Khóa luận Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Hà Tây trong những năm tới

Hiện nay, chúng ta đang ở trong một thế giới ngày càng mang tính toàn cầu hoá, không một nước nào có thể tồn tại và phát triển trong sự biệt lập về kinh tế. Trong bối cảnh đó, các nhà đầu tư ngày càng trở nên năng động và luôn có điều kiện so sánh môi trường đầu tư và kinh doanh giữa các khu vực và các nước để quyết định hoạt động đầu tư của mình. Hà Tây cũng như các địa phương khác trong cả nước đang phải đương đầu với một thách thức rất lớn là các nước trong khu vực đang cạnh tranh quyết liệt nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và trên thực tế thì nhiều nước đang thực sự “trải thảm đỏ” mời các nhà đầu tư. Khi mà quốc tế hoá đời sống kinh tế – xã hội đã và đang là xu thế khách quan của thời đại thì sự cạnh tranh là không thể tránh khỏi và có xu hướng ngày càng tăng. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu thu hút vốn FDI phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội đã đề ra, tỉnh cần phải xác định rõ chủ trương, quan điểm và các giải pháp cụ thể đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài, trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng những lợi thế và bất lợi thế cạnh tranh của mình.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Hà Tây trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6, không triển khai được vì phía đối tác nước ngoài gặp khó khăn về tài chính, không góp vốn đúng quy định. - Doanh nghiệp sản xuất bê tông Việt-úc đã vi phạm nguyên tắc chi tiêu tài chính của tổng giám đốc người nước ngoài . - Dự án liên doanh khách sạn Sông Nhuệ bị rút Giấy phép đầu tư do phía đối tác Đài Loan không đủ năng lực tài chính thực thi dự án . Trong số 45 dự án còn hiệu lực, mới có 24 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó chỉ có 6 doanh nghiệp làm ăn có lãi, một số doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh nhưng ở trong tình trạng sản xuất khó khăn, chưa thu được lợi nhuận thậm chí còn bị lỗ. Cụ thể : - Công ty VMEP bắt đầu tiến hành sản xuất lắp ráp xe máy từ năm 1996. Thời gian đầu sản phẩm tiêu thụ tốt nhưng do chưa có cải tiến mẫu mã và giá thành còn tương đối cao nên từ đầu năm 1998, công ty dừng hoạt động sản xuất lắp ráp tại Hà Tây, chuyển thành kho trung chuyển, cung cấp hàng hoá tiêu thụ tại phía Bắc. - Công ty liên doanh xây dựng SUGEIWEY Hà Tây: theo báo cáo kiểm toán các năm đến cuối năm 1999, lỗ luỹ kế trên 5,2 triệu USD. Nguyên nhân lỗ do khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên các dự án do công ty cung cấp sản phẩm tạm ngừng hoạt động, ảnh hưởng lớn đến doanh thu của dự án. Mặt khác, tỷ lệ khấu hao tài sản chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành (29% năm 1998), một số thiết bị chưa sử dụng vẫn khấu hao, chi phí cho người nước ngoài lớn, chi phí quản lý cao. - Công ty liên doanh bao bì CROWN-VINALIMEX: là liên doanh giữa Công ty lương thực Hà Tây, Vinalimex Hà Nội và phía đối tác nước ngoài Mỹ. Phía Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Hiện nay liên doanh đang lỗ khoảng 15 triệu USD do sản xuất mới đạt 40% công suất, lãi vay ngân hàng lớn, thiết bị máy móc khấu hao lớn, chi phí hành chính không giảm. - Công ty Coca-cola: Sau khi được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho phép chuyển đổi từ liên doanh sang công ty 100% vốn nước ngoài, công ty đã tăng vốn đầu tư thêm 116 triệu USD (từ 35,4 triệu USD lên đến 151 triệu USD). Hiện nay công ty vẫn trong tình trạng lỗ nhiều, khoảng 400 tỷ đồng. Nguyên nhân do công suất mới đạt khoảng 70%, chi phí bán hàng lớn, chi phí cho việc chuyển nhượng thành công ty 100% vốn nước ngoài lớn. Tuy nhiên việc xác định lỗ thật hay không là rất khó vì đầu vào do công ty mẹ cung cấp. Các doanh nghiệp khác như : - Công ty Commenda Baustoff (100% vốn áo): sản xuất vật liệu xây dựng - Công ty BHP (100% vốn úc): sản xuất sản phẩm thép xây dựng - Công ty liên doanh chè Chính Nhân Ba Vì Hiện đang khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhìn chung một, hai năm tới sản xuất vẫn chưa có lãi. Còn lại 21 doanh nghiệp chưa triển khai (trong do 14 doanh nghiệp mới được cấp phép năm 2001 ,2002 ). * Dự kiến doanh nghiệp xin rút giấy phép : - Liên doanh nông dân Việt- Pháp. Vốn đầu tư :500.000 USD - Liên doanh chế biến nông lâm sản xuất khẩu. Vốn đầu tư :500.000 USD - Liên doanh sản xuất trang bị nội thất ô tô. Vốn đầu tư : 9.800.000 USD * Doanh nghiệp xin tạm ngừng hoạt động : - Công ty sản xuất điện tử viễn thông: liên doanh giữa nhà máy thông tin M1 với công ty Newtell Mỹ. Vốn đầu tư 20 triệu USD, phía nước ngoài đã đầu tư 6 triệu USD để xây dựng nhà máy nhưng việc kinh doanh viễn thông thì chưa được phép nên phía nước ngoài tạm dừng đầu tư từ năm 1998 trở lại đây . * Còn hai doanh nghiệp : - Công ty TNHH Golf Đồng quê Phú Mãn: vốn đầu tư 12 triệu USD, liên doanh giữa Hàn Quốc và Công ty thương mại Quốc Oai được cấp phép từ năm 1998 đến nay chưa triển khai do phía nước ngoài khó khăn về tài chính khả năng sẽ phải chuyển đối tác thì mới hoạt động được . - Chi nhánh công ty Việt Chin: sản xuất thiết bị văn phòng, đặt tại Công ty Chiu-Yi Việt Nam, từ khi cấp phép đến nay vẫn chưa triển khai . 