Đẩy mạnh việc thu hút vốn FDI và không ngừng nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI là yêu cầu vừa bức xúc vừa cơ bản lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nước ta. Đồng thời cũng là đòi hỏi khách quan của một nền kinh tế mở cửa hội nhập thị trường khu vực và thế giới.
Thực hiện nhất quán đường lối đổi mới đất nước, thời gian qua, công tác kêu gọi, thu hút nguồn FDI vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nói chung, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững, hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản nước ta trên thị trường thế giới. Trong 15 năm qua (1988 -2003) FDI đã sản xuất ra 37,373 triệu USD, giá trị xuất khẩu đạt 20,005triệu USD, đóp góp cho ngân sách nhà nước 2,335 triệu USD, tạo ra chỗ làm việc và thu nhập cho trên 61 vạn lao động.FDI bổ sung nguồn vốn cho các ngành , đặc biệt là ngành nông nghiệp chiếm đến khoảng 34% tổng vốn đầu tư trong nông nghiệp. Vốn FDI đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc khôi phục và xây dựng mới kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn như xây dựng mới các công trình thuỷ lợi thuỷ nông. Đồng thời cũng tạo ra thị trường ổn định tiêu thụ nông sản nguyên liệu cho nông dân. Cùng với nó FDI mang một số tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào phát triển nông nghiệp Việt Nam như công nghệ chế biến đường, công nghệ sinh học áp dụng cho trồng trọt Bên cạnh đó, việc tiếp nhận FDI cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực như phụ thuộc về vốn, kỹ thuật, thị trường và nếu không trách nhiệm và kinh nghiệm chúng ta có thể trở thành bãi thãi công nghệ lỗi thời.
Tuy nhiên, những kết quả nói trên chỉ là bước đầu. Tiềm năng nông nghiệp của nứơc ta còn nhiều, nhu cầu thu hút vốn FDI trong những năm tới rất lớn nhưng tình hình hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức mới, nhất là tình trạng ngày càng gay gắt giữa các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm giành lợi t hế trong việc thu hút nguồn FDI. Bài học rút ra từ những thành công và chưa thành công trong các năm qua đã chỉ ra sự cần thiết phải khẩn trương tăng cường các biện pháp quản lý và củng cố để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI hơn nữa. Mặt khác, phải không ngừng cải thiện môi trừơng đầu tư, làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp. Cần phải tạo được bước chuyển biến đồng bộ ở tất cả các cấp quản lý trong toàn ngành, các tổ chức ; hướng trọng tâm là nâng cao chất lượng công tác quản lý đối với hoạt động FDI đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cả nước trong thời gian tới.
101 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nông nghiệp Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cả các vùng trong cả nước, phát triển mạnh đàn gia súc, gia cầm hướng nạc đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, nâng số lượng bò sữa lên 100 nghìn con. Nhu cầu vốn đầu tư 100 triệu trong vòng năm 5 tới.
- Công nghiệp bảo quản hàng nông sản tươi sống và hệ thống phân phối:
Đây là một trong những lĩnh vực yếu nhất hiện nay của ngành nông nghiệp. Nên khi đầu tư vào lĩnh vực này sẽ có tỷ lệ thuận vào loại khá cao so với mặt bằng chung của ngành.
- Trồng rừng và chế biến gỗ: Khuyến khích đặc biệt với các dự án trồng rừng, trồng rừng đặc dụng, rừng nguyên liệu cho sản xuất giấy, đồng thời khôi phục diện tích rừng bị cháy và phủ xanh đất trống đồi núi trọc, nhất là các địa phương Miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, xây dựng các nhà máy hoặc xưởng chế biến với công nghệ và thiết bị hiện đại để phát triển sản xuất và nhân tạo đạt sản lượng 1 triệu m3/năm vào năm 2005, góp phần thực hiện mục tiêu của chương trình trồng 5 triệu ha rừng vào năm 2010. Nhu cầu vốn đầu tư vào khoảng 350 triệu USD.
Hướng huy động và sử dụng vốn cụ thể như sau:
- Đầu tư cho công nghệ sinh học: đầu tư nước ngoài vào công nghệ sinh học phải tạo ra các giống cây con mới có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất sản phẩm đáp ứng thị hiếu tiêu dùng và có thể cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này có thể thực hiện dưới các hình thức trang bị kỹ thuật, đào tạo cán bộ kỹ thuật có chuyên môn cao, thông qua các dự án đầu tư phát triển.
- Đầu tư cho công nghiệp chế biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch: đầu tư nước ngoài cho công nghiệp chế biến và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch phải được nâng cao đựơc giá trị của sản phẩm và tạo ra được thị trường tiêu thụ nông sản cho nông dân, từng bước công nghiệp hoá nông nghiệp, hiện đại hoá nông thôn. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này có thể được thực hiện dưới các hình thức liên doanh, liên kết hoặc vay bằng trang bị kỹ thuật cao.
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nông nghiệp: Hạng mục cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho nông nghiệp cần thu hút đầu tư nước ngoài là các công ttrình thuỷ lợi, các cơ sở sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giao thông nội đồng, các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất…. Từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nước ta. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này là các hoạt động liên kết, liên doanh có chế độ ưu đãi đối với đầu tư vào lĩnh vực này.
- Đầu tư cho sản xuất nông nghiệp: Cần hướng vào sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế cao và có giá trị xuất khẩu cao như cà phê, chè, rau quả và chăn nuôi thuỷ đặc sản….Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này có thể thực hiện dưới hình thức liên doanh, liên kết để phát triển vùng sản xuất hàng hoá xuất khẩu hoặc sản xuất nguyên liệu cho chế biến.
3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.
3.1. Những thuận lợi
a) Những nhân tố bên trong:
- Việt Nam có nền chính trị khá ổn định, nền kinh tế những năm gần đây phát triển với tốc độ cao và ổn định, do đó có thể đảm bảo an toàn cho sự vận động vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó Việt Nam đã có một môi trường pháp lý tương đối hấp dẫn cho các hoạt động đầu tư nước ngoài, đó là luật đầu tư nước ngoài và các văn bản dưới luật đã được Nhà nước và Chính phủ ban hành thực sự gây ra sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Việt Nam là một nước nông nghiệp, có chủng loại sản phẩm phong phú bao gồm các nông sản nhiệt đới và có thể sẽ phát triển các loại cây nông sản vùng ôn đới. Nông sản Việt Nam có nhiều loại có giá trị kinh tế cao như: cà phê, cao su…. Có thể tiêu thụ rộng rãi trên thị trường quốc tế. Tiềm nông phát triển nông lâm nghiệp còn lớn có thể đầu tư khai thác trên cả hai lĩnh vực: mở rộng quy mô diện tích cây trồng, quy mô chăn nuôi và đầu tư thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
- Việt Nam có nguồn lao động nông lâm nghiệp phong phú, giá nhân công rẻ, lao động có trình độ văn hoá tương đối cao. Đây là một điều đáng chú ý đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi hoạt động đầu tư nông lâm nghiệp.
- Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi cho vận tải đường biển, hàng không, thông tin liên lạc. Cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp và kết cấu hạ tầng nông thôn đang từng bước được đầu tư xây dựng, tạo ra môi trường ngày càng thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
b) Nhân tố bên ngoài
- Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc tăng trưởng mạnh mẽ về dòng vốn đầu tư ra nước ngoài đã tạo cơ hội cho các nước nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhiều quốc gia từ chỗ nhận đầu tư nước ngoài nhanh chóng trở thành những nước đầu tư nước ngoài với quy mô lớn. Dòng vốn đầu tư quốc tế đang có xu hướng chảy vào các nước đang phát triển nhất là các quốc gia Châu á sau khi thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Sự gia nhập tổ chức Thương mại thế giới trong tương lai gần là nhân tố tích cực thúc đẩy hu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, vì khi đó hàng hóa sản xuất tại Việt nam không những có chi phí thấp (do lợi thế về giá nhân công) mà còn được hưởng mức thuế ưu đãi khi xuất hàng sang các nước thuộc thị trường Bắc Mỹ, một thị trường lớn trên thế giới.
3.2. Những khó khăn
- Các nước khu vực khác có lợi thế cạnh tranh hơn Việt Nam đó là lợi thế cạnh tranh cấp cao (lợi thế động: vốn lớn, công nghệ hiện đại, nguồn lao động có chuyên môn cao…). Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam là lợi thế cấp thấp (lợi thế tĩnh: tài nguyên thiên nhiên không có khả năng tái sinh, tiền lương thấp, tỷ lệ lao động có trình độ tay nghề cao hạn chế).
- Xuất phát điểm của nước ta là thấp, phát triển đi lên môi trường cạnh tranh gay gắt nhưng khả năng đầu tư lại rất hạn hẹp, trình độ khoa học kỹ thuật quản lý còn nhiều yếu kém.
- Nước ta là nước đông dân nhưng đất canh tác không nhiều lại phân tán, manh mún, khả năng mở rộng diện tích tuy còn khá lớn đòi hỏi đầu tư rất lớn và phải có thời gian khá dài. Trong khi đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp thường có xu hướng đi vào kinh doanh một cách nhanh chóng để nhanh thu hồi vốn.
- Mỹ và Nhật là hai nước đầu tư lớn nhất thế giới, đầu tư nhiều vào những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, luật pháp ổn định, rủi ro thấp trong khi đó cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp và kết cấu hạ tầng nông thôn nước ta còn nghèo nàn, thiếu vốn, việc giao lưu trao đổi hàng hoá gặp nhiều khó khăn, làm kém phần hấp dẫn đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nông nghiệp.
- Đối tượng sản xuất nông nghiệp là sinh vật sống, có chu kỳ sản xuất tương đối dài, sản xuất nông nghiệp lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của các biến đổi tự nhiên và môi trường. Nông nghiệp vốn là ngành sản xuất có tính rủi ro cao, khả năng sinh lãi của vốn đầu tư thấp hơn nhiều so với đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ….Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp ở các nước nói chung và ở nước ta nói riêng còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn vốn đầu tư của các đối tác nước ngoài.
- Việt Nam vẫn có lợi thế là lao động trong nông nghiệp dồi dào nhưng đến nay vấn đề này đang gặp trở ngại lớn vì đa số lực lượng lao động phổ thông chưa qua đào tạo (số này chiếm tới gần 80% lực lượng lao động của cả nước). Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển nhanh, nhu cầu sử dụng lao động không còn là sức lao động phổ thông nữa mà đòi hỏi lao động phải được đào tạo có trình độ chuyên môn nhất định.
- Các chính sách kinh tế của nước ta nhằm khuyến khích đầu tư nứơc ngoài chưa đồng bộ, lại hay có thay đổi hoặc điều chỉnh, do vậy cũng gây tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư nước ngoài là một lĩnh vực hoạt động còn khá mới mẻ trong nông nghiệp nước ta nên ta chưa có nhiều kinh nghiệm về tổ chức thực hiện cũng như quản lý về lĩnh vực này.
II. Một số giải pháp thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàI vào phát triển nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có được thực hiện hay không điều đó phụ thuộc vào cả hai bên, bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư. Vì vậy kết hợp hài hoà lợi ích giữa hai bên là cơ sở quan trọng của hợp tác đầu tư. Để có được sự thống nhất thì hai bên cần có sự điều chỉnh, nhân nhượng thì mới có thành công trong hợp tác và đầu tư. Xuất phát từ thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành nông nghiệp Việt Nam thời gian qua cùng với các mục tiêu, phương hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, những nhân tố ảnh hướng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, và sự cần thiết thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp… đã chỉ ra cho chúng ta sự cần thiết phải tìm ra những giải pháp nhằm phát huy một cách có hiệu quả những thế mạnh, khắc phục những khó khăn tồn tại, nhằm tăng khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành nông nghiệp. Vì vậy trong thời gian tới cần phải hoàn thiện một số nội dung sau:
1. Cải thiện môi trường đầu tư
1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nói đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư của một quốc gia trước hết phải đề cập đến môi trường pháp lý mà nội dung của nó là luật và các văn bản dưới luật.
Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sau 4 lần sữa đổi, bổ sung (6/1990; 12/1992; 11/1996;6/2000) về cơ bản cũng phù hợp và có tính cạnh tranh. Tuy nhiên chúng ta vẫn tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, điều chỉnh hoàn thiện hệ thống luật pháp đến đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng sau:
- Đa dạng hoá hơn nữa các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới, mở rộng lĩnh vực thu hút FDI với các hình thức thích hợp như cho phép chuyển đổi từ công ty TNHH sang công ty cổ phần và phát hành cổ phiếu cho phép các nhà ĐTNN mua cổ phần của doanh nghiệp trong nước, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế nhất là kinh tế tư nhân; chỉ định hoặc chọn các nhà ĐTNN làm dự án BOT; cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự án lớn ở Việt Nam thành lập công ty quản lý vốn...
- Trên cơ sở luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 9 tháng 6 năm 2000. Nghị định 24/2000/NĐ - CP, cần chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ban hành quy định về quản lý nhà nước trên địa bàn đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài ở địa phương các bộ, ngành ban hành quy định hướng dẫn về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý của mình.
- Thiết lập mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong và đầu tư nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất kinh doanh, đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng t hời kỳ.
