu con Năm 2006 Năm 2007 % tăng Trâu 2.921 2.996 2,58% Bò 6.510 6.724 3,29% Gia cầm 214.651 226.027 5,30% Gà 152.038 157.967 3,90% Thủy cầm 63 68 8,80% (Nguồn: Theo chiến lược vừa được phê duyệt, đến năm 2010, tỷ trọng chăn nuôi sẽ chiếm khoảng 32% và đến năm 2015 là 38% và đạt 42% vào năm 2020. Việc gia tăng sản lượng và quy mô chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy cầm đồng nghĩa với việc gia tăng nhu cầu về thức ăn chăn nuôi nói chung và khô dầu đậu nành nói riêng. Chỉ tính riêng ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, theo Bộ Thủy sản hiện đã có trên 5.000 ha diện tích nuôi cá tra, các ba sa, tại Thành phố Cần Thơ, diện tích nuôi cá tra, cá ba sa cũng đã xấp xỉ 900 ha. Nếu tính bình quân theo tỷ lệ tăng trọng 1,6 (để có 1kg cá thương phẩm phải tiêu tốn 1,6 kg thức ăn) thì toàn vùng cần hơn 2 triệu tấn thức ăn thủy sản/năm. Mặt khác, theo số liệu thống kê kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang các nước có chiều hướng gia tăng, cụ thể kim ngạch xuất khẩu thủy sản tới EU trong tháng 2 năm 2008 đạt gần 49 triệu USD, tăng 7% so với cùng kì, tổng kim ngạch xuất khẩu trong 2 tháng đạt 130,8 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, thị trường Đức dẫn đầu với kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 25 triệu USD (tăng 48%), Italia đạt 19,9 triệu USD (tăng 81%), Hà Lan đạt 15,8 triệu USD (tăng 33%), Bỉ đạt 10,6 triệu USD (tăng 8%), Pháp đạt 8,9 triệu USD (tăng 34%), Anh đạt 7,6 triệu USD (tăng 97%). Theo như kết quả phỏng vấn công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi Kiên Thành, nhu cầu về khô dầu đậu nành của công ty sẽ tăng trong tương lai. Số lượng sản phẩm sản xuất của công ty năm 2007 tăng 12% so với cùng kì và tăng 23% so với kế hoạch và công ty nhận định theo như tình hình hiện nay, sản lượng và diện tích chăn nuôi trong nước tăng và theo định hướng sẽ tăng trong tương lai theo đó nhu cầu về thức ăn chăn nuôi nói chung và khô dầu đậu nành nói riêng sẽ tăng trong tương lai. Câu trả lời tương tự khi phỏng vấn công ty cổ phần N&M, công ty cũng cho rằng nhu cầu về khô dầu đậu nành sẽ tăng trong tương lai. Sự gia tăng quy mô và sản lượng của các nhà máy chế biến thức ăn cũng cho thấy nhu cầu khô dầu đậu nành cũng tăng vì khô dầu đậu nành là một trong những nguyên liệu chính để sản xuất thức ăn chăn nuôi, những thành phần quan trọng chiếm từ 10 – 20% trong thành phần sản xuất sản phẩm. Theo số liệu thống kê năm 2006, tuy tổng số lượng nhà máy có giảm nhưng nhưng chỉ là số nhà máy nhỏ có công suất <5 tấn/h, nhưng số lượng nhà máy lớn gia tăng như nhà máy có công suất lớn hơn hoặc bằng 20 tấn/h đã tăng từ 28 lên 32 nhà máy. Cụ thể trong bảng sau: Bảng 4-5: Phân loại các nhà máy sản xuất TACN của Việt Nam theo công suất Năm 2005 Năm 2006 Số lượng % Số lượng % Tổng số nhà máy 249 100,0 234 100,0 ≤ 5 tấn/h 145 58,2 115 49,1 ≥ 10 tấn/h 57 22,9 62 26,4 ≥ 20 tấn/h 28 11,2 32 13,6 ≥ 30 tấn/h 19 7,6 25 10,6 (Nguồn: Với số lượng nhà máy lớn gia tăng thì sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp cũng gia tăng, đồng nghĩa với việc sử dụng khô dầu đậu nành cũng gia tăng. Theo số liệu thống kê sản lượng thức ăn chế biến công nghiệp của Việt Nam cho thấy sản lượng thức ăn hỗn hợp tăng từ 3.200 nghìn tấn năm 2005 lên 4.300 nghìn tấn năm 2006, số liệu cụ thể ở bảng sau: Bảng 4-6: Sản lượng thức ăn chế biến công nghiệp của Việt Nam Đơn vị tính (nghìn tấn) Năm Thức ăn chế biến Công nghiệp % Thức ăn chế biến so với tổng lượng chi phí SX Thức ăn hỗn hợp Thức ăn đậm đặc Tổng cộng 2000 1.700 330 2.030 25,0 2005 3.200 702 3.940 38,9 2006 4.300 747 5.118 44,8 (Nguồn: Sự gia tăng quy mô và số lượng hộ chăn nuôi và nuôi thủy sản, sự gia tăng sản lượng và quy mô các nhà máy chế biến thức ăn, sự dự báo của các chuyên gia về nhu cầu khô dầu đậu nành, chính sách của