2.2.2. Về cơ chế quản lý Hà Tây vẫn chưa có những chính sách đồng bộ để quản lý tốt các dự án đầu tư nước ngoài . Thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời gian đàm phán, chờ đợi ảnh hưởng tiêu cực đến ý định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều đó cũng ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư của tỉnh. Việc phối kết hợp quản lý theo chức năng của các ngành còn hạn chế dẫn đến việc thanh tra, kiểm tra nắm tình hình diễn ra nhiều lượt, nhiều lần trong năm gây phiền hà cho các doanh nghiệp, thậm chí có cá nhân đơn vị kiểm tra vượt quá thẩm quyền cho phép. Một số cán bộ khi làm việc với các nhà đầu tư, nhân viên nước ngoài chưa chú ý đến phong cách đối ngoại nên gây ấn tượng không tốt cho phía nước ngoài. Về giữ gìn trật tự an ninh làm lành mạnh môi trường nơi có dự án, có địa phương còn chưa có thái độ xử lý dứt điểm, để cho dân chặt cây, đào bới, làm lều quán trước hành lang lưu không hoặc làm mất vệ sinh môi trường. 2.2.3. Những tồn tại khác Tồn tại lớn nhất hiện nay là chính sách đền bù giải phóng mặt bằng. Muốn công nghiệp hoá tất yếu phải chuyển một phần đất nông-lâm nghiệp sang sử dụng vào công nghiệp. Nhưng hiện nay Nhà nước chưa ban hành cụ thể chính sách đền bù phù hợp, việc phân chia lợi ích giữa Nhà nước, tập thể, cá nhân chưa được thoả đáng cho nên các dự án thường gặp khó khăn thậm chí rất khó giải quyết, có dự án đã bị cản trở không thực hiện được. Một điểm rất quan trọng là việc tuyên truyền, giáo dục về đầu tư nước ngoài, đặc biệt là lợi ích của việc thu hút FDI đối với nền kinh tế chưa được quán triệt thường xuyên sâu rộng nên sự nhận thức đại chúng còn chưa đồng nhất, thậm chí ngay cả một số cán bộ lãnh đạo địa phương chưa thấy hết lợi ích lâu dài của đầu tư đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh cho nên khi triển khai dự án gặp không ít khó khăn và có trường hợp dẫn đến mất dự án, gây ấn tượng không tốt về môi trường đầu tư tại Hà Tây. Nhiều vụ việc phát sinh trong quá trình thực hiện dự án không được giải quyết kịp thời hoặc giải quyết không triệt để, còn tình trạng thiếu trách nhiệm, thờ ơ. Về chiến lược con người thì công tác chuẩn bị đội ngũ lao động cung ứng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa được tỉnh quan tâm đúng mức. Các cơ quan quản lý lao động thường không chịu trách nhiệm về phẩm chất lao động nên không có uy tín đối với doanh nghiệp dẫn đến nhiều tình trạng tranh chấp về lao động, tiền lương. Đội ngũ cán bộ quản lý Việt Nam làm trong các liên doanh chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn, luật pháp và ngoại ngữ. Bên nước ngoài lợi dụng điểm yếu này để chèn ép, từ đó làm nảy sinh mâu thuẫn nội bộ khó hoà giải, ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Một vấn đề đáng lưu ý nữa là đội ngũ cán bộ cử sang làm việc tại liên doanh hiện tại chưa quy định rõ cơ quan nào trực tiếp quản lý để đánh giá nhận xét về cán bộ nhằm bảo vệ những lợi ích của Nhà nước, nâng cao trách nhiệm đội ngũ này trước yêu cầu của tỉnh. Chính những tồn tại trên làm cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Tây vẫn chưa đạt hiệu quả cao trong thời gian vừa qua. Những khó khăn tồn tại này cần được giải quyết một cách nhanh chóng và phù hợp để thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Tây ngày càng có hiệu quả, góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế–xã hội của Hà Tây giai đoạn 2001 – 2010. Chương III đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Hà Tây trong những năm tới I. Định hướng thu hút FDI của Hà Tây trong những năm tới 1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2010 Dựa trên cơ sở phát huy nội lực đồng thời hết sức coi trọng vốn đầu tư bên ngoài, các mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 như sau: - Đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định Trên cơ sở những kết quả dạt được trong 10 năm đổi mới, tận dụng mọi điều kiện và cơ hội thuận lợi để thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 