- Đồng thời phải nâng cao hiệu lực thi hành luật trên phạm vi toàn quốc, tránh tình trạng phép vua thua lệ làng. Sớm ban hành những luật lệ còn thiếu như: luật cạnh tranh, luật chống độc quyền, …. để tạo khung pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ và ổn định cho thu hút và quản lý vốn ĐTNN.
- Loại bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tế, luật hóa một số quy định hiện hành làm cơ sở pháp lý cho hoạt động ĐTNN phát triển theo đúng định hướng của chiến lược phát triển kinh t ế xã hội.
Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài sửa đổi phải tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, hấp dẫn, thông thoáng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cần lưu ý khi sửa đổi không nên gây sự xáo trộn lớn và chỉ điều chỉnh những quan hệ pháp lý trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2. Đổi mới hoàn thiện về chính sách liên quan đến hoạt động FDI trong nông nghiệp.
a. Chính sách thuế, lệ phí
Thuế là một trong những yếu tố mà nhà đầu tư quan tâm bởi nó liên quan trực tiếp đến lợi nhuận mà nhà đầu tư sẽ thu đựơc kết quả của hoạt động đầu tư. Chính sách thuế hấp dẫn sẽ là đòn bẩy khuyến khích FDI và ngược lại nếu không sẽ là rào cản hạn chế sự FDI đó. Các dự án trong ngành nông nghiệp Việt Nam thường có tỷ suất lợi thấp, vì vậy áp dụng chính sách ưu đãi được các nhà ĐTTTNN quan tâm. Mặc dù thời gian qua Việt Nam đã có nhiều chính sách ưu đãi về thuế cho nông nghiệp, song còn chưa cụ thể đến từng lĩnh vực, và còn nhiều vướng mắc trong quy định và thực hiện. Do đó chúng ta cần tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp tình hình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước , và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài theo những hướng sau:
- Tiếp tục sửa đổi chế độ hai giá (còn ở mức độ khá cao) đối với người nước ngoài và chi phí hạ tầng để tạo sự cạnh tranh: nhanh chóng điều chỉnh giá, chi phí hàng hoá và dịch vụ, từng bước tiến tới một mặt bằng giá, phí giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI về giá máy bay, đường sắt, điện nước, phí tư vấn thiết kế….soát xét lại gía cho thuê đất và bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những lĩnh vực cần thu hút vốn FDI.
- Tiếp tục nghiên cứu mức khởi điểm, chịu thuế thu nhập cá nhân đối với doanh nghiệp có vốn FDI nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện chính sách thay thế dần nhân viên người nước ngoài bằng người Việt Nam.
- Cần có chính sách thuế ưu đãi thật cụ thể, chi tiết hơn đến từng lĩnh vực sản xuất cây trồng vật nuôi.
- Khuyến khích ưu đãi đặc biệt đối với các dự án đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các vùng kinh tế khó khăn khác để phát triển công nghiệp chế biến, sản xuất hàng hoá xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, áp dụng công nghệ mới.
- Kiện toàn tổ chức thu thuế, về cơ chế hoạt động cũng như năng lực nghiệp vụ của cán bộ thuế bởi chính sách thuế dù có hoàn thiện đến đâu thì kết quả vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện công tác quản lý thu thuế đối với xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vấn đề này ở nước ta vẫn còn rất nhiều bất cập.
b. Chính sách tiền tề tín dụng, bảo hiểm.
Hạn chế của Việt Nam trong đầu tư trực tiếp nước ngoài là khả năng góp vốn đặc biệt là trong nông nghiệp. Trong nhiều trường hợp bên Việt Nam muốn vay thêm vốn để đáp ứng vốn đóng góp vào dự án xong chưa có chế độ ưu đãi nên không thực hiện đựơc. Khó khăn nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài là không đảm bảo tài sản thế chấp vay vốn dài hạn. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp tạo vốn vay ưu đãi với điều kiện vay phù hợp. Ta hoàn toàn có khả năng đáp ứng được nhu cầu này dựa trên các cơ sở:
- Các nguồn vốn từ khách hàng, quỹ đầu tư, tín dụng với năng lực tạo vốn có thể cung cấp một lượng vốn tương đối lớn cho Việt Nam tham gia liên doanh. Vì vậy nhà nước cần có chính sách cụ thể để ưu đãi cho các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, dễ dàng tạo lập vốn từ các nguồn nói trên.
- Bên cạnh nguồn vốn trong nước, trong phân bổ vốn vay ODA, Nhà nước cần xem xét cho bên Việt Nam vay để tham gia góp vốn liên doanh trong các dự án lớn của ngành nông nghiệp như trồng mía đường, trồng cây công nghiệp dài ngày,…
- Cần có một cơ chế bảo lãnh thế chấp khi vay vốn nhất là các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư.
- Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động FDI theo hướng giảm dần, tiến tới xoá bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá hối đoái, lãi suất … theo các nguyên tắc của thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
c) Chính sách quyền sử dụng đất:
Do tình trạng thiếu vốn, Việt Nam góp vốn vào các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất (chiếm đến 70% tổng giá trị góp vốn của Việt Nam). Tuy nhiên các dự án đầu tư vào nông nghiệp đa phần là ở các địa bàn khuyến khích đầu tư nên giá trị góp vốn của bên Việt Nam là không đáng kể chỉ 20%. Mặt khác còn tồn tại nhiều hạn chế giữa người dân bị giải toả với các doanh nghiệp. Vì vậy, chúng ta có thể đưa ra một vài giải pháp cho vấn đề này như sau:
- Nhà nước cho phép các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế Việt Nam kể cả tư nhân góp vốn vào các dự án FDI bằng quyền sử dụng đất. Chủ trương này cần được ổn định trong nhiều năm tới làm tiền đề cho mục tiêu thu hút vốn nước ngoài vào ngành nông nghiệp.
- Khung giá tiền thuê đất, hệ số ngành nghề điều chỉnh tiền thuê đất cần quy định cụ thể cho từng vùng, từng lĩnh vực đầu tư, cụ thể là thể hiện tính ưu đãi đối với lĩnh vực, địa bàn đặc biệt khuyến khích.
- Đối với các dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp. Cần xem xét các giải pháp đổi đất lấy công trình cơ sở hạ tầng nông thôn. Nhà nước cho chủ đầu tư nước ngoài thuê đất và thay vì trả bằng tiền, họ trả bằng các công trình hạ tầng như đường xá, điện nước…. cho địa phương.
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho bên Việt Nam trong công tác giải toả đất và đền bù đất thoả đáng, đặc biệt là việc đền bù cho nông dân, đưa đất góp vốn vào thuận lợi:
+ Nên áp dụng mức thuê đất tối thiểu, thậm chí thuê đất ở những vùng đất chưa canh tác (đất trồng, đất hoang hoá, đồi núi trọc, đất nhiễm chua mặn) mà trên thực tế chỉ có thể huy động cho trồng rừng.
