Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đã trở thành vấn đề thời sự mà các quốc gia trên thế giới không thể không tham gia. Đồng thời, tự do hoá thương mại đang ngày càng trở thành một tất yếu khách quan và là một yếu tố cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, chiến lược phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu đang dần chứng tỏ ưu thế hơn hẳn so với chiến lược phát triển thay thế nhập khẩu.
Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam tham gia AFTA, APEC và đang tích cực vận động tham gia vào WTO là quyết định đúng đắn. Tuy nhiên, quá trình hội nhập lâu dài và gian nan không chỉ mang lại lợi ích mà cả những thách thức to lớn cho chúng ta. Để tận dụng được những cơ hội và vượt qua những thách thức, Việt Nam cần phải có chiến lược phát triển kinh tế dài hạn, đúng đắn và rõ ràng cùng với sự kiên định, quyết tâm cao độ, thực hiện chiến lược đó từ phía chính phủ và cộng đồng kinh doanh.
Trước hết phải khẳng định rõ ràng và hiện thức hoá bằng hành động rằng Việt Nam sẽ tiếp tục hướng mạnh nền kinh tế hơn nữa theo hướng mở, nhấn mạnh vào phát triển các ngành nghề có lợi thế tương đối, sản phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong giai đoạn đầu của hội nhập, Việt Nam cần tận dụng những lợi thế tĩnh, tập trung vào các ngành cần nhiều lao động (không đòi hỏi công nghệ cao và nhiều vốn), các ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Từ đó tích luỹ vốn và kinh nghiệm sản xuất, tái đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị tiên tiến, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, có khả năng làm chủ và sáng tạo công nghệ mới. Xét về dài hạn, chỉ khi chúng ta xây dựng được các lợi thế "động" thì mới đưa đất nước lên quỹ đạo phát triển cao hơn.
Việt Nam phải sẵn sàng tham gia vào phân công lao động quốc tế mà trước hết là phân công lao động trong khu vực ASEAN nhằm tạo ra nền tảng sản xuất hiệu quả, qua đó cùng các nước này chia sẻ lợi ích do AFTA đem lại.
Việt Nam cần đẩy nhanh hội nhập kinh tế khu vực thế giới hơn nữa bởi càng trì hoãn tiến trình này bao nhiêu thì càng gặp nhiều khó khăn trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước bấy nhiêu. Cần coi việc chủ động tích cực thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA như là bước tập dượt để tham gia vào các tổ chức thương mại rộng lớn hơn là APEC và WTO. Như vậy, những thử nghiệm, sự thành công cũng như thất bại trong chủ trương, chính sách hội nhập, biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và cơ chế quản lý hoạt động ngoại thương. Việt Nam thực hiện trong khuôn khổ AFTA là bài học quý báu cho tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang các nước trong AFTA về cơ bản phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế được quy định bởi WTO, song cũng có những đặc điểm riêng phù hợp với khu vực ASEAN.
Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam là người thực hiện và chịu tác động trực tiếp của tự do hoá thương mại. Các doanh nghiệp không thể núp mãi dưới chiếc ô bảo hộ của Nhà nước mà phải tự nâng cao sức cạnh tranh của mình, bằng cách cải tiến công nghệ, phương thức quản lý, nâng cao vai trò công tác cán bộ, không ngừng sáng tạo, đổi mới sản phẩm; tạo ra những thương hiệu mạnh làm mũi nhọn tiến vào thị trường khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp cũng cần kết hợp những nỗ lực riêng lẻ, thành nỗ lực chung thông qua các hiệp hội doanh nghiệp nhằm xây dựng những ngành hàng có khả năng cạnh tranh cao, trên thị trường thế giới, mang lại lợi ích lớn hơn cho từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu hiểu biết về AFTA về kinh doanh trên thị trường nước ngoài cũng như về luật lệ, quy chế các tổ chức thương mại quốc tế khác. Vì thế, Chính phủ phải đóng vai trò người đỡ đầu khai thông các thị trường, giúp đỡ doanh nghiệp khắc phục những hạn chế này thông qua cơ chế chính sách khuyến khích xuất khẩu. Trên nguyên tắc không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Chính phủ chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu thông qua các biện pháp như hoàn thiện môi trường đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, tín dụng, cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến thương mại.
Chỉ khi Chính phủ lắng nghe và hành động vì doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp vươn ra thị trường ngoài nước, đồng thời doanh nghiệp tự nỗ lực vươn lên vì lợi ích tự thân, vì lợi ích chung thì hàng hoá Việt Nam mới có khả năng cạnh tranh được trên thị trường khu vực và thế giới.
Đẩy mạnh xuất khẩu trong điều kiện hội nhập kinh doanh khu vực và thế giới là vấn đề rộng lớn, phức tạp, nước ta lại mới bước đầu tham gia hội nhập, chưa có nhiều kinh nghiệm. Khoá luận này chưa thể đề cập hết tất cả các khía cạnh có liên quan tới tăng cường xuất khẩu trong khu vực mậu dịch tự do AFTA. Tác giả chỉ cung cấp một góc nhìn về bản chất, thực trạng và khả năng thúc đẩy xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam vào các nước ASEAN trong khuôn khổ AFTA.
113 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1888 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các nước ASEAN trong khuôn khổ AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h đầu tư trong nước (Luật năm 1994). Hầu như mọi ngành sản xuất hiện có đều được đưa vào danh mục này, chỉ trừ một số ngành mà việc khuyến khích là thật sự bất hợp lý như sản xuất rượu, sản xuất vàng mã v.v… Lĩnh vực xuất khẩu cũng thuộc diện khuyến khích đầu tư nhưng không định hướng ngành hàng chủ lực, cũng không phân biệt đầu tư vào chế biến nông hay sâu.
Để khắc phục các nhược điểm trên đây, nên nghiên cứu phân chia ưu đãi đầu tư thành nhiều cấp độ theo hướng dành khuyến khích mạnh cho các ngành hàng chủ lực và cho các dự án đầu tư nhằm nâng cao cấp độ chế biến của hàng hoá. Nếu dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô một cách thông thường (chỉ dẫn đến thay đổi về lượng mà không dẫn đến thay đổi về chất) thì ưu đãi ít. Nếu có đổi mới công nghệ, nâng cao được cấp độ chế biến hàng hoá thì tuỳ theo mức độ sẽ được ưu đãi nhiều hơn.
ă Phát triển hợp lý các khu công nghiệp và khu chế xuất
việc phát triển các khu chế xuất và khu công nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay. Đất chật, người đông, thủ tục xin cấp đất khó khăn đã làm cho nhiều doanh nghiệp không đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng sản xuất như mong muốn. Các khu chế xuất và khu công nghiệp được xây dựng với hạ tầng đầy đủ, sẽ là tác nhân kích thích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất như thực tế các khu Tân Thuận, Linh Trung và các khu công nghiệp khác đã chứng minh. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa sự hấp dẫn của các khu này, cần nghiêm túc triển khai cơ chế “thủ tục và dịch vụ một cửa” cho một số khu chế xuất, khu công nghiệp như Chính phủ đã quy định.
b. Về cơ chế xuất nhập khẩu.
Nhằm tạo sự ổn định lâu dài về chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, Chính phủ nên ban hành cơ chế điều hành xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 theo các hướng sau:
- Về thể chế thương mại: cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, quy định về quản lý thương mại, chủ động phê chuẩn các công ước quốc tế về thương mại quốc tế và ký kết các Hiệp định thương mại với các nước để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần tăng cường hiệu lực thực hiện các quy định pháp luật về thương mại, bảo đảm thực hiện nghiêm minh, hạn chế đến mức cao nhất những vi phạm pháp luật thương mại.
- Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp: Theo Nghị định 57/1998 thì thương nhân chỉ được phép xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Quy định này đã làm cho cách hiểu ngành nghề khác nhau và trong nhiều trường hợp đã gây nên sự chậm trễ, phiền hà không đáng có cho doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng đó, theo cơ chế mới thì tất cả các thương nhân đã đăng ký hoạt động mua bán hàng hoá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ được phép xuất nhập khẩu mọi hàng hoá, trừ những mặt hàng mà Nhà nước cấm xuất khẩu, nhập khẩu và cấm kinh doanh.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được xuất khẩu như là các doanh nghiệp có 100% vốn trong nước (cả về thủ tục xuất khẩu và mặt hàng kinh doanh). Tuy nhiên, hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài, giấy phép đầu tư và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Đối với một số mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu được thực hiện từ trước đến nay theo đầu mối chỉ nhằm mục đích quản lý trật tự kinh doanh thì sắp tới sẽ bãi bỏ quy định đó, vừa để phát huy thế mạnh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, vừa để phù hợp với các cam kết quốc tế mà nước ta đã và sẽ ký kết trong thời gian tới.
1.2. Chính sách vốn – tài chính – tiền tệ – tín dụng.
a. Hoàn thiện chính sách vốn – tài chính
ă Mọi chính sách huy động vốn, hoàn thiện thị trường vốn và thị trường tiền tệ chỉ có tác dụng thực sự và tích cực đến lĩnh vực xuất khẩu khi chủ trương hướng về xuất khẩu được quán triệt đầy đủ và thi hành nhất quán.
Hiện nay, chính sách khuyến khích đầu tư một cách chung chung cộng thêm với hàng rào bảo hộ tồn tại trong nhiều năm đã làm cho đồng vốn đổ dồn về lĩnh vực sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu. “Hiệu quả” trong lĩnh vực sản xuất hàng thay thế nhập khẩu chẳng qua chỉ là sự hy sinh quyền lợi của người tiêu dùng, thậm chí là thu nhập của ngân sách Nhà nước.
Để đồng vốn đến được với hoạt động xuất khẩu, cần triệt để tuân thủ các nguyên tắc đã được trình bày tại phần khuyến khích đầu tư. Chỉ thị nào chủ trương hướng về xuất khẩu được khẳng định, sản xuất hàng xuất khẩu được đặt lên vị trí ưu tiên số một thì đồng vốn mới dồn về xuất khẩu mà thôi.
ă Cơ cấu nguồn thu ngân sách cần được thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận tái đầu tư cho lĩnh vực xuất khẩu:
- Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định trị giá hải quan theo quy định GATT/WTO. Giá tính thuế nhập khẩu được xác định trên cơ sở hợp đồng ngoại thương.
- Cần sớm hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn thực hiện quy định về đánh thuế nhập khẩu bổ sung trong trường hợp hàng nhập khẩu được bán phá giá, được trợ cấp làm ảnh hưởng tới sản xuất trong nước.
ă Tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đi đôi với việc tạo tiền đề cho đa dạng hoá nguồn vốn, khuyến khích mạnh vốn đầu tư cho khu vực sản xuất hàng xuất khẩu:
Thực tiễn phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguyên nhân của tình trạng dồn vốn cho các khu vực phi xuất khẩu đã được trình bày tại phần trên. Để khắc phục, từ nay trở đi, đối với đầu tư nước ngoài cần dành ưu đãi đặc biệt cho các ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu hoặc có khả năng xuất khẩu sản phẩm trong tương lai gần cũng như các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Trong những năm đầu tiên của thời kỳ 2001-2010, Chính phủ cần có ngay các biện pháp để xác lập tiền đề thu hút các hình thức đầu tư quốc tế. Giải pháp quan trọng nhất là làm lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống trung gian tài chính và nâng cao năng lực cho hệ thống này trong việc phân tích và thẩm định rủi ro. Kế hoạch của Chính phủ trong lĩnh vực này phải hết sức minh bạch, rõ ràng, với những mốc thời gian cụ thể để vừa thúc đẩy quá trình tái cơ cấu, vừa tạo niềm tin cho giới đầu tư quốc tế.
ă Thúc đẩy hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các Quỹ phòng ngừa rủi ro:
quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã được quy định trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước (Luật năm 1998). Vừa qua, Chính phủ cho phép hình thành một quỹ tại Bộ Tài chính có tên gọi là Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhưng phương thức hoạt động của quỹ này lại thiên về trợ cấp theo kiểu “cho không”, hoàn toàn không phù hợp với Điều 10 của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi.
Theo Bộ Thương mại, mục tiêu chính của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu là trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển xuất khẩu nhưng chưa có điều kiện tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng do không có tài sản thế chấp. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu sẽ đứng ra bảo lãnh các khoản vay, cung cấp các khoản tín dụng để doanh nghiệp có thể bán hàng trả chậm cho nước ngoài… Quỹ hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia sẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. Trong điều kiện tài chính còn nhiều eo hẹp, không nên thành lập các quỹ thiên về cấp phát như quỹ tại Bộ Tài chính vừa qua.
Ngoài Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Nhà nước nên khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các Quỹ phòng ngừa rủi ro riêng cho ngành mình, nhất là trong những ngành quan trọng, có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su. Quỹ có nhiệm vụ giúp các thành viên hiệp hội khi giá cả thị trường biến động thất thường. Cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định.
b. Các vấn đề tín dụng và tiền tệ.
Trong thời gian tới cần tăng cường sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Các công cụ như tỷ giá hối đoái, bảo lãnh bán hàng trả chậm, cho vay theo thành tích xuất khẩu, tăng tỷ trọng vay trung gian và dài hạn… đều có thể có tác động nhanh và mạnh đến xuất khẩu. Trong lĩnh vực này, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Thương mại cần có sự phối hợp chặt chẽ.
Cần khẩn trương tiến hành cải cách hệ thống trung gian tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại để tránh hiện tượng co cụm, giảm dư nợ như đã xảy ra tại Thái Lan khi số lượng các khoản nợ khó đòi tăng nhanh. Kinh nghiệm của Thái Lan đã cho chúng ta thấy việc cải tổ hệ thống ngân hàng thương mại, từ đó giải quyết vấn đề vốn cho kinh doanh có tầm quan trọng hàng đầu trong tiến trình chấn hưng kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra việc cơ cấu lại hệ thống trung gian tài chính trong đó có các ngân hàng; còn góp phần quan trọng vào việc lành mạnh hoá môi trường kinh doanh và thúc đẩy cạnh tranh phát triển. Xuất phát từ những định hướng chủ đạo cho hoạt động xuất khẩu trong thời kỳ 2001-2005 (nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo tiền đề thu hút vốn đầu tư gián tiếp…) không thể không cải cách hệ thống ngân hàng.
Tỷ giá hối đoái là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. Như vậy, để các chính sách tài chính – tiền tệ của Nhà nước trong thời gian tới thực sự phát huy tác dụng đối với hoạt động xuất khẩu, chúng ta cần phải tiếp tục điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái trên cơ sở khuyến khích xuất khẩu, lấy sự tăng trưởng của xuất khẩu làm một trong những động lực quan trọng thúc đẩy quá trình tăng trưởng.
