Đối với nước ta hình thức liên doanh đang trở thành phổ biến (chiếm hoá 70% số dự án đầu tư). Chúng ta đang thiết lập các khu công nghiệp (trong đó có khu chế xuất) song cần thận trọng vì không ít nước đã thất bại.
- Chính sách khuyến khích đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với việc tạo lập đối tác trong nước và nước ngoài, các hình thức thu hút vốn. Đây thực sự là một đòn bảy kinh tế và vai trò của các chính sách kinh tế là ở chỗ nó quyết định trực tiếp tới mức lợi nhuận. Chính sách thuế cởi mở với tỷ suất thấp, giá thuê đất thấp cùng tiền lương thấp,. sẽ làm chi phí tư bản thấp đi và như vậy trong điều kiện bình thường thì đương nhiên mức lợi nhuận sẽ cao, sẽ có lợi cho nhà đầu tư.
Đối với nước ta trong những năm vừa qua, kể từ khi luật đầu tư ra đời, chúng ta có nhiều cải tiến về chính sách thuế, giá thuê đất song đến này vẫn còn nhiều vấn đề phải tính toán lại. Dưới con mắt của nhà đầu tư nước ngoài giá thuê đất, dịch vụ điện, nước, bưu chính viễn thông còn quá cao, nhiều địa phương và cơ sở còn tuỳ tiện nâng giá, gây sự thắc mắc, thậm chí nản lòng một số nhà đầu tư.
* Xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật.
Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiên quyết, vì kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một cơ sở hạ tầng thích hợp.
Tuy nhiên so với yêu cầu của giai đoạn phát triển hiện nay, hạ tầng vật chất của ta còn nhiều yếu kém, cần phải có những giải pháp kinh tế phù hợp, nhanh chóng kiến tạo được một cơ sở hạ tầng thích hợp để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài trong điều kiện cơ sở hạ tầng cũ còn lạc hậu. Tiềm năng kinh tế của ta chưa cho phép những khoản lớn vào đầu tư xây dựng hệ thống này cho nên cần cố gắng tranh thủ các nguồn vốn ODA, ngoài ra phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để huy động các tài năng của toàn dân.
Như vậy như đã phân tích để phát triển chúng ta phải đặc biệt chú trọng tới thu hút đầu tư nước ngoài, phải khắc phục hạn chế và phát huy khả năng mọi mặt để đưa vùng kinh tế động lực miền Bắc cùng với vùng kinh tế miền Trung và miền Nam trở thành động lực cho sự phát triển cả nước nói chung.
42 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1643 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại khu vực kinh tế động lực miền bắc - Thực trạng và phương hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à các dự án công nghiệp về sản xuất xi măng, thuỷ tinh, thép,...
Cơ cấu đầu tư của Hải Phòng như vậy còn bộc lộ nhiều hạn chế, vốn đầu tư chỉ tập trung vào các ngành công nghiệp truyền thống hoặc những ngành có nguồn nguyên liệu sẵn có, cơ cấu vốn đầu tư cho du lịch dịch vụ - ngành mà Hải Phòng có nhiều lợi thế còn thấp và đặc biệt không có dự án đầu tư trong nông nghiệp.
Trong thời gian tới Hải Phòng tiếp tục kêu gọi đầu tư thêm vào các lĩnh vực sửa chữa tàu biển, du lịch,... nhằm tạo điều kiện để Hải Phòng có được một số sản phẩm mũi nhọn.
b2. Cơ cấu lãnh thổ
Xu hướng hiện nay là chuyển dịch đầu tư nước ngoài theo vùng. Nếu ở giai đoạn trước, cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ còn bị thiếu hợp lý thì hiện nay đã có sự điều chỉnh.
ở giai đoạn 5 năm đầu 1988-1993, vốn đầu tư chỉ tậpt rung chủ yếu ở Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh với 81% số dự án và gần 90% số vốn. Hiện nay, vùng kinh tế trọng điểm này chỉ còn chiếm 74,7% số dự án và 75,7% số vốn đầu tư vào các tỉnh phía Bắc.
Làn sóng đầu tư đã lan toả tới các tỉnh xung quanh Hà Nội như Hải Hưng, Hà Tây, Hà Bắc, Bắc Thái, Vĩnh Phúc, Ninh Bình và các tỉnh khu bốn cũ như Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,... Cuối giai đoạn 88-93, trong 10 tỉnh và thành phố thu hút nhiều đầu tư của nước ngoài, miền Bắc chỉ có 2 thành phố Hà Nội và Hải Phòng thì đến nay đã có thêm hai tỉnh Hải Hưng và Thanh Hoá (thay thế vị trí Khánh Hoà và Tiền Giang).
c-/ Hình thức đầu tư:
Hiện nay các hình thức đầu tư đã thực hiện ở khu vực kinh tế động lực miền Bắc là: xí nghiệp đầu tư 100% vốn nước ngoài; doanh nghiệp liên doanh và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hình thức đầu tư tại địa bàn Hà Nội tính đến 1997 được thể hiện qua bảng sau:
Loại hình
Số dự án
Vốn đầu tư (triệu USD)
100% vốn nước ngoài
66
550
Doanh nghiệp liên doanh
227
5.895
Hợp đồng hợp tác liên doanh
17
841
Có thể thấy, hình thức liên doanh chiếm tỷ trọng lớn trong các hình thức đầu tư nước ngoài tại Hà Nội, thể hiện sự linh hoạt của các doanh nghiệp trong nước huy động vốn của mình cùng tham gia đầu tư. Tuy nhiên, vốn đóng góp của bên Việt Nam thường là giá trị quyền sử dụng đất và chiếm tỷ trọng không cao trong tổng vốn đầu tư của một liên doanh.
Tại Hải Phòng, phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới hình thức các doanh nghiệp liên doanh. Với sự hoạt động của gần 30 doanh nghiệp liên doanh nước ngoài hiện nay, các cụm công nghiệp lớn đã và đang được hình thành. Các cụm công nghiệp vừa sử dụng công nghiệp - kỹ thuật hiện đại, vừa sử dụng công nghệ - kỹ thuật trung bình để sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
d-/ Kết quả đầu tư
d1. Tình hình thực hiện đầu tư
Tình hình thực hiện đầu tư thể hiện tiến độ đưa vốn vào sử dụng. Đây là một vấn đề đáng quan tâm vì chỉ khi vốn được thực hiện thì mới phát huy tác dụng.
Tại Hà Nội, tỉ lệ % vốn thực hiện trên vốn cam kết ngày càng tăng. Nếu năm 1959, tỉ lệ này là 1,45% (0,700/48,17) thì đến năm 1993 đã là 12,71% (108,933/856,912) và đến năm 1998 đạt tới mức 78,01% (525/673). Trung bình cả 10 năm là 37,37%.
Tại Hải Phòng tỉ lệ vốn thực hiện cũng đạt 60% so với số vốn đăng ký. Với chỉ tiêu này, hiện Hải Phòng là địa phương có tỉ lệ vốn thực hiện cao nhất cả nước.
Các con số trên có thể cho ta thấy tiến độ triển khai các dự án đầu tư ngày càng được nâng cao. Đây là một dấu hiệu tốt cho tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại khu vực phía Bắc.
d2. Thành tựu do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại
Có thể xem xét sự tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở từng địa bàn như sau:
Tại Hà Nội, ta thấy có những khía cạnh sau:
- Về tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của Hà Nội trong giai đoạn 86-97 đạt 8,2%/năm trong khi toàn quốc chỉ đạt trung bình hơn 7%. Tăng trưởng GDP của Hà Nội đạt 11,5% nhưng nếu không có đầu tư nước ngoài thì chỉ đạt 5,7%. Điều này cho thấy vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tính đến cuối năm 1997, Hà Nội thu hút được khoảng 17.000 lao động tại khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã được đào tạo và tiếp cận với trình độ kỹ thuật và quản lý tiên tiến.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm thu nhập của doanh nghiệp và cá nhân tăng nhanh, mức đóng góp ngân sách cũng ngày một nhiều hơn.
