Khóa luận Đấu thầu trong mua bán quốc tế, thực trạng và giải pháp phát triển tại Việt Nam

Nhiều vấn đề cản trở kết quả đầu t¬ có thể là do những khó khăn mang tính hệ thống mà trong đó năng lực quản lý dự án là trọng tâm. Một cuộc điều tra của các nhà tài trợ cho thấy rằng các đơn vị quản lý dự án là quá tải và hoạt động d¬ới nhiều hạn chế của cả bên trong và bên ngoài, bao gồm cả việc giám sát thừa, những quy định mâu thuẫn với nhau, không đủ cán bộ và nguồn lực và đ¬ợc đào tạo hạn chế về những thông lệ hiện đại. Giải pháp h¬ớng tới phân cấp trách nhiệm chi tiêu chủ yếu đ¬ợc thúc đẩy bằng việc tăng khối l¬ợng công việc liên quan tới hoạt động hợp đồng trên toàn quốc của Chính phủ trung ¬ơng. Sự phân cấp có hiệu quả đòi hỏi phải có năng lực đấu thầu mua sắm ở tất cả các cấp , gồm cả 10.000 xã . Đã có sự nhất trí chung rằng rất cần phải xây dựng năng lực ở tất cả các cấp. Tuy nhiên, vấn đề là phải xác định đ¬ợc cách tiếp cận tốt nhất và mức độ nguồn lực cần thiết. Một khoản viện trợ của Ngân hàng Thế giới cho xây dựng năng lực đấu thầu mua sắm đã hỗ trợ xây dựng một ch¬ơng trình đào tạo quốc gia. Mặc dù mới đ¬ợc thành lập trong thời gian gần đây, nh¬ng Khoa quản trị Kinh doanh tr¬ờng Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) đã xây dựng các khoá đào tạo ngắn hạn mà đấu thầu mua sắm đ¬ợc giảng dạy nh¬ một phần của môn quản lý dự án. Tuy nhiên, họ nhận thấy rằng họ không thể đáp ứng đ¬ợc nhu cầu đào tạo và họ thiếu giáo trình, tài liệu giảng dạy và năng lực giảng dạy. Theo đánh giá của nhà tr¬ờng, nhu cầu về đào tạo quản lý dự án và đấu thầu mua sắm đang tăng lên và việc phân cấp sẽ khiến nhu cầu tăng hơn nữa. Bản thân Tr¬ờng Kinh tế Quốc dân bị quá tải và cần phải thuê chuyên gia để bắt đầu quá trình này một cách có hệ thống và nghiêm túc. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu cần thực hiện là xây dựng một chiến l¬ợc đào tạo. Chiến l¬ợc này có thể bao gồm những yếu tố nh¬: • Phân tích nhu cầu đào tạo, bao gồm tất cả các trình độ ở các mức cơ bản, chuyên gia và quản lý. Phân tích này nên bao gồm các cấp trung ¬ơng, tỉnh, huyện và xã đã thực hiện phân cấp hoàn toàn. • Đề c¬ơng thiết kế các khoá học ngắn hạn và dài hạn và nội dung của các khoá học đó. Việc nghiên cứu các tổ chức đào tạo hiện có nh¬ Trung tâm đào tạo quốc tế Turin, Italy hoặc ESAMI hoặc UNDP là hữu ích để học hỏi về việc thiết kế các ch¬ơng trình đào tạo. • Phân tích một mô hình cung cấp đào tạo. Gợi ý đ¬ợc đ¬a ra là thành lập một Trung tâm đào tạo đấu thầu mua sắm ở tr¬ờng Đại học Kinh tế quốc dân trên cơ sở những kinh nghiệm đã thu đ¬ợc tại đó. Trong khi gợi ý này chắc là một ph¬ơng án tốt, thì cũng nên đ¬a các tổ chức cung cấp đào tạo khác vào trong chiến l¬ợc và xem xét các mô hình khác tr¬ớc khi đ¬a ra lựa chọn cuối cùng.

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đấu thầu trong mua bán quốc tế, thực trạng và giải pháp phát triển tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân (GNP) tính theo đầu ngời dới mức đã đợc xác định khi so sánh đơn dự thầu của các nhà thầu hợp lệ trong nớc với các nhà thầu nớc ngoài. Khi u đãi trong nớc đợc phép áp dụng đối với hàng hoá sản xuất trong nớc hoặc các nhà thầu trong nớc, thì các phơng pháp và các giai đoạn nêu trong Phụ lục 2 của Hớng dẫn này sẽ đợc áp dụng để đánh giá và so sánh đơn dự thầu. Gia hạn hiệu lực của đơn dự thầu Bên vay phải hoàn tất việc đánh giá thầu và trao hợp đồng trong thời gian hiệu lực của đơn dự thầu đợc quy định từ đầu để không cần thiết phải gia hạn thêm hiệu lực. Việc xin kéo dài thêm thời gian hiệu lực của đơn dự thầu, nếu là cần thiết trong trờng hợp ngoại lệ đặc biệt, phải đợc đề nghị bằng văn bản gửi đến tất cả những ngời dự thầu trớc ngày hết hạn hiệu lực. Thời gian kéo dài phải là thời gian tối thiểu cần thiết để hoàn tất việc đánh giá, xét duyệt và trao hợp đồng. Trong trờng hợp hợp đồng giá cố định, đề nghị kéo lần thứ hai và các lần tiếp theo chỉ đợc phép khi có kèm theo một cơ chế điều chỉnh thích hợp đối với giá đã chào để phản ánh những thay đổi về chi phí cho đầu vào của hợp đồng trong thời gian gia hạn. Khi có đề nghị kéo dài thời hạn hiệu lực của đơn dự thầu thì tất cả những ngời dự thầu không bị yêu cầu và cũng không đợc phép thay đổi giá đã chào (giá cơ sở ) hoặc các điều kiện khác trong đơn dự thầu của họ. Ngời dự thầu có quyền từ chối đề nghị kéo dài hiệu lực đơn dự thầu mà không bị mất bảo lãnh dự thầu, còn những ngời dự thầu đồng ý kéo dài thời hạn hiệu lực đơn dự thầu của họ sẽ đợc yêu cầu gia hạn bảo lãnh dự thầu của họ thêm một thời gian thích hợp. Đánh giá năng lực nhà thầu sau khi xét thầu Nếu những ngời dự thầu cha đợc sơ tuyển trớc, Bên vay cần xác định xem ngời dự thầu có đơn dự thầu đợc đánh giá là có chi phí thấp nhất có năng lực để thực hiện có hiệu quả hợp đồng nh đã chào trong đơn dự thầu hay không. Các tiêu chuẩn phải đạt phải nêu trong hồ sơ mời thầu và nếu ngời dự thầu không đạt các tiêu chuẩn đó thì đơn dự thầu của họ sẽ bị loại. Trong trờng hợp đó, Bên vay phải xác định tơng tự nh vậy đối với ngời dự thầu đợc đánh giá là thấp nhất tiếp theo. Trao hợp đồng. Bên vay phải trao hợp đồng trong thời hạn hiệu lực của đơn dự thầu cho ngời dự thầu đáp ứng đúng tiêu chuẩn năng lực và có đơn dự thầu đã đợc xác định là (i) về cơ bản đáp ứng đúng hồ sơ mời thầu và (ii) có giá chào đợc đánh giá là có chi phí thấp nhất. Ngời dự thầu sẽ không bị đòi hỏi phải chịu trách nhiệm về các công việc không nêu trong hồ sơ mời thầu hay buộc phải sửa đổi đơn dự thầu khác đi so với khi nộp lúc đầu nh là một điều kiện để đợc trúng thầu. Bác bỏ tất cả các đơn dự thầu Hồ sơ mời thầu thờng quy định rằng Bên vay có thể bác bỏ tất cả các đơn dự thầu. Việc bác bỏ tất cả các đơn dự thầu là đúng khi thiếu sự cạnh tranh hiệu quả hoặc các đơn dự thầu về cơ bản là không đáp ứng. Tuy nhiên, việc thiếu cạnh tranh không phải chỉ đợc xác định trên cơ sở số lợng ngời dự thầu. Nếu tất cả các đơn dự thầu đều bị bác bỏ, Bên vay phải xem xét lại những nguyên nhân chứng minh cho việc bác bỏ đó và xem xét việc sửa đổi điều kiện hợp đồng, thiết kế và yêu cầu kỹ thuật, phạm vi của hợp đồng hoặc hỗn hợp các vấn đề này trớc khi mời thầu lại. Nếu việc bác bỏ tất cả các đơn dự thầu là do thiếu cạnh tranh, thì phải xem xét việc quảng cáo rộng rãi hơn. Nếu việc bác bỏ là do phần lớn hoặc tất cả đơn dự thầu không đáp ứng thì có thể mời thầu lại từ các công ty đã qua sơ tuyển trớc hoặc khi đợc Ngân hàng đồng ý thì chỉ mời các công ty đã nộp đơn dự thầu trong lần trớc. Không đợc bác bỏ tất cả các đơn dự thầu và mời thầu lại vẫn bằng hồ sơ mời thầu và mẫu hợp đồng nh cũ chỉ vì mục đích duy nhất là đạt đợc giá thầu thấp hơn. Nếu giá của