Nội dung thiết yếu của chính sách tỷ giá khuyến khích xuất khẩu là phải duy trì sao cho những người nhập khẩu cung cấp hàng hoá dịch vụ trong nước có lãi khi bán sản phẩm của họ trên thị trường thế giới. Điều này đòi hỏi tỷ giá hối đoái danh nghĩa phải được điều chỉnh để giữ nguyên hoặc làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trước mắt, tiếp tục và nhất quán thực hiện chủ trương điều hành tỷ giá linh hoạt theo diễn biến thị trường, tình hình kinh tế trong và ngoài nước, chủ động can thiệp khi cần thiết, nhanh chóng tiến tới tự do hoá tỷ giá. Trước mắt cần nới rộng quy định về biên độ tỷ giá trong giao dịch, sau đó từng bước bỏ hẳn quy định này.
1.3. Chính sách công nghệ.
Công nghệ là một yếu tố hết sức quan trọng trong hoạt động xuất khẩu, bởi vì nó quyết định đến chất lượng sản phẩm, giá thành và khả năng cạnh tranh của hàng hoá của chúng ta. Vì vậy, cũng như bất kỳ một nước nào khác, muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, chúng ta phải có các chính sách đầu tư cho khoa học công nghệ một cách thoả đáng.
Thực trạng công nghệ yếu kém và lạc hậu đã được nêu ra tại nhiều diễn đàn, tình hình đó chậm cải thiện nên đã ảnh hưởng rất mạnh đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Do vậy, chính sách này cần chú trọng tới các điểm sau:
- Cho phép các thành phần kinh tế được tham gia trực tiếp và bình đẳng vào hoạt động xuất, nhập khẩu sẽ là một trong những biện pháp quan trọng nhằm cải tiến công nghệ và nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ.
Một thực trạng đáng buồn hiện nay là vấn đề lãng phí trong nhập khẩu công nghệ chỉ tồn tại ở khu vực kinh tế quốc doanh. Chế độ trách nhiệm chưa rõ ràng là nguyên nhân cơ bản của tình hình này. nếu không kịp điều chỉnh thì dù cho Nhà nước có áp dụng các biện pháp kiểm tra ngặt nghèo đến mấy cúng không khắc phục được. Trong khi đó do phải quan tâm đến hiệu quả nên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh lại ít khi mắc phải sai lầm trong nhập khẩu thiết bị. Có thể xảy ra việc họ mua công nghệ (hoặc thiết bị) với giá chưa thật hợp lý vì thiếu thông tin nhưng các quyết định đầu tư của họ đều được tính toán trên cơ sở lợi ích của nhà đầu tư.
Nếu ta đảm bảo được cả hai yếu tố trực tiếp và bình đẳng trong tất cả các khâu có liên quan đến hoạt động sản xuất (tiếp cận tín dụng, tiếp cận ngoại tệ, tiếp cận các ưu đãi và hỗ trợ…) thì các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh sẽ có thêm động lực để đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ. Trong trường hợp đó, các doanh nghiệp quốc doanh, vì mục tiêu sống còn, cũng phải vươn lên để cạnh tranh với họ và lưu ý hơn đến hiệu quả đầu tư.
- Chú trọng nhập khẩu công nghệ đòi hỏi suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp. Việc hiện đại hoá công nghệ là cần thiết nhưng phải lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn.
Hiện tượng đòi hỏi phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả, bất kể khả năng quản lý và vận hành của cơ sở sử dụng thiết bị thực chất là một sự lãng phí không kém gì nhập khẩu thiết bị lạc hậu.
Các loại thiết bị công nghệ cao thường sử dụng ít hoặc rất ít lao động. Trong một số trường hợp, việc nhập khẩu các loại thiết bị này sẽ không giúp ích nhiều cho việc tạo công ăn việc làm và tận dụng thế mạnh lao động rẻ để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Giá thiết bị cao còn làm tăng giá thành sản phẩm và làm suy yếu khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Vì lý do đó, việc nhập khẩu thiết bị tiên tiến cần được tính toán kỹ lưỡng về mặt hiệu quả, tập trung cho một số ngành then chốt như năng lượng, tin học, điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học và vật liệu mới nhằm kiến tạo một số cơ sở hạ tầng vững chắc và góp phần đẩy nhanh quá trình tạo ra các mặt hàng mới cho xuất khẩu. Trong những ngành còn lại, cần biết tận dụng các loại công nghệ có trình độ vừa phải, sử dụng nhiều lao động, vừa phù hợp với trình độ phát triển của ta, vừa đáp ứng nhu cầu chế biến nguyên liệu thô. Nếu có khó khăn về vốn đầu tư trong khi việc nâng cấp thiết bị là cần thiết thì nên tập trung vào những khâu quyết định tới chất lượng sản phẩm.
- Nhà nước đầu tư thành lập Ngân hàng dữ liệu công nghệ để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp.
Một phần vốn đầu tư cho khoa học công nghệ nên được dành để thành lập Ngân hàng dữ liệu nhằm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập nhật nhất về lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm. Việc này đã được làm nhưng quy mô còn nhỏ, lại thiếu quảng cáo nên rất ít doanh nghiệp biết về sự tồn tại của một trung tâm như vậy. Tới đây nên tiến hành đầu tư một cách bài bản hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cường phổ biến đến các doanh nhân để họ biết và có điều kiện tham khảo dữ liệu trước khi ra quyết định đầu tư.
- Tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hoá đặc biệt.
Đây là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy các nghiên cứu khoa học gắn bó hơn với tiến trình phát triển, đồng thời rút ngắn được khoảng thời gian giữa nghiên cứu và ứng dụng. Để tạo lập thị trường công nghệ, nên khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học, bằng cách thiết lập Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển công nghệ Quốc gia. Quỹ này sẽ cho các doanh nghiệp vay trong trường hợp họ có nhu cầu đặt hàng với các viện nghiên cứu. Làm như vậy vừa gắn được nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài năng, vừa không vi phạm nguồn vốn ít ỏi của ngân sách Nhà nước.
- Thi hành nghiêm túc các quy định của luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu công nghệ cũng là biện pháp quan trọng khuyến khích đầu tư nghiên cứu khoa học phục vụ công cuộc đổi mới và cải tiến công nghệ.
Tình trạng ăn cắp chất xám, bản quyền, kiểu dáng công nghệ… phổ biến hiện nay đã làm nhiều doanh nghiệp và nhiều nhà khoa học nản chí trong đầu tư cho khâu nghiên cứu và ứng dụng (R&D). Nhà nước cần tỏ ra nghiêm khắc hơn nữa với các vi phạm pháp luật kiểu này để các doanh nghiệp và các nhà khoa học yêu tâm nghiên cứu, đầu tư.
áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng hoá xuất khẩu để vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ (đặc biệt là công nghệ sạch), vừa nâng cao uy tín cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
1.5. Đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu.
Tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế là hai yếu tố quyết định sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu khai thác được hết thế mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế Nhà nước có thể sẽ tập trung vào một số lĩnh vực chủ đạo như năng lượng, khai khoáng, viễn thông, lương thực… còn các thành phần kinh tế khác sẽ được khuyến khích phát triển trong những lĩnh vực còn lại, trong đó có lĩnh vực thương mại, nhằm tận dụng triệt để tiềm năng và khả năng thích ứng nhanh của các thành phần này.
Việc đa dạng hoá chủ thể đã được giải quyết khá triệt để tại Nghị định số 57/1998 Chính phủ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn cần phải tiếp tục giải quyết một số vấn đề để phát huy toàn diện tác dụng của Nghị định này đối với hoạt động xuất, nhập khẩu trong thời kỳ 2001-2010. Đó là đảm bảo môi trường bình đẳng cho tất cả các chủ thể tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có thể đóng góp được nhiều hơn nữa cho xuất khẩu nếu sự tham gia của họ vào hoạt động kinh tế là sự tham gia bình đẳng với thành phần kinh tế quốc doanh. Trước hết là bình đẳng hoàn toàn trong việc tiếp cận các yếu tố đầu vào (vốn tín dụng, đất đai, lao động), sau đó là sự bình đẳng trong việc nhận hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ kinh doanh từ phía Nhà nước.
Nếu không kịp thời thay đổi cách tiếp cận đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì hiệu quả của Nghị định 57/1998 sẽ bị giảm một cách đáng kể. Nhà nước cần có một kết hoạch chi tiết trong lĩnh vực này theo các hướng sau:
- Thừa nhận vai trò tích cực của kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực xuất khẩu. Kinh tế Nhà nước có thể rút dần khỏi những ngành công nghiệp sử dụng nghiều sức lao động (như dệt may, giày dép) theo hướng đẩy mạnh cổ phần hoá đi đôi với tăng nhanh tỷ trọng của cổ phần ngoài quốc doanh trong các xí nghiệp đã được cổ phần hoá.
- Kinh tế quốc doanh sau khi được sắp xếp lại, sẽ tập trung vào các lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trình độ công nghệ cao (như các ngành chế biến sâu) để thực hiện sứ mệnh mở đường.
- Đơn giản hoá đến mức tối đa thủ tục thành lập doanh nghiệp để kích thích các cá nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất. Nhận thức rõ các yếu tố dân sự trong hoạt động kinh tế như nợ nần, phá sản, mất khả năng chi trả… để chấm dứt tình trạng hình sự hoá các vấn đề dân sự gây nản lòng các nhà đầu tư tư nhân.
- Rà soát lại quy định về đất đai, thuế khoá, tín dụng, hỗ trợ… để đảm bảo sự bình đẳng tối đa có thể được giữa các thành phần kinh tế.
- Tăng cường năng lực cho hệ thống ngân hàng trong việc nhận định rủi ro để giảm dần hình thức cho vay bảo đảm bằng thế chấp sang cho vay trên cơ sở thẩm định tính khả thi của dự án.
1.6. Các vấn đề về thông tin thị trường và xúc tiến thương mại.
a. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin thị trường
Đây là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến chức năng và hoạt động của Bộ Thương mại, đặc biệt là của hệ thống thương vụ tại nước ngoài.
Trước hết, cần phân định rõ trách nhiệm về công tác thị trường ở tầm vĩ mô và vi mô. Khắc phục đồng thời hai biểu hiện tiêu cực là ỷ lại vào Nhà nước và phó mặc cho doanh nghiệp.
Xét về mặt xuất khẩu, Bộ Thương mại có nhiệm vụ:
- Hoạch định chiến lược xuất khẩu trong một tầm nhìn dài hạn, đảm bảo đồng thời cả 3 yếu tố: tốc độ phát triển, cơ cấu thị trường và cơ cấu mặt hàng.
- Thu thập và phổ biến thông tin về thị trường, đồng thời làm tốt công tác dự báo để định hướng cho sản xuất và xuất khẩu, phát triển các mặt hàng mới.
- Tổ chức thị trường (bao gồm cả việc đàm phán tiếp cận thị trường ) và xúc tiến thương mại.
Việc hoạch định một chiến lược tổng thể về thị trường là việc có tầm quan trọng hàng đầu. Để xây dựng được chiến lược này, Bộ Thương mại và hệ thống thương mại phải nắm rõ được năng lực và hiện trạng của sản xuất trong nước cũng như đặc điểm, tính chất và thể chế của từng thị trường nước ngoài để từ đó trả lời trước hết 5 câu hỏi: mặt hàng nào? và cần giải quyết vấn đề gì trong quan hệ song phương? Trên cơ sở đó sẽ xác định tốc độ phát triển cho từng thị trường và cơ cấu tổng thể về thị trường nước ngoài.
Khi đã phối hợp được các lực lượng có liên quan trong một hệ thống thống nhất, có phân công trách nhiệm rõ ràng thì vấn đề thu thập thông tin sẽ mặc nhiên được giải quyết, bởi từng khâu sẽ rõ mình phải thu thập những thông tin gì. Trong quá trình thu thập thông tin, cần hết sức lưu ý đến việc phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới vào thị trường có liên quan. Mới ở đây được hiểu theo hai nghĩa. Có thể là mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng nhưng chưa xuất khẩu được vào thị trường có liên quan hoặc đã xuất khẩu được những kim ngạch còn nhỏ bé, không tương ứng với tiềm năng. Cũng có thể là xu hướng tiêu dùng trên thị trường sở tại có sự thay đổi nên một mặt hàng nào đó trở nên có sức tiêu thụ mạnh, ổn định mà mặt hàng đó Việt Nam lại có thể sản xuất được. Việc phát triển các mặt hàng mới có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó vừa có khả năng tác động đến tốc độ mở rộng thị trường và giảm nhập siêu, vừa đóng vai trò tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta.
Trách nhiệm còn lại trong khâu thông tin là phổ biến thông tin. Để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm, đến theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần xây dựng ngay cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang Web) của riêng mình đồng thời tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề.
b. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực tiếp thị.
Chức năng chính của Cục Xúc tiến thương mại là phổ biến thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã được hoạch định. Cục Xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để đưa được hàng hoá Việt Nam ra thị trường ngoài. Cục sẽ quản lý cơ sở dữ liệu của Bộ Thương mại và giải quyết các vấn đề có liên quan đến khía cạnh kỹ thuật như tạo dựng cơ sở dữ liệu để truy cập, tạo dựng trang Web.
c. Tiến hành chiến dịch truyền thông cải thiện hình ảnh về hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
Song song với biện pháp kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu, Nhà nước cần có kế hoạch phát động một chiến dịch nhằm cải thiện hình ảnh về hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Thí dụ, có thể ra một tạp chí chính thức về các sản phẩm của Việt Nam phát hành miễn phí ra nước ngoài thông qua hệ thống sứ quán và thương vụ. Chỉ các sản phẩm tiêu biểu, có chất lượng cao hoặc đã từng đạt huy chương cao tại các hội trợ quốc tế mới được xem xét đưa vào tạp chí này. Cũng có thể nghiên cứu áp dụng một biểu tượng nào đó để gắn lên hàng hoá chất lượng của Việt Nam… Cục Xúc tiến thương mại sẽ chịu trách nhiệm thiết kế chương trình xúc tiến này.
1.7. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xoá bỏ các rào cản bất hợp lý đang cản trở hoạt động xuất khẩu.
Đây là một lĩnh vực rộng nên dưới đây xin chỉ đề cập một số giải pháp chính. Cụ thể là:
a. Công khai hoá và luật pháp hoá công tác quản lý hành chính.
Hiện nay các doanh nghiệp rất thiếu thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến công việc kinh doanh của họ. Đây là yếu điểm lớn cần được khắc phục nhanh, nhất là trong điều kiện quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu đã được mở ra cho hàng chục nghìn doanh nghiệp.
Ngoài ra, cần gấp rút ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những mảng trống trong kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh do các cơ quan hữu trách thiếu cơ sở pháp lý để nhận định hành vi của họ.
b. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu.
Gần đây, trong quá trình cải cách hành chính, một số thủ tục giấy phép trong lĩnh vực quản lý xuất, nhập khẩu đã được đơn giản hoá hoặc được bãi bỏ. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến vẫn đề nghị phải đi xa hơn, bãi bỏ gần như hoàn toàn mọi thủ tục giấy phép, mọi biện pháp quản lý hạn ngạch, đầu mối v.v… để “tạo thông thoáng cho hoạt động xuất, nhập khẩu ” và phù hợp với “xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu”.
Không một nước nào cho phép tiến hành thương mại tự do theo nghĩa tuyệt đối. Kinh tế thị trường không có nghĩa là loại bỏ sự quản lý của Nhà nước, chỉ có điều sự quản lý đó được thực hiện chủ yếu bằng các công cụ kinh tế vĩ mô chứ không phải bằng các biện pháp hành chính. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực, chỉ có thể sử dụng biện pháp hành chính để đạt tới sự hài hoà quyền lợi giữa cá nhân và cộng đồng.
Việc bãi bỏ các hàng rào thuế và phi quan thuế là một trong những giải pháp lớn để khuyến khích phát triển xuất khẩu. Tuy nhiên, việc bãi bỏ phải tuân thủ một số nguyên tắc và trình tự thời gian nhất định, không thể là hành động tuỳ tiện khi điều kiện còn chưa cho phép. Nếu việc duy trì chế độ giấy phép, thậm chí chế độ đầu mối, để đảm bảo các mục tiêu vĩ mô là việc cần thiết thì vẫn phải duy trì. Không nên hy sinh các biện pháp quản lý đó vì lý do cải cách hành chính. Vấn đề không phải nằm ở chỗ có giấy phép hay không có giấy phép, mà là chế độ cấp giấy phép có được công khai hay không, có dễ hiểu và dễ thi hành hay không và có lộ trình để loại bỏ nó trong tương lai hay không? Nếu có cơ sở vững chắc để duy trì giấy phép, chế độ cấp lại rõ ràng, đầy đủ, thủ tục cấp lại đơn giản, không phiền hà thì không có lý do gì để bãi bỏ chế độ đó. Đó là chưa kể việc duy trì một số hàng rào nhất định sẽ tăng cường thêm cho vị thế “mặc cả” của Việt Nam trong các cuộc đàm phán song phương và đa phương. Đây là định hướng cơ bản cho việc hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu.
c. ổn định môi trường pháp lý.
Đây là việc hết sức cần thiết để tạo tâm lý tin tưởng cho doanh nghiệp, khiến họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Ngoài ra, với hàng chục nghìn doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, nếu không ổn định môi trường pháp lý thì sẽ không có cách nào phổ biến thông tin kịp thời tới các doanh nghiệp lớn, cần hết sức chú ý khắc phục tình trạng này. Một trong các biện pháp nâng cao tính ổn định là đưa các vấn đề có tầm quan trọng quốc gia như danh mục hàng cấm, danh mục hàng quản lý số lượng, thuế suất cụ thể của thuế nhập khẩu… về thuộc thẩm quyền giải quyết của Quốc hội, không thể thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp như hiện nay. Nếu vấn đề thuộc thẩm quyền cơ quan hành pháp thì phải có Luật quy định các điều kiện cần và đủ để thực thi quyền này, tránh tình trạng tuỳ tiện.
d. Về thủ tục hành chính và hải quan.
- Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu, đề nghị áp dụng các quy định sau đây: bỏ việc buộc phải kiểm tra, xuất xứ hàng hoá (C/O), nếu Việt Nam không có nghĩa vụ thực hiện theo các thoả thuận song phương, đa phương mà Việt Nam ký kết; bỏ yêu cầu về chứng minh nguồn gốc hàng hoá xuất khẩu hoặc nguồn gốc nguyên liệu sản xuất ra hàng xuất khẩu, nếu không liên quan đến việc hoàn thuế; cho phép xuất khẩu hàng hoá qua những nơi không phải là cửa khẩu quốc tế, quốc gia; không thu thuế, kể cả tạm tính, đối với hàng hoá xuất khẩu bị trả lại để tái chế rồi lại xuất khẩu.
- Hy vọng rằng thủ tục hải quan sẽ được tiếp tục đổi mới theo hướng đơn giản hoá, công khai hoá, hiện đại hoá. Tiếp tục áp dụng những biện pháp mới mà ngành Hải quan đã thực hiện như phân luồng hàng hoá, quy định xác nhận thực xuất, quy chế khai báo một lần, đăng ký tờ khai trên máy tính, phân cấp rộng hơn quyền ký tờ khai hải quan để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
e. Nhanh chóng ban hành các chú giải biểu thuế để tránh tranh chấp trong việc áp mã tính thuế.
Do biểu thuế nhập khẩu chưa có chú giải đầy đủ nên việc áp mã tính thuế hay dẫn đến tranh chấp giữa doanh nghiệp và cơ quan hải quan. Tình hình có thể được cải thiện bằng cách ban hành các quy định về áp dụng đầy đủ công ước HS tại Việt Nam. Việc này đã được Thủ tướng Chính phủ giao Tổng cục Hải quan chuẩn bị nhưng hiện nay đang gặp vướng mắc do trùng lặp với một chương trình khác là tuân thủ cam kết trong các nước ASEAN về biểu mã AHTN. Đề nghị Văn phòng Chính phủ sớm chủ trì họp các cơ quan chức năng để giải quyết. Theo Bộ Thương mại, biểu AHTN đã được xây dựng theo HS2K nên có thể gộp Nghị định thực hiện HS và Quyết định thực hiện AHTN vào một văn bản pháp quy để tránh mâu thuẫn và chồng chéo. Ngoài ra, do AHTN đã hoàn toàn tuân thủ HS2K nên có thể áp dụng biểu này cho toàn bộ hàng hoá nhập khẩu từ tất cả các nước để tạo thuận lợi cho quản lý và kinh doanh.
2. Về phía doanh nghiệp .
Qua 5 năm thực hiện cắt giảm thuế theo CEPT, nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức được hết các khó khăn thách thức, tính cạnh tranh gay gắt của tiến trình mở cửa thị trường, hội nhập vào kinh tế khu vực. Các doanh nghiệp chưa có những điều chỉnh cần thiết để phù hợp với lịch trình giảm thuế nhập khẩu với ASEAN mà vẫn kinh doanh theo phương thức cũ, dựa vào các chính sách bảo hộ của Nhà nước. Đồng thời, các thuận lợi do chiển khai AFTA đem lại cũng chưa được các doanh nghiệp tận dụng, khai thác hiệu quả.
Dựa trên những kết quả khảo sát doanh nghiệp Việt Nam theo những tiêu chí khác nhau của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện quản lý Kinh tế Trung ương, có sự phối hợp và hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như chương trình phát triển dự án sông Mê Kông (MPDE), Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (unido), có thể nêu ra một số nhận định khái quát về tình hình chuẩn bị thực hiện CEPT/AFTA của các doanh nghiệp Việt Nam như sau:
Chỉ có khoảng 60% doanh nghiệp có tổ chức bộ phận nghiên cứu triển khai để xúc tiến xuất khẩu. Tuy nhiên, năng lực nghiên cứu thị trường nước ngoài và phát triển sản phẩm của các doanh nghiệp này còn rất thấp kém. Do đó, tính sẵn sàng cũng như cơ sở nâng cao khả năng tiếp cận thị trường các nước ASEAN của các doanh nghiệp Việt Nam khi hoàn thành AFTA để được hưởng các ưu đãi theo CEPT cũng rất sức hạn chế.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa có hệ thống cung cấp và đảm bảo thông tin riêng về thị trường và đối thủ cạnh tranh ở quốc tế nói chung và ở khu vực ASEAN nói riêng, mà chủ yếu dựa vào các kênh thông tin khác. Đặc biệt là chưa có sự hỗ trợ cung cấp thông tin từ Nhà nước. Theo kết quả điều tra, chỉ có 6,6% doanh nghiệp có kênh thông tin riêng từ chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài, 5,4% doanh nghiệp nhận được thông tin từ đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài, còn lại phần lớn các doanh nghiệp thu thập thông tin không hệ thống, không cập nhật và không có giá trị ra quyết định cao từ các nguồn thông tin khác.
Do hạn chế về khả năng tài chính, nên hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có một chương trình cụ thể hay một sự chuẩn bị ban đầu về quảng cáo sản phẩm thông qua các công ty quảng cáo ở nước ngoài, chưa thể tìm hiểu được các lĩnh vực, cơ hội và đối tác đầu tư để đầu tư sang các nước ASEAN…
Về năng lực cán bộ làm công tác xuất, nhập khẩu, qua điều tra, được xem là có khả quan hơn trong tiến trình chuẩn bị thực hiện AFTA đối với doanh nghiệp Việt Nam. Theo kết quả điều tra, trong số các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có 72% doanh nghiệp cho biết cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có trình độ đại học, trên đại học là 3,3%, còn lại là các bậc đào tạo khác.
Về khả năng mở rộng xuất khẩu trong tương lai chỉ có 46,4% doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay trả lời có khả năng mở rộng.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa thực sự tập trung quan tâm đến quá trình chuẩn bị và thực hiện AFTA/CEPT trên các phương diện như mức thuế áp dụng theo lộ trình thực hiện, các hàng rào phi thuế cần xoá bỏ và khả năng bị thay thế bằng các biện pháp khác, tiến triển trong phương diện hợp tác giữa các nước ASEAN về hài hòa tiêu chuẩn chất lượng và tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ.
Hiện tại hầu hết các doanh nghiệp chưa sử dụng mẫu form D để hưởng thuế suất ưu đãi theo CEPT. Theo Tổng cục hải quan, hiện nay, mới chỉ có khoảng 4% giá trị hàng hoá xuất khẩu sang các nước ASEAN làm thủ tục để hưởng thuế suất ưu đãi CEPT. Các hình thức liên kết khác như đầu tư nội bộ ASEAN (AIA) và hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) còn rất ít các doanh nghiệp quan tâm mặc dù điều kiện tham gia vào AICO đã được nới lỏng từ năm 1999 để mở rộng diện các doanh nghiệp có khả năng tham gia. Để có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước trong AFTA, các doanh nghiệp cần phải:
2.1 Xây dựng chiến lược dài hạn hướng ra thị trường ngoài nước.
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có sách lược để cố gắn tồn tại trong ngắn hạn. Nguyên nhân chủ yếu là khả năng nắm bắt cơ hội và kỹ năng xây dựng chiến lược khả thi của riêng từng doanh nghiệp còn yếu.
Việc xây dựng chiến lược doanh nghiệp tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên định hướng chung cho các doanh nghiệp Việt Nam là:
a. Định hướng chiến lược doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu:
- Tạo ra ưu thế về chi phí và giá trị cho khách hàng. Các doanh nghiệp phải đặt mục tiêu cạnh tranh bằng việc chuyển hoá các lợi thế so sánh sẵn có như giá lao động rẻ hay tài nguyên thiên nhiên dồi dào vào sản phẩm cung cấp trực tiếp cho khách hàng. Khách hàng phải là người hưởng lợi trực tiếp những lợi ích mang lại từ ưu thế cơ bản về chi phí và giá trị của doanh nghiệp.
- Tạo ra ưu thế về giá trị sử dụng của sản phẩm. Các doanh nghiệp cần không ngừng đầu tư, cải tiến kỹ thuật, công nghệ và nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, sáng tạo sản phẩm mới hay làm mới sản phẩm cũ.
- Tạo ra ưu thế về tiếp thị và tổ chức tiêu thụ. Doanh nghiệp cần kiểm soát, làm thông suốt được các kênh phân phối sản phẩm. Đồng thời, tạo dựng được biểu trưng, nhãn hiệu hàng hóa của riêng mình.
b. Chiến lược phải được xây dựng dựa trên phân tích môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Việc phân tích và đánh giá phải dựa trên cơ sở:
- Xác định các đặc điểm kinh tế chủ chốt như thị trường, thị phần, khách hàng, công nghệ, đặc điểm của sản phẩm,...
- Xác định các nhân tố tác động đến sự phát triển của từng ngành, điều kiện cạnh tranh, điều kiện thay đổi công nghệ, phương hướng kinh doanh, xu hướng tiêu dùng của thị trường,...
- Phân tích các nhân tố cạnh tranh chủ yếu đối với doanh nghiệp, các đối thủ cùng ngành, các đối thủ mới và tiềm năng, các ngành sản xuất sản phẩm thay thế, các nhà cung cấp đầu vào, các chủ đầu tư, và khách hàng.
- Nghiên cứu, dự báo những thay đổi trong môi trường cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới khi Việt Nam từng bước hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế khu vực và thế giới như AFTA, APEC, WTO. Đồng thời nghiên cứu những tác động, xu hướng chuyển động dòng thương mại của một số đối tác và đối thủ cạnh tranh với Việt Nam như việc Trung Quốc gia nhập WTO.
2.2 Xây dựng lợi thế cạnh tranh tổng hợp trên thị trường quốc tế.
Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp chưa có ý thức và nỗ lực thực sự hướng tới nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả hoạt động của mình. Các doanh nghiệp thường đổ lỗi cho thiếu vốn đầu tư và máy móc thiết bị hiện đại cho sản xuất.
Tuy nhiên, thực tiễn kinh doanh quốc tế hiện nay cho thấy vốn, thiết bị và công nghệ mới không phải là tất cả để đạt được hiệu quả hoạt động cao. Bởi với thiết bị và công nghệ mới sẽ cạnh tranh thành công trên góc độ kỹ thuật còn trên giác độ kinh tế, còn cần tới kỹ năng tìm kiếm và thực thi phương thức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh mới hiệu quả hơn. Nói cách khác, một lợi thế tổng hợp hơn chứ không phải chỉ lợi thế về công nghệ có thể giúp doanh nghiệp cạnh tranh thành công.
Xuất phát từ thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam, để xây dựng được một lợi thế tổng hợp các doanh nghiệp cần:
+ Khai thác có hiệu quả hơn các lợi thế so sánh quốc gia trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm tốt đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế cả về chất lượng và giá cả.
+ Chú trọng khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm dựa vào đổi mới thiết kế chứ không chỉ phụ thuộc vào công nghệ sản xuất, đặc biệt với các lĩnh vực sản xuất hàng công nghiệp nhẹ hiện nay như hàng dệt may, giày dép,...
+ Tìm kiếm các nguồn nhập khẩu các yếu tố đầu vào trung gian thực sự cần thiết để sản xuất sản phẩm có chi phí thấp nhất hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm.
+ Nghiên cứu và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hiện đại trong hoạt động doanh nghiệp.
+ Thông qua các cơ quan Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp để tìm kiếm thông tin hoặc liên kết thực hiện những nghiên cứu về thị trường, tiếp thị và phân phối sản phẩm.
+ Chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng phù hợp với đặc điểm văn hoá tiêu dùng ở những thị trường tiêu thụ khác nhau.
+ Tiếp thu sáng kiến cải tiến của mọi thành viên trong công ty ở những khâu, bộ phận khác nhau trong hoạt động của doanh nghiệp.
+ Lựa chọn những khâu then chốt trong dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng và giá thành sản phẩm để tiến hành hiện đại hoá trước.
+ Xây dựng hệ thống, cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin nhanh nhậy và thông suốt trong doanh nghiệp nhằm nắm bắt và có phản ứng nhanh, chính xác trước những thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
2.3. Đổi mới,hiện đại hoá công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu với chi phí thấp.
Các doanh nghiệp cn có trình độ công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới hàng thập kỷ. Ngày nay, công nghệ ngày càng có ý nghĩa quyết định hơn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong điều kiện thiếu vốn trầm trọngnhư hiện nay, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ của mình với chi phí thấp nhất. Điều này có thể thực hiện theo các hướng:
Nhập khẩu các thiết bị nước ngoài, học tập nguyên tắc thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo tại Việt Nam. Những chi tiết Việt Nam chưa đủ sức chế tạo thì nhập khẩu của nước ngoài.
Đối với các công nghệ khó nhập hoặc quá đắt, các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật cùng đầu tư nghiên cứu để thiết kế, chế tạo.
Các doanh nghiệp cần khai thác các thông tin để đi theo hướng công nghệ mới và tìm kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài doanh nghiệp.
Đầu tư nghiên cứu đổi mới công nghệ ở một vài khâu then chốt có ảnh hưởng quyết định nhất.
Tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật công nghệ công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài. Hiện nay, ước tính có khoảng 300.000 Việt kiều là những chuyên gia giỏi, kỹ thuật viên hay công nhân có tay nghề cao đang làm việc khắp nơi trên thế giới. Nếu thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao trên cơ sở khuyến khích họ đóng góp công sức xây dựng nước nhà thì đây là nguồn lực quan trọng, to lớn giúp cải thiện hiện trạng công nghệ và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Doanh nghiệp cần có định hướng bồi dưỡng đào tạo đội ngũ nhân viên tài năng trẻ, gửi đi đào tạo ở các nước phát triển bằng nguồn tài chính của doanh nghiệp.
Dựa vào sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước, trường đại học, viện nghiên cứu để hiện đại hoá công nghệ của mình.
Doanh nghiệp cần coi việc hiện đại hoá là một quá trình tích tụ phát triển từ thấp đến cao, trong đó xác định mức công nghệ mà doanh nghiệp cần có để tạo ra sản phẩm có ưu thế cạnh tranh tổng hợp. Từ đó, lựa chọn công nghệ hiện đại hoá dần từng bước.
2.4. Tạo ra thương hiệu mạnh mang tầm vóc quốc tế.
Trước tiên phải nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình. Bởi với chất lượng cao, sản phẩm luôn có thể tự quảng cáo đầy thuyết phục. Chỉ có thể có một thương hiệu mạnh trên những sản phẩm tốt.
Nhưng chỉ có chất lượng thôi là chưa đủ. Chất lượng chỉ là nền móng cho doanh nghiệp xây dựng thương hiệu trên đó. Bởi vậy, có xây dựng được thương hiệu mạnh hay không là do nhận thức và nỗ lực của mỗi doanh nghiệp. Mỗi thành viên trong doanh nghiệp phải được trang bị những kiến thức cơ bản về thương hiệu, vai trò, vị trí không thể thiếu của thương hiệu, những kỹ năng thực hành cơ bản về xây dựng và quảng bá thương hiệu...
Cũng cần nhận thức đúng giá trị to lớn của loại tài sản vô hình này và áp dụng những phương pháp để xác định giá trị đó. Từ đó đặt giá trị thương hiệu trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Nếu xác định được giá trị, thương hiệu có thể trở thành tài sản thế chấp để vay vốn đầu tư phát triển kinh doanh. Bên cạnh đó, xác định giá trị thương hiệu còn giúp phân bổ ngân sách marketing một cách hợp lý cho từng thương hiệu cụ thể. Xác định giá trị thương hiệu cũng làm cho việc điều tra về tính độc quyền được rõ ràng.
Xây dựng một thương hiệu mạnh không chỉ có quảng cáo cho sản phẩm hoặc cái tên của công ty mà cần xây dựng một chiến lược tổng lực, dài hơi với một tầm nhìn xa.
Việc tham khảo các chiến lược nhãn hiệu toàn cầu rất cần thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam, các nhóm công ty hay hiệp hội ngành nghề khi hoạch định các chiến lược nhãn hiệu quốc tế của mình. Cần hoạch định chiến lược nhãn hiệu ở quy mô quốc tế ngay từ khi phác thảo những bước đi đầu tiên: Từ việc đặt tên nhãn hiệu, định nghĩa sản phẩm (product concept), các lợi ích (product benifits), giá trị (brandvalues), chiến lược phân phối hay xuất khẩu, thị trường mục tiêu và tổ hợp phân khúc - định vị ở quy mô quốc tế.
Doanh nghiệp cũng rất cần chú trọng đến việc đặt tên cho doanh nghiệp, cho sản phẩm. Doanh nghiệp phải đầu tư đúng mức nghiên cứu tìm tòi sáng tạo tránh tình trạng đặt tên một cách tuỳ tiện như các doanh nghiệp Việt Nam từng làm, phải nghĩ đến chiến lược kinh doanh lâu dài để tìm ra những tên phù hợp hoặc doanh nghiệp cũng có thể thuê các công ty tư vấn chuyên về lĩnh vực này. Hãy bắt đầu chống lại những người bắt chước ngay từ lúc tạo ra thương hiệu và cách sử dụng chúng trên sản phẩm, dịch vụ.
Các doanh nghiệp cũng có thể tổ chức các cuộc thi rộng rãi về việc đặt tên cho doanh nghiệp, cho sản phẩm, sáng tạo biểu tượng (logo) ... Đây vừa là hình thức quảng bá cho doanh nghiệp, vừa lựa chọn được những tên, biểu tượng độc đáo, ưu việt nhất.
Để được pháp luật bảo hộ tránh những rủi ro bị xâm phạm thương hiệu như trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam phải đăng ký thương hiệu ở trong nước và đặc biệt ở nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, đăng ký thương hiệu tại thị trường nước ngoài mang ý nghĩa sống còn. Việc đăng ký không vì lợi ích trước mắt cho các doanh nghiệp: có thể bán hàng trực tiếp cho doanh nghiệp nước ngoài không cần tốn kém chi phí trung gian, không bị các công ty nước ngoài lấy nhãn mác của họ đặt tên cho sản phẩm của mình, không bị dìm giá trên thị trường vì sản phẩm không có nhãn mác,...mà còn là lợi ích về lâu dài: tạo nên một thương hiệu uy tín, chất lượng.
Doanh nghiệp cũng phải quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp ở đâu cho hợp lý và có lợi nhất, không đăng ký bừa bãi ở các thị trường mình không thể vươn tới, vì như thế cũng sẽ rất tốn kém, lãng phí...
Trước khi đăng ký thương hiệu, doanh nghiệp cần xác định thị trường của mình để tìm hiểu luật sở hữu của nước đó. Doanh nghiệp cần tìm hiểu quốc gia cần đăng ký thương hiệu nằm trong hệ thống sở hữu trí tuệ nào để doanh nghiệp có thể tham gia đăng ký theo hệ thống đó.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng không thể bỏ qua việc đăng ký tên miền trên Internet. Internet đang trở thành thế mạnh trong giao thương quốc tế, trong đó có việc tiếp thị. Một địa chỉ tên miền ngắn gọn, thông dụng dễ truy cập là điểm thuận lợi để doanh nghiệp đưa hình ảnh, thông tin của mình đến với người tiêu dùng, vì thế đây là việc cần làm ngay từ bây giờ.
2.5. Liên kết các doanh nghiệp trong nước để tạo ra sức mạnh cạnh tranh quốc tế.
Điểm yếu của chúng ta hiện nay là từng doanh nghiệp đi ra nước ngoài để tìm đầu ra. Không có những doanh nghiệp, những thương gia đi làm đầu mối cho xuất khẩu, tập hợp sức mạnh của nhiều doanh nghiệp để tạo ra một sức mạnh chung.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cạnh tranh không phải là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đơn lẻ mà là cạnh tranh giữa các tập đoàn khổng lồ, giữa các ngành kinh tế của các nước và giữa các nền kinh tế với nhau. Vì thế, nếu các doanh nghiệp Việt Nam vẫn cứ duy trì tình trạng canh tranh không lành mạnh như hiện nay, tranh nhau giảm giá để xuất khẩu để rồi bị các công ty nước ngoài ép cấp, ép giá thì trước hết sẽ gây thiệt hại cho chính các doanh nghiệpvà sau đó là sức mạnh của cả nền kinh tế.
Nếu các doanh nghiệp biết tập trung lại, xây dựng nên những doanh nhân, thương gia lớn chuyên xuất khẩu những mặt hàng nhất định. Trước mắt phải khuyến khích sự liên kết từng ngành hàng, phát huy mạnh vai trò của hiệp hội. Các hiệp hội cần có chương trình cụ thể, khả thi để tạo thế mạnh cho ngành hàng, phát triển ngành hàng. Có như vậy doanh nghiệp Việt Nam mới có tiếng nói lớn hơn trên thị trường quốc tế.
Mô hình này đã được thực hiện khá thành công với mặt hàng cà phê. Nhờ chính sách xuất khẩu theo đầu mối, hiệp hội cà phê Việt Nam đã đấu tranh để rút ngắn được mức chênh lệch giữa giá xuất FOB Việt Nam với giá tại sàn giao dịch London. Trong bối cảnh thị trường cà phê thế giới bị thao túng bởi một số ít nhà nhập khẩu lớn thì kết quả này là rất đáng ghi nhận.
Các doanh nghiệp cần phải phát huy tinh thần cạnh tranh lành mạnh để tạo ra sản phẩm tôt nhất với giá thành hạ nhưng đồng thời phải có tinh thần hợp tác,hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành khối thống nhất để nâng cao sức cạnh tranh của từng ngành hàng Việt Nam, mang lại lợi ích lớn hơn cho mỗi doanh nghiệp.
Kết luận
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đã trở thành vấn đề thời sự mà các quốc gia trên thế giới không thể không tham gia. Đồng thời, tự do hoá thương mại đang ngày càng trở thành một tất yếu khách quan và là một yếu tố cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, chiến lược phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu đang dần chứng tỏ ưu thế hơn hẳn so với chiến lược phát triển thay thế nhập khẩu.
Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam tham gia AFTA, APEC và đang tích cực vận động tham gia vào WTO là quyết định đúng đắn. Tuy nhiên, quá trình hội nhập lâu dài và gian nan không chỉ mang lại lợi ích mà cả những thách thức to lớn cho chúng ta. Để tận dụng được những cơ hội và vượt qua những thách thức, Việt Nam cần phải có chiến lược phát triển kinh tế dài hạn, đúng đắn và rõ ràng cùng với sự kiên định, quyết tâm cao độ, thực hiện chiến lược đó từ phía chính phủ và cộng đồng kinh doanh.
Trước hết phải khẳng định rõ ràng và hiện thức hoá bằng hành động rằng Việt Nam sẽ tiếp tục hướng mạnh nền kinh tế hơn nữa theo hướng mở, nhấn mạnh vào phát triển các ngành nghề có lợi thế tương đối, sản phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong giai đoạn đầu của hội nhập, Việt Nam cần tận dụng những lợi thế tĩnh, tập trung vào các ngành cần nhiều lao động (không đòi hỏi công nghệ cao và nhiều vốn), các ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Từ đó tích luỹ vốn và kinh nghiệm sản xuất, tái đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị tiên tiến, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, có khả năng làm chủ và sáng tạo công nghệ mới. Xét về dài hạn, chỉ khi chúng ta xây dựng được các lợi thế "động" thì mới đưa đất nước lên quỹ đạo phát triển cao hơn.
Việt Nam phải sẵn sàng tham gia vào phân công lao động quốc tế mà trước hết là phân công lao động trong khu vực ASEAN nhằm tạo ra nền tảng sản xuất hiệu quả, qua đó cùng các nước này chia sẻ lợi ích do AFTA đem lại.
Việt Nam cần đẩy nhanh hội nhập kinh tế khu vực thế giới hơn nữa bởi càng trì hoãn tiến trình này bao nhiêu thì càng gặp nhiều khó khăn trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước bấy nhiêu. Cần coi việc chủ động tích cực thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA như là bước tập dượt để tham gia vào các tổ chức thương mại rộng lớn hơn là APEC và WTO. Như vậy, những thử nghiệm, sự thành công cũng như thất bại trong chủ trương, chính sách hội nhập, biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và cơ chế quản lý hoạt động ngoại thương... Việt Nam thực hiện trong khuôn khổ AFTA là bài học quý báu cho tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang các nước trong AFTA về cơ bản phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế được quy định bởi WTO, song cũng có những đặc điểm riêng phù hợp với khu vực ASEAN.
Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam là người thực hiện và chịu tác động trực tiếp của tự do hoá thương mại. Các doanh nghiệp không thể núp mãi dưới chiếc ô bảo hộ của Nhà nước mà phải tự nâng cao sức cạnh tranh của mình, bằng cách cải tiến công nghệ, phương thức quản lý, nâng cao vai trò công tác cán bộ, không ngừng sáng tạo, đổi mới sản phẩm; tạo ra những thương hiệu mạnh làm mũi nhọn tiến vào thị trường khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp cũng cần kết hợp những nỗ lực riêng lẻ, thành nỗ lực chung thông qua các hiệp hội doanh nghiệp nhằm xây dựng những ngành hàng có khả năng cạnh tranh cao, trên thị trường thế giới, mang lại lợi ích lớn hơn cho từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu hiểu biết về AFTA về kinh doanh trên thị trường nước ngoài cũng như về luật lệ, quy chế các tổ chức thương mại quốc tế khác. Vì thế, Chính phủ phải đóng vai trò người đỡ đầu khai thông các thị trường, giúp đỡ doanh nghiệp khắc phục những hạn chế này thông qua cơ chế chính sách khuyến khích xuất khẩu. Trên nguyên tắc không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Chính phủ chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu thông qua các biện pháp như hoàn thiện môi trường đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, tín dụng, cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến thương mại...
Chỉ khi Chính phủ lắng nghe và hành động vì doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp vươn ra thị trường ngoài nước, đồng thời doanh nghiệp tự nỗ lực vươn lên vì lợi ích tự thân, vì lợi ích chung thì hàng hoá Việt Nam mới có khả năng cạnh tranh được trên thị trường khu vực và thế giới.
Đẩy mạnh xuất khẩu trong điều kiện hội nhập kinh doanh khu vực và thế giới là vấn đề rộng lớn, phức tạp, nước ta lại mới bước đầu tham gia hội nhập, chưa có nhiều kinh nghiệm. Khoá luận này chưa thể đề cập hết tất cả các khía cạnh có liên quan tới tăng cường xuất khẩu trong khu vực mậu dịch tự do AFTA. Tác giả chỉ cung cấp một góc nhìn về bản chất, thực trạng và khả năng thúc đẩy xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam vào các nước ASEAN trong khuôn khổ AFTA.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ihg.doc