Tại Hải Phòng, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tác động làm cho:
- Tính điến năm 98, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo việc làm cho gần 10.000 lao động trong các doanh nghiệp, gần 8.000 lao động trong các đơn vị gia công và hàng vạn lao động phục vụ các ngành khác.
- Doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 17% năm 1997 lên 22% năm 1998. Thu nhập của người lao động bình quân xấp xỉ 75 USD/người/tháng - cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp khác trong thành phố. Từ đó, thực hiện tốt nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước, góp phần thúc đẩy mức tăng trưởng GDP của Hải Phòng trong năm 1998 đạt 8%.
- Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn giúp Hải Phòng mở rộng thị trường xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu, thúc đẩy áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ và góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hải Phòng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
d3. Những hạn chế còn tồn tại
Tại Hà Nội, ta thấy nổi lên những thiếu xót như sau:
- Còn phân biệt công ty trong và ngoài nước (ví dụ như áp dụng phân biệt các mức cước phí điện, điện thoại,...)
- Hiệu quả của các dự án đầu tư còn chưa cao.
- Sức mua hàng hoá và dịch vụ giảm đáng kể nên không kích thích sản xuất và đầu tư.
- Thủ tục đầu tư còn phức tạp.
Từ đó làm cho đầu tư nước ngoài tại Hà Nội đã chững lại trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, trên địa bàn Hà Nội còn có rất nhiều dự án đầu tư đang thực hiện dỡ dang phải đình lại vì không có vốn để tiếp tục đầu tư.
Tại Hải Phòng, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đang còn tồn tại những vấn đề sau:
- Đã xuất hiện những bất hợp lý về cơ cấu đầu tư từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- ở Hải Phòng đã có một số dự án không triển khai hoặc hầu như không thực sự triển khai, không thực hiện việc góp vốn theo quy định và có một số dự án bị rút giấy phép.
- Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, sát sao và đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các cơ sở ngay từ khi chuẩn bị dự án đến khi tổ chức thực hiện dự án đã được cấp phép đầu tư.
2-/ Sự tác động trở lại đến kinh tế cả nước
Như đã trình bày ở trên, kinh tế động lực miền Bắc phát triển đã góp phần vào kết quả chung của cả nước. Và có được kết quả này có sự đóng góp đáng kể của khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Không những có đóng góp chung vào các chỉ tiêu tổng hợp của cả nước mà nhờ có sự phát triển của tam giác kinh tế, đặc biệt là Hà Nội và Hải Phòng nên đã làm cho các khu vực lân cận phát triển theo.
3-/ Các yếu tố tác động đến đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế động lực miền Bắc
a-/ Yếu tố ngoài vùng
* Quốc tế:
- Tình hình kinh tế thế giới:
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam á nên chúng ta không thể không nhắc đến cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. Cuộc khủng hoảng này đã tác động rất lớn đến luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) chu chuyển giữa các nước đặc biệt là các nước trong khu vực. Các quốc gia bị tác động nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính đã phải giảm mạnh vốn đầu tư vào Việt Nam.
Tên nước
Vốn đầu tư quí I/1997
Vốn đầu tư quí I/1998
Hàn Quốc
71 triệu USD
7,5 triệu USD
Malaysia
17 triệu USD
3 triệu USD
Thái Lan
252 triệu USD
0,55 triệu USD
Nguồn: Tạp chí xây dựng 4/1998
Các nhà đầu tư khác từ Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Anh, Đức,... cũng giảm mức đầu tư vào Việt Nam (Nhật từ 120 triệu USD xuống còn 95 triệu USD; Đài Loan từ 35 triệu USD xuống 22 triệu USD,...). Cuộc khủng hoảng tài chính chưa kết thúc; ảnh hưởng của nó chắc còn lâu dài. Do vậy việc chờ mong các nước trong khu vực phục hồi lại tốc độ gia tăng đầu tư vào Việt Nam là chưa thể có được. FDI và Việt Nam những năm qua chủ yếu là từ Nhật Bản, các nước NICs Châu á và ASEAN. Năm 1997, từ cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán và sau đó là những biến động tài chính đã buộc Chính phủ Nhật Bản phải có những điều chỉnh nhất định chiến lược đầu tư ra nước ngoài, tập trung nguồn lực để giải quyết những vấn đề trong nước. Thêm vào đó, do sự giảm giá của đồng Yên so với đồng đô-la Mỹ đã làm cho các công ty Nhật Bản, nhất là các công ty vừa và nhỏ quan tâm nhiều hơn đến thị trường trong nước, hạn chế đầu tư ra nước ngoài. Đối với Hàn Quốc, nhà đầu tư lớn ra nước ngoài trong những năm trước đây và các nước ASEAN, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Châu á đã giáng một đòn mạnh vào các công ty và tập đoàn nước đó, vốn là những đối tác đầu tư tài chính hiện nay tại Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tiền tệ đã dẫn đến sự phá sản hàng loạt công ty, trước hết là các công ty vừa và nhỏ các nước này hoặc làm cho chúng rơi vào tình trạng hết sức khó khăn về tài chính, dẫn đến việc phải cắt giảm đầu tư ra nước ngoài và từ bỏ các dự án đã được cấp phép.
Mức tăng trưởng GDP của hầu hết các nước ASEAN và Hàn Quốc đã giảm sút nghiêm trọng trong 1,2 năm gần đây. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến giảm khả năng tích luỹ từ GDP, nhất là từ khu vực tư nhân cho đầu tư tăng trưởng kinh tế trong nước và đầu tư ra nước ngoài. Vì vậy khả năng tăng FDI của các nước này vào Việt Nam trong những năm tới sẽ khó trở thành hiện thức. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở các nước Châu á là sự sai lầm trong chiến lược cơ cấu kinh tế của họ. Các nước này buộc phải có những điều chỉnh cơ cấu cần thiết, tập trung nguồn lực để giải quyết những vấn đề trong nước, hạn chế đầu tư ra nước ngoài.
Cũng cần phải nhận thấy rằng sự sụt giá các đồng tiền Châu á đã làm tăng khả năng cạnh tranh và xét dưới góc độ nào đó là động lực mới cho sự tăng trưởng kinh tế các nước này. Chính sự giảm giá đồng tiền khu vực sẽ làm tăng khả năng xuất khẩ, nhất là xuất khẩu nguyên liệu, hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến. Mặt khác, do giá các yếu tố đầu vào của các ngành công nghiệp, giá sinh hoạt giảm sẽ kích thích sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ đặc biệt là du lịch, vốn là những ngành có vị trí quan trọng đối với quá trình tăng trưởng kinh tế các nước Đông Nam á.
- Sự cạnh tranh trong thu hút FDI.
Đầu tư nước ngoài vào khu vực Châu á - Thái Bình Dương, mà Việt Nam là một thành viên trong đó, đang phải chịu tác động của hai yếu tố cạnh tranh: cạnh tranh giữa các nước trong khu vực với nhau và cạnh tranh giữa các nước trong khu vực với các nước ngoài khu vực.
+ Cạnh tranh giữa các nước trong và ngoài khu vực.
Trong thời gian gần đây, khu vực Châu á - Thái Bình Dương đã trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của các nước trên thế giới vì tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc - nếu không muốn nói là thần kỳ - của nó. Ngoài ra việc thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN AFTA (Asean Free Trade Area) sẽ làm ASEAN trở thành một thị trường hợp nhất khá lớn với dân số gần 500 triệu người, với sự phân công lao động chặt chẽ hơn, sẽ là địa bàn thu hút đầu tư của nhiều công ty đa quốc gia và tập đoàn kinh tế lớn từ Nhật Bản, Tây Âu, Mỹ và các nước NICs. Nhưng những biến cố quan trọng xảy ra liên tiếp ở khu vực này đã làm sức cạnh tranh của nó giảm đi ít nhiều. Trong khi đó, các khu vực khác lại không ngừng phát triển nhằm thu hút vốn đầu tư mà Châu á - Thái Bình Dương đã bỏ lỡ:
ã Khu vực Mỹ La tinh.