+ Ngoài tiền đền bù hoa màu bị mất, cần có chính sách đền bù cho diện tích đã giao cho nông dân.
- Khi kinh tế phát triển, mức độ đô thị hoá vào các khu vực có dự án đầu tư tăng lên nên giá đất ở nông thôn sẽ có xu hướng ngày càng tăng lên. Vì vậy, cần quy định việc công bố điều chỉnh giá đất hàng năm, tạo điều kiện các tổ chức bên Việt Nam được tăng mức vốn đóng góp vào dự án đầu tư sau khi thực hiện điều chỉnh giá sử dụng đất.
- Chính phủ đưa ra chính sách có thể miễn giảm tiền thuê đất trong một số năm đặc biệt là các dự án vào những vùng sâu, vùng xa miền núi, cơ sở hạ tầng chưa tốt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiêp.
d) Chính sách lao động
Hiện nay các doanh nghiệp có vốn FDI phải sử dụng lao động thông qua các tổ chức cung ứng lao động của Việt Nam. Với hình thức này, các doanh nghiệp không được tuyển lao động trực tiếp nên đôi khi có thể không đáp ứng được nhu cầu sản xuất cho các doanh nghiệp nước ngoài mà sử dụng máy móc có công nghệ cao. Hơn nữa, các doanh nghiệp phải mất chi phí trả cho các tổ chức cung ứng lao động. Do vậy, chính phủ nên ban hành chính sách cho phép các doanh nghiệp tham gia trực tiếp thuê lao động để sản xuất, giảm dần tình trạng các doanh nghiệp FDI phải sử dụng lao động qua các tổ chức cung ứng của Việt Nam.
Để làm được việc này cần xem xét sửa lại quy định tại Bộ luật lao động theo hướng cho phép các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được trực tiếp thuê lao động, đồng thời cần kết hợp với các giải pháp khác để đảm bảo trật tự an ninh xã hội và có lợi cho người lao động.
- Chính phủ đưa ra chính sách có thể miễn giảm t iền thuê đất trong một số năm đặc biệt là các dự án vào những vùng sâu, vùng xa miền núi, cơ sở hạ tầng chưa tốt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiêp.
1.3 Cải cách và hoàn thiện thủ tục hành chính.
Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một nước, họ cần một môi trường đầu tư không chỉ thuận lợi cho kinh doanh mà còn cho tâm lý tức là sự thuận tiện và ổn định. Những trở ngại về hành chính đang là một nhân tố cản trở quá trình thu hút FDI. Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không, theo ý kiến của đại bộ phận các nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước, chính là có cải cách về bộ máy nhà nước, giảm thiểu được thủ tục hành chính không cần thiết, giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian tiến thành và triển khai dự án. Những năm qua thủ tục hành chính của Việt Nam tuy đã được cải tiến, giảm bớt các thủ tục đăng ký xét, cấp phép đầu tư song các thủ tục vẫn còn rườm rà nhất là các thủ tục cấp triển khai sau cấp phép. Việc giải phóng mặt bằng đất và các thủ tục cấp đất còn nhiều khâu, nhiều bước; việc giải phóng mặt bằng ở một số nơi còn nhiều khó khăn do thiếu vốn. Chính vì vậy, muốn thu hút được nhiều hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp, chúng ta cần phải cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động FDI ở những vấn đề sau:
- Đơn giản hoá các thủ tục hành chính và thực hiện chế độ một đầu mối duy nhất tiếp nhận hồ sơ, quyết định cấp giấy phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư; giúp các đầu tư nước ngoài làm các thủ tục giấy tờ cần thiết và tư vấn về pháp luật.
- Phân định rõ quyền lực và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với các công đoạn thẩm định, cấp giấy phép đầu tư và cấp đất cùng với các giấy tờ có liên quan khác, giải quyết những vấn đề phát sinh.
- Giải quyết nhanh các thủ tục cấp đất, giao đất, đền bù, giải phóng mặt bằng giúp các dự án đi nhanh vào hoạt động. Không cho phép các chủ đầu tư được sữa bản thiết kế quá 3 lần, điều nay buộc chủ đầu tư phải nghiên cứu kỹ từng chi tiết thiết kế trước khi gửi hồ sơ xin giấy phép đầu tư và giấy phép xin xây dựng.
- Các bộ, ngành, địa phương quy định rõ ràng công khai các thủ tục hành chính, giảm bớt những thủ tục không cần thiết, kiên quyết xử lý các trường hợp gây sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm đối với các cán bộ công quyền, công chức nhà nước.
- Kiến nghị bãi bỏ những loại giấy phép quy định không cần thiết với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ hội thảo giữa các cơ quan quản lý nhà nước với hiệp hội các doanh nhân nước ngoài trong nông nghiệp để hướng dẫn về pháp luật, chính sách, giải quyết kịp thời các vướng mắc của nhà đầu tư về các thủ tục, chính sách.
2. Nâng cao chất lượng công tác định hướng quy hoạch.
Việc xây dựng kế hoạch quy hoạch là khâu quan trọng nhằm đảm bảo cho nguồn FDI vào phát triển nhà nước theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Nội dung quy hoạch phải thể hiện được ý đồ thực hiện CNH -HĐH nông nghiệp nông thôn mà trọng tâm hiện nay là thực hiện hai chương trình kinh tế lớn, giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo.
Chính vì vậy, khi xây dựng quy hoạch, chúng ta phải căn cư vào định hướng kinh tế xã hội trong từng thời kỳ của cả nước, căn cứ vào phát triển ngành nông nghiệp, căn cứ vào quy hoạch phát triển của từng địa phương, xuất phát từ nhu cầu thị trường và khả năng của mình.
Cụ thể là:
- Hướng chủ yếu tập trung thu hút nguồn vốn FDI vào việc phát triển công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp chế biến nông sản phẩm gắn với các vùng nguyên liệu và lao động nông thôn, kết hợp nhiều loại quy mô trên cơ sở công nghệ tiên tiến để tăng năng lực chế biến phân bón nông, lâm sản hàng hoá của các vùng, các địa phương đáp ứng nhu cầu xuất khẩu ra nước ngoài và tiêu dùng trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá của nước trên thị trường khu vực và thế giới, nâng tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến lên 90%.
- Các dự án FDI cần được phân bố hợp lý, đồng đều trên tất cả 7 vùng kinh tế của đất nước thông qua các chính sách và biện pháp khuyến khích, ưu đãi thoả đáng. Vùng sâu, vùng xa và các vùng kinh tế khó khăn đã và đang sẽ là đối tượng luôn được đặc biệt chú ý trong công tác quy hoạch.
- Phải đặt ra yêu cầu cho tất cả các dự án cấp giấy phép nằm trong quy hoạch phát triển, tránh tình trạng cùng một thời điểm có quá nhiều dự án được cấp giấy phép dẫn đến hiện tượng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, công suất khai thác thấp.
- Các cơ quan chủ quản nắm bắt nhanh chóng kịp thời và chuẩn xác nhu cầu thị trường (trong và ngoài nước) làm cơ sở cho việc xây dựng và công bố các dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong quy định phải xác định rõ những dự án trong nước tự làm và những dự án gọi vốn FDI, dự kiến quy mô, đối tác, địa điểm và tiến độ thực hiện của các dự án để đảm bảo điều chỉnh đúng hướng, đúng cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư. Tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc tìm hiểu cơ hội đầu tư trong nông nghiệp Việt Nam.
3. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về FDI
- Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát phân loại các dự án FDI đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ cho các doanh nghiệp FDI.
Đối với các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt tiếp tục phát triển, đồng thời cần có biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiêp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế.
Đối với các dự án đã hoàn thành các thủ tục hành chính và đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản, cần theo dõi tiến độ thực hiện, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn phát sinh như nhập khẩu máy móc thiết bị, các thủ tục hải quan, miễn thuế, đào tạo và tuyển dụng lao động…
Đối với các dự án mới cấp phép, đang triển khai thực hiện các thủ tục hành chính, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ sở, công trình hạ tầng ngoài hàng rào của các doanh nghiệp…để đưa doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh.
Đối với các dự án chưa triển khai hoặc tạm dừng đầu tư: cần tiếp tục kiểm tra xử lý sớm từng trường hợp cụ thể như sau:
+ Các dự án chưa triển khai hoặc tạm dừng nhưng có khả năng tiếp tục đầu tư, cần tập trung hổ trợ tháo gỡ và đôn đốc để có thể triển khai sớm. Riêng đối với một số dự án có khả năng chuyển đổi đối tác, cần tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài khác quan tâm có năng lực được tiếp tục đầu tư.
+ Các dự án không có khả năng triển khai tiếp tục cần tiến hành xem xét, thu hồi giấy phép đầu tư, để dành đất cho các dự án đầu tư mới.
- Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về FDI cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế, trong đó chú trọng phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các dự án có vốn FDI, tăng cường sự hướng dẫn kiểm tra của các Bộ, ngành Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm pháp luật, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về FDI, kể cả việc chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai quy định.
4. Khai phá mở rộng thị trường nông lâm sản.
Động lực để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam là lợi nhuận và thị trường trong nước. Tuy vậy, lợi nhuận của các dự án đầu tư trong nông nghiệp thường có tỷ suất lợi nhuận thấp. Tuy dân số đông nhưng quy mô của thị trường tiêu thụ Việt Nam nhỏ, sức mua thấp….Vì vậy việc mở rộng và phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh càng có điều kiện phát triển nhanh và thu được nhiều lợi nhuận. Để phát triển mở rộng thị trừơng chúng ta có thể làm theo một số hướng sau:
- Thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ, tạo điều kiện cho thị trường đầu tư có hiệu quả, nhanh chóng hoàn thiện các thị trường tài chính, lao động….và phát triển các ngành dịch vụ, tài chính ngân hàng, đáp ứng những đòi hỏi bức bách của hoạt động sản xuất kinh doanh.
- ở trong nước, cần tiếp tục khuyến khích hệ thống dịch vụ nông thôn, bãi bỏ sự kiểm soát có tính ngăn sông cấm chợ, bãi bỏ các loại thuế lưu thông đối với các hàng hoá nông, lâm, hải sản trên mọi tuyến lưu thông trong nước; khuyến khích phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến các loại nông lâm hải sản đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường; khuyến khích mọi thành phần kinh tế kể cả tư nhân tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu, bãi bỏ các thủ tục phiền hà gây khó dễ cho hoạt động xuất khẩu.
- ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông, lâm, hải sản; hỗ trợ, giúp đỡ mở rộng thị trừơng xuất khẩu các sản phẩm của mình như quảng cáo, ký hiệp định song phương, đa phương, nghiên cứu và tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm.
5. Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư
- Trước tiên, đổi mới về nội dung và phương thức vận động xúc tiến đầu tư
Đối với danh mục dự án kêu gọi đầu tư đã được phê duyệt, quy hoạch thì cần có chương trình, kế hoạch chủ động vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể đối với từng dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty đa quốc gia, các nhà đầu tư có tiềm năng và cả Việt kiều tại hải ngoại.
- Chú trọng xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án đầu tư nước ngoài mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án FDI đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc để các doanh nghiệp FDI đang hoạt động thuận lợi. Biểu dương khen thưởng kịp thời các doanh nghiêp, nhà đầu tư nước ngoài có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam.
- Cần nhấn mạnh vai trò xúc tiến đầu tư của các địa phương, khuyến khích và hỗ trợ các địa phương mở các văn phòng xúc tiến thương mại và đầu tư ở những nước là đối tác lớn và có tiềm năng.
- Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác như AIA, ASEAN, APEC, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet , tiếp xúc trực tiếp, …
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động FDI để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất vể FDI trong dư luận xã hội.
- Các cơ quan đại diện ngoại giao - thương mạiViệt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương.
- Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương.
- Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn, các công ty lớn để có chính sách thu hút FDI của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về FDI làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động FDI, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang Web về FDI để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công….
6. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật.
FDI có vai trò quan trọng trong tiếp thu kỹ thuật, chuyển giao công nghệ. Để tiếp thu được những khoa học kỹ thuật mới này cần phải có đội ngũ cán bộ, kỹ sư và công nhân lành nghề. Ngoài ra đồng vốn FDI có được sử dụng hiệu quả hay lãng phí cũng do người quản lý nó, nếu quản lý không tốt sẽ không thoát cảnh nghèo, lạc hậu lại càng lạc hậu hơn… Vì vậy, Nhà nước cần phải có một đội ngũ cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh có năng lực, đạo đức để đảm bảo lợi ích cho bên Việt Nam, của người lao động và hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần phải chú trọng hơn nữa cho công tác đào tạo và nâng cao chất lượng lao động theo hướng:
- Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý, công nhân có tay nghề cao theo hướng vừa trang bị kiến thức cơ bản, vừa đào tạo chuyên sâu. Chúng ta cần phải tập trung đầu tư phát triển các trường dạy nghề để đào tạo lao động có tay nghề cao. Để làm được điều này cần khuyến khích hơn nữa phát triển hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo này.
- Bên cạnh việc đào tạo, trang bị về kiền thức kinh tế – chính trị, tinh thông chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ để nắm bắt yêu cầu của thời đại. Cần phải bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng của những cán bộ, công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với việc bồi dưỡng, đào tạo bản lĩnh chính trị, chúng ta cần phải bố trí các tổ chức Đảng, Đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
7. Đầu tư cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn.
Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng mà nhà đầu tư rất quan tâm khi tiến hành đầu tư vì nó trực tiếp tác động hiệu quả của công cuộc đầu tư.
Việc cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật là thật sự cần thiết mở đường cho việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Những trở ngại về cơ sở hạ tầng yếu kém, những bất cập của yếu tố quản lý cần sớm khắc phục. Cơ sở hạ tầng “cứng” ở Việt Nam như đường sá, cầu, bến cảng, sân bay, điện nước, thông tin liên lạc đã được ưu tiên thay đổi sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực và các nước công nghiệp phát triển thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn lạc hậu (trừ thông tin liên lạc,viễn thông). Việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn là điều kiện tiên quyết để nông nghiệp phát triển nhanh, hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam những vùng còn có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp chủ yếu ở các vùng trung du miền núi đất rộng người thưa nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn còn yếu kém, công cụ sản xuất còn thô sơ, đơn giản, hệ thống điện, đường, trường, trạm nhiều nơi còn không có. Chính vì vậy, việc phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn Việt Nam là rất cần thiết và là cơ sở để nâng cao hơn nữa FDI vào nông nghiệp. Từ vấn đề này chúng ta có thể có một số giải pháp sau:
- Nhà nước cần dành tỷ lệ ngân sách đầu tư cho nông nghiệp cao hơn mức hiện tại và quy định vốn ngân sách này chỉ để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cho ngành nông nghiệp. Khuyến khích xây dựng các dự án, chương trình phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Trước mắt cần ưu tiên các công trình đường xá, điện, trạm phục vụ, đáp ứng cho nhu cầu của ngành nông nghiệp.
- Phát hành trái phiếu công trình có sự đảm bảo của ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành nông nghiệp. Trái phiếu loại này có thể phát hành ở hai cấp, cấp Trung ương đối với công trình có quy mô quốc gia và trái phiếu địa phương với các công trình do tỉnh quản lý.
- Ngoài việc chúng ta tự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, cần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này đó là: đổi giá trị quyền sử dụng đất và tài nguyên trong các dự án FDI lấy công trình hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nhà nước cần có chính sách đặc biệt ưu đãi đối với các loại dự án này như là miễn tiền thuê đất trong một số năm. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức BOT, BTO và BT với nhiều hình thức hơn nữa.
- Gắn việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng với các dự án khai thác tài nguyên, xây dựng vùng nguyên liệu với các chính sách cho các nhà đầu tư khai thác, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Đảm bảo nguyên tắc quản lý vốn tập trung thống nhất, đặc biệt là vốn ngân sách. Sức mạnh quản lý và nguồn thu ngân sách phải tập trung ở trung ương để đảm bảo các công trình hạ tầng đựơc cấp vốn phải phục vụ lợi ích cho quốc gia.
- Mở rộng quyền tự chủ về tài chính cho địa phương trong việc bảo đảm mục đích, khả năng kiểm soát thực hiện việc phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Các địa phương phải cân đối thu chi đảm bảo nguồn vốn được giao. Các địa phương phải có kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với nguồn vốn được giao và phù hợp với phát triển nông nghiệp của mình.
- Trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng của mình phải ưu tiên đầu tư vào các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn tập trung dứt điểm một số công trình trọng điểm để tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
8. Huy động vốn trong nước để tăng cường tính hiệu quả của FDI
Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời nguồn vốn trong nước là vốn đối ứng, là “bước đệm” thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI. Thực tế trong thời gian qua trong các doanh nghiệp liên doanh, phần góp vốn của các doanh nghiệp còn thấp, trung bình chỉ đạt 30%. Hơn nữa trong các doanh nghiệp này hầu như mới chỉ có doanh nghiệp nhà nước (chiếm khoảng 95%) tham gia hợp tác kinh doanh với nước ngoài, còn có thành phần kinh tế khác mới chỉ (chiếm 5%). Vốn trong nước đóng góp ít không những ảnh hưởng đến phần lợi nhuận được chia mà điều quan trọng hơn là về lâu dài quyền chi phối các hoạt động kinh doanh sẽ thuộcvề các nhà đầu tư nước ngoài. Để hạn chế sư chi phối của các nhà đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả của các nhà đầu tư nước ngoài chúng ta cần phải huy động nhiều hơn nữa vốn trong nước để đầu tư, hợp tác với nước ngoài nói chung và trong nông nghiệp nói riêng. Để huy động nguồn vốn này cho hợp tác với nước ngoài thì bên Việt Nam cần có một số biện pháp sau:
- Đối với các dự án thông thường, không đòi hỏi cao chuyên môn nghiệp vụ thì nên cần huy động nhiều thành phần kinh tế, nhiều bên Việt Nam tham gia liên doanh góp vốn với nhau.
- Đối với các dự án đầu tư quan trọng, đòi hỏi tính chuyên môn cao thì phía đối tác Việt Nam phải là những tổ chức chuyên ngành, những công ty mạnh. Trong trường hợp cần thiết có thể huy động các tổ chức Việt Nam khác cùng tham gia nhưng tổ chức chuyên ngành phải nắm vai trò chủ đạo.
- Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – xã hội, các cá nhân trong nước và Việt Kiều mua cổ phần tăng vốn đóng góp cho các dự án FDI trong nông nghiệp. Thu nhập từ cổ phần có thể được nhà nước miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập công ty,thuế thu nhập cá nhân.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên doanh kết hợp với các đối tác mới để tạo liên doanh mới, làm tăng quy mô đầu tư phương thức đầu tư này có ưu điểm là giảm được nhiều thủ tục hành chính so với hình thành một liên doanh thực hiện dự án mới.
- Thành lập các quỹ đầu tư trong nước cũng như cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam để cấp vốn cho các bên trong và ngoài nứơc tham gia liên doanh. Ngoài ra để giúp các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tích tụ, tập trung và tích luỹ vốn nhanh hơn thì cần phải có chính sách ưu đãi như giảm thuế lợi tức; thuế suất nhập khẩu với mức hợp lý hơn.
III. Giải pháp trong phạm vi bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
1. Xây dựng các danh mục dự án (tóm tắt dự án) cần kêu gọi vốn ĐTNN trong thời gian tới của ngành nông nghiệp, một cách cụ thể, rõ ràng vê lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư để các nhà ĐTNN nắm rõ được đầy đủ các thông tin trước khi đầu tư. Đồng thời, công bố cùng với chiến lược phát triển của ngành trên trang Web của bộ NN&PTNT để nhà ĐTNN dựa trên chiến lược đó mà vạch ra kế hoạch đầu tư.