nhà nước cùng với nhu cầu của đối tác là khách hàng của công ty cho thấy nhu cầu về khô dầu trong nước tương đối lớn cả hiện tại và tương lai. Từ sự phân tích nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành của thế giới và nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành trong nước có thể kết luận nhu cầu về khô dầu đậu nành rất lớn cả hiện tại và tương lai. Nguồn cung khô dầu đậu nành Nguồn cung khô dầu đậu nành thê giới Nhu cầu tiêu thụ đậu nành tăng cao trên thế giới nên diện tích trồng loại cây nông nghiệp này tại Argentina trong niên vụ 2007-2008 cũng tăng lên đến 16,9 triệu ha, cao nhất từ trước đến nay và chiếm hơn một nửa diện tích đất canh tác. Theo cơ quan vệ sinh và chất lượng thực phẩm của Argentina (SENASA) cho biết xuất khẩu hạt đậu nành của nước này trong 9 tháng đầu năm nay đạt gần 8,26 triệu tấn, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó riêng Trung Quốc đã nhập 6,21 triệu tấn, tăng 4%, Malaxia nhập 352.144 tấn, tăng 142% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, quốc gia Nam Mỹ này còn cung cấp cho thị trường thế giới hơn 9,8 triệu tấn bột đậu nành, trong đó Philípin là khách hàng chủ lực, nhập 902.930 tấn, tăng 47%. Sự gia tăng số lượng xuất khẩu vào các thị trường ngày càng cho thấy sản lượng khô dầu đậu nành của Argentina cũng ngày càng tăng. Thật vậy, theo số liệu thống kê, sản lượng đậu nành tăng qua các năm, nếu mùa vụ năm 2001/2002 chỉ đạt 30 triệu tấn thì đến mùa vụ năm 2006/2007 đã tăng hơn 1,5 lần đạt đến 46,7 triệu tấn. Triệu tấn Biểu đồ 4-4: Sản lượng đậu nành của Argentina qua các kì Giai đoạn (Nguồn: Tuy nhiên, do nhu cầu tiêu thụ Ethanol tăng cao, giá các nguyên liệu chế tạo Ethanol cũng tăng cao do đó chính phủ Argentina dự định sẽ điều chỉnh thuế suất xuất khẩu các mặt hàng nông sản, đồng thời khuyến khích nông dân tăng diện tích trồng lúa mỳ và bắp do giá của các loại hàng này đang tăng cao nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia; giảm diện tích trồng đậu nành và hạt hướng dương. Theo đó thuế suất xuất khẩu đậu nành là 45%, khô đậu là 42% và dầu nành là 41%. Điều đó sẽ làm giảm diện tích và sản lượng đậu nành trong tương lai dẫn đến lượng cung khô dầu đậu nành thế giới cũng sẽ giảm. Tình trạng giảm diện tích trồng đậu nành và tăng diện tích trồng các loại cây phục vụ sản xuất nhiên liệu ở Braxin cũng xảy ra tương tự như ở Argentina. Theo thống kê diện tích trồng đậu nành của Braxin hiện là 21 triệu ha, sản lượng đậu nành của braxin trong năm 2008 ước đạt 61 triệu tấn, tăng 0.5 triệu tấn so với trước đã góp phần làm giảm cơn sốt nhu cầu khô dầu đậu nành. Song do nhu cầu sản xuất Ethanol Brazil vẫn sản xuất không đủ cho nhu cầu trong nước. Trong khi đó, tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng, nhất là ở Trung Quốc, Ấn Độ, và các nước đang phát triển khác…đã dẫn đến quốc gia này giảm diện tích trồng đậu nành mà chuyển sang tăng diện tích và sản lượng các loại cây khác để sản xuất Ethanol phục vụ nhu cầu trong nước. Một số quốc gia trên thế giới như Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan, Cộng hòa Séc… nhu cầu sử dụng Ethanol và nhiên liệu sinh học tăng mạnh đã khiến sản lượng cung đậu tăng giảm đáng kể do người dân chuyển từ trồng đậu nành sang trồng các loại cây khác phục vụ nhu cầu sản xuất Ethanol và nhiên liệu sinh học. Thậm chí ở Mỹ, người ta còn ra một dự luật phải sử dụng từ 5 tỷ đến 8 tỷ gallon ethanol một năm để thay thế các loại năng lượng hóa thạch như dầu mỏ, than đá... Đạo luật năng lượng của chính phủ Mỹ năm 2005 quy định đến năm 2012, lượng ethanol sử dụng như chất đốt cho động cơ trên nước Mỹ phải được tăng đến 7.5 tỉ gallons (1 gallon = 3,78 lít). Chính điều đó đã khiến nông dân Mỹ chuyển từ trồng đậu nành sang trồng bắp do nhu cầu ethanol đẩy giá bắp lên cao. Diện tích trồng đậu nành của Mỹ giảm 