đơn dự thầu đợc đánh giá là đáp ứng đúng và thấp nhất cao hơn nhiều so với mức dự kiến trớc khi đấu thầu của Bên vay, thì Bên vay phải điều tra nguyên nhân dẫn tới giá cao quá mức nh vậy và xem xét việc mời thầu lại nh đã mô tả ở các đoạn trên. Một cách khác là Bên vay có thể đàm phán với ngời dự thầu có đơn dự thầu đợc đánh giá là thấp nhất để cố gắng đạt đợc một hợp đồng đạt yêu cầu bằng cách giảm bớt phạm vi cung cấp hoặc công việc (scope) và/ hoặc phân bổ lại rủi ro và trách nhiệm để có thể làm giảm giá hợp đồng. Tuy vậy, việc giảm đáng kể phạm vi cung cấp hoặc sửa đổi nhiều về hợp đồng có thể đòi hỏi phải mời thầu lại. Phải xin ý kiến và đợc Ngân hàng đồng ý trớc khi bác bỏ tất cả các đơn dự thầu và mời thầu lại hay đàm phán với ngời dự thầu có đơn dự thầu đợc đánh giá là có chi phí thấp nhất. Trên đây là một số quy định của các nhà tài trợ lớn tại Việt Nam nh : Ngân hàng Thế Giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản ( JBIC). Các quy định trên chỉ áp dụng đối với một số dự án mà các Ngân hàng trên cho vay tiền, tuy nhiên việc đề ra các qui định trên giúp Việt Nam thực hiện đấu thầu Quốc tế hiệu quả hơn và hạn chế bớt tiêu cực và tham nhũng có thể xảy ra. Chơng III Xu hớng và các giải pháp nhằm hoàn thiện kỹ thuật, tổ chức và quản lý đấu thầu quốc tế ở Việt Nam trong thời gian tới A- Xu hớng phát triển đấu thầu trong hoặt động mua sắm ở Việt Nam Nh đã trình bày ở trên Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang “ Nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa “ vì vậy muốn phát triển đấu thầu trong hoặt động mua sắm ở Việt Nam sẽ ngày càng đợc hoàn thiện và áp dụng nhiều hơn nữa. Điều này xuất phát từ tốc độ gia tăng đầu t nhanh chóng từ cả khu vực t nhân cũng nh nhà nớc đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Trong từ năm 1995 đến năm 2002 tốc độ tăng trởng GDP bình quân đạt 8.33% và tốc độ gia tăng đầu t đạt 16%. Xu hớng tăng trởng đầu t và GDP từ năm 1995 – 2002 đợc thể hiện rõ tại hình dới đây. Theo chiến lợc phát triển kinh tế năm 2000 – 2010 của Đảng, GDP sẽ tăng gấp 2 vào năm 2010 (với tốc độ tăng trởng trung bình đạt 7.5%/năm) và tỷ trọng đầu t trên 30% GDP. Trong số đó đầu t cho hoạt động công nghiệp sẽ chiếm tỷ trọng lớn. Với triển vọng kinh tế và đầu t này, hoạt động mua sắm quốc tế chắc chắn sẽ nhộn nhịp hơn và đóng góp tốt hơn nữa vào sự nghiệp phát triển đất nớc. Mặc dù nền kinh tế có dấu hiệu khả quan cho thấy hoạt động đấu thầu quốc tế sẽ phát triển hơn, tuy nhiên một hiện tợng đáng lu tâm là hiệu quả đầu t cha cao thể hiện ở chỉ số ICOR của nền kinh tế có xu hớng liên tục tăng (năm 2003 là 3.3% cao gấp 2,3 lần so với 1995). Nguyên nhân chủ yếu của của việc này là yếu kém trong việc sử dụng và quản lý vốn đầu t của nhà nớc. Để nâng cao hiệu quả vốn đầu t của nhà nớc cần cải cách mạnh mẽ trong công tác đấu thầu và quản lý đầu t xây dựng cơ bản đặc biệt là tại các doanh nghiệp nhà nớc. Đây là một vấn đề cấp bách và sau đây là một số điểm Việt Nam có thể áp dụng để hoàn thiện công tác này. Việt Nam cần hoàn thiện một cơ chế thực hiện đủ mạnh có nghĩa là cần phải thành lập ngay một cơ quan đấu thầu mua sắm công độc lập báo cáo trực tiếp lên cấp lãnh đạo cao nhất của chính phủ. Bảo đảm đủ nguồn lực là một điều kiện tiên quyết chủ chốt đảm bảo sự thành công của Cơ quan này. Pháp lệnh đấu thầu mua sắm công cần phải đợc hoàn chỉnh và mau chóng ban hành, chính vì vậy Chính phủ cần hạn chế việc sử dụng các phơng pháp mua sắm ít cạnh tranh, bắt buộc phải sử dụng thông báo mời thầu và quyết định trúng thầu. Pháp lệnh đấu thầu này đã đợc soạn thảo và dự kiến cho ra đời vào cuối năm 2001, nhng đến nay vẫn cha ban hành. Việc chậm chễ này do có quá nhiều ý kiến cha thống nhất, phiền hà trong khâu chuẩn bị, phê duyệt. Chính vì vậy việc ban hành sớm pháp lệnh này là mong muốn chung của nhiều cấp nhiều ngành và điều này cũng phù hợp với sự phát triển của thời đại. Chính phủ nên xây dựng một tờ thông tin sắm công bằng hai hình thức báo in và điện tử đê thông báo và quảng cáo về các cơ hội đấu thầu và tạo ra tính minh bạch trong việc trao hợp đồng. Việc xây dựng hớng dẫn thực hiện quy định của pháp luật về đấu thầu mua sắm là vô cùng cần thiết đối với Việt Nam tring giai đoạn này. Chính phủ cần phải giải thích rõ ràng các phơng pháp và điều kiện áp dụng các phơng pháp mua sắm khác nhau, giải thích rõ cách xác định và đánh giá trong quá trình xét thầu đồng thời nên tinh giản quy trình đánh giá.. Chính phủ nên ban hành các văn bản hớng dẫn này. Hồ sơ thầu chuẩn là một yếu tố vô cùng quan trọng để phát triển hoặt động đấu thầu quốc tế tại Việt Nam. Vì vậy Chính phủ nên xây dựng hồ sơ mời thầu cho t vấn, hàng hoá và công trình và báo cáo đánh giá thầu theo mẫu tiêu chuẩn Quốc tế và bắt buộc các nhà thầu phải sử dụng các hồ sơ này. Chính phủ cần xây dựng năng lực đào tạo về đấu thầu mua sắm nghĩa là phải thiết kế mô hình đào tạo và cơ chế tài chính bền vững. B- Các giải pháp nhằm hoàn thiện kỹ thuật, tổ chức và quản lý đấu thầu quốc tế ở Việt Nam trong thời gian tới I- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý Văn bản pháp luật về đấu thầu Việc thực hiện các qui chế đấu thầu đã mang lại hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên còn một số vấn đề tồn tại thuộc quy chế đấu thầu hiện hành đang đợc nghiên cứu để đa vào dự thảo pháp lệnh đấu thầu.Việc soạn thảo pháp lệnh đấu thầu là một bớc đáng hoan nghênh trong việc cải cách các văn bản pháp luật về đấu thầu. Nếu đợc ban hành,pháp lệnh này sẽ là một mốc quan trọng trong cải cách hoặt động đấu thầu. Một số giải pháp đã đợc đề cập trong dự thảo đấu thầu nh sau: Thứ nhất cần phải tăng cờng phân cấp trong đấu thầu. Phân cấp trong đấu thầu là một vấn đề quan trọng và nhạy cảm, đồng thời có mối liên hệ mật thiết đến hệ thống tổ chức. Hiện đang có những ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này. Có ý kiến cho rằng hiện nay chủ đầu t đợc giao nhiều quyền hạn, song một số lại thiếu năng lực và không chụi trách nhiệm gì hay trách nhiệm không đợc qui định rõ ràng. Do vậy nhiều ý kiến đề nghị phải tăng cờng trách nhiệm của chủ đầu t. Một số ý kiến khác lại cho rằng quy trình đấu thầu hiện nay là quá rờm rà, kéo dài, qua nhiều bớc phê duyệt, trong khi đó qua một thời gian thực hiện qui chế đấu thầu năng lực của cán bộ Việt Nam đều đã trởng thành nên đề nghị tăng cờng phân cấp hơn nữa cho chủ đầu t từ việc quyết định kế hoặch đấu thầu, danh sách tham gia đấu thầu, danh sách xếp hạng các nhà thầu về kỹ thuật, kết quả đấu thầu, nội dung hợp đồng… Tất nhiên việc thực hiện của chủ đầu t phải theo đúng pháp lệnh đấu thầu và chụi sự giám sát kiểm tra của các cơ quan chức