2. Tìm biện pháp khuyến khích các trường dạy nghề trực thuộc bộ NN&PTNT chú trọng đào tạo lao động theo yêu cầu của cơ chế thị trường; đáp ứng tốt các nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài về chất lượng lao động và đủ trình độ quản lý công nghệ mới, hiện đại.
ở các vùng nông thôn Việt Nam, trình độ dân trí nhìn chung là thấp nên việc đào tạo cán bộ quản lý dự án tốt là rất cần thiết. Do vậy, bộ NN& PTNN cần phải có chính sách riêng cho việc đào tạo cán bộ quản lý dự án, thường xuyên mở các lớp học để bồi dưỡng để các cán bộ quản lý dự án tốt hơn.
Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích vật chất đối với người quản lý dự án nhất là cán bộ xã, nông thôn ở các vùng sâu xa, còn nhiều khó khăn để họ yên tâm, tập trung công việc. Kinh nghiệm cho thấy con người quản lý dự án là yếu tố quyết định sự thành bại của dự án.
3. Về mặt tổ chức, sẽ thành lập Ban quản lý các dự án FDI thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Các dự án có quy mô lớn của ngành nông nghiệp sẽ tập trung về sự quản lý của ban này, sau đó phân sang các cấp nhưng phải đảm bảo thống nhất thông suốt quan điểm về ĐTNN ở các cấp.
4. Đối với các dự án ĐTNN, chúng ta nên tiếp nhận đầu tư các dự án mà chú ý đến hiệu quả kinh tế của dự án, không nên có ý kiến sâu về hiệu quả tài chính của dự án, tránh gây khó khăn trong việc cấp phép.
5. Cần chú trọng theo dõi tính bền vững và đánh giá tác động của dự án chứ không nên dừng lại theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện. Ví dự: đối với các dự án lâm nghiệp có đối tượng là cây rừng có chu kỳ kinh doanh chưa thể đánh giá thành quả của dự án ngay được. Do vậy, đánh giá tác động của dự án hay đánh giá sau dự án và đánh giá tính bền vững của dự án cần được quan tâm đúng mức và tiến hành kỹ lưỡng. Vì vậy, phải có thời gian đánh giá sau dự án và đảm bảo tính bền vững của dự án.
6. Đẩy nhanh quá trình giao đất, rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho các đầu tư để họ nhanh chóng thúc đẩy tiến hành sản xuất – kinh doanh. Còn đối với người dân phải có chính sách đền bù thích hợp để họ nhanh chóng di dời.
Kết luận
Đẩy mạnh việc thu hút vốn FDI và không ngừng nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu vực FDI là yêu cầu vừa bức xúc vừa cơ bản lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nước ta. Đồng thời cũng là đòi hỏi khách quan của một nền kinh tế mở cửa hội nhập thị trường khu vực và thế giới.
Thực hiện nhất quán đường lối đổi mới đất nước, thời gian qua, công tác kêu gọi, thu hút nguồn FDI vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nói chung, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững, hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản nước ta trên thị trường thế giới. Trong 15 năm qua (1988 -2003) FDI đã sản xuất ra 37,373 triệu USD, giá trị xuất khẩu đạt 20,005triệu USD, đóp góp cho ngân sách nhà nước 2,335 triệu USD, tạo ra chỗ làm việc và thu nhập cho trên 61 vạn lao động.FDI bổ sung nguồn vốn cho các ngành , đặc biệt là ngành nông nghiệp chiếm đến khoảng 34% tổng vốn đầu tư trong nông nghiệp. Vốn FDI đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc khôi phục và xây dựng mới kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn như xây dựng mới các công trình thuỷ lợi thuỷ nông. Đồng thời cũng tạo ra thị trường ổn định tiêu thụ nông sản nguyên liệu cho nông dân. Cùng với nó FDI mang một số tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào phát triển nông nghiệp Việt Nam như công nghệ chế biến đường, công nghệ sinh học áp dụng cho trồng trọt…Bên cạnh đó, việc tiếp nhận FDI cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực như phụ thuộc về vốn, kỹ thuật, thị trường… và nếu không trách nhiệm và kinh nghiệm chúng ta có thể trở thành bãi thãi công nghệ lỗi thời.
Tuy nhiên, những kết quả nói trên chỉ là bước đầu. Tiềm năng nông nghiệp của nứơc ta còn nhiều, nhu cầu thu hút vốn FDI trong những năm tới rất lớn nhưng tình hình hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức mới, nhất là tình trạng ngày càng gay gắt giữa các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm giành lợi t hế trong việc thu hút nguồn FDI. Bài học rút ra từ những thành công và chưa thành công trong các năm qua đã chỉ ra sự cần thiết phải khẩn trương tăng cường các biện pháp quản lý và củng cố để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI hơn nữa. Mặt khác, phải không ngừng cải thiện môi trừơng đầu tư, làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp. Cần phải tạo được bước chuyển biến đồng bộ ở tất cả các cấp quản lý trong toàn ngành, các tổ chức ; hướng trọng tâm là nâng cao chất lượng công tác quản lý đối với hoạt động FDI đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cả nước trong thời gian tới.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế đầu tư - PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai chủ biên
Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư -TS Nguyễn Bạch Nguyệt chủ biên
Giáo trình Kinh tế phát triển -Trường đại học kinh tế quốc dân
Giáo trình Kinh tế nông nghiệp -Trường đại học kinh tế quốc dân"
Giáo trình Kinh tế quốc tế - GS. Tô Xuân Dân chủ biên
Đầu tư nước ngoài -TS Nguyễn Chí Lộc chủ biên
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam -TS Vũ Trường Sơn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam cơ sở pháp lý hiện trạng và cơ hội triển vọng - Nguyễn Anh Tuấn, Phan Hữu Thắng, Hoàng Văn Huấn
Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam -TS Nguyễn Khắc Luân PGS.TS Chu Văn Cấp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển - Học viện quan hệ quốc tế
Môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam - Con đường đi tới khu đầu tư ASEAN - Nhóm nghiên cứu viện chiến lược -bộ KH&ĐT
Vốn đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế ở Việt Nam -TS Lê Văn Châu.