và kế hoạch cho cả giai đoạn 2001-2010: Đạt tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm là 8% trong giai đoạn 2001-2005, giai đoạn 2006-2010 là 8-10%. Phấn đấu GDP bình quân đầu người đạt 450USD/năm vào năm 2005 và đến năm 2010 đạt 800-1000 USD/năm. Tổ chức và quản lý tốt nguồn thu ngân sách trên địa bàn, phấn đấu đến năm 2005 tăng thu ngân sách đạt bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tận dụng cơ hội để phát triển mạnh kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế theo hướng “mở cửa và hướng ngoại”. Hà Tây phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu đến năm 2005 là 80 triệu USD, tăng bình quân 13%/năm; năm 2010 là 250-300 triệu USD. Mức phấn đấu chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2005 là: nông nghiệp 35%, công nghiệp 35%, dịch vụ 30% và đến năm 2010 là nông nghiệp 20%, công nghiệp 40%, dịch vụ 40%. - Phát triển cơ cấu kinh tế vùng: Dựa trên đặc điểm địa lý và khả năng phát triển kinh tế từng vùng Hà Tây được chia thành 5 vùng kinh tế: Vùng đồng bằng: Phú Xuyên, Thường Tín, Thanh Oai, Chương Mỹ, ứng Hoà. Vùng miền núi, trung du. Vùng du lịch: Sơn Tây, Ba Vì, Hà Đông và các vùng ngoại ô. Vùng tiếp giáp với Hà nội: Hà Đông, Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Oai, Thường Tín. Vùng giáp giới với vùng quốc lộ ( Sơn Tây – Hoà Lạc- Xuân Mai – Miếu Môn- đường cao tốc Láng-Hoà Lạc) . - Phát triển cơ sở hạ tầng: tốc độ tăng vận chuyển hàng hoá 5-6%/năm, mở rộng hệ thống đường giao thông, hiện đại hoá hệ thống thông tin liên lạc, tăng cường và đảm bảo khả năng cung cấp điện và nước. - Trên cơ sở phát triển kinh tế, Hà Tây sẽ từng bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho toàn thể nhân dân, phấn đấu đến năm 2010 không còn hộ đói nghèo. - Chú ý hơn nữa đến văn hoá, giáo dục, y tế và các vấn đề xã hội khác: Xoá bỏ nạn mù chữ, chú ý đến đào tạo nghề cho lực lượng lao động trẻ. Tổ chức các festival văn hoá truyền thống. Xây dựng nông thôn mới theo hướng sản xuất hàng hoá và từng bước “làng nghề hoá” bằng phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Trên cơ sở mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đã đề ra, tỉnh xác định nhu cầu vốn và định hướng thu hút FDI trong thời gian tới. 2. Nhu cầu vốn đầu tư và định hướng thu hút FDI giai đoạn 2001-2010 2.1. Nhu cầu vốn đầu tư Để tiến hành quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá, Hà Tây cần một lượng vốn lớn. Nhưng nguồn thu ngân sách của tỉnh vẫn còn hạn hẹp (8000 tỷ đồng vào năm 2001). Hơn nữa, tỉnh luôn phải đối mặt với tình trạng thâm hụt ngân sách. Do vậy ngân sách tỉnh không thể đáp ứng được các nhu cầu về vốn, cần phải có những nguồn vốn đầu tư khác như vốn ODA, FDI, vốn từ các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, từ đầu tư trong nước…Những nguồn vốn này đóng vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình đổi mới của tỉnh. Theo số liệu dự báo của các chuyên gia, để đạt được mục tiêu kinh tế-xã hội đã đề ra, Hà Tây cần hơn 1,6 tỷ USD trong thời kỳ 2001-2005 và hơn 2,8 tỷ USD trong thời kỳ 2006-2010. Chính vì vậy, tỉnh đã đưa ra một số mục tiêu về vốn đầu tư như sau: - Tốc độ tăng vốn đầu tư hàng năm khoảng 20% (cao gấp 2-3 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế) - Cơ cấu vốn đầu tư hợp lý hơn: Nguồn vốn nội lực chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư , bao gồm vốn đầu tư của tỉnh, vốn của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư từ các tỉnh và thành phố khác. Nguồn vốn bên ngoài chiếm 30% tổng vốn đầu tư , bao gồm vốn FDI, ODA, vốn từ các tổ chức nước ngoài …, trong đó vốn FDI đóng vai trò quan trọng nhất. Với nhu cầu lớn về vốn đầu tư, tỉnh xác định cần phải thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn FDI. Theo Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hà Tây năm 2000, nhu cầu vốn FDI của Hà Tây trong giai đoạn 2001-2005 là trên 480 triệu USD và trong thời kỳ 2006-2010 là 840 triệu USD. Hà Tây xác định năm 2002-2003 là những năm quan trọng nhất để tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tỉnh cố gắng thu hút lượng vốn 130-150 triệu USD trong hai năm này. 2.2. Định hướng thu hút FDI Tỉnh phải đưa ra các biện pháp nhằm thu hút FDI dựa trên nghiên cứu về đặc điểm, về tiềm năng, lợi thế riêng có và những cơ hội của tỉnh. FDI phải đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Hiệu quả kinh tế xã hội phải được coi là tiêu chí quan trọng nhất để thẩm định dự án. 2.2.1. Về lĩnh vực FDI chủ yếu hướng vào công nghiệp. Tuy nhiên tỉnh cũng khuyến khích vào nông nghiệp và dịch vu. - Đối với FDI vào