Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp: Thực trạng và giải pháp

Như vậy các dự án ĐTNN trong lĩnh vực công nghiệp đã và đang chiếm một tỷ trọng lớn về số dự án cũng như lượng vốn đầu tư, góp phần quan trọng trong kết quả tổng thể đạt được của hoạt động ĐTNN tại Việt Nam thời gian qua, phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH phục vụ xây dựng và phát triển đất nước. Con đường phát triển của công nghiệp Việt Nam đã đi qua hơn nửa thế kỷ, song kết quả đạt được trong giai đoạn trước đổi mới còn rất khiêm tốn do nguồn vốn hạn hẹp, trình độ công nghệ còn non kém và chưa có được mối quan hệ kinh tế quốc tế rộng rãi. Trong bối cảnh đó, sau khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành đã thu hút một khối lượng lớn vốn đầu tư có tác dụng như là lực khởi động cho phát triển công nghiệp. Khu vực có vốn ĐTNN đã góp phần đưa công nghiệp nước ta tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh của công nghiệp Việt Nam. FDI giúp ta giải quyết hai vấn đề vốn và kĩ thuật được coi là cơ bản nhất quyết định khả năng thực hiện và sự thành công của thời kì đầu CNH,HĐH. Qua tổng kết và phân tích thực trạng ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp thời gian qua cho thấy FDI đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH, tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, tạo ra cơ sở vật chất tương đối hiện đại trong các ngành công nghiệp đồng thời kéo theo sự phát triển của khu vực nông nghiệp và dịch vụ . ĐTNN không chỉ tác động tới đầu ra mà còn tác động tích cực tới cả quá trình sản xuất của các ngành công nghiệp cũng như các doanh nghiệp công nghiệp trong nước. Tuy nhiên, hoạt động ĐTNN trong lĩnh vực công nghiệp thời gian qua cũng đã bộc lộ những mặt yếu kém hạn chế, tính hấp dẫn của môi trường đầu tư đang đứng trước nhiều khó khăn và thử thách. Trong khi đó, cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN trên thế giới và khu vực diễn ra ngày càng gay gắt ; nhịp tăng trưởng kinh tế thế giới đang chậm lại và những đối tác chính đầu tư vào Việt Nam đang gặp khó khăn. Bên cạnh đó là thách thức trước yêu cầu phát triển công nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM Do vậy, chúng ta cần áp dụng kịp thời một số biện pháp nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện để thành phần kinh tế có vốn ĐTNN trong lĩnh vực công nghiệp phát triển thuận lợi và phát huy tối đa hiệu quả , có như vậy mới góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nói chung và công nghiệp Việt Nam nói riêng trong thời gian tới đã được Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra. Các giải pháp cần thực hiện đồng bộ và cần phải được đặt trong tổng thể các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài, cần sự nỗ lực toàn diện và triển khai theo nhiều hướng, trên nhiều lĩnh vực khác nhau

doc85 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h chuyển phần vốn góp của mình cho bên nước ngoài. Việc góp vốn bằng máy móc, công nghệ trong các liên doanh chưa thực hiện một cách trung thực, nghiêm túc. Một số đối bên tư nước ngoài đưa vào liên doanh những máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu trung bình tiên tiến. Một số khác nâng giá trị thiết bị máy móc góp vào liên doanh cao hơn giá trị thực của nó. Đây cũng là một hạn chế của nước ta vì chưa có một đội ngũ chuyên gia am hiểu và có trình độ để đánh giá chất lượng công nghệ. Hai là : Công tác quy hoạch về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực CN còn thiếu cụ thể và thiếu tính sát thực. Do quy hoạch ngành và một số sản phẩm quan trọng làm chậm hoặc chưa có, lại dựa trên một số dự báo thiếu chuẩn xác chưa lường hết diễn biến phức tạp của thị trường … nên đã cấp phép đầu tư nước ngoài vào một số lĩnh vực và sản phẩm CN vượt quá nhu cầu hiện tại như các dự án bia, nước giải khát, nước có ga, điện tử gia dụng, lắp ráp ôtô, chất tẩy rửa…Tình hình trên cộng với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực đã làm cho công suất huy động của nhiều sản phẩm CN thuộc khu vực ĐTNN đạt thấp như ôtô 5%; xe máy, máy giặt, tủ lạnh trên 30%. Việc cấp giấy phép những năm đầu còn chạy theo số lượng, thiên về thay thế nhập khẩu. Cũng do thiếu quy hoạch cụ thể về sử dụng kết hợp các nguồn vốn nên chủ trương đối với dự án liên quan đến một số sản phẩm quan trọng hoặc lĩnh vực nhạy cảm của ngành CN là chưa rõ ràng, xảy ra tình trạng các địa phương phải chờ xin ý kiến của các cơ quan Trung ương mất nhiều thời gian. Mặt khác, dẫn đến việc xử lý chủ trương đối với dự án không nhất quán, có lúc cho phép đầu tư nước ngoài nhưng có lúc lại để đầu tư trong nước tự làm. Các KCN đã thành lập do thiếu thiết kế kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, chưa đầy đủ sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nên mới chỉ lấp kín được 30% diện tích đất CN có thể cho thuê. Nhiều KCN ở miền Bắc và miền Trung, tỷ lệ cho thuê đất rất thấp (KCN Nomurai – Hải Phòng chưa lấp đầy 10%). Quy hoạch tổng thể của nhiều địa phương, nhiều KCN đã được phê duyệt nhưng thiếu quy hoạch chi tiết, dẫn đến bị động trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư. Giá phí sử dụng cơ sở hạ tầng trong các KCN cao đã triệt tiêu lợi thế về giá thuê đất rẻ trong các KCN. Ba là: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài còn một số bất hợp lý. Chiều hướng tăng tỷ trọng vốn FDI trong lĩnh vực CN là tốt. Tuy nhiên, tỷ trọng vốn FDI vào các dự án thay thế nhập khẩu, hướng vào nội địa còn cao, nhất là các dự án của EU, Mỹ, Nhật Bản; số doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu trên 80% còn hạn chế, một số doanh nghiệp đã xin Nhà nước hạ tỷ lệ này xuống thấp hơn hoặc giãn thời gian thực hiện dài hơn. Đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi (TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hà Nội…); tuy có góp phần làm cho các vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng cao, tạo động lực lôi kéo các vùng khác phát triển, nhưng cũng làm cho chênh lệch kinh tế xã hội giữa các vùng này ngày càng lớn. ĐTNN có ảnh hưởng hầu như không đáng kể đến khu vực miền núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, tỷ lệ đổ vỡ phải rút Giấy phép đầu tư ở các địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cao hơn các địa bàn khác. Chương III : Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong Lĩnh vực công nghiệp 1. Mục tiêu chung về thu hút FDI Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005 được Đại hội IX thông qua đã đặt mục tiêu vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện trong 5 năm tới khoảng 9-10 tỷ USD. Nguồn vốn này chiếm khoảng 16-17% vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 5% GDP. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cần thiết để hoàn thành mục tiêu gồm : (i) Số vốn của các dự án đã cấp giấy phép nhưng chưa thực hiện; (ii) Tăng vốn của các dự án hoạt động hiệu quả (iii) Thu hút vốn đầu tư nước ngoài mới. 2. Phương hướng thu hút và sử dụng FDI trong lĩnh vực công nghiệp Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI nêu rõ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2020 của Việt Nam là Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước CN với mục tiêu tổng quát: " Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước CN theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ , kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao." Mục tiêu cụ thể đối với CN là tốc độ phát triển CN phải đạt trên 12%/ năm, đến năm 2020 giá trị gia tăng CN trong GDP đạt trên 40%. Trong quy hoạch phát triển 10 năm tới ( 2001-2010), CN Việt Nam phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 12-13%/ năm. Để đạt được mục tiêu này, dự kiến vốn đầu tư cần khoảng 50-60 tỷ USD, trong đó huy động từ các nguồn vốn trong nước 60%, còn lại sẽ huy động từ nguồn vốn FDI. Về chủ trương thu hút FDI trong lĩnh vực CN, Chính phủ Việt Nam tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút, sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN; không chạy theo số lượng mà chú ý đến chất lượng dự án để ĐTNN trong lĩnh vực CN phục vụ thiết thực mục tiêu thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Theo đó, Chính phủ Việt Nam tiếp tục khuyến khích ĐTNN vào các ngành CN chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, CN cơ khí, điện tử, những ngành Việt Nam có lợi thế mạnh về nguyên liệu và lao động; ưu tiên các nhà đầu tư có tiềm năng về tài chính và nắm công nghệ nguồn, các dự án có công nghệ hiện đại. 3. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn FDI vào lĩnh vực công nghiệp Với thực trạng việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung và vào lĩnh vực CN nói riêng đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay đòi hỏi môi trường đầu tư và công tác quản lý phải không ngừng đổi mới, đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư thích ứng, tồn tại và phát triển lâu dài cũng như tạo mọi điều kiện tốt nhất, nhanh nhất trong phạm vi có thể nhằm giúp cho hoạt động này thực sự phát huy được hết các tác dụng tích cực, hạn chế những tiêu cực phát sinh. Để làm được điều đó chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp và cần phải được đặt trong tổng thể các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài, cần sự nỗ lực toàn diện và triển khai theo nhiều hướng, trên nhiều lĩnh vực khác nhau, không chỉ đơn thuần về kinh tế, luật pháp… mà còn về chính trị - ngoại giao cũng như văn hoá - du lịch…Vì vậy khi vận dụng phải đặt nó trong mối quan hệ biện chứng và nhìn nhận nó dưới quan điểm hệ thống đồng thời phải tập trung thực thi các giải pháp cấp bách trước mắt, coi đó như những giải pháp mang tính tình thế kết hợp vói các giải pháp mang tính chiến lược lâu dài. 3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài: Hiện nay chúng ta đã có " Luật đầu tư nước ngoài", " Luật khuyến khích đầu tư trong nước" nhưng chúng ta chưa có Luật cạnh tranh, Luật chống bán phá giá… nên mức độ điều chỉnh của pháp luật còn có sự khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp, nhiều khi còn có sự phân biệt và thiếu nhất quán trong các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Không những thế, tính ổn định của luật pháp và chính sách của ta chưa cao. Trong nhiều trường hợp sự thay đổi đột ngột của luật pháp và chính sách đã làm đảo lộn phương án kinh doanh của các nhà đầu tư. Có nơi, có lúc việc vận dụng luật pháp chính sách thiếu thống nhất, tuỳ tiện do y' chí của người thi hành công vụ.. Tiến hành cải cách, sữa chữa những mặt còn tồn tại này là chúng ta đã góp phần đáng kể vào việc làm thay đổi, chuyển biến theo hướng tích cực của môi trường đầu tư. Tốc độ xây dựng đồng bộ hệ thống luật pháp khoa học phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tiễn là một trong những yếu tố quyết định tốc độ rút ngắn khoảng cách về tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam với các nước trong khu vực. Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển theo đúng định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Các văn bản pháp luật về hoạt động FDI cần được nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện theo hướng : - Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh; đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kì. - Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn; sửa đổi, bổ sung Nghị định 103/199/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, theo hướng cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước; nghiên cứu mô hình khu kinh tế mở. - Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài theo Quyết định số 53/1999/QĐ-Ttg - Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động FDI theo hướng tiếp tục giảm dần, tiến tới xoá bỏ việc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất theo các nguyên tắc của thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. - Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài . Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài sản xuất phụ tùng, linh kiện; nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm; cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu, phụ trợ phục vụ hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu . Bảo hộ có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối với một số sản phẩm CN quan trọng. - Giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm việc cho phép tư nhân trong nước đã được cấp quyền sử dụng đất lâu dài được cho nhà đầu tư nước ngoài thuê lại đất trong thời hạn được cấp quyền sử dụng đất. 3.2. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI : Đây là một giải pháp trước mắt và có ý nghĩa lâu dài, bởi vì quản lý Nhà nước quyết định chủ yếu về hiệu quả của nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế nhiều thành phần và mở cửa, hội nhập. Nhận thức được vấn đề này, đứng trước trạng thái suy giảm trong hoạt động ĐTNN từ cuối năm 1997, Chính phủ đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI. Song cho đến nay trạng thái suy giảm này vẫn tiếp tục và có chiều hướng ngày càng xấu đi đòi hỏi sự chuyển biến tích cực hơn từ phía quản lý nhà nước. Các cơ quan cấp Giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp Giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài : Đối với các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt tiếp tục phát triển, đồng thời cần có biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế. Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh. Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư , dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác. Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới các Khu CN và đánh giá tình hình triển khai các KCN đã có quyết định thành lập. Bộ Kế hoạch và đầu tư xem xét và trình Thủ tướng Chính phủ phương án dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng đối với các KCN không đủ yếu tố khả thi. Sửa đổi, bổ sung Quy chế Khu CN , Khu chế xuất, Khu công nghệ cao theo hướng : thu hẹp khoảng cách và tiến tới thống nhất cơ chế, chính sách đối với đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài trong Khu CN, bổ sung các mô hình về KCN nhỏ phục vụ cho việc phát triển ngành nghề ở nông thôn và chỉnh trang đô thị.; điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển hạ tầng trong và ngoài hàng rào, tách việc cho thuê đất nguyên thổ và kinh doanh hạ tầng. Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu , chính sách và cơ chế; trong đó chú trọng phân cấp quản lýnhà nước đối với hoạt động sau Giấy phép của các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách , quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý, kể cả việc chấm dứt hiệu lực của các Giấy phép đầu tư cấp sai quy định. 3.3. Tiếp tục cải tiến các thủ tục hành chính theo hướng ngày càng đơn giản hoá và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài : Trước hết, xin nêu lên ý kiến từ phía các nhà đầu tư nước ngoài để chúng ta thấy rõ hơn tầm quan trọng của giải pháp này. Theo bản báo cáo " Phân tích thương mại và đầu tư Việt Nam " ( 8/ 2000 ) của Uỷ ban Châu Âu thì một trong những việc Chính phủ Việt Nam cần làm để cải thiện môi trường đầu tư là " Các cải cách hành chính và thể chế cần thiết để cải thiện môi trường hoạt động cho các công ty đầu tư nước ngoài là những vấn đề quan trọng hơn rất nhiều so với các khuyến khích tài chính mà Chính phủ đưa ra; giảm tối đa bệnh quan liêu và sự áp dụng các quy định một cách tuỳ tiện, sự thay đổi các nguyên tắc ra quyết định trong hội đồng quản trị đối với các liên doanh, xoá bỏ sự phân biệt đối xử với các công ty đầu tư nước ngoài về giá dịch vụ cơ sở hạ tầng và các dịch vụ khác. Về cơ bản , đó là những giải pháp đơn giản nhưng lại đòi hỏi có sự ủng hộ và cam kết về chính trị mạnh mẽ; chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với nhận định của các nhà đầu tư và dòng vốn chuyển vào Việt Nam trong tương lai. " Hiện nay việc cấp giấy phép cho các nhà đầu tư nước ngoài vẫn phải qua nhiều cơ quan với nhiều chữ kí trùng lặp, quá trình thẩm định phải xem xét đánh giá tới 22 nội dung ( tiêu chí ). Quá trình này tốn rất nhiều thời gian và công sức của các nhà đầu tư nước ngoài và trong nhiều trường hợp đó chính là nguyên nhân làm cho các dự án chậm được triển khai. Do vậy, Chính phủ cần phải đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở Trung ương và ở địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động FDI. Để tạo bước chuyển biến căn bản về thủ tục hành chính trước hết cần thực hiện các giải pháp sau : - Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, phân định quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; thực hiện chế độ giao ban định kì giữa các Bộ, ngành Trung ương với các địa phương có nhiều dự án FDI , duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài . - Cải tiến mạnh thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng kí cấp phép đầu tư . Lập tổ công tác liên ngành do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì để rà soát có hệ thống tất cả các loại Giấy phép, các quy định liên quan đến hoạt động FDI, trên cơ sở đó có kiến nghị bãi bỏ những loại Giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài . - Các Bộ, ngành, địa phương quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính, đơn giản các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền . 3.4. Đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư : Công tác vận động và xúc tiến đầu tư ở Việt Nam hiện nay nên tích cực đổi mới về nội dung và phương thức. Trong lĩnh vực CN, triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư nước ngoài theo ngành, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hướng trọng tâm vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ nguồn. Căn cứ vào Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài , chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư quan trọng, lựa chọn, mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong lĩnh vực CN để đàm đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án. Đồng thời, chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà đầu tư có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm Pháp luật Việt Nam. Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác AIA, ASEAN, APEC, ASEM, các cuộc hội thảo về đầu tư nước ngoài ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp… Các cơ quan, đại diện ngoại giao - thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam , bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm côg tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ ,ngành, địa phương ; bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương. Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư , chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật phát , chính sách , biện pháp thu hút FDI của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách phù hợp. Việc Chính phủ thành lập một Trung tâm xúc tiến đầu tư để giúp đỡ cụ thể và miễn phí cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như chủ đầu tư trong nước các điều kiện thuận lợi trong quá trình tiến hành thủ tục thành lập doanh nghiệp FDI tại Việt Nam là một việc làm cần thiết hiện nay. Một trung tâm xúc tiến đầu tư như vậy được thành lập sẽ giải quyết được các công việc sau: . Thực hiện xúc tiến đầu tư về một mối ( một cửa ) . Đảm bảo thời gian nhanh nhất, thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư trong việc giải quyết các thủ tục về xúc tiến và quản lý FDI . Vận động đầu tư một cách chủ động ( áp dụng công nghệ tin học…) . Hướng dẫn các nhà đầu tư các quy định về thủ tục, quy trình đầu tư , câc văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động FDI . Cung cấp thông tin để thiết lập hồ sơ dự án. . Tư vấn chuyên môn . Đề xuất chủ trương, chính sách về đầu tư nước ngoài. Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp trong nước cần có sự chủ động, tích cực tìm kiếm các đối tác nước ngoài để kêu gọi nguồn vốn đầu tư . Các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức rõ hơn vai trò quan trọng và cần thiết của việc xây dựng cho mình một trang Web riêng để quảng cáo, giới thiệu về công ty, các mặt hàng cũng như hướng đầu tư của doanh nghiệp ; đồng thời phải thể hiện sự năng động của mình bằng cách thường xuyên tham gia các hội chợ , diễn đàn doanh nghiệp trong nước và quốc tế, lập những đoàn khảo sát ở thị trường nước ngoài để trực tiếp tìm những đối tác tiềm năng. Thực tế ở Việt Nam hiện nay cho thấy các doanh nghiệp rất yếu về khả năng nắm bắt thông tin và nghiên cứu thị trường cũng như theo sát và nắm bắt được luật pháp, các chính sách, chủ trương mới của nhà nước đối với hoạt động ĐTNN. Đây là vấn đề hết sức quan trọng mà các doanh nghiệp cần khắc phục để tạo sự tin tưởng và an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình vận động đầu tư . 3.5. Điều chỉnh cơ cấu vốn ĐTNN trong lĩnh vực CN theo hướng ưu tiên thu hút vốn đầu tư vào các ngành CN sản xuất và phục vụ xuất khẩu đồng thời có sự chú ý thích đáng tới các ngành CN phục vụ hiện đại hoá nông nghiệp. Như đã nêu trong phần giới thiệu về chiến lược phát triển CN Việt Nam, chiến lược hướng về xuất khẩu ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được coi là phương hướng chủ đạo trong thu hút FDI vào lĩnh vực CN. Hướng mạnh về xuất khẩu là con đường buộc các doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh. Nó cũng là biện pháp làm cho thị trường trong nước có điều kiện mở rộng và phát triển vì kim ngạch xuất khẩu tăng thì sức mua nội địa tăng, có thêm ngoại tệ để tăng khả năng nhập khẩu cho sản xuất và đời sống trong nước cũng được cải thiện, cán cân thanh toán sẽ bớt căng thẳng. Và do vậy lại có thể thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài vì các nhà đầu tư thường nhìn vào cán cân thanh toán của một nước như là một trong những tiêu chí quan trọng để quyết định có đầu tư hay không. Mặt khác, với ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, năng lực tiếp thị quốc tế, kinh nghiệm quản lý của nhà đầu tư nước ngoài, FDI có tác dụng thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới và là một trong những phương thức đưa hàng CN Việt Nam xâm nhập thường nước ngoài một cách hiệu quả nhất. Thực tế từ những năm qua cho thấy, do nắm được phương hướng khuyến khích và ưu đãi cho các dự án sản xuất và phục vụ xuất khẩu của Chính phủ Việt Nam mà nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẵn sàng cam kết và đồng ý ghi trong giấy phép đầu tư là sản xuất hàng hoá chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu để được hưởng các chính sách ưu đãi và điều kiện thuận lợi. Nhưng khi doanh nghiệp đi vào sản xuất kinh doanh họ đã lấy lý do gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường, tác động của khủng hoảng cũng như một số điều kiện bất khả kháng từ bên ngoài … để hướng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của họ vào thị trường Việt Nam, dần dần chuyển hướng ngược lại từ sản xuất hướng về xuất khẩu sang sản xuất thay thế cho nhập khẩu là chủ yếu. Không những vậy, một số dự án mà bên nước ngoài là những công ty con sau khi được cấp giấy phép đầu tư nước ngoài vào Việt Nam họ xem đó như là điều kiện hợp pháp để quảng cáo, tuyên truyền cho nhãn hiệu hàng hoá và đưa hàng của công ty mẹ do các công ty con sản xuất tại nước khác vào tiêu thụ ở thị trường Việt Nam. Từ thực tế trên cho thấy để hướng FDI vào phục vụ xuất khẩu theo đúng chủ trương và chính sách của Nhà nước, Chính phủ kết hợp với Bộ CN , Bộ KH- ĐT, Bộ Thương mại cần tiến hành quản lý chặt chẽ hơn và có biện pháp xử lý cứng rắn đối với việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra của các dự án đang hoạt động nhằm buộc các chủ đầu tư nước ngoài tuân thủ và thực hiện đúng các cam kết trong giấy phép đầu tư về xuất khẩu sản phẩm. Nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững của đất nước, cần coi trọng thích đáng tới việc thu hút FDI vào các ngành CN phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Xét về góc độ chính trị - xã hội, cấu trúc cơ bản liên kết nông nghiệp với CN trong quá trình tăng trưởng chung là con đường chủ yếu để làm cho yêu cầu tăng trưởng và yêu cầu công bằng xã hội được giải quyết. Trước hết phải quan tâm đến thúc đẩy sự liên kết sản xuất giữa nông nghiệp – công nghiệp, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn, gắn thành thị với nông thôn, tạo nên hướng phát triển mới có tính chiến lược cho cả công nghiệp lẫn nông nghiệp. Có thể ví dụ như xây dựng các cụm và điểm chế biến rau, hoa quả ở các khu vực nông thôn, trung du miền núi, chế biến thuỷ sản ở các tỉnh ven biển … Các vùng này chỉ cần xây dựng các KCN vừa và nhỏ, các cụm công nghiệp chế biến, sản xuất để từng bước thúc đẩy sản xuất nông nghiệp chuyển thành sản xuất hàng hoá. Nếu chỉ tập trung mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ phát triển những ngành CN phục vụ xuất khẩu thì những ngành phục vụ sản xuất nông nghiệp như nông cụ và máy móc nông nghiệp, phân bón và thuốc trừ sâu….không được chú ý đầu tư thoả đáng và các dự án ĐTNN không được hưởng các chính sách ưu đãi thích đáng. Kết quả là sản phẩm của người nông dân làm ra chất lượng kém và chi phí sản xuất cao. Trong thời gian qua, thuốc trừ sâu và phân bón luôn nằm trong nhóm những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam do CN sản xuất trong nước không đáp ứng được nhu cầu của nông dân cả về mặt số lượng và chất