19% trong năm 2007, khiến sản lượng đậu nành giảm mạnh và nguồn cung khô dầu đậu nành cũng giảm mạnh. Đối với Trung Quốc, mặc dù nhu cầu của cả thế giới về đậu nành và các sản phẩm từ đậu nành ngày càng tăng nhưng không thể phủ nhận rằng nhu cầu từ TQ mới là yếu tố quan trọng chi phối toàn bộ cán cân cung – cầu đậu nành của thế giới. Nhu cầu sử dụng đậu nành của TQ tăng chóng mặt trong suốt một thập kỷ qua đã khiến sản lượng đậu nành trên toàn thế giới cũng tăng lên đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu từ quốc gia đông dân nhất hành tinh này. Khả năng nhập khẩu đậu nành của TQ trong năm 2007/2008 được cho là sẽ chiếm 45% giao dịch mua bán trên toàn thế giới. Nhu cầu tiêu thụ đậu nành ngày càng cao qua các năm trong khi sản xuất chẳng tăng bao nhiêu ngược lại có xu hướng giảm. Nếu ở năm 1995/1996 sản lượng đậu nành sản xuất đủ cung cấp 95,7% tức sản xuất khoảng 13,5 triệu tấn so với nhu cầu là 14,1 triệu tấn, số lượng nhập khẩu không đáng kế thì đến năm 2004/2005 sản lượng sản xuất đậu nành trong nước tăng lên được 17,4 triệu tấn đáp ứng chưa tới 43% so với nhu cầu 35,1%, tuy nhiên đến 2006/2007 sản lượng đã giảm chỉ còn lại 6,2 triệu tấn và theo dự báo 2007/2008 sản lượng chỉ đạt 14,0 triệu tấn. Một trong những nguyên nhân gây giảm sản lượng đậu nành tại Trung Quốc là do diện tích trồng đậu nành sụt giảm do đô thị hóa ở đất nước này tăng, thời tiết, mất mùa. Biểu đồ 4-5: Sản lượng sản xuất đậu nành của Trung Quốc qua các năm (Nguồn: Trích từ Bảng 4-6: Sản Lượng, Nhu Cầu Và Khối Lượng Nhập Khẩu Của Trung Quốc) Kết quả phần tích cho thấy hiện tại nguồn cung đang có xu hướng tăng nhưng trong tương lai do nhu cầu sử dụng Ethanol tăng cao dẫn đến sản lượng đậu nành có thể giảm trong thời gian tới và xu hướng nguồn cung khô dầu đậu nành có thể giảm. Nguồn cung khô dầu đậu nành trong nước: Tuy diện tích, năng suất, sản lượng của khô dầu đậu nành qua các năm đều tăng nhưng Việt Nam chỉ cung cấp được 70% nhu cầu tiêu dùng khô dầu đậu nành, số còn lại phải nhập khẩu. Chính điều này đã làm giá thức ăn chăn nuôi trong nước tăng làm tăng chi phí chăn nuôi cho các hộ chăn nuôi, dẫn đến giá các sản phẩm từ chăn nuôi cao hơn các nước trong khu vực từ 10 – 20%. Biểu đồ 4-6: Diện tích, sản lượng đậu nành cả nước qua các năm (Nguồn: www.vnast.gov.vn/UploadFile/17.Thanh%20tuu%20va%20dinh%20huong%20NCPT%20dau%20tuong.pdf) Do đó, để có thể giảm giá thành chăn nuôi, tăng tính cạnh tranh về giá cho các sản phẩm chăn nuôi chúng ta cần phải chủ động nguồn nguyên liệu bằng cách tăng nguồn cung nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước giảm sự phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Theo chỉ đạo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: chỉ đạo quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu ngô, sắn và đậu nành. Phát triển và chuyển giao vào sản xuất các giống ngô và đậu nành mới có năng suất, chất lượng cao; chuyển đổi diện tích đất sản xuất hiệu quả thấp hơn ngô và đậu nành sang trồng các mặt hàng này; khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi phối hợp với từng địa phương chủ động tạo vùng nguyên liệu. Theo định hướng phát triển chăn nuôi thời kì 2006 – 2015 và kế hoạch giai đoạn 2006- 2010, mục tiêu phát triển về sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước: đưa diện tích ngô lên 1,2 triệu ha, sản lượng 5,4 triệu tấn, diện tích đậu nành 400 ngàn ha, sản lượng 850 ngàn tấn; phát triển công nghiệp chế biến bột cá, bột xương, khoáng và premix vitamin. Xu hướng cho thấy nguồn cung khô dầu đỗ tường sẽ tăng do diện tích và sản lượng đậu nành tăng trong tương lai. Song, theo ông Phạm Đồng Quảng – phó Cục trưởng cục trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn – nhận định: để đạt được năng suất và diện tích như trên là rất khó khăn. Bởi việc mở rộng diện tích trồng