công nghiệp tỉnh khuyến khích những dự án nhằm vào thị trường nội địa và khai thác những lợi thế của Hà Tây ( vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực…) như các dự án trong công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí, công nghiệp hàng tiêu dùng …Những dự án FDI trong công nghiệp được khuyến khích cụ thể là: Dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng Dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất phục vụ công nghiệp hoá nông thôn Dự án sử dụng nhiều lao động như may mặc, giầy da... Dự án có tỷ lệ xuất khẩu lớn Dự án áp dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật cao như điện tử, tin học. - Đối với những dự án vào nông nghiệp, tỉnh khuyến khích những dự án sử dụng máy móc hiện đại, công nghệ tiên tiến, dự án có tỷ lệ xuất khẩu lớn và dự án tạo lên nhiều việc làm. - Đối với FDI trong lĩnh vực dịch vụ, tỉnh đặc biệt khuyến khích các dự án du lịch. Đặc điểm tự nhiên là lợi thế của Hà Tây với nhiều cảnh quan, di tích lịch sử nổi tiếng và nhiều làng nghề truyền thống… Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn rất ít dự án đầu tư vào lĩnh vực này. 2.2.2. Về địa bàn Những địa bàn khuyến khích đầu tư là những huyện xa, cơ sở vật chất vẫn còn nghèo, kinh tế kém phát triển và những huyện gần vùng nguyên liệu như Ba Vì, Mỹ Đức, ứng Hoà, Phú Xuyên. Tỉnh có dự định xây dựng những khu công nghiệp dọc đường cao tốc Láng – Hoà Lạc. Đối với những huyện và thị xã có nhiều dự án FDI, tỉnh khuyến khích những dự án có quy mô lớn, công nghệ hiện đại. 2.2.3. Về đối tác Tiếp tục duy trì và phát triển mối quan hệ với các đối tác nước ngoài nhất là Singapore, Đài Loan, Mỹ, Nhật và các nước Châu âu… Đặc biệt là Nhật và Mỹ- hai cường quốc kinh tế mạnh nhất – nhưng lượng vốn đầu tư vào Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng. 2.2.4. Về hình thức đầu tư Tỉnh chú trọng đến những doanh nghiệp liên doanh bởi đó là hoạt động đầu tư mà đối tác Việt Nam có thể tiếp cận nhanh với công nghệ mới và học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu. II. Đề xuất một số giảI pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng FDI vào Hà Tây trong những năm tới Ngoài các giải pháp chung để tăng cường thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam. Hà Tây cần thực hiện các giải pháp riêng của mình trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 2001-2010. Một số giải pháp cần ưu tiên nhằm đẩy mạnh thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn FDI trên địa bàn tỉnh Hà Tây là: Hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư 1.1. Cải thiện chính sách đất đai Hiện nay ở Hà Tây, vấn đề chính sách đất đai, đền bù, giải toả đang là một vấn đề nổi cộm và là một sức cản lớn trong việc thu hút FDI. Do có tình trạng “cát cứ ”, “ phép vua thua lệ làng” trong việc thực hiện các quy định về đất đai áp dụng đối với các dự án có vốn FDI. Đồng thời tỉnh lại chưa có một khung giá thống nhất trong việc đền bù đất cũng như quy hoạch chưa hợp lý nên nhiều dự án FDI mặc dù đã được phê duyệt nhưng vẫn không triển khai thực hiện được, gây nhiều tranh chấp không đáng có, làm mất lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài. ở Việt Nam tồn tại duy nhất một hình thức sở hữu đất, sở hữu Nhà nước. Nói cách khác, đất là sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Đối với một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có hai cách để có được quyền sử dụng đất: - Cách thứ nhất, Chính phủ Việt Nam thuê đất cho doanh nghiệp. UBND tỉnh nơi có dự án đặt tại đó có trách nhiệm tổ chức đền bù, giải phóng mặt bằng và làm mọi thủ tục liên quan đến việc thuê đất. Những chi phí liên quan đến việc đền bù, giải phóng mặt bằng được tính vào vốn đầu tư của dự án. UBND tỉnh thương lượng với doanh nghiệp được phép thuê đất cách thức tài chính tiến hành việc đền bù giải phóng mặt bằng. - Cách thứ hai, Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất (chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước). Trong trường hợp này, bên Việt Nam có trách nhiệm đền bù giải phóng mặt bằng và làm mọi thủ tục liên quan đến việc thuê đất. Chi phí liên quan đến việc đền bù được tính vào vốn góp bên Việt Nam. Cách thứ hai thì đơn giản hơn nhưng chỉ được áp dụng trong đối với doanh nghiệp liên doanh. Đối với cách thứ nhất, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đền bù giải phóng mặt bằng bởi phần lớn đất đang được người dân sử dụng và thuyết phục họ một mức đền bù hợp lý không phải dễ dàng. Hiện nay chính sách đất đai của tỉnh còn những tồn tại chính dưới đây: - Giá thuê đất cao, giá thuê đất được UBND