Niên giám thống kê 1999,2000, 2001,2002
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI,VII,VIII,IX
Nghị quyết của chính phủ Số 09/2001 -NQ -CP
Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Báo cáo của lãnh đạo Bộ kế hoạch và đầu tư tại buổi gặp mặt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 6/2003
Báo cáo tình hình và kết quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ 1998 -2001 của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tháng 9/2003 của Bộ KH&ĐT
Các tạp chí chuyên ngành:
Báo Đầu tư các số
Kinh tế và dự báo các số: 6 & 7/2000, 10 & 11/2000, 2/2003, 5/2003
Kinh tế thế giới các số 2/2000, 6/2003
Nghiên cứu kinh tế: 3/1999, 2/2000, 12/2001.
Kinh tế Châu á Thái Bình Dương: 2/2001, 4/2001, 6/2001, 12/2001
Tạp chí Kinh tế phát triển : 48/2001; 53/2001
Kinh tế nông thôn số 2/1999
Thương mại: 2/2002
Các trang WEB:
http: //www.mard.gov.vn
http:// www.hapi.gov.vn
http:// www.vir.com.vn
Các từ viết tắt
FDI (foreign direct investment) : Đầu tư trực tiến nước ngoài.
ODA (official Development Assistance) : Hỗ trợ phát triển chính thức
LD : Liên doanh.
HĐHTKD : Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
100% vốn NN : 100% vốn nước ngoài.
TT & CBNS-TP : Trồng trọt và chế biến nông sản – thực phẩm.
LS & CBLS : Lâm sản và chế biến lâm sản.
CN & CBTAGS : Chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc.
ĐCSVN : Đảng cộng sản Việt nam.
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long.
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài.
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông. thôn.
KH & ĐT : Kế hoạch và đầu tư.
Phụ lục
Danh mục kêu gọi các dự án FDI
vào ngành nông nghiệp từ 2001 - 2005
Nông Lâm Ngư nghiệp & chế biến thực phẩm
Trồng sắn và chế biến bột, tinh bột sắn
Vĩnh Phúc, Kon Tum
LD hoặc 100% vốn NN hoặc HĐHTKD
Chế biến cà phê
Quảng Trị, Bình Phước, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Gia Lai, TPHCM
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng và chế biến chè xuất khẩu
Vùng núi phía Bắc: Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Tuyên Quang và Lâm Đồng,...
LD
Chế biến dừa xuất khẩu
Phú Yên, Cà Mau, Bình Định, Bến Tre, Trà Vinh
LD hoặc 100% vốn NN
Chế biến nấm XK
Hải Dương, Đồng Tháp
LD hoặc 100% vốn NN
Dự án sản xuất giống bò sữa, bò thịt chất lượng cao (sử dụng công nghệ sinh học cao).
TP Hồ Chí Minh
Chăn nuôi bò sữa và chế biến các SP từ bò sữa
Lạng Sơn, An Giang, Đồng Tháp, Quảng Nam, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Thanh Hóa, Sơn La,...
LD hoặc 100% vốn NN
Chăn nuôi và chế biến thịt bò chất lượng cao
Nghệ An, An Giang, Quảng Trị, Bình Phước, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, ...
LD
Chăn nuôi, chế biến thịt lợn, gà, vịt
Bình Dương, Hà Nam, Đà Nẵng, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Bình Phước, Lạng Sơn, Nghệ An, Hà Tĩnh, An Giang, Đồng Tháp, Bắc Ninh, Tây Ninh, Cần Thơ, Tiền Giang
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ
Hà Nam, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Thanh Hoá, Cần Thơ và các tỉnh miền Trung
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng thông và xây dựng nhà máy chế biến nhựa thông
Lạng Sơn, Quảng Trị, Kon Tum
LD
Nhà máy sản xuất thức ăn gia súc
Thái Bình, Lào Cai, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cà Mau, ...
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng rừng (tràm bông vàng) và xây dựng nhà máy sản xuất giấy, gỗ
Hoà Bình, Sơn La
Trồng 50.000 ha rừngCông suất nhà máy 50.000 - 100.000 tấn giấy/năm
SX sơn, ván ép và phân hữu cơ từ nguồn vỏ hạt điều
Các KCN Đồng Nai
Vốn ĐT 6,1 triệu USD; 4000 tấn dầu vỏ điều, 2.000 tấn sơn, 30.000m3 ván ép, 1.500 tấn phân hữu cơ/năm
LD hoặc HĐHTKD
Tạo giống cây rừng bằng công nghệ mới
Phú Thọ
Sản xuất 10-15 triệu cây giống/năm
Trồng bông
Sản xuất gỗ ép từ bã mía, tre nứa
Sơn La
10.000 m3/năm; 5 triệu USD
Mở rộng và hiện đại hóa công nghệ sản xuất tinh dầu hồi
TX Lạng Sơn
Dây chuyền c/s 1.000 T/ năm
LD
Trồng và chế biến gừng XK
Lạng Sơn
50.000ha;
LD hoặc 100% vốn NN
Trồng và chế biến quế
Yên Bái, Quảng Ngãi, Kon Tum
LD hoặc 100% vốn NN hoặc HĐHTKD
Nhà máy chế biến bột gạo và tinh bột gạo
H.Châu Phú, An Giang
10.000 tấn SP/năm
LD, 100% vốn NN hoặc HĐHTKD
Trồng cây sâm Khu V và các cây dược liệu khác
h.Đắk Tô, Kon Tum
130ha
LD hoặc HĐHTKD
Trồng lúa chất lượng cao và xây dựng N/M chế biến lương thực
Hà Nam
Lúa chất lượng cao 10.000 - 15.000ha;Nhà máy chế biến lương thực 30.000 tấn SP/năm
LD hoặc 100% vốn NN
Dự án phát triển vùng lúa cao sản gắn với chế biến xuất khẩu
Vùng Tứ giác Hà Tiên và vùng Tây Sông Hậu
80.000 ha
Phát triển đàn lợn giống và chăn nuôi lợn siêu nạc XK
Nam Định
LD
Trồng và chế biến atisô
TP Đà Lạt, Lâm Đồng
120-150 ha
Trồng và sản xuất dược phẩm từ cây canhkina
Lâm Đồng
350 ha
Trồng và chế biến hạt điều xuất khẩu
Phú Yên
Trồng 7.000 - 10.000 ha Chế biến 5.000-7.000 tấn SP/năm
Trồng và chế biến rau quả xuất khẩu
Các tỉnh
Nuôi trồng và chế biến thủy sản XK
Các tỉnh
LD hoặc 100% vốn NN
Công nghiệp giấy
Nhà máy chế biến bột giấy và giấy các loại Lâm Đồng
Lâm Đồng
50.000-100.000 T/ năm;100 triệu USD
LD hoặc 100% vốn NN
Nhà máy giấy Bình Phước
Bình Phước
50.000 T/ năm;150 triệu USD
LD hoặc 100% vốn NN
Nhà máy giấy Nghệ An
Nghệ An
100.000 T/ năm;300 triệu USD
LD với TCty Giấy VN
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0003.doc