lượng. Năm 2001 chúng ta phải nhập tới 3189,3 tấn phân bón các loại và lượng thuốc trừ sâu nhập khẩu trị giá 110 tr.USD . Bên cạnh đó, muốn hiện đại hoá nông nghiệp thì một trong những nội dung quan trọng là CN trong nước phải phục vụ đắc lực cho cơ giới hoá và cơ khí hoá nông nghiệp nông thôn. Muốn vậy vai trò của ngành cơ khí chế tạo nông cụ và máy nông nghiệp là rất quan trọng, nhưng do thực trạng yếu kém và lạc hậu của ngành này nên đã để xảy ra nghịch lý là thị trường nông cụ và máy nông nghiệp của Việt Nam đang thuộc về các sản phẩm của Trung Quốc và một số nước ASEAN , đặc biệt là Trung Quốc. Mặt khác, phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài vào ngành CN chế tạo cơ khí là tập trung vào các ngành lắp ráp ô tô, xe máy và các hàng cơ khí dân dụng khác trong khi số dự án đầu tư vào thiết bị công cụ sản xuất cho nông nghiệp còn quá ít và chưa được hưởng các ưu đãi một cách thích đáng.Vì vậy, muốn phát triển nông nghiệp nông thôn không chỉ phát triển CN chế biến mà còn cần coi trọng việc thu hút các dự án FDI vào các ngành CN sản xuất phân bón- thuốc trừ sâu, CN cơ khí sản xuất nông cụ và máy nông nghiệp….từ đó đưa ra các ưu đãi thích đáng kêu gọi và khuyến khích các dự án FDI vào các ngành CN phục vụ hiện đại hoá nông nghiệp 3.6. Thu hút nguồn vốn FDI vào các KCN, KCX nhằm tạo nên một mạng lưới phát triển công nghiệp trên cả nước. Thu hút nguồn vốn FDI để lấp đầy KCN, KCX đã được thành lập là một mục tiêu quan trọng nhất kể từ khi thành lập các KCN, KCX. Hiện nay, tỷ lệ lấp đầy KCN ở mức 40%, mặc dù đây là một bước tiến đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong chiến lược phát triển đất nước. Theo tính toán sơ bộ, để lấp đầy tất cả các KCN, KCX đã được thành lập, trong những năm tới phải thu hút thêm khoảng 5500 doanh nghiệp mới với tổng vốn đầu tư đăng ký 18 - 23 tỷ USD, trong đó chủ yếu là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước trong các năm qua, để có thể lấp đầy được các KCN, KCX đã được thành lập cũng phải mất 15 –20 năm nữa. Trong thời gian tới, giai đoạn 2001-2005, phương hướng đặt ra trước mắt là phải nâng tỷ lệ lấp đầy các KCN KCX lên 50%. Đặc biệt đối với một số khu công nghiệp hiện nay tỷ lệ ở mức quá thấp, dẫn đến tình trạng lãng phí, hệ số sử dụng đất công nghiệp thấp không đạt hiệu quả thì phải có những biện pháp khắc phục, trong đó đặc biệt chú ý đến các biện pháp xúc tiến đầu tư. Một vấn đề nữa trong việc thu hút đầu tư là phải lựa chọn thu hút những dự án đầu tư vào những ngành nghề thuộc diện khuyến khích đầu tư, như những dự án khai thác tiềm năng và sử dụng chủ yếu vật tư, nguyên liệu trong nước; dự án thúc đẩy sự phát triển của cấc ngành kinh tế, các ngành công nghiệp khác trong nước (cung cấp nguyên liệu thiết bị, phụ tùng, bán thành phẩm, gia công cho các ngành khác …); dự án sản xuất hàng xuất khẩu, hàng thay thế nhập khẩu; dự án có trình độ kĩ thuật cao, sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm,… Đặc biệt cần kiên quyết không chấp nhận những dự án thuộc diện cấm hay hạn chế đầu tư, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, đến đời sống sinh hoạt của người dân, đến an ninh quốc phòng đất nước. Thực hiện lựa chọn thu hút ngành nghề của dự án đầu tư vào KCN,KCX vào các địa bàn thuộc diện khuyến khích đầu tư theo những hướng sau : trên các địa bàn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội tập trung vào các ngành nghề thuộc các lĩnh vực cơ khí, điện tử- công nghệ thông tin, công nghiệp hàng tiêu dùng ….Riêng lĩnh vực hoá chất- dầu khí chỉ khuyến khích các ngành sử dung sản phẩm hoá chất tiêu dùng – mỹ phẩm và sản xuất xăm lốp – cao su kĩ thuật. Các KCN trên địa bàn Quảng Ninh, Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà Nẵng, Quảng Ngãi ưu tiên bố trí các ngành nghề thuộc lĩnh vực cơ khí nặng như chế tạo thiết bị, phụ tùng cho các ngành công nghiệp, đóng tàu, luyện kim, hoá chất- hoá dầu, vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm hải sản. Các KCN ở các tỉnh Đồng Nai, Sông Bé: ưu tiên bố trí các ngành nghề cơ khí phục vụ công nghiệp chế biến và cơ giới hoá nông nghiệp, cơ khí phục vụ các nghành công nghiệp nhẹ, chế tạo thiết bị kĩ thuật điện tử – công nghệ thông tin, hàng tiêu dùng.Các KCN trên địa bàn Hà Tây, Bắc Ninh, Huế: các ngành nghề thuộc các lĩnh vực cơ khí, công nghiệp hàng tiêu dùng, sản xuất và chế biến nông lâm sản . Phát triển KCN-KCX cần tính đến lợi thế so sánh của từng vùng và yêu cầu phát triển của khu vực, tạo nên thế mạnh theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Việc xây dựng các KCN trong thời gian tới phải nằm trong danh mục qui hoạch KCN,KCX được phê duyệt của Chính Phủ về qui hoạch tổng thể năm 1996-2010 ban hành ngày 8/6/1996. Đồng thời trước khi thành lập có sự rà soát, điều chỉnh qui hoạch cho phù hợp với thực tế, phân thành các giai đoạn thực hiện, tránh tình trạng thành lập một cách tự phát như trước đây ở một số địa phương. Từng bước có các giải pháp hợp lí di dời các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm trong nội đô các thành phố lớn, chỉnh trang các cụm công nghiệp hiện có. Quy hoạch phát triển KCN, KCX phải gắn với quy hoạch vùng, quy hoạch các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội không chỉ trên quy hoạch định hướng mà còn cả việc thực hiện các quy hoạch này. Đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng phải đảm bảo đầu tư cho cơ sở hạ tầng kĩ thuật bên trong và ngoài hàng rào như hệ thống đường giao thông, thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông, nhà máy cung cấp nước sạch, nhà máy sản xuất điện, giải quyết vấn đề môi trường, khu dân cư, các công trình phúc lợi công cộng, các vấn đề xã hội khác... tạo tiền đề phát triển vùng và hình thành các đô thị công nghiệp. Có thể thấy rằng Quy hoạch KCN, KCX trong thời gian qua chưa tính hết đựơc tốc độ đô thị hoá, đặc biệt ở các đô thị lớn. Có hiện tượng một số cơ sở sản xuất, nhà máy tận dụng lợi thế gần đường giao thông, hệ thống điện nước của các KCN nên xây dựng không vào trong KCN mà ở gần các khu này để tránh chi phí thuê cơ sở hạ tầng trong khu. Do vậy trong thời gian tới cần, cần kiên quyết không cấp giấy phép cho những dự án trên, qui hoạch tập trung, di dời các điểm sản xuất trong khu dân cư vào các cụm công nghiệp. Đồng thời, công tác quản lý cần thường xuyên quan tâm đến những vấn đề như qui hoạch