ngô mới, chuyển đổi diện tích tà cây trồng khác sang ngô đang gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt. Tình hình phát triển diện tích đậu tương để làm khô dầu đậu nành cũng ở trong tình trạng tương tự. Từ sự phân tích trên có thể đánh giá tương lai nguồn cung trong nước sẽ tăng nhưng để đạt chỉ tiêu đề ra sẽ khó có thể đạt được và vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, chỉ đáp ứng được phần nào còn lại phải nhập khẩu Nguồn cung khô dầu thế giới xu hướng tương lai sẽ giảm trong khi tình hình cung khô dầu đậu nành trong nước khó có thể đạt được mục tiêu đã đề ra có thể nhận xét rằng nguồn cung trong tương lai có thể không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành. Triển vọng phát triển của hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang: 4.3.1. Giai đoạn sống của sản phẩm: Nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành ngày càng tăng và việc xuất khẩu khô dầu đậu nành cũng mang về cho quốc gia các nước xuất khẩu khô dầu đậu nành kim ngạch tương đối lớn điều đó cho thấy hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành có khả năng phát triển trong tương lai. Mặt khác, tuy số lượng sản phẩm thay thế khô dầu đậu nành lớn (bã bắp, khô dầu lạc, khô dầu bông, bột cá, bột thịt xương, bột đậu nành...) nhưng khô dầu đậu nành vẫn thường được người chăn nuôi và các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi sử dụng và mang lại hiệu quả kinh tế cao, nó là một trong những nguyên liệu chính trong thành phần thức ăn chăn nuôi cả tự chế và thức ăn chăn nuôi công nghiệp cho nên có thể dự báo rằng khô dầu đậu nành đang trong giai đoạn phát triển trong chu kì sống của sản phẩm. Thật vây, theo ông Phạm Văn Dư – Cục phó Cục Trồng trọt – cho biết chỉ trong năm 2006, lượng bắp hạt nhập khẩu đạt 565.000 tấn, 17.600 tấn đậu nành và 1,6 triệu tấn khô dầu đậu nành với kim ngạch 1,1 tỉ đô la Mỹ, tăng 52% so với năm 2005, điều này cũng có nghĩa tốc độ nhập khẩu bắp và đậu nành tăng mạnh hơn so với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu gạo (5) 5). Theo số liệu thống kê từ báo thương mại, tổng lượng nhập khẩu khô dầu đậu nành tính đến tháng 9/07 đạt 1,78 triệu tấn với kim ngạch 507,4 triệu USD (chiếm 58,06% tổng kim ngạch nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu trong 9 tháng đầu năm 2007); như vậy cũng giống như năm 2006, tới tháng 9/07 lượng và kim ngạch nhập khẩu đã vượt cả năm 2006; so với 9 tháng năm 2006 lượng nhập khẩu tăng 30,05% và kim ngạch tăng 59,20%; giá nhập khẩu trung bình 9 tháng 2007 ở mức 285 USD/tấn tăng 52 USD/tấn so với 9 tháng năm 2006. Trong 9 tháng đầu năm 2007, các doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào nhập khẩu khô dầu đậu nành từ 2 thị trường chính: Ấn Độ và Achentina; tổng lượng nhập khẩu từ 2 thị trường này đạt 1,6 triệu tấn với kim ngạch 453 triệu USD, chiếm tới 89,6% về lượng và 89,2% về kim ngạch (cùng kỳ năm 2006 đạt 1,22 triệu tấn với kim ngạch 280 triệu USD, chiếm 88,9% về lượng và 87,9% về kim ngạch). Trung Quốc - thị trường đáng chú ý nhất trong năm 2007, với lượng nhập khẩu tăng mạnh đạt 303 nghìn tấn trong 9 tháng 2007 và trở thành thị trường cung cấp lớn thứ 5. Lượng nhập khẩu chủ yếu tập trung vào 4 tháng 5, 6, 7 và 8/07. Cũng giống như Trung Quốc, lượng nhập khẩu từ thị trường Mỹ cũng tăng gấp hơn 2 lần cùng kỳ năm trước. Nhưng điểm khác với thị trường Trung Quốc là lượng nhập khẩu tăng vào các tháng của quý III/07. Bên cạnh việc gia tăng lượng nhập khẩu từ các thị trường, kết quả hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành của các doanh nghiệp trong nước cũng mang lại doanh thu tương đối cho các doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp tham gia nhập khẩu khô dầu đậu nành cũng tăng lên đáng kể, theo số liệu 9 tháng 2007 có trên 150 doanh nghiệp tham gia nhập khẩu khô dầu đậu nành trong đó có tới 80 doanh nghiệp đạt kim ngạch trên 10 triệu USD. Đáng chú ý là 2 doanh nghiệp: Cty Chăn nuôi CP Việt Nam với kim ngạch đạt 43,1 triệu USD; tiếp đến là Cty LD Việt Pháp (Proconco) với 39,3 triệu USD bỏ xa doanh nghiệp thứ 3 về kim ngạch đó là Nhà máy SX Thức ăn gia súc Proconco Đình Vũ với 18,8 triệu USD. Cũng theo thống kê của báo thương mại, số liệu thống kê khối lượng nhập khẩu khô dầu đậu nành trong 9 tháng đầu năm 2007 nhìn chung lượng nhập khẩu ngày càng tăng, ở tháng 1 năm 2007 khối lượng nhập khẩu khô dầu đậu nành là 229.395 tấn, đến tháng 2 khối lượng nhập khẩu có giảm xuống chỉ còn 139.892 tấn nhưng lại tăng dần trong các tháng tiếp theo và đạt 280.158 tấn trong tháng 8 năm 2007, đến tháng 9 khối lượng nhập khẩu đã giảm đáng kể chỉ còn 165.232 tấn. Sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng đậu nành sang trồng bắp hoặc một số loại cây khác có khả năng sản xuất ethanol dẫn đến giảm diện tích trồng đậu nành kết quả nguồn cung đậu nành giảm là một trong những nguyên nhân khiến lượng nhập khẩu khô dầu đậu nành giảm, ngoài ra, cũng do đây là thời điểm chỉ mới bắt đầu mùa vụ trong khi lượng tồn kho không nhiều cho nên khối lượng cung cũng giảm. Số liệu được minh chứng trong biểu đồ sau: Biểu đồ 4-7: Giá và khối lượng nhập khẩu khô dầu đậu nành 9 tháng năm 2007 (Nguồn: Mặt khác, theo số liệu thống kê của USDA, khối lượng khô dầu đậu nành được Trung Quốc nhập khẩu đều tăng qua các năm. Nếu giai đoạn 1995/1996 lượng nhập khẩu khô dầu đậu nành của Trung Quốc chỉ 0,8 triệu tấn thì sau 10 năm tức giai đoạn 2005/2006 khối lượng nhập khẩu tăng trên 28 lần với khối lượng nhập vào là 28,3 triệu tấn và theo WPI dự đoán giai đoạn 2007/2008 là 34,0 triệu tấn. Số liệu cụ thể như sau: Biểu đồ 4-8: Khối lượng nhập khẩu khô dầu đậu nành của Trung Quốc qua các năm (Nguồn: Trích từ Bảng 4-6: Sản Lượng, Nhu Cầu Và Khối Lượng Nhập Khẩu Của Trung Quốc) Các phân tích trên chứng tỏ khô dầu đậu nành đang trong giai đoạn phát triển trong chu kì sống của sản phẩm. 4.3.2. Năng lực của công ty: Về nguồn nhân lực: Công ty chính thức chuyển đổi thành công ty cổ phần vào năm 2008 với tổng số nhân viên khoảng 333, riêng ở bộ phận kinh doanh tổng hợp là 17 nhân viên. Trong đó, công ty có nhân viên phụ trách mảng kinh doanh khô dầu đậu nành và công ty cũng có bộ phận cung cấp thông tin cho hoạt động này. Với nguồn nhân lực như trên, công ty có đủ nhân lực phụ trách hoạt động kinh doanh hoạt động này. Về đối thủ cạnh tranh: Khô dầu đậu nành sau khi nhập khẩu được vận chuyển đến khách hàng, vì thế công ty tiết kiệm được phần chi phí lưu kho. Vì thế, công ty có khả năng cạnh tranh về giá so với các đối thủ khác như: Gentraco, Afiex, Công ty cổ phần du lịch An Giang. Bên cạnh đó, theo kết quả khảo sát các khách hàng của công ty, hầu hết đều chấp nhận mua lại sản phẩm khô dầu đậu nành tại công ty. Từ đó có thể cho thấy sản phẩm khô dầu đậu nành của công ty có khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác cùng ngành. Về hiệu quả hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành: Hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành là mảng kinh doanh mới của công ty, chỉ mới hoạt động khoảng 2 năm nay, mặc dù vậy nhưng lợi nhuận mà hoạt động này đóng góp cho công ty không nhỏ. Chỉ tính riêng năm 2007, hoạt động này đã tạo trên 37,5 tỷ đồng tức chiếm 34,4% trong tổng doanh thu tại trung tâm kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động: kinh doanh khô dầu đậu nành, tấm, cám, phân các loại, bao bì, điện thoại, dịch vụ. Chiếm 42% trong tổng lợi nhuận của các hoạt động tại trung tâm kinh doanh tổng hợp. Điều đó cho thấy, hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành là một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng tại công ty và kinh doanh có hiệu quả. Qua số liệu trong bảng “Kế hoạch năm 2008” tại trung tâm kinh doanh tổng hợp Angimex càng thấy rõ điều đó. Doanh thu dự kiến cho năm 2008 là trên 82 tỷ cho hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành chiếm 37,6% trong tổng doanh thu dự kiến cho các hoạt động kinh doanh tại trung tâm. Từ các phân tích trên cho thấy hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang sẽ phát triển trong tương lai. Bởi vì nhu cầu thì ngày càng tăng, số lượng thay thế sản phẩm khác cho khô dầu đậu nành mặc dù rất nhiều nhưng khả năng thay thế không cao do thói quen sử dụng và sản phẩm này mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi, thêm vào đó, sản phẩm hiện đang trong giai đoạn phát triển trong chu kì sống sản phẩm cộng với năng lực hoạt động tốt của công ty đã minh chứng cho điều dự báo trên. Do đó, công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang có thể sử dụng kết quả phân tích trên làm tài liệu tham khảo cho công ty trong việc quyết định các giải pháp, kế hoạch hay chiến lược phù hợp đối với hoạt động kinh doanh này tại công ty. Nhưng theo ý kiến cá nhân tôi, công ty có thể đầu tư cho hoạt động kinh doanh này trong tương lai. Mặc dù trong giai đoạn hiện này, tình hình sử dụng khô dầu đậu nành có phần sụt giảm nguyên nhân là do một số hộ nuôi cá có qui mô nhỏ không còn muốn đầu tư vào ngành nghề này do không còn lợi nhuận và có xu hướng thua lỗ, một số hộ nuôi cá có qui mô lớn cũng giảm dần quy mô đầu tư vì chi phí nuôi 1kg cá hiện nay đã cao hơn so với giá bán ra điển hình giá cá tra loại 1 ngày 31/05/2008 trung bình 13.800 – 14.000 đ/kg trong khi vốn lên tới 15.000 – 15.500 đ/kg; số lượng mua khô dầu đậu nành của các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi đặc biệt là các nhà công ty sản xuất thức ăn thủy sản cũng giảm do người nuôi giảm qui mô và giảm đầu tư. Bên cạnh đó, việc tăng lãi suất huy động vốn của ngân hàng, lãi suất cho vay cũng tăng lên, các chính sách hạn chế cho vay từ phía các ngân hàng là một trong nhưng nguyên nhân giảm cá bán ra, vì nông dân khó vay tiền phải bán cá non để thu tiền để duy trì sản xuất, người dân bán nhưng doanh nghiệp không thể mua vì không đủ tiền mặt để thanh toán vì thế giá cá cứ giảm dần. Nhưng đậy chỉ là tình trạng tạm thời, khi tình hình ổn định thì nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành lại tăng lên và tăng rất mạnh trong tương lai. Cho nên trong thời gian này, có thể tình hình kinh doanh này có phần giảm sút nhưng không vì thế mà công ty ngừng hoạt động kinh doanh mặt hàng này, công ty có thể chỉ nhập về với số lượng đủ để cung cấp cho các khách hàng thân quen. Còn đối với các khách hàng chăn nuôi với qui mô nhỏ, khách hàng mới công ty có thể mua từ nhà cung cấp trong nước để đáp ứng nhu cầu cho khách hàng này, với giải pháp này một mặt có thể giúp công ty duy trì mối tốt mối quan hệ với khách hàng thân quen, một mặt có thể giữ chân khách hàng mới và giảm được chi phí lưu kho đối với mặt hàng này trong tình hình hiện nay. Và khi tình hình chăn nuôi trở nên tương đối ổn đinh lại, khi đó công ty có thể đẩy mạnh hoạt động kinh doanh này. Chương 5: Kết Luận Thông qua nhu cầu tiêu thụ thịt, nhu cầu sử dụng thức ăn chăn nuôi trong tương lai và sự gia tăng về quy mô và công suất của các nhà máy chế biên thức ăn chăn nuôi cùng với thói quen sử dụng khô dầu đậu nành trong khẩu phần thức ăn vật nuôi – cả trong thức ăn chăn nuôi tự chế và thức ăn chăn nuôi công nghiệp – có thể dự báo rằng nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành ngày càng tăng. Bên cạnh đó, cùng với việc xác định nguyên liệu khô dầu đậu nành đang trong giai đoạn phát triển trong chu kì sống của sản phẩm thông qua số lượng nhập khẩu ngày càng tăng của các nước và kim ngạch mang về cho các nước xuất khẩu ngày càng tăng do đó chỉ có thể dự báo rằng thị trường tiêu thụ khô dầu đậu nành sẽ tăng trong tương lai. Và để có thể dự báo hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành trong tương lai ra sao thì phải xem xét đến thị trường cung ứng nguyên liệu này và một số rủi ro khác. Nguồn cung khô dầu đậu nành trên thế giới đang có xu hướng tăng nhưng sẽ không kéo dài và sẽ giảm do nhu cầu sử dụng ethanol ngày càng tăng cao dẫn đến một số hộ nông dân đã chuyển từ trồng đậu nành sang trồng một số loại cây có khả năng sản xuất ethanol điển hình là bắp, đã là giảm đáng kể nguồn cung ứng loại nguyên liệu này, thêm vào đó do quá trình đô thị hóa ở một số quốc gia đã làm giảm diện tích trồng đậu nành. Do đó, có thể dự báo rằng nguồn cung khô dầu đậu nành trên thê giới có xu hướng giảm trong tương lai. Tình hình nguồn cung khô dầu đậu nành trên thê giới là thế nhưng nguồn cung loại nguyên liệu này trong nước có chiều hướng ngược lại. Khối lượng cung ứng khô dầu đậu nành trong nước có khả năng tăng trong tương lai do chính sách quy hoạch vùng nguyên liệu theo chỉ đạo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tăng nguồn cung ứng nguyên liệu khô dầu đậu nành trong nước, giảm nhập khẩu loại nguyên liệu này, mặc dù một số tỉnh trong nước đã tăng diện tích và sản lượng đậu nành nhưng tốc độ có thể tăng chậm do việc chuyển đổi từ cây trồng khác sang trồng đậu nành đang gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt. Vì thế, có thể dự báo rằng nguồn cung nguyên liệu khô dầu đậu nành trên thế giới có xu hướng giảm và nguồn cung khô dầu đậu nành trong nước có xu hướng tăng trong tương lai nhưng với tốc độ chậm. Nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành ngày càng tăng và sản phẩm đang trong giai đoạn phát triển trong chu kì sống sản phẩm nhưng nguồn cung đối với loại sản phẩm này đang có xu hướng giảm trên thế giới hiện tại đang tăng nhưng có chiều hướng giảm trong tương lai và nguồn cung trong nước có xu hướng tăng nhẹ, cộng với năng lực hoạt động tốt của công ty do đó có thể dự báo rằng hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành sẽ phát triển trong tương lai. Trong tình hình hiện nay hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành có phần giảm sút do thị trường thủy sản biến động, giá bán 1kg không đủ bù đắp chi phí, người nuôi không có khả năng quay vòng vốn, các nhà máy chế biến thủy sản không đủ vốn để mua lại do việc tăng lãi suất huy động từ phía ngân hàng và các chính sách hạn chế cho vay của các ngân hàng là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên, dẫn đến một số hộ nuôi cá có quy mô lớn phải giảm qui mô và một số hộ nuôi cá có qui mô nhỏ không còn muốn đầu tư nữa, các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi cũng giảm dần quy mô và một số cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi nhỏ phải phá sản vì thế nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành có phần giảm và hoạt động kinh doanh loại nguyên liệu không còn hấp dẫn với các nhà đầu tư trong giai đoạn hiện nay. Giả sử tình trạng này kéo dài, dẫn đến nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành sẽ giảm và ngày càng giảm, hoạt động kinh doanh sẽ không còn hấp dẫn đối với nhà đầu tư, khi đó, các công ty kinh doanh mặt này nói chung và công ty cổ phần xuất nhập khẩu nói riêng nên giảm bớt hoặc ngừng rút lui khỏi ngành hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành và đầu tư vào kinh doanh mặt hàng khác, có thể đầu tư kinh doanh các mặt hàng thay thế khô dầu đậu nành với giá thấp hơn mà kết quả mang lại cũng tương đương với khô dầu đậu nành. Ngược lại, giả sử tình trạng trên chỉ là nhất thời, tình trạng biến động sẽ ổn định trong thời gian ngắn, khi đó nhu cầu sử dụng khô dầu đậu nành sẽ ngày càng tăng và hoạt động kinh doanh này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư đang đầu tư hoạt động kinh doanh ngành hàng này. Cho nên trong thời gian này, có thể tình hình kinh doanh này có phần giảm sút nhưng không vì thế mà công ty ngừng hoạt động kinh doanh mặt hàng này, công ty có thể chỉ nhập về với số lượng đủ để cung cấp cho các khách hàng thân quen. Còn đối với các khách hàng chăn nuôi với qui mô nhỏ, khách hàng mới công ty có thể mua từ nhà cung cấp trong nước để đáp ứng nhu cầu cho khách hàng này, với giải pháp này một mặt có thể giúp công ty duy trì mối tốt mối quan hệ với khách hàng thân quen, một mặt có thể giữ chân khách hàng mới và giảm được chi phí lưu kho đối với mặt hàng này trong tình hình hiện nay. Và khi tình hình chăn nuôi trở nên tương đối ổn đinh lại, khi đó công ty có thể đẩy mạnh hoạt động kinh doanh này. Tóm lại, từ các kết quả phân tích trên có thể dự báo rằng kinh doanh khô dầu đậu nành nói chung và hoạt động kinh doanh khô dầu đậu nành tại công ty cổ phẩn xuất nhập khẩu An Giang nói riêng sẽ phát triển trong tương lai. Nội dung thông tin cần thu từ doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi Để sản xuất sản phẩm (cụ thể là thức ăn gia súc), công ty cần những nguyên liệu gì? ¨ Bã bắp ¨ Bột xương cá ¨ Cám mì ¨ Khô dầu đậu nành ¨ Phụ phẩm công nghệ chế biến các loại ngũ cốc DDGS ¨ Khác: Quý công ty mua từ các công ty khác trong nước hay nhập khẩu trực tiếp khô dầu đậu nành? ¡ Mua ¡ Nhập khẩu trực tiếp ¡ Cả hai Số lượng bình quân một lần mua là bao nhiêu? Quý công ty có mua khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang không (ANGIMEX)? ¡ Có ¡ Không Nếu có thì số lượng mua từ công ty chiếm bao nhiêu % trong tổng lượng khô dầu đậu nành công ty cần mua? Trong các nguyên liệu sản xuất, khô dầu đậu nành chiếm tỷ lệ bao nhiêu % ? Dự kiến sắp tới, công ty sẽ mua khô dầu đậu nành với số lượng bao nhiêu ? Nếu không có khô dầu đậu nành thì công ty có sản xuất được không? ¡ Được ¡ Không Nếu được thì công ty sử dụng sản phẩm gì thay thế? Tỷ lệ thay thế khoảng bao nhiêu %? Sản phẩm thay thế có phổ biến không? Có dễ mua không? Nội dung thông tin cần thu từ các hộ chăn nuôi Anh (chị) sử dụng thức ăn nào cho vật nuôi? ¡ Thức ăn tự chế ¡ Thức ăn chăn nuôi công nghiệp ¡ Cả hai Thức ăn tự chế (nếu có) bao gồm các thành phần gì? Số lượng khô dầu đậu nành (nếu có sử dụng) bình quân một lần mua là bao nhiêu? Trong các nguyên liệu sản xuất, khô dầu đậu nành chiếm tỷ lệ bao nhiêu % ? Quý công ty có mua khô dầu đậu nành tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang không (ANGIMEX)? ¡ Có ¡ Không Dự kiến sắp tới, anh (chị) sẽ mua khô dầu đậu nành của công ty ANGIMEX? TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Thị Thanh Lan, không ngày tháng. Phân tích nhu cầu về thức ăn chăn nuôi (TAWCN) ở vùng Đông Nam Bộ). Đọc từ: Philip Kotler & Gary Armstrong. 2004. “Thị trường doanh thương và hành vi mua của tổ chức” trong Philip Kotler & Gary Armstrong. Những nguyên lý tiếp thị.Nhà xuất bản thống kê. Văn Khởi không ngày tháng, “Kèo tử” của người nuôi cá tra. Đọc từ: Vũ Duy Giảng (chủ biên) và PGS.TS. Tôn Thất Sơn. 2007. Giáo trình dinh dưỡng và thức ăn chăn nuôi. Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm. Bùi Thị Oanh, 15/06/2008. Cục Chăn nuôi: Một số giải pháp nhằm bình ổn giá nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi. Đọc từ:   Cập nhật : Thứ hai 03/07/2006 15:24. Ngành chăn nuôi sẽ gặp khó. Đọc từ: Hồng Văn, 22/01/2008. Nhập khẩu thức ăn chăn nuôi tăng nhanh. Đọc từ: Nguyễn Quốc Chinh, 20/09/2007. Thức ăn chăn nuôi ”made in Vietnam”: Cung tăng vẫn không đủ cầu. Đọc từ: Vũ Chương. Không ngày tháng. Thức ăn chăn nuôi: Bao giờ ta tự túc được nguyên liệu?. Đọc từ: www.kinhtenongthon.com.vn/Story/thitruong/2007/12/8587.html. Tin thương mại, 22/11/2007. Quý IV, lượng nhập khẩu khô dầu đậu tương giảm nhưng giá tiếp tục tăng. Đọc từ:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT15.doc
Tài liệu liên quan