Trước những năm 80, lượng vốn FDI đổ vào khu vực này khá lớn, nhưng chưa thực sự tạo ra hiệu quả trong sản xuất, và cũng chưa tạo ra được sự biến đổi về chất trong cơ cấu kinh tế. Nhưng với sự hình thành khu vực tự do buôn bán Bắc Mỹ NAFTA (North America Free Trade Area), mà tương lai sẽ mở rộngt hành khu vực mậu dịch tự do toàn châu Mỹ thì Mỹ La tinh sẽ có nhiều cơ hội mới để phát triển thành một trong những khu vực năng động của thế giới. Thời gian gần đây, bên cạnh các nhà đầu tư truyền thống của khu vực là Mỹ, Anh, Pháp, Nhật thì các nhà đầu tư từ NICs và Trung Quốc cũng đang tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư và buôn bán vào khu vực này.
ã Khu vực Trung và Đông Âu.
Từ cuối thập kỷ 80 trở về trước, các nước thuộc khu vực này hầu hết là các nước XHCN, đầu tư nước ngoài được thực hiện trong khu vực chủ yếu thông qua các hiệp định tương trợ. Trong năm 1980 các nước thuộc Trung và Đông Âu (kể cả khu vực Trung á thuộc Liên Xô cũ) chỉ tiếp nhận được 0,7 tỷ USD. Nhưng sau chính biến 1989-1990, đầu tư nước ngoài vào khu vực này đã tăng lên nhanh chóng và góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội ở các nước này.
Tổng vốn FDI vào các nước Trung và Đông Âu
Đơn vị: triệu USD
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Vốn ĐT
250
623
2.500
3.800
4.600
4.800
10.000
Nguồn: World economic and social survey, 1996, trang 123
Các chủ đầu tư vào khu vực này là Đức, áo, Pháp, Italia, Mỹ, Nhật Bản và NICs Châu á. Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng lượng vốn FDI vào Trung và Đông Âu là do: quá trình tư nhân hoá diễn ra mạnh mẽ trong khu vực; một thị trường mới đang khao khát tiêu dùng những hàng hoá có chất lượng; giá nhân công rẻ và được đào tạo tương đối tốt; giá cung cấp nguyên nhiên vật liệu tương đối thấp kết cấu hạ tầng khá hoàn thiện.
ã Khu vực châu Phi.
Trong khi lượng vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển tăng lên gấp 4 lần từ 1990-1995, thì lượng vốn đầu tư mà các nước châu Phi tiếp nhận được không tăng lên là bao. Tuy nhiên, bức tranh kinh tế châu Phi không hoàn toàn xám xịt. Sự kiện 12 quốc gia thành viên cộng đồng phát triển Nam Phi dẹp bỏ bất đồng, cùng nhau ký Nghị định thư thiết lập khu vực mậu dịch tự do và cắt giảm thuế trong vòng 7 năm, đang tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động đầu tư trong khu vực.
+ Cạnh tranh giữa các nước trong khu vực.
Với tư cách nước nhận đầu tư, các nước ASEAN, Trung Quốc và Việt Nam là những đối thủ cạnh tranh. Do có lợi thế so sánh gần giống nhau nên trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, các nước này có xu hướng bố trí cơ cấu kinh tế giống nhau với đặc trưng chủ yếu là các ngành có hàm lượng lao động sống và nguyên liệu cao như khai thác tài nguyên thiên nhiên, công nghiệp hàng tiêu dùng, lắp ráp điện tử, chế biến nông, lâm, hải sản,... nên tính chất cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các nước này là rất lớn, khả năng hấp dẫn đầu tư của các thành viên cộng đồng hoàn toàn tuỳ thuộc vào chính sách và môi trường đầu tư của từng nước.
Xét trong phạm vi các nước ASEAN, Việt Nam cũng gặp phải sự cạnh tranh gay gắt trong thời gian sắp tới. Việc gia nhập AFTA buộc Việt Nam phải sớm thực hiện lộ trình cắt giảm thuế đối với hàng ngoại nhập từ các nước ASEAN xuống dưới 5%. Thực tế Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giai đoạn một của quá trình này, để đến năm 2006 có thể tham gia với tư cách thành viên đầy đủ của AFTA. Điều này có nghĩa là Việt Nam phải dỡ bở hàng rào thuế đối với hàng hoá nhập từ các nước ASEAN. Yêu cầu đó đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào một môi trường cạnh tranh quốc tế, trước hết và trực tiếp nhất là doanh nghiệp các nước ASEAN trong những ngành và lĩnh vực mà họ đã và đang hoạt động hết sức hiệu quả. Con đường ngắn nhất và trực tiếp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế là nhanh chóng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý, sắp xếp, tổ chức lại sản xuất trên cơ sở hợp tác với các công ty nước ngoài. Muốn vậy, phải tạo môi trường tốt, có tính cạnh tranh cao để các công ty đa quốc gia chọn Việt Nam làm địa bàn đầu tư, đặt cứ điểm cho các cơ sở sản xuất công nghiệp của họ, đồng thời mở rộng hợp tác với tất cả các nước, kể cả với các nước ASEAN trong những lĩnh vực mà Việt Nam còn có thể phát huy được lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế khu vực và giữa nội lực các nước trong khu vực. Các nước ASEAN do có nhiều mặt tương đồng, cho nên chủng loại hàng hoá xuất khẩu thường giống nhau. Việt Nam sẽ chịu thiệt thòi hơn nhiều so với các nước ASEAN khác để có kinh nghiệm buôn bán trên các thị trường thế giới. Xuất khẩu gạo, hàng may mặc, sản phẩm dệt là một thí dụ cho thấy Việt Nam luôn chịu thua thiệt hơn trên thị trường thế giới.
Do vậy, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam như thế nào là tuỳ thuộc vào các chính sách của Việt Nam. Có những chính sách thích hợp với xu thế phát triển của thời đại, Việt Nam sẽ tranh thủ được nhiều thời cơ thuận lợi, mau chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
- Xu hướng của các nhà đầu tư.
+ Về địa điểm đầu tư.
Mặc dù tổng lượng vốn FDI trên toàn thế giới là rất lớn, nhưng phần lớn là đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển. Tỷ trọng đầu tư vào các nước đang phát triển trong tổng FDI của toàn thế giới chỉ chiếm 17% trong năm 1990 và có thể còn giảm xuống trong các năm tới. Do đó cuộc cạnh tranh để thu hút FDI giữa các nước đang phát triển còn tiếp tục gia tăng.
Trong số các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài chỉ tập tủng vào một số nước. Trong danh sách 10 nước và lãnh thổ trong khối các nước đang phát triển dẫn đầu về thu hút FDI trong thập kỷ 80 có tới 6 nước và lãnh thổ thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương, trong đó có Trung Quốc và Thái Lan. Điều này cho thấy rằng, cùng với sự phát triển năng động, Châu á - Thái Bình Dương đang trở thành địa bàn đầu tư ngày càng được quan tâm. Trong thời kỳ 1986-1990, trung bình hàng năm lượng vốn ĐTTTNN chảy vào các nước ở Đông và Đông Nam á là 14 tỷ USD, chiếm 54% trong tổng số vốn FDI vào tất cả các nước đang phát triển (Nguồn: World Investment Report, United Nations, New York 1992, trang 23). Các nền kinh tế năng động và đầy tiềm năng ở khu vực này quả thực đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đầu tư nước ngoài. Sẽ chỉ có điều này là do mức tăng trưởng cao và ổn định cùng với những cải cách kinh tế tài chính của các nước Đông á và Đông Nam á, sự chuyển đổi cơ chế kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam; đồng Yên tăng giá đã kích thích tư bản Nhật Bản đầu tư ra nước ngoài nhiều hơn mà Châu á lại vốn là thị trường quen thuộc của Nhật Bản; hình thành và phát triển nhiều hình thức thu hút FDI như các KCX và đặc khu kinh tế.
Nằm trong một khu vực đang phát triển năng động, nếu có cách đi phù hợp, Việt Nam có những cơ hội để thu hút FDI như Trung Quốc và Thái Lan đã làm.
+ Về cơ cấu đầu tư.
Hiện nay, một cơ cấu kinh tế được coi là hiện đại là cơ cấu kinh tế trong đó các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm một tỷ lệ lớn. Đây là xu hướng có tính phổ biến trên thế giới và xu hướng này đã chi phối toàn bộ hoạt động đầu tư, trong đó đáng kể là hoạt động ĐTTTNN.
Vào giữa thập kỷ 80, số vốn FDI vào ngành dịch vụ chiếm tới 50% tổng số vốn FDI trên toàn thế giới. Các công ty xuyên quốc gia công nghiệp nắm gần một nửa FDI ra nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ ở các nước đang phát triển. Hiện nay có nhiều công ty lớn và nổi tiếng thế giới, không còn sản xuất kinh doanh ở một ngành truyền thống nữa mà có xu hướng đầu tư kinh doanh đa ngành và mở rộng hoạt động sang lĩnh vực dịch vụ. Ví dụ: hãng Mercedes - Benz của CHLB Đức vốn nổi tiếng về các loại xe con, xe buýt và xe tải nặng, nhưng đã từ nhiều năm nay, hãng cũng hoạt động mạnh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng và là một đối thủ kinh doanh khá “nặng cân” trên thị trường tài chính quốc tế. Hoặc như công ty ITT là một công ty xuyên quốc gia đứng đầu ngành thông tin liên lạc, nhưng lại kiểm soát phần lớn khách sạn nổi tiếng trên thế giới.
Trong thời gian gần đây, FDI tập trung nhiều vào 2 ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ là do một số nguyên nhân sau đây: cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất ngày một nâng cao, nhờ vậy mà nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh tăng lên mạnh mẽ, nhất là dịch vụ kỹ thuật, tài chính, du lịch, đòi hỏi ngành điện phải được phát triển tương ứng. Ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành, mà những phân ngành đó thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, như đầu tư, thông tin liên lạc, vật liệu mới,... Do đặc tính kỹ thuật của hai ngành này lại dễ dàng thực hiện sự hợp tác. Và cuối cùng phải kể đến một lý do chung là việc đầu tư vào 2 ngành này cho phép các nhà đầu tư thu được lợi nhuận cao, đỡ gặp rủi ro hơn và nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư.
* Trong nước:
- Thể chế chính trị và môi trường pháp lý.
Tính chất độc lập tự chủ cũng như định hướng xã hội chủ nghĩa của quốc gia được thể hiện và phải được thể hiện trước hết ở pháp luật, chính sách, không chỉ bằng tư tưởng chỉ đạo chung chung mà ở từng điều khoản, quy định cụ thể. Sự nhất quán, thống nhất từ trên xuống dưới trong công tác chỉ đạo, điều hành, một môi trường ổn định là một nhân tố quan trọng đối với quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay đang là một điểm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Vùng kinh tế động lực miền Bắc - nằm trong lãnh thổ Việt Nam chịu sự quản lý của Nhà nước - mang đầy đủ những đặc điểm do thể chế chính trị của quốc gia quy định. Do đó có thể nói nó có những ưu điểm nhất định về thu hút đầu tư xét trên góc độ pháp lý.
- Chính sách chiến lược chung của cả nước.
Cho đến năm 1996 Việt Nam có 3 vùng kinh tế động lực ở 3 miền Bắc, Trung, Nam. Đó là tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; vùng kinh tế trọng điểm Quảng Nam - Đà Nẵng - Thừa Thiên Huế và Khánh Hoà; tam giác kinh tế TP. Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa Vũng Tàu. Mỗi vùng đều có sắc thái, diện mạo và thế mạnh riêng, tên gọi riêng nhưng giữa ba vùng đều có nhiều đặc điểm chung đó là: cùng mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và vững để có sức lôi kéo các vùng khác; có cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển tổng hợp nhưng chuyên môn hoá sâu, kỹ thuật cao, trong đó lấy công nghiệp, dịch vụ làm động lực để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, thu hút nhiều đầu tư và lao động xã hội có khối lượng hàng hoá lớn với chất lượng cao, góp phần tăng nhanh tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho đất nước. ở cả 3 vùng Nhà nước ưu tiên đầu tư trước hết là hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng như sân bay, bến cảng, đường giao thông, điện nước, thông tin liên lạc bằng vốn ngân sách Nhà nước và có cơ chế thu hút vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ tiên tiến để hình thành các khu chế xuất, khu công nghệ kỹ thuật cao, phục vụ xuất khẩu. Có thể gọi các vùng kinh tế động lực này là những nét chấm phá trong bức tranh kinh tế Việt Nam những năm đổi mới và đang có nhiều khởi sắc rất đáng ghi nhận. Vùng kinh tế miền Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh mới bắt đầu xây dựng và quy hoạch nên còn có nhiều vướng mắc, khó khăn.
- Thị trường.
Vùng kinh tế động lực Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh ra đời muộn hơn có quy mô nhỏ hơn vùng kinh tế động lực Đông Nam Bộ. Tuy chỉ chiếm 6,8% dân số cả nước nhưng đây là một thị trường tương đối hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Nếu Hà Nội, Hải Phòng là hai thành phố lớn, sức tiêu dùng mạnh, thói quen đang thay đổi dần cùng với nhịp độ phát triển kinh tế thì Quảng Ninh là một tỉnh mới khởi sắc, kinh tế có nhiều điểm phát triển đáng chú ý, tiềm năng về sức tiêu thụ hàng hoá lớn. Nếu đầu tư sớm thì những nhà đầu tư ở Quảng Ninh sẽ là những người khai phá thị trường mới mẻ này.
- Sự cạnh tranh, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các vùng kinh tế động lực với nhau.
Vùng kinh tế động lực miền Nam ra đời sớm hơn, có rất nhiều ưu thế so vứi hai vùng kinh tế động lực còn lại. Tuy nhiên vùng kinh tế động lực miền Bắc, miền Trung đang cố gắng khai thác những thế mạnh mà vùng kinh tế miền Nam không có để hút bắt nguồn đầu tư hiện nay đang ở mức quá cao so với các vùng khác ở miền Nam.
b-/ Yếu tố nội tại của vùng
* Nguồn lực.
Diện tích tự nhiên của 3 cực thuộc tam giác tăng trưởng chỉ có 8.562 km2 số dân 4,8 triệu người chiếm tỷ lệ 2,82% diện tích và 6,5% dân số cả nước, có cơ sở hạ tầng hiện tại còn yếu kém nhưng vùng này có ưu thế về nhiều mặt. Vùng này gần các vùng sản xuất nguyên liệu công nghiệp chế biến, nguyên liệu dồi dào cho nên có thể phát triển các lĩnh vực sản xuất như xi măng, thép, đóng tàu,... Đồng thời phải kể đến lực lượng lao động ở vùng này, không chỉ phong phú về số lượng, đa dạng về ngành nghề mà trình độ lao động ở vùng này là cao tương đối so với các vùng khác. Mặt khác, bao gồm cả trung tâm khoa học kỹ thuật lớn của TW là Hà Nội nên đội ngũ tri thức ở vùng này là một điểm đáng chú ý đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thêm vào đó thiên nhiên ưu đãi cho vùng rất nhiều danh lam thắng cảnh, rất thuận lợi cho phát triển các hoạt động du lịch, nghỉ ngơi: Vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà, Đồ Sơn, Móng Cái,... Vịnh Hạ Long với trên 1.600 hòn đảo lớn nhỏ, đẹp kỳ vĩ đã được UNESCO xếp hạng là di sản văn hoá thế giới. Vườn quốc gia Cát Bà là một bảo tàng thiên nhiên sống động với rừng nguyên sinh và hệ sinh thái độc đáo đa dạng sẽ là trung tâm du lịch nghỉ ngơi của du khách trong và ngoài nước.
Với những ưu thế về tự nhiên và con người, vùng kinh tế động lực còn có ưu thế về vốn nền tảng và khoa học kỹ thuật nền tảng. Hà Nội và Hải Phòng là hai thành phố lớn, Hải Phòng từ lâu đã được xác định là một trung tâm công nghiệp của cả nước còn Hà Nội là trung tâm văn hoá - chính trị kinh tế của cả nước cho nên nền tảng khoa học kỹ thuật cũng như vốn là tương đối vững chắc so với các vùng khác trong thu hút đầu tư nước ngoài.
* Cơ sở hạ tầng.
Cùng với cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân do công ty tư vấn quốc tế GICA của Nhật tài trợ 200 triệu USD để nâng công suất lên 14,3 triệu tấn/năm vào năm 2010. Tàu 2000 tấn cập cảng an toàn và tương lai đây là một cảng kiểu quốc tế lớn nhất miền Bắc. ở khu vực này hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế đang được nâng cấp và hoàn thiện sân bay Nội Bài, Cát Bi, cảng Hải Phòng, quốc lộ 5, quốc lộ 18, đường dây tải điện và cơ sở vật chất kỹ thuật khác đang được Nhà nước tập trung đầu tư nhằm tạo điều kiện khai thác tốt tiềm năng của vùng. Sân bay Nội Bài đang ngày càng được hiện đại hoá đáp ứng khối lượng khách phù hợp tốc độ phát triển của kinh tế và khối lượng giao dịch thương mại. Quốc lộ 5 và quốc lộ 18 đã hoàn thành và hoạt động nối liền, thống suốt 3 tỉnh.
Các trung tâm công nghiệp và dịch vụ đã được xây dựng ở khu tam giác kinh tế miền Bắc là tương đối lớn, một số đã đi vào hoạt động như: khu công nghiệp Sài Đồng, liên doanh ô tô Hoà Bình, công ty điện tử HANEL, khu công nghệ kỹ thuật cao như lắp ráp ô tô, xe gắn máy, máy thu hình màu, khu công nghiệp NOMUR, các nhà máy sản xuất thép VINAPIE, VPS, VINAUSTBEL đã đi vào sản xuất cung cấp hàng năm cho thị trường hàng trăm nghìn tấn thép,... Sắp tới đây vùng kinh tế động lực miền Bắc sẽ có thêm 3 khu chế xuất Sóc Sơn, Hải Phòng, Quảng Ninh.
- Vị trí địa lý - kinh tế.
Khu vực miền Bắc gần thị trường Trung Quốc rộng lớn, có cửa khẩu quốc tế Móng Cái, Hoành Mô, Bình Liêu nối liền với Trung Quốc, là cửa ngõ đi ra thế giới bằng đường bộ rất thuận lợi. Từ cảng Hải Phòng, Cái Lân có thể thực hiện lưu thông đường thuỷ dễ dàng với các nước và các tỉnh có cảng biển trong nước.
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh là những thị trường tiềm năng có ảnh hưởng đang mở rộng đối với các tỉnh lân cận. ảnh hưởng này không chỉ là nhu cầu tiêu dùng mà bao gồm cả văn hoá, khoa học và kỹ thuật. Hà Nội là trung tâm khoa học văn hoá của cả nước cho nên có điều kiện tiếp thu những kiến thức mới, trình độ quản lý tiên tiến. Hà Nội là động lực cho cả vùng phát triển theo hướng hiện đại và công nghiệp.
Dù chưa bằng vùng kinh tế động lực Đông Nam Bộ nhưng ngày nay tam giác kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có nhiều khởi sắc thật sự.
Với những thuận lợi về nguồn lực, cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý kinh tế như trên này đã đạt được tốc độ tăng GDP bình quân năm 1991-1995 đã hơn 10,5% (so với 8,2% cả nước) tỷ trọng GDP của vùng với cả nước từ 8,8% năm 1991 tăng lên 9,4% năm 1995. GDP bình quân đầu người một năm đạt 449 USD gần 2 lần mức trung bình cả nước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trực tiếp của vùng đạt 807 triệu USD bằng 11% cả nước.
- Khó khăn.
Đầu tư nước ngoài đang chững lại trong những năm gần đây không chỉ ở vùng kinh tế động lực miền Bắc mà trên cả nước. Một phần lý do của sự giảm sút đầu tư nước ngoài vào vùng kinh tế miền Bắc là cuộc khủng hoàng tài chính tiền tệ đã gây hậu quả nặng nề cho các nước trong khu vực trong đó không ít các nhà đầu tư đã đổ rất nhiều vốn vào Việt Nam nay buộc phải cắt giảm hay rút vốn về nước để có tiềm lực đối phó với khó khăn trong nước. Đồng thời thị trường xuất khẩu truyền thống bị ảnh hưởng bởi tình hình suy thoái kinh tế. Bên cạnh đó trong khu vực Đông Nam á đã và đang hình thành rõ nét các thị trường cạnh tranh mạnh mẽ về vốn đầu tư nước ngoài (đặc biệt là thông qua giá đất, chính sách thuế, giá lao động, thủ tục cấp phép), gây nhiều khó khăn cho thu hút đầu tư vào miền Bắc.
Đối với đầu tư nước ngoài tại Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư còn một số thiếu sót nhất định:
- Sự phân biệt giữa các công ty trong và ngoài nước, sự cạnh tranh và điều tiết của thị trường nội địa.
- Hiệu quả của các dự án đầu tư trước đây không gặp được nhiều lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài.
- Sức mua hàng hoá và dịch vụ giảm đáng kể không tạo đủ cầu để kích thích sản xuất và đầu tư.
- Quy hoạch tổng thể cho vùng chưa thống nhất, các thủ tục để được cấp phép đầu tư còn quá rườm rà, mất thời gian và phát sinh nhiều chi phí.
- Một số quy định chưa mang tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư .... quy định xuất khẩu trên 80% sản phẩm đối với lĩnh vực đầu tư vào Việt Nam.
III-/ Kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài vào các nước trên thế giới (Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Trung Quốc)
FDI đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Thực tế đã chỉ ra rằng, đi cùng với FDI thường là kỹ thuật, là công nghệ, là kinh nghiệm quản lý, là thị trường. Những yếu tố đó thực sự trở thành lực lượng đột phá nhưng bế tắc, những cản trở để mở ra hướng đi lên của cả nền kinh tế chậm phát triển, góp phần khởi động cho quá trình công nghiệp hoá.
Các nước trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Trung Quốc là những quốc gia tiêu biểu đã thực hiện tốt quá trình thu hút và sử dụng hợp lý FDI cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển.
Khi Việt Nam còn rất thiếu vốn, mới mở cửa để đón nhận FDI thì lượng FDI đã thâm nhập vào các nước này đạt tới mức đủ đáp ứng những nhu cầu cơ bản về vốn của đất nước. Khi Việt Nam đang còn ở thời kỳ vừa làm vừa rút kinh nghiệm, còn thiếu kiến thức về thu hút và sử dụng FDI thì các quốc gia này đã trưởng thành như những người khổng lồ từng trải.
Vì vậy việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước này là hữu ích và cần thiết. Đó cũng chính là lợi thế của người đi sau - cần chú ý quan sát và học hỏi những thành công, vấp váp của các nước này để vận dụng hay né tránh.
Mặt khác thực trạng phát triển công nghệ sản xuất của Việt Nam hiện nay có thể nói là còn nhiều đất trống - chính đây cũng là điều kiện tốt cho việc phát triển những công nghệ tiên tiến đón đầu thời đại nếu Việt Nam mạnh dạn, biết tính toán.
1-/ Kinh nghiệm thu hút vốn FDI
Thành công của các nước ASEAN Trung Quốc trong việc thu hút vốn FDI chính là việc xây dựng và tạo lập được môi trường đầu tư thuận lợi. Yếu tố này được hình thành tương đối toàn diện trên các mặt: địa lý, chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hoá xã hội.
a-/ Chính trị
Việc thiết lập chế độ chính trị ổn định, chính sách và luật pháp đồng bộ nhất quán và không ngừng hoàn thiện đã gây dựng được niềm tin cũng như sự yên tâm của các nhà đầu tư vào những quốc gia này.
Công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch, qui hoạch thu hút vốn FDI các nước đều xác định rõ mục tiêu, chiến lược kêu gọi FDI trong từng thời kỳ, qui định rõ lĩnh vực ngành, loại hình xí nghiệp, vùng kinh tế được khuyến khích đầu tư, các chuẩn mực ưu đãi cụ thể.
b-/ Pháp luật
Sau khi luật đầu tư nước ngoài ra đời đặt nền móng cho hoạt động đầu tư nước ngoài, trong quá trình thực hiện các quốc gia không ngừng tiến hành sửa đổi thích ứng tình hình thực tế, tạo môi trường pháp lý thực sự hoạt động hiệu quả, thúc đẩy quá trình thu hút đầu tư.
b1. Tăng cường các qui định pháp luật để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài
Nhà nước tránh can thiệp tối đa vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhà nước cũng không dùng những công cụ mệnh lệnh ép buộc mà thông qua việc qui định các mức thuế để định hướng đầu tư. Chính sách ưu đãi về thuế trong những năm đầu hoặc cho những đơn vị đầu tư đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó là các chính sách tái đầu tư, kéo dài thời hạn đầu tư, ưu đãi khu vực đầu tư hay những chính sách xử phạt với những trường hợp o ép các nhà đầu tư nước ngoài trái pháp luật.
b2. Đơn giản hoá thủ tục đầu tư
Thủ tục đầu tư theo nguyên tắc một cửa đơn giản, rõ ràng, nhanh gọn, các nhà đầu tư nước ngoài đến Singapore, Thái Lan, Maylaysia, cũng phải tiến hành thủ tục tương tự như ở Việt Nam nhưng thời gian ngắn hơn nhiều. Các trung tâm dịch vụ thuộc cơ quan quản lý đầu tư MIDA, BOI, EDB giúp họ tiến hành các thủ tục không phải trả chi phí.
Thủ tục xét duyệt dự án thực tế chỉ áp dụng đối với các dự án xin được hưởng những điều kiện ưu đãi về đầu tư. Đối với các dự án không có yêu cầu này chỉ dự án có thể dễ dàng đăng kí kinh doanh, triển khai dự án. Các nhà đầu tư nước ngoài được thông tin tương đối đầy đủ về các vấn đề mà họ quan tâm.
c-/ Kinh tế
c1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng
Nếu chỉ xét đơn thuần trên lĩnh vực sản xuất ra giá trị và giá trị thặng dư thì người ta có xu hướng bỏ vốn đầu tư vào nơi nào có chi phí sản xuất thấp nhất nhưng đem lại lợi nhuận cao và nhanh nhất. ở các nước ASEAN và Trung Quốc ngay từ rất sớm đã nhận ra rằng muốn các công ty nước ngoài tăng cường đầu tư thì phải tạo ra một kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi cho đồng vốn hoạt động. Một mặt họ đầu tư cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng phần “cứng” như nâng cấp và làm mới các đường xá, sân bay, bến cảng, hệ thống cấp điện, nước, thông tin, viễn thông,... Mặt khác nghiên cứu sửa đổi các quy chế hệ thống dịch vụ, thương mại có hiệu quả mà người ta gọi là hệ thống kết cấu hạ tầng “mềm”.
Thực tế cho thấy chi phí cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng là hết sức tốn kém vì nó đòi hỏi vốn đầu tư lớn, khả năng thu hồi vốn khó khăn, hiệu quả lại không cao. Chính vì vậy Chính phủ các nước phải đứng ra lãnh trách nhiệm nặng nề này. Trung Quốc hơn 10 năm thu hút vốn FDI đã phải đi đến quyết định năm 1995 cấm đầu tư vào các công trình có tính chất xa xỉ như khách sạn, sân gôn, trường đua, giành tiền đầu tư vào các chương trình cơ sở hạ tầng cho phát triển, còn ở Malaysia có những dự án khổng lồ như việc xây dựng quốc lộ, sân bay, thủ đô lớn. Kinh nghiệm các nước trong việc huy động một lượng vốn lớn như vậy là huy động kết hợp nguồn vốn trong nước và ngoài nước (cả vốn vay, OPA và FDI).
c2. Tạo môi trường cạnh tranh giữa các vùng kinh tế.
Việc tạo ra các vùng kinh tế là đặc trưng trong quá trình phát triển của các nước này. Nhưng có lẽ thể hiện rõ nét nhất ở Trung Quốc - xuất phát từ điều kiện địa lý Trung Quốc - quốc gia rộng lớn và chủ trương phát triển có trọng điểm.
Trong từng thời kỳ giai đoạn khác nhau, bằng các chính sách của mình các quốc gia đã hướng các nhà đầu tư vào những vùng, những khu vực nhất định. Sau những bước đi hỗ trợ tạo cơ sở ban đầu cho vùng phát triển, Nhà nước trao lại quyền chủ động cho các vùng. Điều này đặt các vùng trong mối quan hệ cạnh tranh cùng phát triển.
Trung Quốc sau thời kỳ xây dựng những đặc khu kinh tế, bành trướng vùng kinh tế ven biển. Các khu vực kinh tế phát triển đi vào trật tự và cạnh tranh rất quyết liệt để thu hút FDI. Các khu vực đều đưa ra các kế hoạch chiến lược phát triển cho khu vực mình và cũng có những chính sách, giải pháp đặc biệt phù hợp để thu hút FDI.
Sự cạnh tranh giữa các vùng kinh tế chính là một yếu tố động lực tạo nên những tiến bộ, thành công trong quá trình thực hiện hoạt động FDI.
d-/ Văn hoá - xã hội.
Nói tới lĩnh vực này là đề cập tới nguồn nhân lực. Các nước ASEAN cũng như Trung Quốc tuy vẫn nhận định giá nhân công rẻ là một trong những lợi thế của mình nhưng không coi đó là ưu thế trong dài hạn. Vì vậy họ luôn chú trọng vấn đề đào tạo nâng cao chất lượng lao động thể hiện qua dân trí và tay nghề.
2-/ Kinh nghiệm sử dụng vốn FDI
Việc thu hút vốn FDI chính là điều kiện cần và phương pháp sử dụng có hiệu quả FDI mới là điều kiện đủ và quyết định sự thành công trong việc biến FDI thành một nhân tố quan trọng đóng góp cho mục tiêu tăng trưởng.