phân khu chức năng, qui hoạch ngành nghề đầu tư vào khu, xử lý chất thải, hạ tầng xã hội...vốn là những vấn đề hết sức nhạy cảm, nếu lơ là sẽ hạn chế tác dụng của KCN, KCX, thậm chí còn gây thiệt hại nghiêm trọng về lâu dài. Quy hoạch ngành nghề theo quy hoạch chung và lợi thế của từng khu vực, tránh trùng lắp ngành nghề dẫn đến sự phân bố không hợp lý về lực lượng sản xuất. Các địa phương trong vùng hoặc giữa các vùng phải phối hợp chặt chẽ từ việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội. Đối với các KCN hiện có, tập trung đầu tư cải thiện và hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng kĩ thuật ngoài hàng rào và cơ sở hạ tầng xã hội để đưa các KCN vào hoạt động có hiệu quả. Từ những vấn đề nảy sinh trong vấn đề giải quyết chỗ ăn ở cho người lao động trong các KCN, KCX, trong thời gian tới việc phát triển KCN, KCX cần đảm bảo vịêc phát triển theo hướng lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm trọng tâm. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, và thực tế cho thấy muốn phát triển bền vững cần phải đảm bảo cân bằng giữa yếu tố kinh tế và xã hội . Đây cũng là quan điểm thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng. Theo báo cáo đầu tư thế giới, một số nhà phân tích nước ngoài có nhận xét, nguồn vốn chảy vào các KCN, KCX ở các nước đang phát triển là những dự án ‘’có chất lượng thấp’’, có thể gây ảnh hưởng đến môi trường, đến quốc phòng an ninh, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. Các nhà đầu tư vào các KCN, KCX thường đầu tư vào những dự án công nghệ thấp sử dụng nhiều lao động và trả mức lương thấp, họ coi lương của công nhân như là một loại chi phí sản xuất, chứ không quan tâm vấn đề phát triển và duy trì nguồn lao động này. Vì thế, chúng ta cũng cần xem xét những khuyến cáo trên và đề ra những qui định kiên quyết không tiếp nhận những dự án ảnh hưởng đời sống nhân dân, đến an ninh quốc phòng quốc gia, đồng thời khuyến khích thu hút những dự án có “chất lượng cao” qua việc xây dựng những danh mục dự án khuyến khích đầu tư, vận động xúc tiến để có thể thu hútA, tiếp cận những dự án này để đưa KCN ,KCX hoà cùng vào sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước . 3.7. Đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa tiếp thu công nghệ tiên tiến và tạo việc làm khi lựa chọn các dự án đầu tư. Nước nhận đầu tư nếu không có một chính sách công nghệ đúng đắn, biện pháp công nghệ phù hợp sẽ dẫn đến hai khả năng hoặc trở thành bãi rác cho công nghệ lạc hậu của các nước CN phát triển hoặc bị thất bại do không có khả năng hấp thụ tiếp thu những công nghệ hiện đại được chuyển giao. Là một nước đang phát triển, xuất phát điểm thấp, nền CN Việt Nam không thể chỉ thu hút đầu tư nước ngoài cùng một lúc với những kỹ thuật và công nghệ hiện đại, công nghệ mũi nhọn mà phải lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản cho việc lựa chọn các dự án đầu tư. Mô hình CNH ở Việt Nam sẽ giống mô hình CNH của NIEs ở chỗ đều coi trọng sản xuất để xuất khẩu, coi trọng việc thu hút nguồn lực bên ngoài nhưng lại khác ở chỗ Việt Nam phải tính nhiều hơn tới việc sử dụng thị trường, tài nguyên và lao động trong nước. Do vậy, cần phải đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa tiếp thu công nghệ tiên tiến và tạo việc làm khi lựa chọn các dự án đầu tư. Một mặt trước hết coi trọng công nghệ mức trung bình đòi hỏi đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp như các ngành giày da, dệt may, gia công lắp ráp, chế biến nông lâm hải sản…. Vì như ở chương I đã phân tích, Việt Nam có lợi thế so sánh về nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên. Tuy đây là những lợi thế sơ cấp , đang mất dần ưu thế trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật nhưng trong giai đoạn hiện nay ta vẫn còn cơ hội thu hút vốn và công nghệ thích hợp để phát huy tối đa lợi thế này. Mặt khác, cần khai thác lợi thế của các nước đi sau, " đi tắt đón đầu " lựa chọn một số ngành để thu hút áp dụng công nghệ tiên tiến và công nghệ cao ngang tầm khu vực và thế giới như: công nghệ sinh học, điện tử và công nghệ thông tin, vật liệu mới tự động hoá, viễn thông… để tránh nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn về khoa học- công nghệ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý, thể chế hữu hiệu cho việc lưu thông tri thức và công nghệ thông qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp để khuyến khích đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ vào Việt Nam và khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các kết quả nghiên cứu và phát triển ( R & D ) trong nước cho các doanh nghiệp. 3.8. Lựa chọn các đối tác nước ngoài cần xác định chiến lược lâu dài là giành sự ưu tiên hơn cho việc thu hút các nhà đầu tư thuộc các công ty xuyên quốc gia lớn. Thu hút được các chủ đầu tư là các công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn cũng đồng nghĩa với việc bắt tay làm ăn hợp tác được với những chủ sở hữu mạnh, có năng lực chống đỡ và điều chỉnh trước những biến động kinh tế có thể xảy ra. Đặc điểm nổi bật của các chủ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt thể hiện rõ trong các ngành sản xuất công nghiệp, phần lớn không phải xuất phát từ các công ty mẹ mà là xuất phát từ các công ty thuộc thế hệ thứ hai, tức là xuất phát từ các chi nhánh công ty nước thứ hai đầu tư vào nước ta ( nước thứ ba ) còn quá ít, chỉ có 50/500 các TNCs của thế giới. Do đó, cho đến nay, đa phần các doanh nghiệp có vốn FDI tại nước ta là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Với trình độ phát triển của thời kì đầu cải cách và mở cửa, khi mà các cơ sở sản xuất còn yếu kém, cơ sở hạ tầng thiếu thốn và lạc hậu của ta, với một số thế mạnh ít ỏi về lao động, nguyên liệu rẻ và thị trường… thì các dự án đầu tư nước ngoài có đặc điểm như trên cũng là hợp lý và đã thực sự trở thành động lực của phát triển. Mặc dù vậy, sau một thời gian hoạt động, đứng trước thử thách của những biến động, của xu thế vận động và phát triển của thế giới… thì các doanh nghiệp có quy mô vốn, trình độ công nghệ, khả năng chi phối thị trường… như các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thuộc quy mô vừa và nhỏ như Việt Nam hiệ nay đã bộc lộ những bất cập, khó khăn, lúng túng khi xác định điều kiện cho sự tồn tại và phát triển. Điều nay cho thấy cố gắng để thu hút được các