năng theo quy định trong pháp lệnh đấu thầu. Theo hớng này cơ quan quản lý nhà nớc các cấp chỉ nên thực hiện chức năng quản lý nhà nớc là: Ban hành chính sách, hớng dẫn và kiểm tra việc thực hiện. Thứ 2 là phải đẩy mạnh tính công khai trong đấu thầu. Đây là mà khá nhiều ý kiến đã thể hiện sự đồng tình bởi quy chế đấu thầu hiện hành cũng chỉ mới quy định thông báo mời thầu trong trờng hợp đấu thầu rộng rãi và thông báo trúng thầu đợc công bố công khai, còn nhiều nội dung khác vẫn cha công khai, do vậy hạn chế sự giám sát của các nhà thầu cũng nh của công luận. Ơ một số nớc, nhiều thông tin liên quan đến công tác đấu thầu đợc công khai hoá và đợc đăng tải trên một tờ đặc san của chính phủ. Học tập kinh nghiệm này chính phủ nên giao cho một cơ quan đợc xuất bản một đặc san chuyên về đấu thầu của Việt Nam để thực hiện công khai hoá đấu thầu. Cơ quan phụ trách đặc san nên là cơ quan đảm nhiệm công tác thanh tra, kiểm tra công tác đấu thầu. Đặc san cần bao gồm các nội dung nh thông báo mời thầu (cho đấu thầu rộng rãi), thông tin về đấu thầu hạn chế, kết quả trúng thầu và kết quả chỉ định thầu, danh sách các nhà thầu bị cấm tham gia đấu thầu, bị buộc chem. Dứt hợp đồng hoặc không đủ khả năng hoàn thành hợp đồng đã ký. Thứ 3 trong việc cải cách này là vấn đề khiếu nại và xử lý vi phạm phải đợc đa thành nội dung quan trọng của pháp lệnh đấu thầu. Theo kinh nghiệm của một số nớc thì việc xử lý khiếu nại trong đấu thầu đợc quy định cụ thể trong luật mua sắm do các trọng tài đảm nhiệm. Trọng tài không nhất thiết phải là chuyên nghiệp, nhng cần độc lập với bên mời thầu cũng nh đối với các nhà thầu có khiếu nại. Tuy nhiên việc này đang là mới mẻ đối với chúng ta nên cần đợc thảo luận kỹ để việc quy định trong pháp lệnh đấu thầu chấm dứt đợc tình trạng xử lý khiếu nại thờng kéo dài nh hiện nay. Thứ 4 cần đề cập tới trong vấn đề này là vấn đề giá sàn trong đấu thầu. Hiện nay d luận xã hội đang có những ý kiến khác nhau về vấn đề nên hay không nên quy định giá sàn trong đấu thầu. Một số ý kiến khác cho rằng do không quy định giá sàn nên một số gói thầu có giá trúng thầu quá thấp sẽ ảnh hởng đến chất lợng công trình do bớt xén vật t, nhân công, kéo dài thời gian thực hiện. Một số thì cho rằng đấu thầu là phải cạnh tranh, do đó khi giá trúng thầu thấp hoặc thậm chí quá thấp, song đợc làm rõ hoặc có điều khoản gắn trách nhiệm trong hợp đồng đợc ký thì vẫn chấp nhận đợc. Điều quan trọng là phải nâng cao trách nhiệm giám sát thi công của chủ đầu t hoặc t vấn giám sát. Do vậy không nên quy định giá sàn trong đấu thầu nhng phải có biện pháp cần thiết để xử lý các trờng hợp đợc trao hợp đồng nhng thực hiện keo dài hoặc cố tình tạo ra các phát sinh vô lý. Cần xác định vai trò của các cơ quan giao vốn, vai trò các hiệp hội, xem xét hình thức xử lý không cho dự thầu tiếp đối với các nhà thầu thực hiện tồi. Điểm cuối cùng cần phải xem xét là chế tài xử phạt các vi phạm pháp lệnh Đấu thầu và công tác kiểm tra, thanh tra. Chúng ta nên phải có mức phạt cho các hnhà vi vi phạm pháp lệnh đấu thầu tuỳ theo mức độ nh ở một số nớc đã làm, có nh thế mới đảm bảo mọi ngời sẽ thực hiện theo đúng pháp lệnh đấu thầu. Đồng thời với cơ chế phân cấp mạnh hơn thì việc kiểm tra, thanh tra phải đợc nâng lên một bớc và tiến hành thờng xuyên kịp thời, song không để anh hởng tới tiến độ thực hiện đấu thầu. Tóm lại để cải tiến công tác đấu thầu về mặt pháp lý này chúng ta cần sớm ban hành Pháp lệnh đấu thầu với những nội dung tiên tiến hơn, đẩy mạnh sự cạnh tranh, tăng cờng công khai hoá, có chế tài xử lý vi phạm rõ ràng song cũng cần dễ hiểu, dễ sử dụng, dễ kiểm tra. 2- Những qui định đối với công chức nhà nớc Gần đây uỷ ban thờng vụ quốc hội đã ban hành 3 pháp lệnh mới có liên quan tới các vấn đề đấu thầu. Pháp lệnh công chức quy định t cách đạo đức của cán bộ công chức nhà nớc trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình và đề ra những tiêu chuẩn họ phải tuân thủ khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Pháp lệnh qui định công chức phải siêng năng và phải hoàn toàn vì lợi ích của nhà nớc. Nhiệm vụ và quyền lợi của cán bộ công chức nhà nớc đợc miêu tả chi tiết và những hoặt động của công chức nhà nớc không đợc làm đợc miêu tả. Pháp lệnh cũng đề cập đến điều kiện làm việc, đào tạo, luân chuyển, nghỉ hu và những vấn đề nh xử phạt khi vi phạm luật. Pháp lệnh về tiết kiệm và chống lãng phí yêu cầu công chức nhà nớc phải tuân thủ các để đảm bảo tính kinh tế và hiệu quả trong sử dụng nguồn vốn công. Pháp lệnh này quy định vốn và tài sản nhà nớc về cơ bản là ngân sách nhà nớc bao gồm cả viện trợ nớc ngoài. Các hình phạt đợc qui định đối với công chức gây lãng phí công. Chơng III của pháp lệnh công chức có qui định giải quyết xung đột lợi ích nh cấm công chức sở hữu và sở hữu công ty t nhân, nhng vẫn cha có quyết định chung hơn cấm công chức tham gia vào lĩnh vực mà họ hoặc ngời thân của họ có lợi ích riêng t, lợi ích kinh tế hoặc lợi ích khác. Cần ban hành một đạo luật về hành vi đạo đức nh một công cụ để tạo nên nhận thức trong khu vự nhà nớc.Vấn đề xung đột lợi ích nên đợc giả quyết chi tiết hơn trong pháp lệnh đấu thầu hoặc trong pháp lệnh chống tham nhũng. Tình trạng nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh cùng một vấn đề là một tồn tại chung trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Các công cụ pháp lý trùng lập, chồng chéo tạo nên sự long túng, lẫn lộn và không chắc chắn. Nh đã đề cập ở trên những vấn đề này cần đợc rà soát lại và những trùng lặp chồng chéo đó cần đợc lạo bỏ. 3- Pháp lệnh chống tham nhũng Một vấn đề bức xúc chung ở Việt Nam trong đấu thầu chính là vấn đề tham nhũng. Cách nhìn nhận này tạo là một động lực tạo nên pháp lệnh chống tham nhũng (Số 03/1998/PLUBTVQH10, tháng 2 – 1998) và các văn bản hớng dẫn thực hiện liên quan (nghị định 64/1998/NĐ-CP). Cách nhìn nhận đó đã đợc các quan chức cao cấp của chính phủ, Đảng, giới kinh doanh trong nớc và nớc ngoài và cộng đồng tài trợ Việt Nam cùng chia sẻ. Các nhà kinh doanh trong nớc và nớc ngoài đều nhận thấy sự phức tạp của thủ tục cấp phép, sự không rõ ràng của việc ra quyết định tạo cơ hội cho tham nhũng là những rào cản cho việc kinh doanh. Tài liệu Điều tra khả năng cạnh tranh toàn cầu gần đây cho thấy những thủ tục không rõ ràng, việc thiếu thông tin, tính tuỳ tiện quan liêu trong một bộ phận cán bộ và sự chậm trễ kéo dài là những yếu tố khiến Việt Nam bị khu vực t nhân đánh giá xếp hạng gần thấp nhất trong số 58 nớc về khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên mức độ và quy mô tham nhũng cũng nh tham nhũng chủ yếu là ở địa phơng đều cha rõ. Chính phủ cho rằng mặc dù tham nhũng là vấn đề lớn nhng chủ yếu ở cán bộ cấp trung và cấp thấp. Việc Việt Nam xét xử vào đầu tháng 12/2002 khoảng 150 nhân vật có liên quan đến một băng thế giới ngầm khét tiếng ở phía Nam cho thấy sự tham nhũng của một số cán bộ cấp tơng đối cao. Pháp lệnh chống tham nhũng là vũ khí chủ yếu của Chính phủ để chống tham nhũng. Về liên quan đến đấu thầu pháp lệnh này cấm một loạt các hành động tham nhũng, trong đó hối lộ và lạm dụng quyền chức là liên quan nhất. Pháp lệnh này bổ sung thêm vào các công cụ pháp lý nêu trên bằng cách mô tả nhiệm vụ của công chức và qui trình thi và xử phạt. Có thể nói về nội dung và cấu trúc pháp lệnh này gần đạt đến tiêu chuẩn quốc tế. Nh vậy công cụ pháp lý thì đã có , hiện nay thách thức đối với chính phủ là vấn đề thực hiện. Luật hợp đồng Đến nay Việt Nam cha có một bộ luật hợp đồng thống nhất và đầy đủ nên việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng dựa vào các điều khoản liên quan một số luật khác nh luật dân sự, luật thơng mại, luật đầu t nớc ngoài và pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989. Trong một số trờng hợp thậm chí dựa vào văn bản quy định của địa phơng. Ví dụ quyết định 789QĐUB 8/4/95 của Hà Nội hớng dẫn việc xây dựng, xem xét, phê duyệt và quản lý dự án vốn đầu t nớc ngoài. Vấn đề hợp đồng đợc bao trùm lớn nhất trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Pháp lệnh này bao trùm “ thoả thuận hoặc văn bản liên quan tới sản xuất trao đổi hàng hóa, cung cấp dịch vụ, nghiên cứu và áp dụng bí quyết khoa học kỹ thuật hoặc các thoả thuận kinh doanh khác.” Tuy nhiên, các nội dung nh việc xây dựng hợp đồng và giải quyết tranh chấp còn cha đầu đủ và không nhất quán với một số điều khoản liên quan trong dự thảo pháp lệnh đấu thầu mua sắm. Việc có nhiều luật chi phối vấn đề hợp đồng là một rào cản đối với sự hiểu biết của công chúng về tính pháp lý của hợp đồng. Trong đấu thầu những lúng túng về mặt pháp lý có lẽ là lý do làm cho cán bộ nhà nớc ngiạ sử dụng hợp đồng nh là một công cụ hiệu quả để quản lý hợp đồng. Do đó, vấn đề chất lợng thấp trong mua sắm đấu thầu lại càng tăng. Chính phủ Việt Nam cần loại bỏ các qui định trùng lặp liên quan đến việc xây dựng và nội dung của hợp đồng. Về lâu dài nên xây dựng một luật hợp đồng mới. Một giải pháp dễ dàng hơn nhng vẫn hiệu quả là việc áp dụng hợp đồng chuẩn nh là một phần của hồ sơ mời thầu chuẩn. Những mầu hợp đồng chuẩn tốt nh mẫu của Ngân hàng thế giới hay Ngân hàng phát triển Châu á rất sẵn chính phủ nên tham khảo để soạn mẫu hợp đồng của mình. Hoàn thiện các quy trình kỹ thuật trong đấu thầu. Các chính sách và thông lệ đấu thầu mua sắm là những chỉ tiêu quan trọng đối với việc quản lý, tính hiệu quả và kết quả thực hiện nguồn lực công. Trớc 1994 và trớc khi viện trợ đợc nối lại, Việt Nam không có quy định toàn diện về đấu thầu cạnh tranh rộng rãi. Quá trình hình thành một khuôn khổ đấu thầu mua sắm hiện đại cho chi tiêu công ở Việt Nam dựa trên cơ sở đấu thầu cạnh tranh đợc bắt đầu sau lần đánh giá hoặt động mua sắm công ở Việt Nam lần thứ 1 năm 1994. Cho đến nay những biện pháp hoàn thiện và kỹ thuật đấu thầu ngày càng đợc quan tâm hơn và làm cho đấu cạnh tranh ở Việt Nam trở thành cơ sở cho cơ chế thị trờng trong mua sắm. Những biện pháp hoàn thiện kỹ thuật sau đây có thể góp phần làm hoàn thiện cơ chế đấu thầu quốc tế tại Việt Nam. 1- Kế hoặch đấu thầu Theo qui chế 88/1999/NĐ-CP, trớc khi tiến hành mời thầu, cơ quan quản lý dự án phải có kế hoặch đấu thầu và hồ sơ mời thầu đã có cấp thẩm quyền phê duyệt. Có rất nhiều lo ngại về chất lợng của kế hoặch đấu thầu và hồ sơ mời thầu, đặc biệt là sự phân công gói thầu, dự toán, thiết kế và yêu cầu kỹ thuật, phơng pháp và tiêu chí xét thầu, năng lực nhà thầu và điều kiện hợp đồng. Một điều rõ ràng là chất lợng kém của kế hoặch đấu thầu và hồ sơ mời thầu ảnh hởng xấu tới quá trình mua sắm, ví dụ nh giảm chất lợng các hồ sơ dự tầu của các nhà thầu, việc xét thầu khó hơn và bị chậm trễ, trao hợp đồng sai, chi phí tăng và thực hiện hợp đồng bị chậm trễ do phải thay đổi thiết kế và nhu cầu xin vốn bổ sung. Cuối cùng tất cả những điều này dễ dẫn tới chất lợng thấp của công trình và thiết bị. Chất lợng kỹ thuật và thiết kế kém phản ánh một phần chất lợng cán bộ kỹ thuật hiện có ở Việt Nam hoặc hệ thống dịch vụ t vấn bao gồm cả cách thức tổ chức quản lý và quy định về mức phí t vấn. Trong khi xây dựng năng lực để nâng cao kỹ năng kỹ thuật của t vấn là một giải pháp dài hạn, cần sớm rà soát lại toàn bộ nghành t vấn. Ví dụ nh quy định hiện hành về phí t vấn là một cản trở đối với việc phát triển một nền công nghiệp t vấn độc lập dựa trên cơ sở kinh tế thị trờng. Hiện tại t vấn thờng đợc chỉ định và thực chất không có một sự cạnh tranh nào. trong nhiều trờng hợp, t vấn có mối quan hệ mật thiết với bên thầu và chủ dự án. Vì t vấn không độc lập nên trong trờng hợp chất lợng công việc kém họ không phải chụi trách nhiệm giống nh t vấn độc lập. Tình hình trên có thể đợc cải thiện hơn bằng việc cung cấp hồ sơ mời thầu chuẩn, báo cáo xét thầu chuẩn và những văn bản hớng dẫn khác nhau nh đã nói phần trên. Tuy nhiên việc này không thể thay thế cho đào tạo. Đào tạo phải đợc tiến hành song song với việc thực hiện những bớc này. Về dài hạn, Chính phủ nên dừng việc điều tiết thiếu tự nhiên thị trờng t vấn độc lập. Dần dần, giải pháp này sẽ cho phép một ngành công nghiệp t vấn độc lập và có chuyên môn thực sự pháp triển. Một biện pháp trung hạn có thể là nâng cấp hệ thống hiện có hoặc xây dựng mới một hệ thống kiểm tra và tiêu chuẩn chất lợng để giúp soạn thảo các yêu cầu và thiết kế kỹ thuật. Việc đào tạo cán bộ làm đấu thầu nên bao gồm cả nội dung kiểm tra chất lợng và tiêu chuẩn kỹ thuật của lĩnh vực liên quan. Điều này giúp xác định và loại bỏ những sai sót thờng gặp liên quan đến các chi tiết và thiết kế kỹ thuật. Các chuyên gia có trình độ kỹ thuật cao trong những lĩnh vực khác nhau có thể soạn thảo tài liệu yêu cầu kỹ thuật tối thiểu cho từg lĩnh vực liên quan. Những tài liệu đó cần đợc phổ biến cho cán bộ kỹ thuật và đấu thầu trong lĩnh vực liên quan. 2- Phơng pháp đấu thầu Đối với dự án sử dụng vốn ODA, việc lựa chọn phơng thức mua sắm tuân thủ theo qui định của nhà tài trợ. Phơng pháp mua sắm thờng đợc sử dựng cho dự án này là đấu thầu quốc tế. Nghị định 52/NĐ-CP phân loại các dự án đầu t thành các nhóm A, B, và C theo tiêu chuẩn liệt kê trong phụ lục III- A. Các dự án nhóm A do thủ tớng chính phủ phê duyệt, trừ những trờng hợp đã đợc Thủ tớng Chính phủ uỷ quyền. Tất cả các dự án ODA đợc phân vào loại nhóm này. Việc phê duyệt các dự án nhóm B và C đợc giao cho cấp Bộ trởng và Chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố hoặc cấp thấp hơn tuỳ theo quy mô của dự án. Theo Bộ Kế hoặch và Đầu t, 70% số hợp đồng sử dụng vốn trong nớc đợc thực hiện không phải bằng phơng pháp đấu thầu cạnh tranh rộng rãi, bao gồm đấu thầu hạn chế, chào hàng cạnh tranh, chỉ định thầu và tự thực hiện. Mặc dù nghị định quy định đấu thầu rộng rãi là phơng pháp chủ yếu để lựa chọn nhà thầu, nhng trong thực tế cách quy định trong nghị định làm cho có thể sử dụng đấu thầu hạn chế nh là phơng pháp chính mà vẫn nhất quán với nghị định. Do vậy, trong phần lớn các trờng hợp, không thấy có sự liên quan giữa ba yếu tố là phơng thức lựa chọn nhà thầu, quy mô gói thầu và cấp phê duyệt. Đây là một vấn đề quan trọng mà Chính phủ cần xem lại. Vấn đề chủ yếu ở đây là lựa chọn phơng thức đấu thầu hạn chế hay phơng thức đấu thầu rộng rãi và cấp nào có thể quyết định việc này. Kinh nghiệm cho thấy rằng việc cho phép tự do lựa chọn sẽ dẫn đến việc lạm dụng một cách có hệ thống và nhiều quan chức sẽ tìm cách liên kết với một số nhà thầu để thu lợi cá nhân làm hại đến lợi ích công. Mối lo ngại này không phải là mới và rất phù hợp với những nớc có ít kinh nghiệm hơn nhng trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nớc thấp Việt Nam có cả hai mối lo ngại trên, liên quan tới kinh nghiệm và trách nhiệm. Việt Nam cần hết sức hạn chế sử dụng các phơng pháp mua sắm khác không phải là đấu thầu rộng rãi. Biện pháp là quy định đấu thầu rộng rãi là phơng pháp chính và bắt buộc đối với các gói thầu có giá trị lớn hơn một ngỡng tiền đợc xác định trong quy chế. Trờng hợp đấu thầu rộng rãi không phải là phơng pháp phù hợp thì phải có giải trình tại sao không phù hợp và tại sao một phơng pháp ít cạnh tranh hơn, nh đấu thầu hạn chế, lại phù hợp hơn. Giải trình này phải đa vào kế hoặch đấu thầu và phải đợc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Chính phủ nên quy định rõ mối liên hệ giữa giá trị gói thầu, phơng pháp mua sắm và cấp phê duyệt. Nên đa vào dạng bảng cho dễ hiểu, riêng cho hàng hoá, công trình và dịch vụ. Trình tự và thủ tục đấu thầu mua sắm rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy tinh thần trách nhiệm và tính minh bạch. Cùng với quy định rõ ràng và tốt hơn đối với công tác lu giữ hồ sơ và tài liệu đấu thầu, công tác kiểm tra phê duyệt trớc và sau khi ký hợp đồng, cải tiến này sẽ là một cách hữu hiệu lực để giám sát việc sử dụng nguồn vốn công. 3- Quảng cáo Quảng cáo trên các phơng tiện thông tin đai chúng là bắt buộc đối với đấu thầu rộng rãi. Nhng gần đây, Phòng Thơng mại và Công nghiệp Việt Nam ( VCCI ) đã tiến hành một cuộc điều tra đối với các thành viên của mình để đánh giá tính hiệu lực của Luật Doanh nghiệp. Gần 1/ 4 số trả lời cho rằng họ không tham gia vào “các cơ hội” đấu thầu mua sắm công do thiếu thông tin. Bản báo cáo còn cho biết thêm là “ điều phổ biến là các doanh nghiệp phải mất chi phí để có đợc thông tin về đấu thầu từ các cơ quan quản lý. Điều này xảy ra với 30% số doanh nghiệp tham gia đấu thầu với chi phí trung bình là 1 triệu đồng”. Điều này có vẻ liên quan đến báo cáo của Bộ Kế hoặch và Đầu t đã nêu ở mục 38 là 70% các gói thầu dùng vốn trong nớc không dùng phơng thức đấu thầu rộng rãi, mà dùng các phơng pháp đấu thầu không phải quảng cáo nh đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu. Chính phủ cần rà soát lại Nghị định 88/1999/NĐ-CP để nêu rõ là đối với các gói thầu đấu thầu rộng rãi, quảng cáo sơ tuyển và mời thầu bắt buộc phải đăng trên một tờ báo đợc phát hành trên phạm vi toàn quốc. Quy định này sẽ làm tăng sự cạnh tranh và tiết kiệm cho ngân sách nhà nớc. Chính phủ cũng nhận thấy rằng tính minh bạch là rất quan trọng đối với mua sắm công. Do vậy, dự thảo Pháp lệnh đấu thầu đa ra một tiến bộ đáng kể về yêu cầu quảng cáo đấu thầu. Cụ thể là, tất cả các thông tin quan trọng về đấu thầu phải đợc công bố trên một tờ Thông tin mua sắm công của chính phủ. Chính phủ nên xem xét những nội dung sau của tờ thông tin mua sắm công: Cung cấp sớm những thông tin chung về cơ hội đấu thầu trong tơng lai dựa trên kế hoặch đấu thầu đã đợc duyệt; Quảng cáo tất cả các thông báo mời thầu đối với các gói thầu có giá trị lớn hơn một ngỡng giá trị theo quy định. Lúc đầu, ngỡng này có thể đặt cao. Sau đó nên hạ dần xuống; Công bố danh sách những nhà thầu đợc chọn để dự đấu thầu hạn chế; Công bố kết quả xét thầu, bao gồm tên nhà thầu, nội dung gói thầu và giá trị hợp đồng; Công bố danh sách nhà thầu bị cấm dự thầu do có hành vi gian lận hoặc tham nhũng; Mỗi thông báo mời thầu chuẩn có thể dựa theo tiêu chuẩn của UNCITRAL điều 25 đề xuất nội dung tối thiểu đối với mời thầu. Chính phủ nên xem xét khả năng phát hành tờ thông tin này cả dới dạng báo điện tử, sau khi đã hình thành tờ thông tin in trên giấy. Tờ thông tin bớc đầu có thể chỉ áp dụng cho các hợp đồng lớn và thành phố lớn. Sau đó rút kinh nghiệm để mở rộng hơn về nội dung và địa lý. 4- Hồ sơ mời thầu chuẩn Hồ sơ mời thầu chuẩn bao gồm th mời thầu, hớng dẫn nhà thầu, điều kiện hợp đồng, v.v…là một trong những công cụ quan trọng nhất để quản lý công tác đấu thầu mua sắm. Từ khi các nhà tài trợ lớn nh Ngân hàng Thế giới Ngân hàng phát triển Châu á, Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản nối lại tài trợ cho Việt Nam năm 1994, đấu thầu trở thành yêu cầu bắt buộc trong các dự án đợc tài trợ. Hồ sơ mời thầu chuẩn của nhà tài trợ là bắt buộc đối với các gói thầu đấu thầu quốc tế (ICB). Các Ngân hàng này đã soạn thảo mẫu hồ sơ bằng tiếng Việt dùng cho đấu thầu cạnh tranh trong nớc (NCB) về hàng hoá và xây lắp. 8 năm qua, thông qua việc đấu thầu trong các dự án sử dụng vốn của các nhà tài trợ lớn, nhiều ban quản lý dự án và các nhà thầu trong nớc đã trở nên quen thuộc với hồ sơ mời thầu theo chuẩn mực quốc tế. Từ năm 1996, đấu thầu cũng đã trở thành yêu cầu đối với các gói thầu tơng đối lớn dùng vốn trong nớc. Số lợng và giá trị của các gói thầu loại này tăng lên nhanh chóng. Điều này làm nảy ra yêu cầu phải sớm có các tài liệu mẫu chuẩn của Chính phủ nh Hồ sơ mời thầu và báo cáo xét thầu. Các tài liệu này cũng có thể góp phần giúp hài hoà thủ tục mua sắm của chính phủ và các nhà tài trợ. Trong khi chờ đợi Chính phủ ban hành mẫu chuẩn, một số ngành có nhiều kinh nghiệm đấu thầu đã tự soạn lấy hồ sơ mẫu của mình dựa trên các mẫu chuẩn của các nhà tài trợ. Chính phủ nên sớm hoàn thiện các hồ sơ mẫu này để có thể dùng cho các gói thầu dùng vốn trong nớc. Nên dùng thử trong một hai năm lấy kinh nghiệm để hoàn thiện tiếp. Chính phủ cũng nên soạn các tài liệu mẫu khác nh báo cáo xét thầu, hồ sơ Mời thầu cho công trình xây dựng lớn, tài liệu sơ tuyển, v.v… Xét thầu Cơ quan mời thầu chịu trách nhiệm xét thầu. Các bộ, ngành có khối lợng mua sắm lớn hàng năm nh nghành điện hay giao thông thờng có các đơn vị chuyên quản lý dự án. Các đơn vị này thờng có tổ và cán bộ chuyên trách về mua sắm đấu thầu. Tuy nhiên, hầu hết các cơ quan khác thờng không có một khối lợng mua sắm thờng xuyên. Các cơ quan này khi nào phải mua sắm đấu thầu thì mới lập ra tổ công tác tạm thời theo từng vụ việc. Cách tổ chức thờng là lập ra một nhóm công tác, bao gồm đại diện của cục vụ chủ chốt trong một bộ hay uỷ ban nhân dân ( thờng là kế hoặch, tài chính, xây dựng và cơ quan chuyên nghành kỹ thuật liên quan) để đảm bảo quyết định trao hợp đồng đa ra phù hợp với chính sách và lợi ích của tất cả các cơ quan. Cách làm này đôi khi ảnh hởng đến yêu cầu là xét thầu phải dựa vào tiêu chuẩn xét thầu nêu trong Hồ sơ mời thầu. Phơng pháp chấm điểm trong xét thầu đối với hàng hoá và công trình thờng đợc coi là mang tính chủ quan trong các nớc có hệ thống mua sắm công cộng tiên tiến cũng nh các nhà tài trợ quốc tế chính, bởi vì các tiêu chí xét thầu có thể bị điều chỉnh và lạm dụng, và do đó kết quả có thể bị thay đổi theo ý muốn của ngời xét thầu. Vì vậy, các nhà tài trợ chính cho Việt Nam nh WB, ADB và JBIC đều kiến nghị không sử dụng phơng pháp chấm điểm trong xét thầu. Chính phủ Việt Nam đợc khuyến nghị xem xét đa ra phơng pháp xét thầu trên cơ sở chi phí thấp nhất tơng tự nh phơng pháp đang đợc WB và ADB sử dụng, do phơng pháp này đã chứng tỏ là cách làm tốt nhất trong mua sắm công cộng. Trên thực tế, nhiều cơ quan mời thầu đã quen thuộc với phơng pháp này qua việc thực hiện công tác mua sắm trong các dự án do WB tài trợ. Nếu vì lý do nào đó mà phơng pháp chấm điểm cần đợc tiếp tục sử dụng, phơng pháp xét thầu dựa trên chi phí thấp nhất đợc khuyến nghị bổ sung thêm và cho phép các cơ quan mời thầu lựa chọn một trong hai phơng pháp. Có một quan niệm khá phổ biến, đặc biệt trong ngành xây dựng, là nếu một hồ sơ thầu có giá quá thấp, ví dụ 10% hoặc hơn so với giá dự toán gói thầu, thì nhà thầu đó hoặc là không nghiêm túc hoặc là thiếu kinh nghiệm, do đó sẽ không thể thực hiện hợp đồng đó và hợp đồng dễ bị chậm trễ, tăng chi phí hoặc chất lợng thấp. Trong khi các quy định không cho phép loại bỏ một hồ sơ thầu chỉ vì giá “quá thấp”, trên thực tế, nhiều cơ quan mời thầu đặc biệt các chủ đầu t công trình xây lắp thờng tìm các lý do để loại bỏ các hồ sơ thầu nh vậy và phơng pháp chấm điểm là công cụ hữu hiệu để làm điều đó. Một vấn đề khác liên quan đến trờng hợp các hồ sơ thầu đáp ứng nhng chào giá vợt quá dự toán. Về nguyên tắc, giá trị dự toán hoặc tỷ lệ thay đổi giá cho phép không đợc tiết lộ cho các nhà thầu. Trong trờng hợp nêu trên, Nghị định 88/1999/NĐ-CP cho phép bên mời thầu yêu cầu nhà thầu chào giá lại để có đợc giá thấp hơn dự toán đợc duyệt. Đây là một cách thuận tiện để “giải quyết vấn đề”. Tuy nhiên, cách đó sẽ ảnh hởng xấu đến toàn bộ tính tin cậy của hệ thống mua sắm đấu thầu quốc gia. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần xem xét lại quy định này và xoá bỏ nó trong các sửa đổi trong tơng lai hoặc trong quy chế mới. Quá trình Xem xét và Phê duyệt cuối cùng Mua sắm trong một dự án đầu t trong nhóm A, với giá trị gói thầu trên hạn mức quy định trong nghị định, sẽ phải tuân theo những bớc đánh giá và xem xét sau: Cơ quan tổ chức thầu đánh giá thầu gồm một nhóm xét thầu đặc biệt và chuẩn bị báo cáo đánh giá thầu; Báo cáo đánh giá đợc cơ quan tổ chức thầu trình lên bộ chủ quản hoặc chính quyền địa phơng nh uỷ ban nhân dân để xét duyệt; Bộ chủ quản xem xét báo cáo đánh giá. Thờng là bổ nhiệm một ban gồm các cán bộ từ các vụ có trách nhiệm nh kế hoặch, pháp chế và tài chính xem xét báo cáo đánh giá thầu; Báo cáo đánh giá với ý kiến đánh giá và kiến nghị của bộ lại đợc gửi lên Bộ Kế hoặch và Đầu t . Bộ Kế hoặch và Đầu t ( Văn phòng xét thầu) tiến hành xem xét lần thứ hai ( thẩm định ) báo cáo đánh giá. Đôi khi, ví dụ trờng hợp có tranh chấp hoặc khiếu nại, Bộ Kế hoặch và Đầu t sẽ tham vấn và lấy ý kiến nhất trí từ các bộ và các cơ quan có liên quan khác nhau trớc khi trình kiến nghị phê duyệt lên Thủ tớng Chính phủ để phê duyệt lần cuối cùng. Văn phòng Thủ tớng xem xét kiến nghị của Bộ Kế hoặch và Đầu t. Đôi khi, ví dụ trờng hợp có tranh chấp hoặc khiếu nại, Văn phòng Thủ tớng sẽ lấy ý kiến của các vụ trong chính phủ cũng nh các bộ liên quan trớc khi ra quyết định cuối cùng. Đối với các hợp đồng nhỏ (nhóm B và C), các thủ tục trên sẽ đợc tiến hành, trừ cấp ra quyết định cuối cùng sẽ là bộ hoặc uỷ ban nhân dân. Hệ thống đánh giá và phê duyệt hiện tại đối với các hợp đồng lớn là một quy trình đánh giá và xem xét nhiều cấp làm tốn rất nhiều thời gian và do đó dẫn đến nhiều chậm trễ trong việc trao hợp đồng. Do số ngời tham gia đánh giá lớn và mất nhiều thời gian, nên trong quá trình này dễ xảy ra việc sử dụng không đúng, gây sức ép, thao túng và rỏ rỉ thông tin. Kiến nghị là quy trình này cần đợc tinh giản: Phân cấp quyền và trách nhiệm phê duyệt và cho phép mỗi bộ chủ quản ( hoặc Uỷ ban Nhân dân) là cấp phê duyệt cao nhất; Xoá bỏ quy trình đánh giá nhiều cấp; thay vào đó tinh giản quy trình đánh giá bằng cách xây dựng một hệ thống hai bậc - (i) cơ quan đấu thầu chịu trách nhiệm đánh giá; và (ii) bộ chủ quản hoặc chính quyền địa phơng chịu trách nhiệm xem xét lần cuối và phê duyệt; áp dụng đánh giá sau đối với các gói thầu dới một ngỡng giá trị nào đó để đơn giản hoá và bổ xung vào hệ thống chỉ đánh giá trớc hiện tại. Mô tả những quy định đánh giá, gồm cả năng lực và đại diện cần thiết cho công tác đánh giá, trách nhiệm đối với quy trình và tài liệu bắt buộc và lu giữ hồ sơ cần thiết. áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế cho việc lu giữ hồ sơ nh đã đợc giải thích trong Hớng dẫn về Luật mẫu của UNCITRAL. III- Khuôn khổ thể chế Cơ quan đấu thầu độc lập Việc phải có một cơ quan chính sách về đấu thầu mua sắm chịu trách nhiệm điều hành và giám sát là điều rất cần thiết. Một cơ quan với tôn chỉ mục đích rõ ràng và cán bộ đủ trình độ là chìa khoá để tạo ra một hệ thống đấu thầu mua sắm công có hiệu lực. Một cơ quan ở cấp quốc gia với một khuôn khổ phù hợp không chỉ đa ra trọng tâm của chính sách đấu thầu mua sắm ( và luôn cập nhật chúng cho phù hợp với những nguyên tắc đợc quốc tế công nhận) mà còn bảo đảm cho việc tuân thủ của những chính sách đó nữa. Về khía cạnh này, việc thực thi chính sách nên đợc hiểu theo nghĩa rộng nhất có thể - nó bao gồm cả việc thiết kế và thực hiện một hệ thống khiếu nại độc lập, t vấn cho cơ quan đấu thầu về cách hiểu và áp dụng Pháp lệnh và nghị định về đấu thầu mua sắm, quản lý hệ thống kỷ luật và xử phạt hành chính , giám sát v.v… Nhiều nớc đã thành lập cơ quan tơng tự với kết quả tốt đẹp . Mỹ, Anh, Canada, Đức, Thụy Điển và Pháp đều đã thành lập cơ quan đấu thầu nh vậy ở các đơn vị khác nhau của chính phủ. Một vài nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi nh Ba-lan, Ex-tô-nia, Georgia, Ma-lai-xia, Slo-va-kia đã nhận thức đợc sự cần thiết và thành lập những đơn vị này. Trong khi Văn phòng Xét thầu Quốc gia thuộc Bộ Kế hoặch và Đầu t cho đến nay đã và đang làm một công việc rất đáng khen ngợi, thì giờ đây đã đến lúc chính phủ Việt Nam phải thành lập một cơ quan đấu thầu mua sắm ở cấp quốc gia (Văn phòng đấu thầu mua sắm công). Văn phòng đấu thầu mua sắm công cần phải có những đặc điểm chính nh Độc lập với các bộchủ quản bằng cách bảo đảm rằng Văn phòng mua sắm công báo cáo lên cấp chính trị cao nhất ( nh Thủ tớng hoặc Phó Thủ tớng),cấp trên của các bộ chủ quản. Việc này là để giảm bớt áp lực và thao túng từ các bộ ở cùng một cấp báo cáo. Chủ tịch Văn phòng Mua sắm công phải đợc cấp cao nhất của chính phủ nh Chủ tịch nớc hay Thủ tớng bổ nhiệm. Tách chức năng điều hành và giám sát khỏi hoạt động đấu thầu mua sắm. Do vậy, để tránh bất kỳ sự xung đột nào về lợi ích, Văn phòng Đấu thầu Mua sắm công không nên tham gia vào bất kỳ hoạt động nào liên quan đến đấu thầu mua sắm thực tế, bao gồm cả xem xét và phê duyệt v.v…trớc khi hợp đồng đợc ký kết. Trách nhiệm/nghĩa vụ của văn phòng phải đợc quy định rõ ràng trong luật pháp . Luật pháp phải quan tâm tới việc xây dựng luật và quy định tôn chỉ mục đích rõ ràng cho Văn phòng Đầu thầu Mua sắm công. Quyền thực thi của văn phòng Đấu thầu Mua sắm công phải đợc trao quyền cần thiết để thực thi luật pháp. Ví dụ, nó phải có khả năng đợc tiếp cận hồ sơ tài liệu ở bất kỳ cấp nào, áp đặt xử phạt hành chính, tiến hành điều tra, yêu cầu thông tin cho mục đích thống kêv.v… Văn phòng Đấu thầu Mua sắm công phải đợc chính phủ hỗ trợ đủ nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ đợc giao. 2- Nguồn Nhân lực và Năng lực Đấu thầu Nhiều vấn đề cản trở kết quả đầu t có thể là do những khó khăn mang tính hệ thống mà trong đó năng lực quản lý dự án là trọng tâm. Một cuộc điều tra của các nhà tài trợ cho thấy rằng các đơn vị quản lý dự án là quá tải và hoạt động dới nhiều hạn chế của cả bên trong và bên ngoài, bao gồm cả việc giám sát thừa, những quy định mâu thuẫn với nhau, không đủ cán bộ và nguồn lực và đợc đào tạo hạn chế về những thông lệ hiện đại. Giải pháp hớng tới phân cấp trách nhiệm chi tiêu chủ yếu đợc thúc đẩy bằng việc tăng khối lợng công việc liên quan tới hoạt động hợp đồng trên toàn quốc của Chính phủ trung ơng. Sự phân cấp có hiệu quả đòi hỏi phải có năng lực đấu thầu mua sắm ở tất cả các cấp , gồm cả 10.000 xã . Đã có sự nhất trí chung rằng rất cần phải xây dựng năng lực ở tất cả các cấp. Tuy nhiên, vấn đề là phải xác định đợc cách tiếp cận tốt nhất và mức độ nguồn lực cần thiết. Một khoản viện trợ của Ngân hàng Thế giới cho xây dựng năng lực đấu thầu mua sắm đã hỗ trợ xây dựng một chơng trình đào tạo quốc gia. Mặc dù mới đợc thành lập trong thời gian gần đây, nhng Khoa quản trị Kinh doanh trờng Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) đã xây dựng các khoá đào tạo ngắn hạn mà đấu thầu mua sắm đợc giảng dạy nh một phần của môn quản lý dự án. Tuy nhiên, họ nhận thấy rằng họ không thể đáp ứng đợc nhu cầu đào tạo và họ thiếu giáo trình, tài liệu giảng dạy và năng lực giảng dạy. Theo đánh giá của nhà trờng, nhu cầu về đào tạo quản lý dự án và đấu thầu mua sắm đang tăng lên và việc phân cấp sẽ khiến nhu cầu tăng hơn nữa. Bản thân Trờng Kinh tế Quốc dân bị quá tải và cần phải thuê chuyên gia để bắt đầu quá trình này một cách có hệ thống và nghiêm túc. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu cần thực hiện là xây dựng một chiến lợc đào tạo. Chiến lợc này có thể bao gồm những yếu tố nh: Phân tích nhu cầu đào tạo, bao gồm tất cả các trình độ ở các mức cơ bản, chuyên gia và quản lý. Phân tích này nên bao gồm các cấp trung ơng, tỉnh, huyện và xã đã thực hiện phân cấp hoàn toàn. Đề cơng thiết kế các khoá học ngắn hạn và dài hạn và nội dung của các khoá học đó. Việc nghiên cứu các tổ chức đào tạo hiện có nh Trung tâm đào tạo quốc tế Turin, Italy hoặc ESAMI hoặc UNDP là hữu ích để học hỏi về việc thiết kế các chơng trình đào tạo. Phân tích một mô hình cung cấp đào tạo. Gợi ý đợc đa ra là thành lập một Trung tâm đào tạo đấu thầu mua sắm ở trờng Đại học Kinh tế quốc dân trên cơ sở những kinh nghiệm đã thu đợc tại đó. Trong khi gợi ý này chắc là một phơng án tốt, thì cũng nên đa các tổ chức cung cấp đào tạo khác vào trong chiến lợc và xem xét các mô hình khác trớc khi đa ra lựa chọn cuối cùng. Phải xây dựng một mô hình tài trợ. Cần phải có đầu t để thiết lập phơng tiện đào tạo, mua sắm tài liệu và giáo trình, công nghệ thông tin sử dụng cho đào tạo và nâng cao trình độ giáo viên. Chi phí thờng xuyên của một trung tâm đào tạo và mô hình tài trợ cần thiết. Cuối cùng là một kế hoặch hành động với các hoạt động và khung thời gian. Một khía cạnh khác để xây dựng một nhóm hạt nhân những chuyên gia đấu thầu có kỹ năng ở Việt Nam là một hệ thống các khuyến khích. Một mô hình Việt Nam có thể áp dụng là hệ thống chứng nhận cho cán bộ đấu thầu mua sắm , giống nh hệ thống hiện có đối với kiểm toán viên. Hệ thống này có thể có ba cấp: Cơ bản, chuyên viên và chuyên gia và nên có mối liên kết rõ ràng giữa các chơng trình đào tạo hiện có với hệ thống chứng nhận, cơ hội thăng tiến nghề nghiệp và mức lơng. Cơ hội nghề nghiệp tất nhiên là có từ các cơ quan đấu thầu và sẽ phụ thuộc vào cách họ tổ chức hoạt động đấu thầu. Mục tiêu dài hạn hơn là xây dựng một đội ngũ chuyên viên đấu thầu chuyên trách và bắt buộc phải có một chuyên gia đấu thầu đợc chứng nhận là ngời chịu trách nhiệm hàng đầu đối với quá trình đấu thầu mua sắm từ xây dựng kế hoặch đến ký hợp đồng. Chuyên gia đấu thầu mua sắm này cần phải dựa vào các chuyên viên kỹ thuật, tài chính v.v…nhng chuyên gia đấu thầu phải chịu trách nhiệm cuối cùng. Tóm lại, những giải pháp chủ yếu cho vấn đề này là: Xây dựng một chiến lợc đào tạo phân tích những yếu tố nh phân tích nhu cầu đào tạo, thiết kế các chơng trình đào tạo, mô hình cung cấp đào tạo và kế hoặch hành động. Xây dựng một hệ thống chứng nhận, hỗ trợ cho việc phát triển một đội ngũ cán bộ đấu thầu mua sắm trong dịch vụ dân sự. Làm cho việc trở thành một chuyên gia đấu thầu mua sắm trở nên hấp dẫn đối với con đờng phát triển sự nghiệp của công chức bằng cách liên kết những kết quả đào tạo đạt đợc với cơ hội công việc và lơng. Điều này nên đợc kết hợp với chơng trình cải cách dịch vụ dân sự trong tơng lai. Phân tích khối lợng công việc trong các cơ quan đấu thầu và tập trung công việc vào một số ít hơn cán bộ chuyên trách. 3- Trách nhiệm tài chính trong khu vực công Trách nhiệm tài chính trong khu cực công là một khía cạnh quan trọng trong khuôn khổ quản lý nhà nớc. Trách nhiệm này bao gồm các báo cáo tài chính minh bạch và đáng tin cậy về các hoặt động đấu thầu, một hệ thống hoá đơn và quyết toán nhằm làm giảm việc sử dụng lãng phí hoặc lạm dụng công quỹ, một cơ chế xác minh các thông tin do chính phủ cung cấp bằng một cơ quan thứ 3. Hiện nay trách nhiệm và chất lợng quản lý tài chính chung của Việt Nam còn cha đạt đợc những tiêu chuẩn tối thiểu của Luật Minh bạch về tài chính của Quỹ tiền tệ quốc tế, tuy nhiên Chính phủ đã cam kết sẽ áp dụng các biện pháp để đạt đợc những tiêu chuẩn này. Chính vì vậy Chính phủ nên thực hiện những biện pháp cải tổ đáng kể để nâng cao tính minh bạch của ngân sách nh kiểm soát một cách có hiệu quả về mặt pháp luật trong chi tiêu, xây dựng các cơ quan chụi trách nhiệm giải trình tài chính và một đội ngũ cán bộ có trách nhiệm trong việc này, đồng thơì đề nghị Ngân hàng Thế Giới, Ngân hàng phát triển Châu á hỗ trợ việc thực hiện một hệ thống quản lý tài chính thống nhất. IV- Cải cách các doanh nghiệp nhà nớc Trong các hợp đồng do doanh nghiệp nhà nớc thực hiện đã cho thấy rằng các quan hệ giao dịch giữa cơ quan chủ quản với nhà thầu là không sâu sát. Mặc dù các doanh nghiệp nhà nớc dờng nh độc lập về mặt tài chính, quản lý và pháp lý chúng vẫn nằm trong phạm vi của cơ quan thực hiện. Trong khuôn khổ thể chế do các luật chi phối doanh nghiệp nhà nớc quy định, tính tự chủ về pháp lý và tài chính của doanh nghiệp nhà nớc có thể thiết lập. Tuy nhiên vẫn có mối quan hệ phụ thuộc giữa doanh nghiệp nhà nớc và cơ quan thực hiện. Ngành công nghiệp t vấn non trẻ của Việt Nam thậm chí con phụ thuộc hơn vào các bộ chuyên nghành hoặc tổng công ty. Trong một số nghành nh năng lợng, giao thông hoặc phát triển tài nguyên nớc, chính phủ hoặt động độc quyền thông qua một số ít công ty dới sự điều hành của các bộ chuyên nghành liên quan hoặc tổng công ty với các quy định chặt chẽ về phí và tiền công, vì vậy khu vực t nhân non nớt bị loại ra. Khó khăn chính của Doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam là vấn đề phụ thuộc. Vì vậy muốn thoát khỏi tình trạng này cần phải cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nớc và các viện nhà nớc về sở hữu và quản lý. Chẳng hạn nh đẩy mạnh việc tách các doanh nghiệp nhà nớc và các viện ra khỏi sự quản lý trực tiếp của các bộ và Uỷ ban nhân dân. Đây là công việc cần đợc coi là một bộ phận trong cải cách tổng thể công tác quản lý hành chính. Một việc vô cùng quan trọng nữa là cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nớc và các viện theo hớng trở thành hoàn toàn độc lập về mặt pháp lý, tài chính và quản lý để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị này tham gia đấu thầu trong một thị trờng mở một cách công bằng và bình đẳng với tất cả các nhà cung cấp hàng hoá, nhà thầu xây dựng và các công ty t vấn khác. Nói tóm lại hoặt động đấu thầu vẫn còn cha chuyên nghiệp ở Việt Nam. Đội ngũ nhân viên đấu thầu mua sắm hởng lơng theo cơ cấu lơng của Chính phủ, cơ cấu này quy định mức lơng bổng của công chức và là một trong những cơ cấu lơng thấp nhất trên thế giới. Nhận xét phổ biến hiện nay là doanh nghiệp nhà nớc chiếm u thế trong đấu thầu đặc biệt là trong ngành xây dựng thông qua mối quan hệ và giá dự thầu rất thấp. Việc đó hoặc sẽ khiến công ty thắng thầu bị thiệt hại, đòi hỏi trợ giá ẩn, thoả hiệp về chất lợng công trình đợc công trình hoặc sửa đổi đáng kể đơn đặt hàng khiến việc mua sắm không mang tính chất cạnh tranh. Tuy nhiên việc áp dụng đấu thầu cạnh tranh rộng rãi đã giúp tiết kiệm đáng kể vốn đầu t công cộng, tích luỹ đợc nhiều kinh nghiệm ,các quy chế đợc điều chỉnh tốt và thi hành có hiều lực hơn. Chính vì vậy đấu thầu cạnh tranh đợc xem là một phớng pháp mua sắm có hiệu quả đem lại lợi ích cho nhiều bên tham gia, góp một phần đáng kể trong công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nớc. KếT LUậN Hoặt động đấu thầu trong mua sắm tại Việt Nam mặc dù mới đợc đổi mới cách đây 7 năm (từ năm 1996) nhng những thành tựu mà nó đạt đợc cho đến nay là rất đáng kể. Một khuôn khổ pháp lý và thể chế đấu thầu mua sắm công phù hợp đã đợc thiết lập. Đấu thầu cạnh tranh trở thành nguyên tắc đối với hợp đồng sử dụng vốn nhà nớc. Trên thực tế, trong thời gian qua nhờ có đấu thầu cạnh tranh mà Việt Nam đã tiết kiệm đáng kể vốn đầu t công cộng từ 10% đến 14% so với mức dự toán chi phí trớc đấu thầu. Những cơ hội tham nhũng trong quá trình mua sắm giảm đi, chất lợng hàng hóa công trình và dịch vụ mua sắm thông qua đấu thầu tăng lên, năng lực đấu thầu của Việt Nam đợc tăng cờng đáng kể. Và điều này đã thúc đẩy sự tăng trởng của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đã thừa nhận rằng việc áp dụng đấu thầu cạnh tranh rộng rãi bắt đầu từ năm 1996 đã giúp tăng những lợi ích kinh tế và xã hội, các quy chế đợc điều chỉnh tốt hơn và thi hành có hiệu lực hơn. Những khoản lợi ích này còn tăng lên nhiều lần nếu chơng trình cổ phần hoá quốc gia đợc đẩy nhanh và chính phủ chuyển nhanh sang một hệ thống mua sắm đấu thầu theo định hớng thị trờng phù hợp với những nguyên tắc đã đợc chấp nhận trên toàn thế giới. Đợc sự hớng dẫn tận tình của các thày cô giáo trờng Đại học ngoại thơng, em đã mạnh dạn đa ra vấn đề“Đấu thầu trong mua bán quốc tế, thực trạng và giải pháp phát triển tại Việt Nam”. Do cha có điều kiện đi sâu hơn từng dự án cụ thể, nên không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận đợc những ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo để đề tài đợc hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin cảm ơn thầy giáo – Tiến sĩ Phạm Duy Liên, ngời đã hớng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành việc nghiên cứu và thực hiện đề tài này. Tài liệu tham khảo 1- Việt nam – hệ thống Đấu thầu mua sắm công (Ngân hàng thế giới tháng 10- 2002) 2- Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thơng (Trờng đại học ngoại thơng – Vũ Hữu Tửu) 3- Tài liệu về đấu thầu (Bộ kế hoặch đầu t tháng 11/2002) 4- Quy chế đấu thầu ( Nghị định 88/1999/NĐ-CP Chính phủ) 5- Hớng dẫn mua sắm bằng vốn vay IBRD và tín dụng IDA ( Ngân hàng thế giới - 1999) 6- Hớng dẫn mua sắm hàng hoá (Ngân hàng Phát triển Châu á -1999 ) 7-Hớng dẫn đánh giá và đấu thầu đối với các dự án ODA của Ngân hàng hợp tác đầu t Nhật Bản ( Ngân hàng hợp tác đầu t Nhật Bản – 2000) 8- Tài liệu đấu thầu quốc tế và trong nớc (Bộ giao thông vận tải – 2003) 9- Kinh tế 2002 –2003 Việt Nam, Thế giới (Thời báo kinh tế Việt Nam) 10- Báo diễn đàn doanh nghiệp ngày 28/3/2003 (Bộ thơng mại)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc19131 unicode.doc
Tài liệu liên quan