Các nước ASEAN và Trung Quốc, xuất phát điểm ban đầu của nền kinh tế từ khu vực nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém giai cấp tư sản dân tộc nhỏ bé và yếu ớt. Do đó, muốn thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, sử dụng FDI của các nước ASEAN và Trung Quốc không chỉ nhằm giải quyết khó khăn về nguồn vốn, kỹ thuật mà còn nhằm vào mục tiêu nâng dần vai trò quản lý và cải thiện vị trí của các thành phần kinh tế trong nước, đặc biệt là giai cấp tư bản tư nhân nội địa. Vì vậy 80% các khoản FDI được sử dụng dưới hình thức liên doanh gắn với mục tiêu của các giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau nên mức độ tập trung các luồng FDI trong từng giai đoạn khác nhau. Chẳng hạn đầu thập kỷ 70, mục tiêu chiến lược công nghiệp hoá của các nước ASEAN là đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế biến hướng vào xuất khẩu dựa vào lợi thế tận dụng nguyên vật liệu tại chỗ, thu hút nhiều nhân công lao động, giả lương thấp, do đó Chính phủ các nước ASEAN khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp này. Sang thập kỷ 90, do những thay đổi về cầu của thị trường quốc tế đòi hỏi sản phẩm có giá trị gia tăng cao và khối lượng kỹ thuật cao nên cũng thay đối tỷ lệ phân bố FDI trong các ngành kinh tế này.
Việc lựa chọn hình thức đầu tư và cơ cấu đầu tư phù hợp với từng mục tiêu trong giai đoạn phát triển đã làm nên phương pháp sử dụng vốn FDI có hiệu quả.
IV.1 Những giải pháp cấp bách trước mắt nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài
1-/ Tiếp tục hoàn thiện chiến lược thu hút đầu tư
Khi Nhà nước không có sự điều chỉnh thì sau một thời gian thu hút đầu tư nước ngoài, vấn đề tất yếu xảy ra là nền kinh tế vốn đã phát triển thiếu cân đối (hiểu theo nghĩa rộng) lại càng mất cân đối thêm. Lý do là mỗi nhà đầu tư đều có mục tiêu riêng cũng như thế mạnh riêng của mình nên họ phải phát huy tiềm năng vốn có để khai thác có hiệu quả tiềm năng của nước chủ nhà. Do vậy Nhà nước phải có sự điều chỉnh.
Sự điều chỉnh này phải căn cứ vào mục tiêu chiến lược của đất nước trong sử dụng các biện pháp kinh tế để định hướng các nhà đầu tư theo mục tiêu đã vạch ra. Đồng thời sự điều chỉnh này phải chấp nhận ý muốn của các nhà đầu tư trong khuôn khổ luật định, miễn là thu hút được nhiều dự án và vốn, còn lại tìm cách huy động các nguồn vốn ODA, nguồn ngân sách thu được (trong đó có nguồn từ đầu tư nước ngoài mang lại) chủ động đầu tư điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
2-/ Xây dựng và lựa chọn đối tác đầu tư
Đây là vấn đề hết sức cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt. Việc lựa chọn đối tác phải quát triệt 2 vấn đề sau:
1. Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần phải hướng trọng tâm lâu dài vào các công ty xuyên quốc gia thực thụ, bởi vì đó là nơi có nguồn vốn, nguồn kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, đồng thời ở đó mức độ đúng đắn, mức độ tin cậy trong quan hệ cũng cao hơn. Điều này đòi hỏi phải nhanh chóng xây dựng các tập đoàn kinh tế và làm tốt công tác xúc tiến đầu tư thông qua việc tổ chức Forum, qua các hội chợ triển lãm và các công ty tư vấn đầu tư trong nước và nước ngoài.
2. Lựa chọn đối tác cho từng ngành, từng lĩnh vực. Phương án tốt nhất là kêu gọi được những nhà đầu tư đầu đàn trong mỗi lĩnh vực, song trước mắt nếu không đạt được yêu cầu đó, vẫn cần phải tranh thủ cả những công ty như môi giới, rồi từng bước hướng tới mục tiêu này.
Riêng về đối tác trong nước cần thứ điểm xây dựng các tập đoàn kinh tế và hướng tới kinh doanh xuyên quốc gia vì không có tập đoàn mạnh thì sẽ không có đối tác có tiềm lực để quan hệ và rơi vào thế bất lợi trong đàm phán, hợp tác và sau nữa để các tập đoàn mạnh không chỉ hoạt động ở trong nước.
3-/ Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư nước ngoài
Thủ tục đầu tư cũng là một vấn đề nổi cộm đang được chúng ta cải tiến từng bước. Để bảo đảm tính hấp dẫn cần kiên quyết thực hiện “một cửa” và qui định chặt chẽ thời gian tối đa giải quyết thủ tục. Kiên quyết xử lý và xử lý nghiêm những trường hợp gây phiền hà, nhận ăn hối lộ.
4-/ Tăng cường kết cấu hạ tầng hoàn thiện các chính sách khuyến khích
Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng ở nước ta nói chung và ở khu vực kinh tế động lực miền Bắc nói riêng đã hạn chế nhiều việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trong thời gian trước mắt cần phải tập trung thích đáng cho công việc này nhất là hệ thống giao thông, cấp thoát nước khu đô thị, hệ thống công nghệ phụ trợ và các trung tâm công nghệ phụ trợ.
Các chính sách cần được điều chỉnh để đạt độ khuyến khích cao nhất và cần khuyến khích đối với các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào kết cấu hạ tầng, nông lâm nghiệp, trung du, miền núi; đặc biệt là các chính sách giá, thuế,...
5-/ Vấn đề bảo vệ môi trường
Theo qui định hiện hành, nhà đầu tư phải báo cáo đánh giá tác động môi trường với nhiều nội dung, như mục tiêu kinh tế xã hội, ý nghĩa chính trị của dự án,... Điều đó gây nhiều khó khăn phiền phức cho các nhà đầu tư. Việc này nên giao cho Bộ Khoa học, Công nghệ và môi trường làm chức năng kiêm rtra và có thể đề nghị Chính phủ đình chỉ hoạt động nếu xí nghiệp gây tác động xấu đến môi trường sinh thái.
6-/ Về bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài và đội ngũ cán bộ làm công tác đầu tư
+ Về bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài.
Cần nhanh chóng đổi mới bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài theo phương hướng tinh giản, gọn nhẹ, có hiệu lực và bộ máy này cần phải trực thuộc Thủ tướng Chính phủ.
+ Về đội ngũ cán bộ.
Trước mắt cần phải gửi đi đào tạo ở những trường, viện chuyên ngành ngoại ngữ, đội ngũ này phải được lựa chọn qua thi tuyển, và cần tăng cường sử dụng có chọn lọc các cơ quan tư vấn trong và ngoài nước.
Về lâu dài, nên có kế hoạch đào tạo chuyên ngành đầu tư nước ngoài trong trường đại học như trường ĐH - KTQĐ.
7-/ Về hệ thống ngân hàng
Cần hoàn thiện hệ thống ngân hàng và sự hoạt động của nó phải phù hợp hoà nhập với ngân hàng các nước trong khu vực và các nước phát triển.
IV.2
1-/ Giải pháp chính trị
* Giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội.
Đối với Việt Nam từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới, sự ổn định chính trị luôn được đảm bảo. Tuy nhiên trước nguy cơ diễn biến hoà bình và sự phá hoại của các thế lực phản động trong nước cũng như quốc tế, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, đồng thời tiếp tục duy trì và tăng cường sự ổn định hơn nữa.
Cùng với sự ổn định chính trị là chính sách ngoại giao mềm dẻo, đảm bảo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ với khẩu hiệu “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển”. Chính việc mở rộng quan hệ ngoại giao là tiền đề cho việc mở rộng quan hệ kinh tế, trong đó có việc thu hút đầu tư nước ngoài.
* Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng bộ máy Nhà nước các cấp quản lý đầu tư nước ngoài mạnh về mọi mặt.
Lĩnh vực đầu tư nước ngoài là lĩnh vực có quan hệ đến cả đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh quốc gia, văn hoá, tư tưởng. Vì vậy tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.
- Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng các cấp bộ Đảng cần nắm vững đường lối của Đảng để thu hút đầu tư theo đúng mục tiêu chiến lược đã vạch ra, đặc biệt không bao biện làm thay công việc của các cấp chính quyền.
- Để tăng cường hiệu lực của bộ máy Nhà nước các cấp đặc biệt là cấp địa phương quản lý trực tiếp, bộ máy cần được khẩn trương kiện toàn theo hướng gọn nhẹ, có hiệu lực, tránh cồng kềnh rườm rà. Đồng thời tăng cường công tác giáo dục và đào tạo cán bộ.
3-/ Hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho đầu tư nước ngoài
Điều mà các nhà đầu tư hay phân vân và lo ngại là sự thay đổi, bô rsung liên tục của các văn bản pháp qui. Chúng ta cần xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật nhất quán đồng bộ tạo lòng tin, bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, đồng thời bảo vệ quyền lợi của chính vùng kinh tế của mình.
Thủ tục đầu tư cần đơn giản bớt - một cửa, giảm thời gian làm thủ tục giúp các nhà đầu tư nhanh chóng thực hiện đầu tư.
Bên cạnh hoàn thiện hệ thống luật, việc tổ chức các dịch vụ tư vấn luật đầu tư nước ngoài cũng là một trong những yếu tố xúc tiến quá trình đầu tư nước ngoài.
b-/ Những giải pháp kinh tế
* Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược kinh tế mở.
Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế như hiện nay sẽ không thể có một nước nào lại tự mình đóng cửa, không quan hệ với nước ngoài. Song tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, mức độ và phương thức mở cửa khác nhau mà mức độ hiệu quả khác nhau do đó cần:
- Mở cửa với bên ngoài đồng thời tăng cường mở cửa bên trong. Giữa mở cửa bên ngoài với mở cửa bên trong có mối quan hệ mật thiết tác động lẫn nhau.
- Khuyến khích mọi công dân bằng nhiều hình thức thích hợp bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh như: mua cổ phần, lập xí nghiệp tư nhân, hành nghề giáo dục, y tế, đào tạo, dịch vụ,...
- Mở cửa thông tin trong và ngoài nước, đặc biệt là thông tin kinh tế, thị trường, văn hoá xã hội công nghệ dưới mọi hình thức, đặc biệt là phát triển liên lạc viễn thông quốc tế.
* Phát triển kinh tế thị trường, thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ.
Thị trường đầu tư mà chủ thể là các nhà đầu tư nước ngoài vốn là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy cần phải có môi trường đồng bộ để họ hoạt động và có như vậy mới hoạt động được. Các loại thị trường cần thiết đối với các nhà đầu tư là thị trường sức lao động trong đó gồm cả thị trường chất xám, thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường tài chính. Chúng ta không nên đề cao quá mức những tiềm năng vốn có mà cần thấy sâu sắc rằng bên cạnh một số thuận lợi do nguồn lực bên trong, chúng ta đang đứng trước những thách thức trong sự phát triển kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường và từ đó đặt ra vấn đề là phải tăng cường tìm kiếm những nguồn lực mới để kết hợp với những cái đã có. Tóm lại muốn thu hút đầu tư nước ngoài chúng ta phải tiếp tục công cuộc đổi mới, khắc phục những khó khăn đã và đang tồn tại để có một nền kinh tế thị trường ổn định, phát triển, nhanh chóng thiết lập thị trường đồng bộ.
Tạo lập và lựa chọn đối tác, lựa chọn hình thức thu hút, thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư.
- Tạo lập và lựa chọn đối tác đầu tư.
Thực tiễn những năm vừa qua ở nước ta cho thấy trong các xí nghiệp liên doanh, nếu đối tác Việt Nam có năng lực, có vốn đóng góp thì thường thu hút thêm vốn nước ngoài, mở rộng dự án đầu tư. Những đối tác không biết làm ăn thì thường phải thu hẹp quy mô thậm chí rút giấy phép.
Để tạo được đối tác đầu tư trong nước, bản thân các doanh nghiệp phải tự vươn lên, đồng thời Nhà nước cần tăng cường giúp đỡ tạo mọi điều kiện, tạo cơ hội để họ vươn lên. Việc thiết lập các tập đoàn kinh doanh là một chủ trương đúng, trong đó có khía cạnh tạo dựng đối tác đầu tư trong nước đủ tầm cỡ để liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra để lựa chọn đối tác hợp lý, các cơ quan hữu quan, đặc biệt là phòng công nghiệp và thương mại, cần nghiên cứu phân tích, thông tin rộng rãi, chính sách về các nhà đầu tư dự định vào đầu tư, đồng thời có các quan hệ rộng rãi với các công ty tư vấn đầu tư nước ngoài.
- Mở rộng các hình thức để thu hút đầu tư.
Mở rộng hình thức chính là biện pháp thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Đó cũng là thực hiện đa dạng hoá các hình thức quan hệ trên thực tế, đồng thời cần thực hiện từ hình thức thấp đến cao. Đó cũng chính là bước thử nghiệm để nâng cao trình độ các đối tác trong nước và chọn lọc các đối tác nước ngoài phù hợp.
Đối với nước ta hình thức liên doanh đang trở thành phổ biến (chiếm hoá 70% số dự án đầu tư). Chúng ta đang thiết lập các khu công nghiệp (trong đó có khu chế xuất) song cần thận trọng vì không ít nước đã thất bại.
- Chính sách khuyến khích đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với việc tạo lập đối tác trong nước và nước ngoài, các hình thức thu hút vốn. Đây thực sự là một đòn bảy kinh tế và vai trò của các chính sách kinh tế là ở chỗ nó quyết định trực tiếp tới mức lợi nhuận. Chính sách thuế cởi mở với tỷ suất thấp, giá thuê đất thấp cùng tiền lương thấp,... sẽ làm chi phí tư bản thấp đi và như vậy trong điều kiện bình thường thì đương nhiên mức lợi nhuận sẽ cao, sẽ có lợi cho nhà đầu tư.
Đối với nước ta trong những năm vừa qua, kể từ khi luật đầu tư ra đời, chúng ta có nhiều cải tiến về chính sách thuế, giá thuê đất song đến này vẫn còn nhiều vấn đề phải tính toán lại. Dưới con mắt của nhà đầu tư nước ngoài giá thuê đất, dịch vụ điện, nước, bưu chính viễn thông còn quá cao, nhiều địa phương và cơ sở còn tuỳ tiện nâng giá, gây sự thắc mắc, thậm chí nản lòng một số nhà đầu tư.
* Xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật.
Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiên quyết, vì kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một cơ sở hạ tầng thích hợp.
Tuy nhiên so với yêu cầu của giai đoạn phát triển hiện nay, hạ tầng vật chất của ta còn nhiều yếu kém, cần phải có những giải pháp kinh tế phù hợp, nhanh chóng kiến tạo được một cơ sở hạ tầng thích hợp để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài trong điều kiện cơ sở hạ tầng cũ còn lạc hậu. Tiềm năng kinh tế của ta chưa cho phép những khoản lớn vào đầu tư xây dựng hệ thống này cho nên cần cố gắng tranh thủ các nguồn vốn ODA, ngoài ra phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để huy động các tài năng của toàn dân.
Như vậy như đã phân tích để phát triển chúng ta phải đặc biệt chú trọng tới thu hút đầu tư nước ngoài, phải khắc phục hạn chế và phát huy khả năng mọi mặt để đưa vùng kinh tế động lực miền Bắc cùng với vùng kinh tế miền Trung và miền Nam trở thành động lực cho sự phát triển cả nước nói chung.
Tài liệu tham khảo
1-/ Tập huấn về FDI - Hội khoa học kinh tế Việt Nam.
2-/ Tạp chí Châu á - Thái Bình Dương.
3-/ Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á.
4-/ Tạp chí kinh tế phát triển.
5-/ Tạp chí ngân hàng.
6-/ Các văn bản pháp qui.
7-/ Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới.
8-/ Tạp chí thông tin tài chính.
9-/ Tạp chí kinh tế và dự báo.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0007.doc