TNCs đến đầu tư tại Việt Nam không chỉ là đòi hỏi của sự phát triển lâu dài mà chính nó còn là yếu tố quyết địh khả năng thích ứng ngay cả ở trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam như hiện nay. Một trong những điều kiện có tính chất quyết định khả năng thu hút các TNCs đến đầu tư là phải có các doanh nghiệp đối tác trong nước đủ mạnh về nhiều mặt. Và, để có được các doanh nghiệp loại này, Nhà nước ta cần có sự lựa chọn, hỗ trợ, đầu tư xây dựng để tạo những điều kiện và cơ hội thử thách, phát triển. Chúng ta cần có sự đầu tư thoả đáng để sớm hình thành được các tập đoàn kinh tế mạnh làm trụ cột cho sự phát triển kinh tế nước nhà, vừa đủ sức vươn ra hoạt động có hiệu quả trên thị trường quốc tế. 3.9. Chú trọng và đẩy mạnh công tác đào tạo và nâng cao trình độ kĩ thuật của đội ngũ công nhân Đi đôi với các giải pháp nhằm đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ quốc gia cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo, đặc biệt là đào tạo và đào tạo lại nghề cho công nhân. Một đội ngũ lao động có tay nghề cao chủ động đón đầu trước nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần thiết để chúng ta tiếp thu và áp dụng công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ hiện đại vào Việt Nam. Lợi thế so sánh của Việt Nam cao hay thấp cũng sẽ tuỳ thuộc phần lớn vào chất lượng nguồn nhân lực. Như đã nêu ở chương I, sau hơn 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đội ngũ công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh về chất lượng và cơ cầu ngành nghề, nhưng so với nhu cầu phát triển kinh tế hiện nay đội ngũ này đang bộc lộ nhiều bất hợp lý: số công nhân được đào tạo trước đây nay đã lạc hậu trước những tiến bộ kĩ thuật, số mới được đào tạo thì lại yếu về kiến thức cơ bản và mất cân đối giữa đào tạo với yêu cầu thực tiễn sản xuất, khả năng phát huy hiệu quả trong sản xuất kém nên lượng công nhân tăng nhưng chất lượng tăng không cao, sức sản xuất tăng châm. Thực trạng trên đang đặt đội ngũ công nhân Việt Nam - lực lượng nòng cốt đi đầu thực hiện sự nghiệp CNH,HĐH đất nước - trước thử thách lớn, đòi hỏi phải gấp rút tiến hành đoà tạo và đào tạo lại cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế. Thứ nhất, mở rộng quy mô và các hình thức đào tạo đáp ứng đủ số lượng công nghiệp , phù hợp với sự biến đổi cơ cấu ngành kinh tế. Theo chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 thì so với số công nhân hiện có ( 2,5 triệu ) thì số lượng công nhân phải tăng là khoảng 15,5 triệu vào năm 2010. Muốn đạt được chỉ tiêu này phải có sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước, các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế - xã hội, các thành phần kinh tế và cá nhân. Kế hoạch đào tạo phải được thực hiện nghiêm chỉnh theo hướng mở rộng quy mô hiện có kết hợp nhiều hình thức : học qua trường lớp, học ngay tại doanh nghiệp, kết hợp đào tạo dài hạn với ngắn hạn , đào tạo từ xa…. Để đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và số lượng lao động cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, nhà nước cần tăng cường giáo dục trung học chuyên nghiệp ( đào tạo cán bộ trung cấp kỹ thuật ) và dạy nghề ( đào tạo công nhân kỹ thuật ). Trước hết phải mở rộng và nâng cấp mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, đặc biệt là các trường gắn với địa bàn dân cư. Tăng cường, mở rộng các trường dạy nghề ở địa phương để giảm sức ép cho các trường Trung ương. Đồng thời, cần có sự gắn kết với thị trường lao động để tạo ra sự gắn kết quá trình đào tạo ở nhà trường với yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nhằm gắn hoạt động đào tạo dạy nghề với hoạt động sản xuất kinh doanh và cơ cấu ngành, tránh tình trạng công nhân, kỹ sư được đào tạo ra không những thiếu mà còn không đáp ứng được yêu cầu nghiêm ngặt của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Mặt khác, các trường dạy nghề cần cải tiến và đổi mới chương trình giảng dạy, chú trọng đồng thời cả 3 nội dung đào tạo : kỹ năng - tay nghề, kiến thức - hiểu biết lý thuyết về nghề nghiệp, xã hội; đạo đức nghề nghiệp ( tác phong CN, kỷ luật lao động, khả năng tập trung với nhịp độ cao ) ; tăng cường các môn học cần thiết trong nền kinh tế mới : tin học, ngoại ngữ..; đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ giảng dạy để nâng cao số lượng và chất lượng của đội ngũ giáo viên trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Cần huy động các chuyên gia làm việc tai các cơ sở sản xuất kinh doanh tham gia cộng tác giảng dạy, xây dựng nội dung chương trình. Chương trình và giáo trình đào tạo nghề cần được thường xuyên biên soạn lại, sửa đổi bổ sung các nội dung đã lạc hậu, kể cả các chỉ tiêu định mức, ngạch, bậc. Thí dụ: nghề điện tử trước đây thường phải bậc 4 trở lên mới sửa được tivi màu, nay bậc 2 đã thực hiện được công việc này. Hiện nay mức lương quy định theo bậc thợ, nếu tiêu chuẩn xác định bậc thợ không khách quan và phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn sư ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ lao động và kết quả lao động. Trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ-kĩ thuật cần đặc biệt coi trọng khâu đào tạo lại một cách thường xuyên đối với công nhân. Đa số công nhân ở nước ta hiện nay trước khi vào làm việc chỉ qua đào tạo ngắn hạn nên trình độ tay nghề rất thấp. Hiện nay, tỷ lệ công nhân được đào tạo lại ở các nói chung ở các doanh nghiệp là 52,1%, trong đó tỷ lệ cao ở hai ngành cơ khí và dệt, như vậy tỷ lệ chưa qua đào tạo lại trong suốt thời gian làm việc còn khá cao : 47,9%. Điều này càng đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động có kế hoạch đào tạo lại, đảm bảo nâng cao trình độ nghề nghiệp của công nhân, phấn đấu giảm tỷ lệ chưa qua đào tạo lại xuống 20% vào năm 2005 và 15% vào năm 2010. Hiện nay kinh phí chi cho GD-ĐT còn hạn hẹp, chi ngân sách cho GD-ĐT hiện nay của Việt Nam chỉ khoảng 14-15%, còn khá xa với yêu cầu của sự nghiệp giáo dục - đào tạo, trong khi một số nước trong khu vực đạt 20-25%. Nhà nước cần ưu tiên hơn nữa cho cho việc bố trí ngân sách giáo dục, đảm bảo tỷ lệ ngân sách chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp GD-ĐT. Đồng thời, Chính phủ cũng cần mở rộng hơn nữa quan hệ hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực GD-ĐT : tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân và tổ chức giáo dục và đào tạo của Việt Nam và người nước ngoài hợp tác trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo, liên kết với nước ngoài mở các chương trình giảng dạy đại học-sau đại học chất lượng cao ở Việt Nam. Con người là động lực chủ yếu của quá trình sản xuất, là trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Do vậy, cần phải xác định rõ việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. kết luận Như vậy các dự án ĐTNN trong lĩnh vực công nghiệp đã và đang chiếm một tỷ trọng lớn về số dự án cũng như lượng vốn đầu tư, góp phần quan trọng trong kết quả tổng thể đạt được của hoạt động ĐTNN tại Việt Nam thời gian qua, phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH phục vụ xây dựng và phát triển đất nước. Con đường phát triển của công nghiệp Việt Nam đã đi qua hơn nửa thế kỷ, song kết quả đạt được trong giai đoạn trước đổi mới còn rất khiêm tốn do nguồn vốn hạn hẹp, trình độ công nghệ còn non kém và chưa có được mối quan hệ kinh tế quốc tế rộng rãi. Trong bối cảnh đó, sau khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành đã thu hút một khối lượng lớn vốn đầu tư có tác dụng như là lực khởi động cho phát triển công nghiệp. Khu vực có vốn ĐTNN đã góp phần đưa công nghiệp nước ta tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh của công nghiệp Việt Nam. FDI giúp ta giải quyết hai vấn đề vốn và kĩ thuật được coi là cơ bản nhất quyết định khả năng thực hiện và sự thành công của thời kì đầu CNH,HĐH. Qua tổng kết và phân tích thực trạng ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp thời gian qua cho thấy FDI đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH, tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, tạo ra cơ sở vật chất tương đối hiện đại trong các ngành công nghiệp đồng thời kéo theo sự phát triển của khu vực nông nghiệp và dịch vụ . ĐTNN không chỉ tác động tới đầu ra mà còn tác động tích cực tới cả quá trình sản xuất của các ngành công nghiệp cũng như các doanh nghiệp công nghiệp trong nước. Tuy nhiên, hoạt động ĐTNN trong lĩnh vực công nghiệp thời gian qua cũng đã bộc lộ những mặt yếu kém hạn chế, tính hấp dẫn của môi trường đầu tư đang đứng trước nhiều khó khăn và thử thách. Trong khi đó, cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN trên thế giới và khu vực diễn ra ngày càng gay gắt ; nhịp tăng trưởng kinh tế thế giới đang chậm lại và những đối tác chính đầu tư vào Việt Nam đang gặp khó khăn. Bên cạnh đó là thách thức trước yêu cầu phát triển công nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM… Do vậy, chúng ta cần áp dụng kịp thời một số biện pháp nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện để thành phần kinh tế có vốn ĐTNN trong lĩnh vực công nghiệp phát triển thuận lợi và phát huy tối đa hiệu quả , có như vậy mới góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nói chung và công nghiệp Việt Nam nói riêng trong thời gian tới đã được Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra. Các giải pháp cần thực hiện đồng bộ và cần phải được đặt trong tổng thể các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài, cần sự nỗ lực toàn diện và triển khai theo nhiều hướng, trên nhiều lĩnh vực khác nhau Do khả năng cũng như thời gian có hạn nên luận văn chỉ trình bày được một số mặt về tình hình FDI vào ngành CN ở Việt Nam, phác qua những việc đã và chưa đạt được cũng như một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực CN. Hơn nữa, do bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu nên chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn. các kí hiệu viết tắt FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài VĐK Vốn đăng kí VTH Vốn thực hiện VPĐ Vốn pháp định Tr.USD Triệu đô-la CN Công nghiệp CNH,HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hóa KCN Khu công nghiệp KCX Khu chế xuất CGCN Chuyển giao công nghệ TNHH Trách nhiệm hữu hạn GPĐT Giấy phép đầu tư Mục lục Trang Lời nói đầu ………………………………………………………………1 Chương I : Khái quát về công nghiệp Việt Nam và kinh ……………...3 nghiệm từ một số nước về thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp 1. Khái quát về CN Việt Nam………………………………………………...3 1.1 Con đường phát triển của CN Việt Nam ………………………………3 1.2 Tính cạnh tranh của CN Việt Nam………………………………….….7 2. Kinh nghiệm từ một số nước về thu hút FDI trong lĩnh vực CN…………15 2.1. Những vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài…………………15 2.2. Bài học kinh nghiệm từ một số nước về thu hút FDI………………...19 trong lĩnh vực CN Chương II : Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài………………….26 trong lĩnh vực công nghiệp 1. Sơ lược về FDI vào Việt Nam trong thời gian qua………………………..26 2. Khái quát chung về FDI trong lĩnh vực công nghiệp……………………..27 3.Tình hình FDI vào các ngành công nghiệp………………………………..31 3.1 Công nghiệp dầu khí………………………………………………….31 3.2 Công nghiệp nặng…………………………………………………….34 3.3 Công nghiệp nhẹ……………………………………………………...42 3.4 Công nghiệp thực phẩm………………………………………………48 4. Đánh giá tình hình FDI trong lĩnh vực công nghiệp……………………...51 4.1 Những kết quả đạt được………………………………………………51 4.2 Một số vấn đề còn tồn tại……………………………………………..55 Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút…………… 59 và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp 1. Mục tiêu chung về thu hút FDI …………………………………………..59 2. Phương hướng thu hút và sử dụng FDI trong lĩnh vực CN.…………….....59 3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút và sử ……………….60 dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong lĩnh vực CN Kết luận…………………………………………………………………81 Danh mục tài liệu tham khảo Công nghiêp hóa ở NIEs Đông A' và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam , PGS,TS. Lê Bàn Thạch và TS Trần Thị Tri, NXB Thế giới-2000 Giáo trình đầu tư nước ngoài, Vũ Chí Lộc, NXB Giáo dục, Hà nội-1997 Kinh tế và quản lý công nghiệp , GS.TS. Nguyễn Đình Phan, NXB Giáo dục-1999 Một số vấn đề về kinh tế-xã hội Việt Nam sau Đại hội IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia-2002 Niên giám thống kê 2001, NXB thống kê The Ministry of industry in brief, Hanoi-2002 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với CNH, HĐH ở Việt Nam, TS. Nguyễn Trọng Xuân, NXB Thống kê-2001 Vietnam Economic Time, 2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docloan.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan