Khóa luận Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam: thực trạng và giải pháp hướng tới chiến lược “Trung Quốc+

Tận dụng nguồn vốn FDI để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá trong bối cảnh ngày càng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là chiến lược “khôn ngoan” của bất kì một quốc gia đang phát triển nào trong thời đại ngày nay. Nhật Bản lại là nước có kinh nghiệm phong phú về phát triển công nghiệp, đi đầu thế giới về năng suất và chất lượng, do đó, nguồn vốn FDI của Nhật Bản luôn được Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam coi trọng, tập trung thu hút. Có thể khẳng định, cho đến nay sự thành công của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI của Nhật Bản được coi là một trong những yếu tố nổi bật của quá trình tăng trưởng kinh tế và mở rộng quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Nhật Bản. Trong 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản tuy trải qua nhiều bước thăng trầm cùng với sự vận động nói chung của dòng vốn này vào Việt Nam nhưng đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước: tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm, mở rộng thị trường, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cải thiện đáng kể cán cân thanh toán và nâng cao khả năng hợp tác quốc tế của Việt Nam. Đến nay, nền kinh tế đã từng bước ổn định, chuẩn bị chuyển sang giai đoạn phát triển tăng tốc, nguồn vốn này lại càng quan trọng hơn. Bối cảnh, vận hội mới đang đặt Việt Nam trước thời cơ lớn để trở thành đối tác tin cậy lâu dài của các công ty Nhật Bản trong chiến lược phân bố đầu tư theo mô hình “Trung Quốc+1”. Phó trưởng đại diện JICA tại Việt Nam, ông Oshikiri Koji đã khẳng định: “Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam không còn là làn sóng “thời thượng” mà là quyết định đúng đắn và nghiêm túc của nhà đầu tư Nhật Bản” . Vấn đề cơ bản và cấp thiết hiện nay của Việt Nam là duy trì những lợi thế đã có, khắc phục khó khăn, nhanh chóng tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, hoàn thiện, chủ động về nhiều mặt đón chào các nhà đầu tư một cách có quy hoạch, tránh tình trạng mất kiểm soát, hỗn loạn trong đầu tư và quản lý đầu tư. Với những nỗ lực không ngừng từ hai phía, cả chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản, hi vọng trong tương lai, làn sóng đầu tư thứ hai từ Nhật Bản sẽ sớm được hiện thực hoá, Việt Nam sẽ trở thành điểm đến lí tưởng cho chiến lược “Trung Quốc+1”, không những khơi thông, khai thác, sử dụng được thế mạnh của nguồn vốn này một cách liên tục và bền vững mà còn ngày càng khẳng định được vị trí quốc gia trên trường quốc tế. Khoá luận đã cố gắng xem xét, phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản trong mối quan hệ với đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản nói chung. Khoá luận cũng căn cứ trên điều kiện, định hướng chiến lược riêng của từng nước để đánh giá tiềm năng, thách thức, từ đó đề ra giải pháp hướng tới sự giao thao lợi ích của hai quốc gia trong bối cảnh đầu tư mới. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian cũng như về trình độ kiến thức, khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét chân thành của các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm để khoá luận được hoàn chỉnh thêm.

doc113 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1959 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam: thực trạng và giải pháp hướng tới chiến lược “Trung Quốc+, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đấu tranh chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ là vấn đề cấp thiết, nhạy cảm và thực sự là thách thức đối với Việt Nam nhằm thu hút FDI của Nhật Bản, quốc gia nắm giữ nhiều công nghệ nguồn đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi các tài sản trí tuệ ngày càng đóng vai trò quyết định đến sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, theo công bố của tổ chức minh bạch quốc tế (TI) vào 25/9/2007, mức độ tham nhũng ở Việt Nam xếp hạng 123 trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ; kém xa Singapo (đứng thứ 4), Hồng Kông (đứng thứ 15), Malaixia (đứng thứ 43), Thái Lan (đứng thứ 84) [20]. Tình trạng này cùng với hiện tượng sách nhiễu, tiêu cực chưa bị chặn đứng, thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo, phiền hà, xu hướng hình sự hoá các quan hệ kinh tế tăng lên là những yếu tố làm biến dạng chính sách, giảm sút uy tín quốc gia, làm xấu đi môi trường đầu tư. 2.1.3. Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển Hiện nay, tại Việt Nam, chưa có một khái niệm cụ thể nào về công nghiệp phụ trợ. Theo nghĩa chung nhất, công nghiệp phụ trợ được hiểu là ngành công nghiệp phụ giúp cho việc lắp ráp các sản phẩm cuối cùng, thông qua việc cung cấp các bộ phận, chi tiết hoặc các sản phẩm hàng hoá trung gian khác. Kinh nghiệm của các nước cho thấy muốn thu hút được các công ty lớn có công nghệ hiện đại thì công nghiệp hỗ trợ phải đi tiên phong, tạo nền tảng cơ sở hạ tầng để cung ứng các sản phẩm đầu vào cần thiết cho các ngành công nghiệp lắp ráp. Công nghiệp phụ trợ là nền tảng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp chính yếu. Mặt khác, một trong những đặc điểm cơ bản của FDI Nhật Bản là tỉ trọng tập trung cao vào các ngành công nghiệp sản xuất máy móc với mức độ yêu cầu chất lượng cao và tương đối phức tạp. Để sản xuất ra một sản phẩm công nghiệp, các doanh nghiệp Nhật Bản cần rất nhiều công đoạn. Bản thân các công ty này hiện cũng chỉ giữ lại trong qui trình của mình các khâu nghiên cứu, phát triển sản phẩm hay lắp ráp, đồng thời, thuê các nhà cung cấp nội địa chuyên môn hoá gia công các công đoạn của sản phẩm [40]. Do đó, công nghiệp phụ trợ có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút dòng vốn FDI từ Nhật Bản, quốc gia nào có nguồn hàng trung gian này càng đáp ứng yêu cầu của họ thì càng có sức hấp dẫn. Về mặt số lượng, hiện nay, nhìn chung công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn sơ khai, manh mún, phân tán với qui mô nhỏ. Trên 90% nhà cung cấp linh phụ kiện cho các công ty nước ngoài đều là những doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Tuy nhiên, số lượng và năng lực của các doanh nghiệp này vẫn chưa đủ mạnh. Ngay cả trong lĩnh vực điện tử, một lĩnh vực khá phát triển ở Việt Nam, công nghiệp phụ trợ cũng không tương xứng với lắp ráp sản phẩm, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm ngành mới đạt khoảng 20%. Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam cũng là một ví dụ. Theo tính toán của các chuyên gia, để có thể hoạt động tốt, mỗi doanh nghiệp lắp ráp ô tô phải cần tối thiểu 20 nhà cung cấp linh kiện. Nhưng ở Việt Nam mới chỉ đạt mức 2-3 nhà cung cấp cho một doanh nghiệp ô tô. Trong nhiều năm qua, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam được phản ánh chủ yếu qua hoạt động của 11 liên doanh FDI thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA). Hầu hết các doanh nghiệp này mới chỉ lắp ráp ô tô dạng CKD với trình độ công nghệ được chuyển giao đơn giản, tỷ lệ nội địa hoá thấp, giá trị gia tăng đạt chủ yếu ở các khâu sơn, hàn, lắp ráp…Hơn 90% các bộ linh kiện, phụ tùng được cung cấp từ các công ty mẹ hoặc từ các liên doanh của họ ở các nước trong khu vực [40]. Mặt khác, nhiều khi các doanh nghiệp này thiếu thông tin về đơn vị cung ứng khiến cho cầu không thể gặp cung. Không có nguồn cung ứng tại chỗ buộc các nhà đầu tư phải nhập linh kiện khiến giá thành cao, sức cạnh tranh giảm. Về chất lượng, Nhật Bản có những yêu cầu rất khắt khe đối với nhà cung ứng về chất lượng, các thông số kĩ thuật, nguồn nguyên vật liệu và thời hạn giao hàng. Các doanh nghiệp Việt Nam với trình độ công nghệ lạc hậu và trung bình, năng lực sản xuất và quản lý yếu chưa thể đáp ứng được đòi hỏi của các nhà lắp ráp. Chẳng hạn, công ty Suzuki Việt Nam hiện đã tạo dựng được một hệ thống các nhà cung cấp nội địa bao gồm 11 công ty Nhật Bản, 22 công ty Đài Loan, 16 công ty Việt Nam và 7 công ty khác nhưng các chi tiết khó và động cơ vẫn phải nhập khẩu. Trong thời gian gần đây, dưới sự quan tâm phát triển của Chính quyền các cấp, doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong ngành công nghiệp phụ trợ, mặc dù số lượng đang tăng lên khá nhanh, nhưng chủ yếu chỉ mới tham gia khâu sản xuất linh kiện kích cỡ cồng kềnh và công nghệ không phức tạp hay đóng gói, bao bì tỉ lệ giá trị thấp [40]. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam là khả năng nghiên cứu, ứng dụng, phát triển còn nhiều hạn chế. Điều này một phần từ sự hạn chế về tài chính và mức độ quan tâm của chính các doanh nghiệp Việt Nam khiến cho các kết quả nghiên cứu chưa đáp ứng được yêu cầu. Hơn nữa, theo đánh giá của các công ty lắp ráp Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam không mấy coi trọng yếu tố thời gian trong cam kết giao nhận hàng hoá, ảnh hưởng đến sự tin tưởng trong quan hệ đối tác, tiêu chí rất quan trọng với phương cách làm ăn của người Nhật Bản. Trong khi tiến độ lắp ráp và kế hoạch phụ tùng, linh kiện đòi hỏi sự chính xác đến hàng ngày, thậm chí hàng giờ thì đa số nhà cung cấp Việt Nam chậm từ 10 đến 15 ngày [40]. Điều này gây mất thiện cảm cho các công ty Nhật Bản, từ đó hạn chế dần những quan tâm của họ đối với việc chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các doanh nghiệp phụ trợ Việt Nam, như cung cấp khuôn mẫu hoặc bản vẽ, một trong những khâu sản xuất khó nhất để hình thành hệ thống “hỗ trợ ruột” ngay trên thị trường sở tại. 2.1.4. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém đẩy chi phí tăng cao Theo nhận định của các nhà kinh tế, hạ tầng cơ sở của Việt Nam vừa nhỏ vừa yếu kém, khó có thể hấp thụ hết dòng chảy dồn dập của tư bản, tạo nhiều khả năng xảy ra hỗn loạn. Một ví dụ điển hình là hiện nay Việt Nam không có đủ khu công nghiệp (KCN) và khu cư trú cho người lao động, người ngoại quốc. Những KCN do tư bản nước ngoài đầu tư, như KCN Thăng Long, khu chế xuất (KCX) Tân Thuận, KCN Amata, công viên kĩ thuật Long Bình, KCN Việt Nam-Singapo đều chuẩn bị tốt cơ sở hạ tầng không thua gì các KCN ở Trung Quốc nhưng qui mô đều nhỏ hơn và hiện nay hầu như không còn chỗ trống do sự gia tăng gần đây của ĐTNN [25]. Tình trạng thiếu KCN khi việc di dời cơ sở sản xuất của các nhà đầu tư Nhật Bản đang tăng tốc đã gây tâm lí bất an về khả năng chào đón của Việt Nam và được phản ánh vào giá cả. Giá thuê quyền sử dụng đất ở Việt Nam tính trên mỗi mét vuông hiện nay trung bình là 40-50 USD, trong đó, có những địa điểm đắt hơn nhiều, như 108 USD ở KCX Tân Thuận. Mức giá này ở Trung Quốc chỉ khoảng từ 19 đến 31 USD [25]. Hơn nữa, việc điều chỉnh qui hoạch đất phù hợp với yêu cầu đầu tư còn chậm; công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, di dời, tái định cư cho người dân còn nhiều bất cập, gây cản trở cho việc tiếp nhận các dự án mới cũng như triển khai các dự án hạ tầng đã được cấp phép. Mặt khác, mặc dù chính phủ Việt Nam đã có những chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng như cầu, đường, cảng biển, hệ thống thông tin nhưng tiến độ thực hiện còn quá chậm. Theo nhận định chung của các nhà kinh tế, sự yếu kém về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống cảng biển và điện năng là những hạn chế lớn nhất trong thu hút FDI của Việt Nam [25]. Tình trạng quá tải của hệ thống cảng biển đã bắt đầu xuất hiện. Hiện nay, nước ta đang triển khai nhiều dự án điện, như mở rộng nhà máy nhiệt điện Uông Bí, nhiệt điện Cà Mau 2…nhưng các dự án này đều không vận hành đúng tiến độ khiến tình trạng thiếu điện càng trầm trọng hơn. 2.1.5. Nguồn nhân lực kĩ thuật và quản lý bậc trung cấp còn thiếu Trong dài hạn, khi kinh tế phát triển, khi mức sống của người dân được nâng cao, Việt Nam sẽ không thể duy trì được lợi thế chi phí lao động thấp. Tuy nhiên, cuộc điều tra việc làm năm 2006 đã cho thấy kĩ năng, tay nghề của lực lượng lao động Việt Nam còn thấp do chất lượng đào tạo, cơ cấu ngành nghề chưa đáp ứng yêu cầu thị trường. Tỉ lệ dạy nghề ngắn hạn chiếm khoảng 80% nên thiếu trầm trọng lao động kĩ thuật cao, lao động dịch vụ cao cấp (tài chính, ngân hàng…); thể lực người lao động còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phải sử dụng máy móc, thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế; kỉ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp cơ bản chưa được hình thành [26]. Theo nhật báo Yomiuri Shimbun, những công ty Nhật Bản mới đến Việt Nam ngày càng khó tìm nhân sự vì phải cạnh tranh quyết liệt với các công ty đối thủ. Điều kiện sinh hoạt, nhà ở cho người lao động tại các KCN, KCX, các thành phố cũng đang đặt ra vấn đề bức xúc, gây nên tình trạng khó thu hút lao động. Đồng thời, hoạt động của trung tâm giới thiệu việc làm còn hạn chế về khả năng thu thập thông tin cung-cầu lao động, tư vấn, còn nặng về dạy nghề và dịch vụ thu phí; các hội chợ việc làm thường tập trung ở đô thị lại không thường xuyên nên chưa sát với nơi có nhiều lao động, nơi cần nhiều lao động khiến cho nhiều khi nguồn cung không thể đến với cầu. Có tới 59% công ty Nhật Bản tại Việt Nam nói khó tìm quản lý giỏi; 50,6% mệt mỏi vì tìm kiếm lao động có kĩ năng [29]. 2.1.6. Hoạt động thông tin đầu tư và hiệu quả xúc tiến đầu tư còn yếu Việc xây dựng hình ảnh quốc gia để thu hút FDI hiện được giao cho cơ quan chuyên trách là Cục ĐTNN, thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư với chi nhánh ở cả 3 miền đất nước nhưng mới được thành lập nên còn đang trong giai đoạn hoàn thiện. Theo ông Hoàng Văn Huấn, giám đốc Trung tâm xúc tiến đầu tư phía Bắc, hoạt động xúc tiến đầu tư đang được làm rầm rộ nhưng hiệu quả chưa cao vì còn thiếu: thông tin, tiền và cả sự hợp tác thống nhất giữa các tổ chức xúc tiến địa phương. Các dự án kêu gọi đầu tư mới chỉ đưa ra những thông tin về ngành nghề, tổng vốn đầu tư…rất tổng thể, trong khi rất nhiều thông tin cụ thể mà nhà đầu tư cần lại không có, như tỉ lệ thuế, phí áp dụng…Mặt khác, đa số các hoạt động xúc tiến đều được tổ chức bằng tiền tài trợ chứ chưa có kinh phí riêng, gây hạn chế cho công tác xúc tiến đầu tư. 2.1.7. Hiệu quả kinh tế của các đối tác Việt Nam trong liên doanh thấp Trên thực tế, tỉ lệ góp vốn trong liên doanh của Việt Nam thường chỉ chiếm 25 đến 30% và chủ yếu bằng giá cả quyền sử dụng đất (85% tổng vốn góp) và nhà xưởng cũ. Hơn nữa, năng lực làm việc của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu của các đối tác Nhật Bản, làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của dự án. Một mặt, điều này vô hình chung đã làm giảm đi sự lựa chọn của các nhà đầu tư Nhật Bản về hình thức đầu tư liên doanh bởi họ hầu như không thể thích ứng với đầu tư theo hình thức này, từ đó làm giảm mất một kênh thu hút FDI. Mặt khác, việc tỉ lệ góp vốn của Việt Nam nhỏ không thể đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong hoạt động liên doanh, tăng sự phụ thuộc của doanh nghiệp trong nước nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung vào phía nước ngoài, gây nên sự phản cảm, e sợ của người Việt Nam đối với công tác thu hút FDI. 2.2. Cạnh tranh từ các quốc gia khác ngày càng gay gắt Một mặt, mặc dù các doanh nghiệp Nhật Bản đang chủ trương phân tán đầu tư theo mô hình “Trung Quốc +1” nhưng Trung Quốc không dễ gì ngồi yên nhìn dòng vốn này tại nước họ giảm sút hay di chuyển sang nước khác. Với trình độ phát triển kinh tế được coi là đi trước đến 20 năm, Trung Quốc thực sự là một đối thủ đáng gờm cho Việt Nam. Mặt khác, có thể thấy rõ, Việt Nam không phải là ứng cử viên duy nhất cho vị trí “cộng 1”. Nghiên cứu của JBIC năm 2006 cho thấy Ấn Độ, Thái Lan cũng như các quốc gia châu Á khác với những lợi thế riêng của họ cũng đang là điểm đến tiềm năng cho FDI Nhật Bản. Ví dụ, tháng 10/2003, Thái Lan đã mời các chuyên gia từ nhiều nước tới để phân tích mặt mạnh, yếu nhằm nhanh chóng đưa ra chiến lược hiệu quả tăng thu hút FDI [39]. Trong cuộc chạy đua trên, nếu Việt Nam không kịp thời hình thành những lợi thế so sánh trong môi trường đầu tư của mình thì rất dễ để tuột dòng vốn này vào tay các quốc gia châu Á khác. II. Giải pháp cho Việt Nam hướng tới chiến lược “Trung Quốc +1” Giải pháp hiệu quả hướng tới chiến lược “Trung Quốc+1” của Nhật Bản cần được xây dựng trên cơ sở nhất quán quan điểm với định hướng thu hút FDI nói chung của cả nước; tiếp thu kinh nghiệm phù hợp từ những quốc gia đã thành công trong thu hút FDI Nhật Bản; tập trung khắc phục các yếu điểm hiện tại; phát huy những nhân tố thuận lợi, vừa theo sát các điều kiện của môi trường đầu tư chuẩn, vừa cân nhắc khả năng thực hiện trước mắt hay lâu dài, vĩ mô hay vi mô. 1. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước Trung Quốc và Thái Lan là những nước luôn được các doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá cao về môi trường đầu tư. Do đó, khoá luận tập trung nghiên cứu một số kinh nghiệm của hai quốc gia này trong thu hút dòng FDI Nhật Bản. 1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trong nhiều năm liền, Trung Quốc là “nhà máy sản xuất khổng lồ của thế giới”, là lựa chọn đầu tiên của các nhà đầu tư quốc tế nói chung và Nhật Bản nói riêng khi muốn mở rộng phạm vi hoạt động toàn cầu. Thành công trên không chỉ nhờ những lợi thế về thị trường rộng lớn, lao động dồi dào…, mà còn do chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, bao gồm [41]: - Nâng cao tính minh bạch của pháp luật, chính sách sau khi gia nhập WTO; liên tục cải thiện môi trường thể chế liên quan đến hoạt động FDI để theo kịp các quy định của WTO và tiêu chuẩn quản lý quốc tế. - Tăng cường thực thi pháp luật: Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống dịch vụ pháp luật nhằm giải quyết khiếu kiện tốt hơn, hiệu quả hơn. - Nâng cao hiệu quả điều hành của chính phủ, giảm thủ tục hành chính, công khai các quy định về thủ tục đầu tư. Một số vùng ở Trung Quốc đã áp dụng hệ thống phê chuẩn liên ngành nhằm giảm thủ tục đăng ký đầu tư, cải cách hệ thống quản lý của hải quan nhằm thu hút mạnh mẽ FDI. - Phát triển một thị trường thống nhất và mở cửa: các nhà ĐTNN được đối xử bình đẳng như các nhà đầu tư trong nước (như giá vé máy bay, vé ôtô, vé phà, phí nhập cảnh và các loại phí khác); được áp dụng chung một hệ thống… Mặt khác, Chính phủ Trung Quốc cũng rất chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Trung Quốc là nền kinh tế thành công nhất trong việc xây dựng các đặc khu kinh tế để thu hút đầu tư [42]. Tuỳ vị trí địa lý và đặc điểm của từng đặc khu, Trung Quốc có các chiến lược phát triển và ưu đãi khác nhau. Như vậy, điểm nổi bật trong chiến lược thu hút FDI của Trung Quốc là những chú ý cải thiện hệ thống pháp luật đầu tư và tập trung xây dựng CSHT. 1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan Trong nhiều năm, chính sách thu hút đầu tư tại Thái Lan rất năng động, liên tục được điều chỉnh để thích nghi với từng thời kì phát triển của đất nước và xu thế của dòng FDI Nhật Bản cũng như trên thế giới [42]. Từ năm 1985, dưới áp lực đồng yên lên giá đột ngột, một làn sóng FDI rất lớn đã chuyển động từ Nhật Bản sang. Trước tình hình đó, Thái Lan đã chủ động đón làn sóng này bằng cách tăng cường bộ máy hành chính, đặc biệt là tăng nhân viên giỏi tiếng Nhật, hiểu văn hoá, tập quán kinh doanh của Nhật Bản trong Tổng cục đầu tư (BOI). Thái Lan còn mở các kênh đối thoại với các doanh nghiệp Nhật Bản để vừa hiểu được những mặt cần cải thiện liên quan đến môi trường đầu tư, vừa tiếp thị thành công các dự án FDI vào những ngành trọng điểm trong kế hoạch công nghiệp hoá dài hạn của họ [18]. Hơn nữa, sớm nhận thấy tầm quan trọng của công nghiệp phụ trợ trong thu hút FDI Nhật Bản, Thái Lan đã thành lập Uỷ ban hỗ trợ về vấn đề này và cùng với các tổ chức chuyên lo phát triển, xây dựng hình thành những mối liên kết công nghiệp hỗ trợ trong nước. Hiện nay, Thái Lan đã hình thành được 19 ngành công nghiệp phụ trợ ở ba cấp: lắp ráp, cung cấp thiết bị, phụ tùng, linh kiện và dịch vụ. Ví dụ, ngành ô tô Thái Lan từ chỗ từng bước nội địa hoá phụ tùng nay đã xuất khẩu cả ô tô lẫn phụ tùng, linh kiện sản xuất tại chỗ. Mặc dù chỉ có 15 nhà máy lắp ráp nhưng Thái Lan có tới 1.800 nhà cung ứng [42]. Vừa qua, Thái Lan đã xây dựng 9 biện pháp chủ yếu thu hút FDI [41]: - Giải quyết và loại bỏ các trở ngại nhằm tạo môi trường đầu tư thực sự lành mạnh, khuyến khích và phối hợp đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở. - Chủ động áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư, phát triển các ngành như công nghiệp phục vụ nông nghiệp, sản xuất ôtô, thông tin viễn thông… - Tăng cường xây dựng mạng lưới đầu tư rộng khắp, trong đó thiết lập quan hệ hợp tác trực tiếp cấp tỉnh giữa Thái Lan với nước ngoài, xây dựng quan hệ hợp tác đầu tư với các ngân hàng, tập đoàn tài chính lớn… - Nâng cao trình độ hiểu biết về luật liên quan đến lĩnh vực đầu tư quốc tế nhằm chủ động có đối sách đối với mọi biến động. - Nâng cao năng lực quản lý trong công tác khuyến khích và quản lý đầu tư, cung cấp dịch vụ khép kín, giảm trung gian, loại bớt trở ngại cho nhà ĐTNN. - Khuyến khích hợp tác sản xuất giữa các công ty lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong và ngoài nước nhằm phát huy lợi thế của các doanh nghiệp và tăng cường hoạt động chuyển giao công nghệ. - Thực hiện biện pháp hỗ trợ tài chính, thông tin thị trường nhằm giúp các doanh nghiệp Thái Lan đạt tới các tiêu chuẩn quốc tế. - Nâng cao phương tiện thiết bị làm việc, tin học hoá phục vụ hệ thống thông tin một cửa, thành lập ngân hàng cơ sở dữ liệu về đầu tư. - Chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực. Như vậy, điểm nổi bật trong chiến lược thu hút FDI của Thái Lan là tính linh hoạt, nhạy bén với xu hướng đầu tư, là chủ trương phát triển công nghiệp phụ trợ và sự tích cực trong hỗ trợ, xúc tiến đầu tư. 2. Quan điểm, định hướng của nước ta thu hút FDI Nhật Bản thời gian tới Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng có tính lịch sử và khách quan của FDI nói chung đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. FDI hiện được xem là một bộ phận hữu cơ quan trọng của nền kinh tế đất nước, là động lực để thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: “Tăng cường thu hút vốn ĐTNN, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm (2006-2010). Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Về FDI Nhật Bản nói riêng, trong lời kêu gọi doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam được tổ chức tại trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp thành phố Osaka (Nhật Bản), Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Osaka đã khẳng định: “Chính phủ Việt Nam luôn coi ĐTNN là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế và chú trọng tạo điều kiện thuận lợi để khu vực này phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác…Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và cải tạo cơ sở hạ tầng nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Nhật Bản” [39]. Thời gian tới, định hướng thu hút FDI Nhật Bản tiếp tục tập trung vào Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản. : Xây dựng những công trình then chốt trong ngành công nghiệp nhằm cải thiện hạ tầng cơ sở, thực hiện một phần thay thế nhập khẩu, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn định sản xuất, giảm giá đầu vào… Ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn trong công nghệ, kĩ thuật như: điện, điện tử, tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu trong các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm gắn liền với vùng nguyên liệu. Chú trọng các dự án thuộc các ngành công nghiệp dịch vụ có tỉ suất lợi nhuận cao, như du lịch, khách sạn, sửa chữa tàu biển, dịch vụ sân bay… Quan tâm tới các dự án sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, tài nguyên sẵn có của Việt Nam. 3. Đề xuất một số giải pháp Việt Nam đang nằm trong tầm ngắm của các doanh nghiệp Nhật Bản. Với thế và lực mới, thời cơ và vận hội mới đang mở ra những triển vọng to lớn để Việt Nam gia tăng sức hấp dẫn thu hút các nhà FDI Nhật Bản, trở thành đối tác “cộng 1” đáng tin cậy. Tuy nhiên, trong thời gian tới, có xảy ra sự bùng nổ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam hay không lại phụ thuộc vào chính nỗ lực của Việt Nam trong việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để không thua kém Trung Quốc và các quốc gia châu Á khác. Việt Nam cần dựa trên cơ sở duy trì, phát huy những lợi thế về môi trường chính trị, xã hội ổn định, vai trò quốc tế được nâng cao, sự tín nhiệm của các doanh nghiệp Nhật Bản…đồng thời nghiên cứu rào cản vẫn còn tồn tại đối với các nhà đầu tư để đề ra những biện pháp trước mắt và lâu dài tháo gỡ khó khăn. Dựa trên những phân tích về thực trạng đầu tư, cơ hội và thách thức với Việt Nam, khoá luận đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng tính hấp dẫn trong mắt các doanh nghiệp Nhật Bản. 3.1. Về khuôn khổ pháp lý Trước hết, chính phủ Việt Nam cần tiếp tục chú trọng bổ sung, hoàn thiện thể chế pháp luật theo hướng rõ ràng và đồng bộ hoá, tạo nền tảng cơ sở cho các doanh nghiệp Nhật Bản kinh doanh thuận lợi. Nhanh chóng ban hành những văn bản hướng dẫn còn thiếu vừa nhằm giúp các nhà đầu tư hiểu rõ hơn các quy định của luật, vừa để thấy rõ tính ưu đãi trong đầu tư của Việt Nam. Ngoài ra, thay vì khuyến khích thu hút FDI vào một số ngành như hiện nay, nên xem xét chỉ qui định lĩnh vực cấm đầu tư và cho phép đầu tư vào mọi lĩnh vực ngoài các lĩnh vực cấm; hay ban hành các danh mục lĩnh vực được phép đầu tư 100% vốn nước ngoài, hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư Nhật Bản ưa chuộng. Tiến hành bổ sung, chỉnh sửa, đồng bộ hoá chính sách ưu đãi đầu tư và các chính sách khác trên cơ sở khuyến khích hơn nữa đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn ưu tiên. Xem xét cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự án ở Việt Nam thành lập công ty quản lý vốn, đẩy nhanh việc cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn FDI, tính đến việc cho thành lập liên doanh về hoạt động đầu tư mạo hiểm, thúc đẩy chuyển giao công nghệ mới, công nghệ cao ở Việt Nam. Tích cực rà soát để sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư và các chính sách khác nhằm đưa ra chương trình triển khai đầy đủ, theo đúng tiến độ các cam kết hội nhập, thể hiện Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế không chỉ là nghĩa vụ mà còn xuất phát từ mong muốn tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, dành sự tin tưởng của nhà đầu tư. Xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế để tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, từng bước hình thành các thị trường như: thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường dịch vụ khoa học-công nghệ…nhằm hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư. Thứ hai là đảm bảo sự thống nhất trong các văn bản ban hành. Nâng cao hơn nữa năng lực của đội ngũ làm luật, trên cơ sở bám sát những qui định trong Luật để ban hành những văn bản hướng dẫn cho phù hợp, tránh trường hợp luật qui định một đường, thông tư hướng dẫn một nẻo, gây khó khăn cho nhà đầu tư trong việc thi hành. Tăng cường rà soát qui định của địa phương, tránh tình trạng một số địa phương ban hành những ưu đãi đầu tư vượt quá khuôn khổ pháp luật hiện hành, gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về thu hút FDI, phá vỡ tính pháp lý của các văn bản cao hơn, gây mất lòng tin cho các nhà đầu tư. Thứ ba, Chính phủ nên xem xét thành lập một tổ chức độc lập thực hiện rà soát, đánh giá lại, nhận diện các trở ngại trong chính sách đã ban hành, đảm bảo các đề xuất chính sách và điều tiết mới không làm phương hại đến môi trường đầu tư trên cơ sở học tập kinh nghiệm của các quốc gia khác, như Uỷ ban Năng lực cạnh tranh quốc gia do thủ tướng Thái Lan đứng đầu, Uỷ ban năng suất của Ôxtralia… 3.2. Về bộ máy hành chính Trên cơ sở tích cực thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010, Việt Nam cần thống nhất, công khai, đơn giản hoá quy trình, thủ tục về ĐTNN, tăng cường thực hiện cơ chế một cửa theo qui định 181/2003/QĐ-TTg, thực hiện tốt việc phân cấp quản lý ĐTNN gắn liền với tăng cường phối hợp kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật, tiến tới thí điểm cơ chế “một cửa liên thông” trong các thủ tục hành chính. Các cơ quan quản lý có liên quan cần tích cực thực hiện chế độ giao ban định kì, duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quản quản lý nhà nước với các nhà đầu tư để kịp thời xử lý dứt điểm những vướng mắc phát sinh do thủ tục hành chính gây ra, đẩy nhanh tiến độ cấp phép, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư hay các thủ tục liên quan đến triển khai dự án đầu tư. Cuối cùng, Việt Nam cần tích cực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong các hoạt động quản lý như kê khai thuế, hải quan từ xa để tinh giản bộ máy công quyền, hạn chế chồng chéo nhiệm vụ, thu hẹp các chức năng can thiệp vào hoạt động kinh doanh và tăng thêm tính chủ động cho các doanh nghiệp FDI, đồng thời nâng cao được hiệu quả quản lý của nhà nước. 3.3. Về quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI: Một bộ luật tốt mới chỉ là sự khởi đầu, vấn đề cốt lõi là đưa luật vào cuộc sống. Luật tốt mà thực thi không tốt thì cũng không những không thể phát huy được những ưu điểm của luật mà còn gây mất lòng tin của các nhà đầu tư. Do đó, Việt Nam cần nhanh chóng nâng cao hiệu lực thi hành luật và hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI. Trước hết, chính quyền các cấp cần tích cực phổ biến, tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân và các doanh nghiệp hiểu về luật thông qua các phương tiện truyền thông như sách, báo, đài…hay qua hoạt động tư vấn pháp luật với sự tham gia của nhiều cơ quan, đoàn thể, hiệp hội luật sư…Điều này, một mặt tạo nền tảng thực thi đúng luật pháp, mặt khác, tăng khả năng phản ánh các sai phạm, bất cập, tạo cơ sở khắc phục, xử lý kịp thời. Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường xã hội hoá một số hoạt động bổ trợ tư pháp, như: các dịch vụ pháp lý, tổ chức hoà giải…nhằm đáp ứng nhanh, đầy đủ nhu cầu tiếp cận thông tin pháp luật, nhu cầu xử lý tranh chấp và được bảo vệ bằng pháp luật của người lao động, các tổ chức, doanh nhân nước ngoài. Thứ hai, nhà nước cần tích cực nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp không chỉ thông qua hệ thống trường chuyên ngành trong nước mà nên mạnh dạn gửi ra nước ngoài đào tạo hay thuê các chuyên gia nước ngoài vào làm việc ở những khâu chưa đảm đương được hoặc còn yếu như khâu kiểm toán…Đồng thời, các cơ quan quản lí cần thành lập đường dây nóng nhằm kịp thời nắm bắt vi phạm hay vướng mắc của nhà đầu tư cũng như kiên quyết xử lý nghiêm khắc, công khai những trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực, vô trách nhiệm của cán bộ, công chức. Thứ ba, song song với việc phân cấp mạnh quản lý đối với hoạt động FDI, các cơ quan nhà nước cần thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đã được cấp phép để xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh, nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án. Đặc biệt, đối với các dự án đã triển khai thực hiện, Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh cần có biện pháp tháo gỡ khó khăn và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, nhất là khâu đền bù, giải phóng mặt bằng, một khâu bức xúc hiện nay Cuối cùng, tính thực thi của pháp luật phải được coi là trọng tâm của công tác cải cách hệ thống tư pháp. Việt Nam cần củng cố và hoàn thiện hệ thống trọng tài, toà án kinh tế đáp ứng yêu cầu giải quyết kịp thời các tranh chấp, vi phạm, tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế, đồng thời, hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước thống nhất từ quy trình tố tụng, công tác điều tra, xét xử tới công tác thi hành án, sao cho mọi tranh chấp, vi phạm phải được giải quyết nhanh chóng, đúng luật, không gây phiền hà, sách nhiễu đến nhà đầu tư. 3.4. Về ngành công nghiệp phụ trợ Công nghiệp phụ trợ là nền tảng cho phát triển các ngành công nghiệp chính yếu, giống như chân núi, tạo phần cứng để hình thành nên thân núi và đỉnh núi là ngành công nghiệp sản xuất và lắp ráp [19]. Với xuất phát điểm thấp, Việt Nam cần kết hợp cả phát triển các công ty cung ứng nội địa và thúc đẩy các doanh nghiệp FDI cung ứng, đồng thời phát triển con đường hai chiều từ các nhà lắp ráp đến các nhà cung ứng và ngược lại. Trước hết, thực tế cho thấy, các nước đi trước như Thái Lan, Malaysia và Inđônêxia đã mất một khoảng thời gian khá dài mà vẫn chưa thực sự đạt được mục tiêu đặt ra trong chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ từ các doanh nghiệp nội địa [40]. Do đó, việc phát triển các doanh nghiệp FDI trong ngành công nghiệp phụ trợ được coi là giải pháp đầu tiên và trước mắt để thu hút FDI từ các doanh nghiệp lắp ráp Nhật Bản. Hơn nữa, sự gia tăng của các doanh nghiệp FDI cung ứng với trình độ công nghệ khá tiên tiến, kĩ năng quản lý cao sẽ ảnh hưởng tới nhận thức và sự phát triển của các doanh nghiệp cung ứng Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này, chính phủ Việt Nam cần ban hành các ưu đãi cần thiết cho đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, xây dựng thí điểm một số khu công nghiệp hỗ trợ với các ưu đãi riêng như gần hãng chính về mặt địa lý, ưu đãi trong chính sách đất đai, thuế… Tuy nhiên, về lâu về dài, Việt Nam cần có những đối sách thích hợp để phát huy nội lực, phát triển các doanh nghiệp cung ứng nội địa. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa, một mặt, liên kết với các doanh nghiệp FDI trong cùng nhóm ngành, mặt khác, tăng năng lực để có thể tự sáng tạo, học hỏi, tiếp thu hấp thụ công nghệ mới thông qua các hình thức: hỗ trợ đào tạo, tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ R&D; tài trợ các chương trình trao đổi chuyên gia…Trong thời gian tới, chính phủ cũng nên xem xét cho phép tính chi phí nghiên cứu khoa học vào giá thành sản phẩm; đặc biệt, sớm cho ra đời Quĩ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Hiện nay đã có 3 trung tâm hỗ trợ kỹ thuật tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động với tư cách là cơ quan đầu mối, tổ chức thông tin về yêu cầu của nhà lắp ráp đối với các dòng phụ tùng, linh kiện. Chính phủ cần phát huy vai trò tích cực của các trung tâm này, hình thành một mạng lưới liên kết giữa các địa phương để luồng thông tin được thông suốt, thực sự hữu ích cho các doanh nghiệp; đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội nghề nghiệp liên quan đến các sản phẩm hỗ trợ. Hơn nữa, mỗi nhà lắp ráp lại có yêu cầu khác nhau về thông số kĩ thuật, mẫu mã, kích cỡ nên hỗ trợ từ chính hãng có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các nhà cung ứng nội địa, đặc biệt khi hệ thống công nghiệp phụ trợ Việt Nam còn “manh mún”. Các công ty chính hãng có thể tăng cường hỗ trợ kỹ thuật bằng hình thức cử chuyên gia đến nhằm đào tạo kỹ thuật sản xuất trực tiếp, xây dựng và khơi nguồn công tác nghiên cứu phát triển… Tuy nhiên, các cản trở đối với thiện chí hỗ trợ của chính hãng là khả năng tiếp nhận của doanh nghiệp cung ứng, tình trạng ăn cắp bản quyền và điều kiện sinh hoạt cho các chuyên gia. Do đó, để được thu nạp vào chuỗi cung cấp của chính hãng, chính phủ cần cam kết thực hiện nghiêm túc quyền sở hữu trí tuệ theo thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia chính hãng đến Việt Nam có môi trường sống đảm bảo. Mặt khác, các công ty cung ứng cũng cần nỗ lực thể hiện mình là những đối tác chuyên nghiệp và đáng tin cậy. Đặc biệt, khi làm ăn với nhà đầu tư Nhật Bản, những con người rất coi trọng chữ tín, các doanh nghiệp Việt Nam cần thay đổi nhận thức, hết sức tôn trọng các khế ước, hợp đồng để duy trì được sự tín nhiệm, hỗ trợ lâu dài. 3.5. Về nguồn nhân lực có tay nghề và nhân lực quản lý Trước hết, để phát triển cung lao động có năng lực, Việt Nam cần tiêu chuẩn hoá hệ thống trường dạy nghề trong cả nước, xây dựng các qui hoạch, kế hoạch đầu tư vào hệ thống dạy nghề kĩ thuật thực hành. Trước mắt, các cơ quan nhà nước cần tập trung thực hiện mục tiêu đã đề ra là xây dựng 40 trường dạy nghề trọng điểm quốc gia, trong đó 15 trường đạt chuẩn khu vực, phát triển mạnh hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ và liên thông giữa các cấp trình độ [26]. Đồng thời, các trường cần đưa kỉ luật, tác phong công nghiệp, pháp luật lao động vào chương trình đào tạo, nhằm hạn chế trường hợp vi phạm kỉ luật do thiếu hiểu biết; tiến hành phổ cập tiếng Anh, khuyến khích người lao động học tiếng Nhật để nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ. Đồng thời, Nhà nước cần có biện pháp khuyến khích doanh nghiệp FDI dành tài chính cho đào tạo lao động, như cho phép tính chi phí đào tạo vào chi phí sản xuất, kinh doanh và được khấu trừ vào doanh thu trước khi tính thuế; quan tâm thúc đẩy việc thành lập và hoạt động của tổ chức công đoàn, tạo niềm tin cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp FDI. Mặt khác, Việt Nam cần phát triển hệ thống thông tin thống kê thị trường lao động, xây dựng các trung tâm giới thiệu việc làm phân bố rộng khắp, đặc biệt ở các KCN, KCX, cửa ngõ các thành phố lớn để tiếp nhận và giới thiệu việc làm cho lao động ngoại tỉnh. Chính phủ cũng nên xem xét tiến tới thiết lập các sàn giao dịch thường xuyên, định kì, liên thông giữa các địa phương và các doanh nghiệp FDI tại các trung tâm này thay cho các hội chợ việc làm. Ngoài ra, Nhà nước cần nghiên cứu giải pháp đảm bảo tính linh hoạt của thị trường lao động như tạo thuận lợi cho di chuyển lao động, đặc biệt là di chuyển vào các KCN, KCX, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở theo đúng quy hoạch, tiêu chuẩn điều kiện sinh hoạt, vệ sinh, góp phần phát triển thị trường nhà ở tại các KCN, KCX… 3.6. Về cơ sở hạ tầng, kĩ thuật Trước hết để nâng cao hiệu quả xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, Việt Nam cần tích cực rà soát, điều chỉnh, tăng cường qui hoạch thống nhất, bảo đảm tính đồng bộ và hiện đại của hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong đó, để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu ĐTNN, chính phủ cần ưu tiên nâng cấp mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước, giao thông vận tải, sân bay, bến cảng, xử lý chất thải và vệ sinh môi trường. Hiện nay, việc xây dựng các cảng lớn Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện, Vân Phong, hệ thống đường bộ cao tốc, đường sắt cao tốc Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư Nhật Bản di chuyển các cơ sở sản xuất sang Việt Nam hay phối hợp với Trung Quốc trong chiến lược “Trung Quốc+1”. Mặt khác, Việt Nam cũng nên xem xét những giải pháp tạm thời trước mắt để nhanh chóng đảm bảo nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Trong thời gian gần đây, chính phủ đã cho phép Tập đoàn điện lực Việt Nam đầu tư xây dựng các đường dây 220 KV mua điện từ Trung Quốc nhằm cứu nguy cho tình trạng thiếu năng lượng. Mặt khác, để giảm nhẹ gánh nặng đầu tư cho ngân sách nhà nước, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) từ nhiều nguồn vốn; nhanh chóng thông qua danh mục quốc gia về thu hút ĐTNN vào xây dựng CSHT; xây dựng qui chế ưu đãi rõ ràng, đủ sức hấp dẫn các hình thức đầu tư BOT, BT và BTO vào các địa bàn trọng điểm. Theo đó, trước hết cần tập trung đầu tư phát triển CSHT của 3 vùng kinh tế trọng điểm trong mối liên kết với các vùng kinh tế khác để vừa đáp ứng ngay yêu cầu của các nhà đầu tư vừa tạo đòn bẩy phát triển CSHT cho những vùng khác. Bên cạnh đó, hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp tập trung có sức hấp dẫn rất lớn đối với vốn FDI Nhật Bản, vì thế, cần khuyến khích đầu tư xây dựng KCN, KCX, thành lập các đặc khu kinh tế tại những địa bàn thích hợp. Mặt khác, để đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phát triển CSHT, các cơ quan cần cải thiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, hình thành khung giá đền bù thống nhất, tương xứng giá thị trường, tạo chính sách phù hợp hỗ trợ người mất đất song song với tăng tính cưỡng chế thi hành của các quyết định. Ngoài ra, Việt Nam cần phát triển một hệ thống dịch vụ rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao, đặc biệt là các dịch vụ hải quan, tài chính, ngân hàng, quảng cáo, mạng lưới tư vấn về đầu tư, XNK, nghiên cứu thị trường… 3.7. Về hoạt động xúc tiến đầu tư (XTĐT) và thông tin đầu tư Một mặt, Việt Nam cần tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước, làm cơ sở cho hoạt động hợp tác đầu tư, trong đó chú ý sự kết hợp chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao vào các hoạt động XTĐT được coi là biện pháp tốt để cải thiện hình ảnh Việt Nam và kết quả thu hút vốn FDI. Tiếp đó, Việt Nam cần tiến hành “định vị phù hợp”, tránh “định vị quá cao, không thực tiễn” [11], từ đó xây dựng các kế hoạch tổng thể nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh quốc gia trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản mà trọng tâm là: “Việt Nam muốn trở thành quốc gia phân tán rủi ro trong chiến lược “Trung Quốc+1””, chủ động tiếp cận và hỗ trợ có hiệu quả những nhà đầu tư Nhật Bản tiềm năng. Mặt khác, chính phủ cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư Nhật Bản tiềm năng; tổ chức tốt hệ thống Marketing về ĐTNN tại Việt Nam; cập nhật trang web về ĐTNN, dịch sang tiếng Nhật dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia Nhật Bản nhằm giúp nhà đầu tư cả hai nước nắm bắt kịp thời, đầy đủ các cơ hội hợp tác hay những thông tin đầu tư cần thiết, kể cả luật pháp, chính sách, tình hình ĐTNN tại Việt Nam; nâng cao chất lượng, tính trung thực và chính xác của hệ thống tài liệu XTĐT. Hơn nữa, song song với nâng cao năng lực hoạt động của phòng XTĐT thuộc cục ĐTNN, cơ quan chuyên trách XTĐT cấp quốc gia cần khẩn trương đặt bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm ở Nhật Bản; sớm xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động của các bộ phận này cả cấp vĩ mô và vi mô để thực sự trở thành một công cụ mạnh, hiệu quả cho chiến lược XTĐT Nhật Bản. Đồng thời, bố trí tài chính, dành một phần ngân sách thích đáng cho hoạt động XTĐT, kể cả in ấn tài liệu phát miễn phí cho các nhà đầu tư tiềm năng; sớm ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình XTĐT quốc gia 2007-2010 để bảo đảm kinh phí cho hoạt động XTĐT gắn liền với xúc tiến thương mại và du lịch. *Tổng kết: Các giải pháp thu hút FDI Nhật Bản nhằm hướng tới chiến lược “Trung Quốc +1” rất đa dạng. Tuy nhiên, để thực thi có hiệu quả, Việt Nam cần phải nhận định rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của từng giải pháp trong bối cảnh hiện nay. Trước hết, giải pháp tăng cường xúc tiến đầu tư, chú trọng vào nhà đầu tư Nhật Bản được coi là giải pháp hiệu quả trước mắt khi các doanh nghiệp Nhật Bản đang gấp rút tiến hành khảo sát môi trường đầu tư Việt Nam. Thứ hai, năng lực ngành công nghiệp hỗ trợ, cơ sở hạ tầng kĩ thuật từ lâu đã là vấn đề nổi cộm trong thu hút FDI của Nhật Bản. Do đó, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, hoàn thiện hạ tầng kĩ thuật cần được coi là giải pháp chiến lược ưu tiên hàng đầu để tăng khả năng hấp thụ nguồn vốn này. Thứ ba, giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách thu hút FDI là giải pháp lâu dài. Nhiều nhà đầu tư Nhật Bản cho biết cản trở lớn nhất với họ là sự thiếu minh bạch, rõ ràng, nhất quán của các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động FDI. Do đó, trước mắt cần nhanh chóng ban hành những văn bản hướng dẫn dưới luật còn thiếu rồi mới tiến tới cải thiện tính hấp dẫn của các chính sách ưu đãi đầu tư. Thứ tư, giải pháp về thủ tục hành chính, về quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI là những giải pháp quan trọng để nâng cao sự hoàn thiện của luật, tăng hiệu quả thu hút, sử dụng nguồn vốn này. Thứ năm, vấn đề con người mà cụ thể là nâng cao chất lượng lao động cung ứng cho các doanh nghiệp Nhật Bản là giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cấp bách. Trong thời gian tới, để vừa có thể chủ động chào đón các doanh nghiệp Nhật Bản, trở thành đối tác tin cậy, lâu dài cho chiến lược “Trung Quốc+1” của họ, vừa khai thác tốt nguồn vốn này thì các giải pháp trên cần được tiến hành đồng bộ, liên tục, nhất quán nhưng linh hoạt ưu tiên các giải pháp trước mắt, từng bước thực hiện các giải pháp lâu dài. Ngoài ra, yếu tố quan trọng hàng đầu là duy trì được môi trường chính trị, xã hội ổn định tạo nền tảng vững chắc cho thực thi tốt các giải pháp. KẾT LUẬN Tận dụng nguồn vốn FDI để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá trong bối cảnh ngày càng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là chiến lược “khôn ngoan” của bất kì một quốc gia đang phát triển nào trong thời đại ngày nay. Nhật Bản lại là nước có kinh nghiệm phong phú về phát triển công nghiệp, đi đầu thế giới về năng suất và chất lượng, do đó, nguồn vốn FDI của Nhật Bản luôn được Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam coi trọng, tập trung thu hút. Có thể khẳng định, cho đến nay sự thành công của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI của Nhật Bản được coi là một trong những yếu tố nổi bật của quá trình tăng trưởng kinh tế và mở rộng quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Nhật Bản. Trong 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản tuy trải qua nhiều bước thăng trầm cùng với sự vận động nói chung của dòng vốn này vào Việt Nam nhưng đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước: tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm, mở rộng thị trường, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cải thiện đáng kể cán cân thanh toán và nâng cao khả năng hợp tác quốc tế của Việt Nam. Đến nay, nền kinh tế đã từng bước ổn định, chuẩn bị chuyển sang giai đoạn phát triển tăng tốc, nguồn vốn này lại càng quan trọng hơn. Bối cảnh, vận hội mới đang đặt Việt Nam trước thời cơ lớn để trở thành đối tác tin cậy lâu dài của các công ty Nhật Bản trong chiến lược phân bố đầu tư theo mô hình “Trung Quốc+1”. Phó trưởng đại diện JICA tại Việt Nam, ông Oshikiri Koji đã khẳng định: “Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam không còn là làn sóng “thời thượng” mà là quyết định đúng đắn và nghiêm túc của nhà đầu tư Nhật Bản” Báo Lao động số 292 (23/10/2006), Đầu tư từ Nhật Bản: khởi động làn sóng thứ hai. . Vấn đề cơ bản và cấp thiết hiện nay của Việt Nam là duy trì những lợi thế đã có, khắc phục khó khăn, nhanh chóng tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, hoàn thiện, chủ động về nhiều mặt đón chào các nhà đầu tư một cách có quy hoạch, tránh tình trạng mất kiểm soát, hỗn loạn trong đầu tư và quản lý đầu tư. Với những nỗ lực không ngừng từ hai phía, cả chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản, hi vọng trong tương lai, làn sóng đầu tư thứ hai từ Nhật Bản sẽ sớm được hiện thực hoá, Việt Nam sẽ trở thành điểm đến lí tưởng cho chiến lược “Trung Quốc+1”, không những khơi thông, khai thác, sử dụng được thế mạnh của nguồn vốn này một cách liên tục và bền vững mà còn ngày càng khẳng định được vị trí quốc gia trên trường quốc tế. Khoá luận đã cố gắng xem xét, phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản trong mối quan hệ với đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản nói chung. Khoá luận cũng căn cứ trên điều kiện, định hướng chiến lược riêng của từng nước để đánh giá tiềm năng, thách thức, từ đó đề ra giải pháp hướng tới sự giao thao lợi ích của hai quốc gia trong bối cảnh đầu tư mới. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian cũng như về trình độ kiến thức, khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét chân thành của các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm để khoá luận được hoàn chỉnh thêm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Lê Xuân Bá (cb) (2006), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội. Nguyễn Kim Bảo (2000), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc từ 1979 đến nay, Nxb Khoa học xã hội, 117-213,Hà Nội. Bộ Công thương (7/12/2005), Việt Nam với chính sách Trung Quốc cộng một, Bộ kế hoạch và đầu tư (2003), Kỹ năng xúc tiến đầu tư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ lao động, thương binh và xã hội (2006), Số liệu thống kế Lao động-Việc làm ở Việt Nam, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội. Bộ tài chính (21/8/2007), Đón luồng đầu tư mới, Ngô Hồng Diệp (9/2006), Những nhân tố tác động đến đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN giai đoạn từ 1973 đến 2003, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 7, Hà Nội. Nguyễn Duy Dũng (2/2007), Liệu có làn sóng đầu tư thứ hai của Nhật Bản vào Việt Nam hay không?, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 2, Hà Nội. Tư Giang (8/2005), Chiến lược xây dựng hình ảnh quốc gia, Thuý Hằng (17/1/2007), Nhà đầu tư chuyển hướng, Nguyễn Thị Thu Hiền, Phan Thu Giang (5/2007), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong bối cảnh tăng cường hợp tác Trung Quốc-ASEAN, Tạp chí Công nghiệp kì 1, Hà Nội. Dương Phú Hiệp (2/2004), Nhìn lại 30 năm quan hệ Việt Nam-Nhật Bản, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 1(49). Hoàng Xuân Hoà (6/2005), Một số nguyên nhân giải thể trước thời hạn đối với dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 325, Hà Nội. Minh Hoài (7/2007), Nhìn lại bức tranh kinh tế 6 tháng đầu năm, dự báo triển vọng cả năm 2007, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, Hà Nội. Hoài Hương (13/9/2007), Trung Quốc: Tỉ lệ lạm phát cao nhất 11 năm qua, Trần Thị Thu Hương (10/2005), Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 329, Hà Nội. Trần Kiên (6/2007), Triển vọng và cơ hội đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 5, Hà Nội. Báo Kinh tế Sài Gòn (3/10/2005), Đón làn sóng FDI mới từ Nhật như thế nào?, KXS (5/8/2005), Muốn thu hút FDI phải phát triển công nghiệp phụ trợ, C.M.L (26/9/2007), Bảng xếp hạng về tham nhũng thế giới, Phương Loan (26/9/2007), Chi phí hành chính: Lực cản với môi trường kinh doanh Việt Nam, Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình đầu tư nước ngoài, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Luật đầu tư 2005. Phan Thu Lương (9/2006), Hiệu quả của công tác đào tạo, sử dụng người lao động trong doanh nghiệp FDI, Tạp chí doanh nghiệp đầu tư nước ngoài số 5, Hà Nội. Mizuno Masumi (19/1/2007), Từ phía Trung Quốc nhìn sang Việt Nam, Đinh Thị Thu Nga (2007), Phát triển thị trường lao động Việt Nam thời kì hậu WTO, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 5, Hà Nội. Báo Người lao động (9/1/2007), Việt Nam chính thức trở thành thành viên đầy đủ của WTO, Hà Thị Ngọc Oanh (2005), Đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội. Tiền Phong (15/8/2007), Doanh nghiệp nước ngoài tìm lợi thế đầu tư mới, Trần Thị Ngọc Quyên (2007), Xúc tiến đầu tư: một trong những yếu tố nhằm tăng cường hiệu quả thu hút FDI, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế giới số 1, Hà Nội. Báo Thanh Niên (2007), Việt Nam đang mê hoặc các doanh nghiệp Nhật Bản, Đinh Trung Thành (2006), Đầu tư trực tiếp của TNCs Nhật Bản ở Việt Nam-tổng quan và triển vọng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 335, Hà Nội. Đức Thành (3/8/2007), Chất lượng cơ sở hạ tầng quyết định nguồn FDI, Trịnh Thu Thảo (5/2007), Tác động của Nghị định 108/CP hướng dẫn thi hành Luật đầu tư năm 2005 và một số vấn đề bất cập, Tạp chí Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài số 13, Hà Nội. Nguyễn Văn Thuật (9/2006), FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tăng mạnh từ Sáng kiến chung 2 nước, Tạp chí Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài số 5, Hà Nội. Mạc Văn Tiến (9/2006), Phát triển lao động kĩ thuật ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 340, Hà Nội. Nguyễn Tiệp (5/2007), Việc làm và đời sống của người lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 348, Hà Nội. Nguyễn Anh Tuấn (1/2007), Chuyển giao công nghệ qua FDI: thực tiễn ở một số nước đang phát triển và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 344, Hà Nội. Phan Minh Tuấn (2/2007), Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam: cơ hội, thách thức và triển vọng, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 2, Hà Nội. Phan Đăng Tuất (4/2007), Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản: con đường nào cho các doanh nghiệp Việt Nam?, Tạp chí công nghiệp kì 1, Hà Nội. Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế, xã hội quốc gia (17/9/2007), Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nền kinh tế, Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh (27/1/2007), Trung Quốc mất dần ưu thế thu hút đầu tư, TTXVN (7/11/2006), FDI của Nhật Bản vào Trung Quốc giảm mạnh, TTXVN (20/8/2007), Việt Nam hấp dẫn nhiều tập đoàn lớn, Vinanet (8/9/2005), Để không bỏ lỡ làn sóng đầu tư từ Nhật Bản, Vinanet (23/6/2006), Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của các công ty Nhật Bản, Vneconomy (19/8/2005), Doanh nghiệp Nhật chuyển hướng đầu tư: Việt Nam không nên đánh mất cơ hội, Tài liệu tiếng Anh JBIC (2006), Survey report on Overseas business operations by Japanese Manufacturing Companies, Jetro (2007), Japans outward FDI, based on reports and notifications, DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ĐTNN FDI GDP IMF JETRO JIBIC JICA KCN KCX MPI NSNN ODA OECD R&D SME UBND VCCI WB WEF WTO XTĐT Đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tổng sản phẩm quốc nội. Quĩ tiền tệ thế giới. Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản. Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản. Văn phòng hợp tác quốc tế Nhật Bản. Khu công nghiệp. Khu chế xuất. Bộ kế hoạch và đầu tư. Ngân sách nhà nước. Viện trợ phát triển chính thức. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. Nghiên cứu và phát triển. Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Uỷ ban nhân dân. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Ngân hàng thế giới. Diễn đàn kinh tế thế giới. Tổ chức thương mại thế giới. Xúc tiến đầu tư. DANH MỤC ĐỒ THỊ, BẢNG BIỂU Đồ thị Đồ thị 1: FDI của Nhật Bản vào Việt Nam (1989-2006). Đồ thị 2: Cơ cấu vốn FDI đăng kí vào Việt Nam (1988-2007). Đồ thị 3: Cơ cấu FDI Nhật Bản vào châu Á (từ 1989 đến nay). Đồ thị 4: Cơ cấu vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam theo ngành (1994-2007). Đồ thị 5: Cơ cấu vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong ngành công nghiệp và xây dựng (1989-2007). Đồ thị 6: Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam theo địa phương (1989-2007). Đồ thị 7: Cơ cấu FDI Nhật Bản vào Việt Nam theo hình thức đầu tư (1994-2006) Bảng biểu Bảng 1: Xếp hạng môi trường đầu tư trong trung hạn (2000-2006). Bảng 2: Đánh giá của nhà đầu tư Nhật Bản về khả năng phân tán rủi ro của các nước châu Á năm 2006. Bảng 3: Tỉ lệ doanh nghiệp Nhật Bản có kế hoạch mở rộng đầu tư (2006). Bảng 4: Đánh giá tiềm năng tăng trưởng thị trường của một số nước châu Á (2006). Bảng 5: Đánh giá của nhà đầu tư Nhật Bản về môi trường đầu tư (2005-2006). MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc14065.doc
Tài liệu liên quan