tỉnh quy định trong khung giá do Bộ tài chính ban hành. Chính phủ giao cho Bộ tài chính quyền quy định giá cho thuê đất nhưng lại không đề ra nguyên tắc làm căn cứ xây dựng giá thuê đất nên đã có không ít giá được xây dựng mang tính tài chính đơn thuần, chưa hấp dẫn để thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài và nhìn chung là cao hơn giá thuê đất đối với người trong nước. - Thời gian cho thuê đất ngắn (30 năm). Theo quy định của Luật khuyến khích ĐTNN tại Việt Nam cũng như Luật đất đai, những nhà ĐTNN khi vào thuê đất ở Việt Nam thì theo thời hạn của dự án nhưng nhiề nhất không quá 50 năm, trường hợp từ 50 năm đến 70 năm do Chính phủ trình UBTƯQH. Khi làm việc với một số nhà ĐTNN, họ mong muốn kéo dài thời gian cho thuê đất và tốt nhất là đến 99 năm. - Tỉnh luôn phải đối mặt với những khó khăn trong việc đền bù giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục liên quan đến việc thuê đất. Hà Tây là tỉnh xuất hiện khá nhiều trên vô tuyến thời gian vừa qua về vấn đề giải phóng mặt bằng. Người dân một số huyện không chấp nhận giá đền bù đưa ra, họ thường yêu cầu một giá trị cao hơn. Thông thường, UBND tỉnh có trách nhiệm lập phương án bồi thường, cùng chính quyền địa phương tổ chức triển khai thực hiện phương án bồi thường, hướng dẫn chủ đầu tư chi trả tiền bồi thường cho chủ được bồi thường. Trường hợp người có đất khiếu nại về phương án đền bù, UBND tỉnh phối hợp với chính quyền địa phương giải quyết các vướng mắc. Nhưng ở Hà Tây, chính doanh nghiệp phải tham gia đàm phám với người dân để xác định giá đền bù. Đối với đất nông nghiệp giá đền bù là 1-3 triệu đồng/m2 và mức giá này đang có xu hướng tăng mạnh. Đặc biệt người dân huyện Hoài Đức đang đề nghị tăng giá đền bù lên 22,5 triệu đồng /m2. Nhà đầu tư nước ngoài vừa phải trả tiền thuê đất cho Nhà nước, vừa phải đền bù cho người có đất bị thu hồi để gián tiếp mua quyền sử dụng đất, tức là trên một mảnh đất được thuê phải trả hai loại chi phí chồng chéo là không thoả đáng. Còn đối với đất chưa có chủ sử dụng tư nhân, nhà đầu tư nước ngoài lại phải trả tiền đền bù thiệt hại về đất cho tỉnh nộp vào ngân sách là vô lý và làm tăng thêm khó khăn cho nhà đầu tư, chẳng khác gì doanh nghiệp vừa mua đất, vừa thuê lại thửa đất đó của cùng một chủ đất. Cần phải sửa đổi quy định này cho phù hợp với lợi ích của cả hai bên. - Người nước ngoài chỉ được thuê nhà, không thuê đất của hộ gia đình, cá nhân trong nước. Cơ chế đó đã gây một số khó khăn cho một số doanh nghiệp trong nước thừa nhà xưởng, mặt bằng chỉ cho thuê nhà xưởng thì không được bao nhiêu tiền mà cho thuê đất thì trái với pháp luật. Với người nước ngoài, họ đã mất cơ hội không được thuê đất của người Việt Nam cần thiết cho nhu cầu hoạt động đầu tư tại đây. Để khắc phục những khó khăn này tỉnh cần phải: - Giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng. Vai trò của UBND tỉnh là hết sức quan trọng, họ hiểu người dân hơn các nhà đầu tư nước ngoài, do vậy việc đàm phán thương lượng sẽ dễ dàng hơn. UBND tỉnh chủ trì cùng chính quyền địa phương và chủ sử dụng đất tiến hành lập phương án bồi thường. Dựa trên lợi ích, yêu cầu của hai bên, người có đất và nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời căn cứ vào chính sách, đơn giá về bồi thường, UBND tỉnh xác định mức giá đền bù hợp lý. UBND tỉnh cùng chính quyền địa phương tổ chức triển khai thực hiện phương án bồi thường, hướng dẫn chủ đầu tư chi trả tiền bồi thường cho đối tượng được bồi thường. Trong trường hợp đặc biệt, phải tổ chức cưỡng chế tháo dỡ để giải phóng mặt bằng. UBND huyện, thị xã có trách nhiệm tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định của pháp luật. Cưỡng chế này hoàn toàn được cho phép bởi Luật đất đai: tất cả các UBND tỉnh, thành phố có quyền thu hồi đất phục vụ cho dự án đầu tư đã được cấp phép. Trong thời gian tới, Hà Tây cần xây dựng nguồn kinh phí khoảng 25-30 tỷ đồng để hỗ trợ việc giải phóng mặt bằng, số tiền dùng để thanh toán tiền bồi thường cho các cá nhân, tổ chức đang sử dụng đất để thu hồi diện tích đất đó. Trên cơ sở quy hoạch định hướng để bố trí ngay cho các dự án. Như vậy vừa không phải lập hội đồng dền bù, vừa không tạo cho nhà đầu tư có ấn tượng ngay ban đầu không tốt. Đây là giải pháp thiết thực nhất cũng là cơ chế quan trọng nhất để có thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Khi nhà đầu tư vào đầu tư sẽ thanh toán cho tỉnh và sẽ quay vòng nguồn kinh phí trên thực hiện các địa điểm khác đã được xác định- Tỉnh cần điều chỉnh chính sách và khung giá đền bù, xây dựng chính sách hỗ trợ, tái tạo ổn định cho người dân. Chính sách đền bù giải phóng mặt bằng phải nhất quán, biện pháp phải kiên quyết và dứt điểm, không để tình trạng dây dưa làm ảnh hưởng thời cơ và hiệu quả đầu tư. Điều này không chỉ đòi hỏi sự vào cuộc của chính quyền mà còn cần sự nhận thức, lòng tự trọng và khẳng khái của người dân vì sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đối với người bị thu hồi đất thuộc đối tượng được bồi thường, tỉnh cần có các khoản hỗ trợ về di chuyển, trợ cấp ổn định cuộc sống, hỗ trợ về đào tạo nghề và hướng nghiệp cho nông dân bị mất hoàn toàn ruộng canh tác, hỗ trợ tạm trú di chuyển khi chưa xây dựng được nhà ở, thưởng cho hộ tự giải phóng xong mặt bằng trước thời hạn và có đóng góp trong việc vận động những người xung quanh mình thực hiện… - Hà Tây cần giao cho các Sở Kế hoạch, Tài chính, Thuế, Địa chính tiến hành xây dựng cụ thể khung giá cho thuê đất, giá đất góp vốn vào liên doanh theo từng vùng để chủ động khi có dự án, khắc phục tình trạng nơi giá thấp, nơi giá cao hoặc phụ thuộc vào ý chí cá nhân làm cho dự án triển khai chậm, kém hiệu quả, nhằm tạo điều kiện nhanh chóng thực hiện dự án sau cấp phép. Từng bước thống nhất giá cho thuê đất, áp dụng cơ chế bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh để khuyến khích đầu tư giữa các doanh nghiệp vì sự phát triển kinh tế-xã hội. Đối với các dự án sản xuất những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao mà qua đó ta có thể tiếp cận với công nghệ mới, các dự án có tỷ lệ xuất khẩu 80% trở lên có thể giảm giá thuê đất 6-10 năm. Các dự án nhóm khuyến khích đầu tư sẽ được miễn tiền thuê đất trong 2 năm đầu, không tính thời gian xây dựng cơ bản và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. - Tiến tới áp dụng thời hạn cho thuê đất kéo dài đến 49 năm theo Luật quy định hoặc dài hơn. - Giành tiền thuê đất cho các huyện, xã theo tỷ lệ hợp lý, đề nghị điều chỉnh mức phân chia tiền thuê đất theo quyết định 148/1999/QĐ-UB ngày 19/8/1999 của UBND tỉnh Hà Tây: xã hưởng 4 năm đầu kể từ ngày doanh nghiệp phải trả tiền thuê đất, từ năm sau được hưởng 60%, huyện 40%, trong đó có 20% để hỗ trợ cho việc bồi thường ở địa bàn khó khăn trong việc giải phóng, đền bù. - Cho phép người nước ngoài được thuê đất của các hộ gia đình, cá nhân trong nước theo phạm vi, thời hạn được giao đất sử dụng ổn định, lâu dài, đúng mục đích sử dụng của đất được giao. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã thuê đất có quyền cho thuê phần nhà xưởng đã xây trên đất đó khi chưa có nhu cầu sử dụng. Việc này khuyến khích tận dụng nhà xưởng, kho bãi của doanh nghiệp đã thuê đất nhưng chưa sử dụng, tránh lãng phí. - Đồng thời cần có những biện pháp kịp thời và nghiêm khắc đối với những trường hợp làm trái pháp luật về đất đai, gây phiền hà cản trở việc đền bù, giải phóng mặt bằng. Các cơ quan có trách nhiệm hoạch định chính sách về đất đai cần có quy hoạch chi tiết về đất đai cho việc thu hút FDI để có thể cấp ngay chứng chỉ quy hoạch cho nhà đầu tư để tiến hành các công việc tiếp theo như xây dựng các phương án kiến trúc, thiết kế mỹ thuật… nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư . 1.2. Tăng cường hơn nữa các chính sách ưu đãi và khuyến khích FDI Hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng, rà phá vật liệu nổ Đối với các khu đất được quy hoạch để hình thành các khu công nghiệp, UBND tỉnh nên: - Hỗ trợ 100% chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, rà phá vật liệu nổ trên lô đất mà chủ đầu tư thuê để thực hiện dự án trong trường hợp chủ đầu tư trả trước chi phí này. Chi phí này sẽ được trừ dần vào tiền thuê đất hàng năm. - Hỗ trợ 50% đối với các trường hợp khác Hỗ trợ chi phí san lấp mặt bằng Đối với những dự án sâu trũng, đòi hỏi chi phí san lấp mặt bằng lớn, chủ đầu tư sẽ được hỗ trợ một phần chi phí san lấp mặt bằng thông qua việc trừ dần vào tiền thuê đất mà chủ đầu tư sẽ phải trả hàng năm. Hỗ trợ đào tạo - Tỉnh đảm bảo cung cấp đủ nguồn nhân lực cho doanh nghiệp FDI. Nhà đầu tư không mất chi phí cho việc đào tạo lao động. - Trường hợp doanh nghiệp tự đào tạo lao động thì sẽ được hỗ trợ kinh phí đào tạo. Hỗ trợ này chỉ áp dụng đối với số lao động là người địa phương được tuyển lần đầu và ký hợp đồng dài hạn. Khoản hỗ trợ này nằm trong kế hoạch ngân sách chi thường xuyên của tỉnh. Chính sách một giá Giá nước sạch, nước thô, phí thu gom rác, phí xây dựng và các chi phí khác (thông tin, quảng cáo…) thuộc thẩm quyền quyết định của tỉnh được áp dụng thống nhất một giá cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. 2. Cải thiện cơ sở hạ tầng Có thể nói cơ sở hạ tầng (cứng) có vai trò làm nền móng cho các hoạt động đầu tư, nhất là trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ sử dụng công nghệ hiện đại. Cơ sở hạ tầng tốt không chỉ đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật, giảm giá thành sản xuất mà còn hạn chế được các rủi ro trong đầu tư. Trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng là một trong những mối quan tâm lớn của các nhà đầu tư nước ngoài khi có ý định đầu tư. Vì vậy tỉnh cần phải chú trọng tới việc cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng. Xây dựng cơ sở hạ tầng đủ tốt đòi hỏi lượng kinh phí lớn và thời gian thu hồi vốn đầu tư dài. Đây là công việc không dễ thực hiện ngay trong điều kiện tiềm lực kinh tế của Hà Tây hiện nay còn nhỏ bé, nhất là nguồn vốn ngân sách còn hạn chế. Do đó một mặt chúng ta cần huy động tối đa khả năng của tỉnh, mặt khác cần tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức và Chính phủ nước ngoài. - Khi chưa có điều kiện phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thì nên tập trung xây dựng dứt điểm những công trình then chốt, những vùng đã quy hoạch để thu hút vốn FDI như mở mang các trục đường giao thông chính của tỉnh, cải tạo bến cảng , sân bay đã có từ trước… nhằm đảm bảo yêu cầu của tiến trình tiếp nhận đầu tư . - Sau đó cần có chính sách định hướng nguồn vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất và phát triển cơ sở hạ tầng của tỉnh ( đường xá, cầu cống, điện nước, giao thông liên lạc…). Có những quy chế ưu đã rõ ràng cụ thể đối với hình thức BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm nhằm tạo ra sự hấp dẫn thu hút các hình thức đầu tư này, góp phần hỗ trợ vốn đầu tư cho ngân sách trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài các ưu đãi được quy định trong Luật và Nghị định, các hình thức này còn được hưởng các ưu đãi: +Ưu đãi về lợi nhuận: sau khi nộp đủ thuế và các khoản đóng góp theo quy định của pháp luật, đối với dự án BT nhà đầu tư được hưởng toàn bộ lợi nhuận được hình thành từ việc thực hiện dự án; đối với dự án BOT, nhà đầu tư nộp 30% lợi nhuận vào ngân sách tỉnh, 70% cò lại được hưởng. + Ưu tiên thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý: ưu tiên nhà đầu tư thực hiện dự án BT chọn dự án khác để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý. - Đối với các dự án FDI có tổng vốn đầu tư lớn vào Hà Tây, cần tranh thủ yêu cầu các bên đối tác nước ngoài lưu ý tới hệ thống cơ sở hạ tầng ở vùng có đặt nhà máy của dự án, làm sao có chính sách tối ưu, yêu cầu vừa xây dựng nhà máy sản xuất vừa đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng ở xung quanh nhà máy đó. - Đặc biệt, để tiếp nhận được nhanh chóng và dễ dàng vốn và công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài, trên cơ sở quy hoạch tổng thể, tỉnh cần kêu gọi đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở các khu công nghiệp. Đồng thời phải thiết lập quỹ hỗ trợ đầu tư nhằm tạo điều kiện hỗ trợ về cơ sở hạ tầng các Cụm, Điểm công nghiệp, đầu tư một tỷ lệ vốn nhất định để xây dựng hệ thống cấp thoát nước, năng lượng, thông tin liên lạc hiện đại đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong khu công nghiệp trên cả nước hoạt động tương đối tốt. Tuy nhiên cho đến nay, Hà Tây vẫn chưa thu hút được dự án FDI nào vào khu công nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng này là do: Cơ sở hạ tầng khu công nghiệp chưa được phát triển; Tỉnh vẫn chưa có chính sách mạnh để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp; Việc bố trí các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn chưa hợp lý… Để đẩy mạnh FDI vào các khu công nghiệp, tỉnh cần phải khắc phục những trở ngại nêu trên. Chúng ta tin tưởng khu công nghiệp sẽ sớm thu hút được các dự án FDI. Tóm lại, mặc dù cơ sở hạ tầng của Hà Tây tương đối phát triển so với các tỉnh khác trong cả nước, tỉnh cần phải tiếp tục xây dựng các chính sách phù hợp để có được cơ sở hạ tầng hiện đại hơn nhằm thu hút FDI nhiều hơn nữa. 3. Cải cách hành chính 3.1. Thủ tục hành chính Việc cần làm bây giờ là gấp rút cải thiện môi trường đầu tư trong đó hàng đầu là cải cách thủ tục hành chính. Đặc biệt là khi thẩm quyền cấp phép đã được phân cấp cho tỉnh, nếu tỉnh không chú ý đến việc cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí cho các nhà đầu tư thì sẽ gây ra tình trạng phiền hà trong lĩnh vực hành chính. Thực tế thời gian qua đã chứng minh là một số tỉnh đã cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư thông thoáng thì thu hút đầu tư rất nhiều, ví dụ như Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu; các tỉnh phía Bắc có Vĩnh Phúc, Phúc Yên. Như vậy trên cùng một mặt bằng pháp lý song có địa phương thu hút được nhiều vốn ĐTNN, có địa phương thu hút được ít chứng tỏ rằng thủ tục hành chính của địa phương đó chưa tốt. Về cải cách thủ tục hành chính, cần tập trung trong công tác thẩm định, cấp giấy phép đầu tư , cấp giấy phép xây dựng cho các dự án, cấp giấy phép nhập khẩu theo hướng một cửa, nhanh gọn và thuận lợi; điều chỉnh công tác thanh kiểm tra, giám sát hoạt động doanh nghiệp sau cấp phép. Cải tiến thủ tục cấp giấy phép đầu tư - Tiếp tục hoàn thiện việc thực hiện theo cơ chế “một cửa, một đầu mối” trong việc hình thành tiếp nhận, thẩm định và cấp giấy phép đầu tư. Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện cơ chế một cửa, là đầu mối khâu nối các ý kiến của các ngành liên quan trong việc đồng ý hay không đồng ý cho nhà đầu tư nước ngoài đến tìm cơ hội đầu tư ở Hà Tây, giúp nhà doanh nghiệp không phải qua nhiều cửa để xin hoặc làm các thủ tục một cách tản mạn nhằm giảm đi các thủ tục hành chính phiền hà và thời gian xin cấp phép đầu tư. Đây là một vấn đề rất khó cho cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện cơ chế một cửa song lại rất thuận lợi cho nhà đầu tư, có như vậy nhà đầu tư mới mạnh dạn và tin tưởng vào việc xin cấp phép đầu tư . - UBND tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng tạo điều kiện thuận lợi nhất, phân định trách nhiệm, nội dung và thời hạn giải quyết, cấp phép đầu tư cho doanh nghiệp nước ngoài trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ đối với dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư và 1-5 ngày đối với dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư . Triệt để và kiên quyết hơn nữa trong việc quy định rõ ràng và minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp - Công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính và kiên quyết giảm đầu mối, giảm các thủ tục hành chính không cần thiết nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về cải cách hành chính trong lĩnh vực FDI. Tăng cường trách nhiệm nhằm tạo sự phối kết hợp chặt chẽ của các ngành chức năng, các cấp chính quyền trong giải quyết các vấn đề liên quan cho nhà đầu tư đảm bảo tiến độ đầu tư. - Đề nghị các nhà đầu tư nếu có khó khăn gì thì bất kỳ lúc nào cũng có thể liên hệ với các cơ quan chức năng của tỉnh và với các phòng chức năng của Sở Kế hoạch và Đầu tư để giải quyết ngay, nếu vấn đề vượt quá thẩm quyền của Sở thì Sở sẽ báo cáo lên lãnh đạo tỉnh để giải quyết. Điều chỉnh công tác kiểm tra hoạt động các doanh nghiệp FDI Công tác kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI là rất cần thiết, song trên thực tế các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra lại hoạt động không đúng theo nguyên tắc, làm nảy sinh một số hiện tượng tiêu cực (gian lận trong kiểm tra, nhận hối lộ…). Vì vậy cần có một quy định cụ thể chế độ kiểm tra để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, hết sức tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp, đồng thời vẫn bảo đảm giám sát được các doanh nghiệp và áp dụng các chế tài đối với sự vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp. Đó là: - Việc kiểm tra định kỳ, kiểm tra chuyên ngành phải thông báo trước 7 ngày và thực hiện không quá một lần trong năm, kéo dài không quá 5 ngày. Sau 30 ngày kết thúc đợt kiểm tra, các cơ quan kiểm tra phải gửi báo cáo kết quả cho Sở Kế hoạch và Đầu tư cùng các cơ quan có liên quan biết. - Việc thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp trên địa bàn phải thực hiện theo đúng nguyên tắc, các cơ quan Nhà nước xây dựng kế hoạch kiểm tra hàng năm, đăng ký qua thanh tra Nhà nước tỉnh để tổng hợp trình duyệt UBND tỉnh quyết định lịch thanh kiểm tra doanh nghiệp có vốn FDI theo nguyên tắc các cơ quan cùng phối hợp kiểm tra, tránh sự chồng chéo. Không có sự chấp thuận của UBND tỉnh thì không được tổ chức kiểm tra, thanh tra bất thường, chỉ được tiến hành khi doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật và do thủ trưởng đơn vị cấp Sở hoặc tương đương ra quyết định kiểm tra và tự chiụ trách nhiệm về trường hợp đó. Để làm được điều này, cần có sự phối hợp trong công tác quản lý giữa các Sở và UBND tỉnh thực hiện quản lý đầu tư, tạo được lề nếp và sự thống nhất trong công tác kiểm tra. 2.3. Bộ máy hành chính Để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, tỉnh cần có một bộ máy hành chính tốt. Việc quản lý FDI bao gồm lập kế hoạch, định hướng thu hút FDI, quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, lập kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng ở những vùng đã quy hoạch, tổ chức vận động xúc tiến đầu tư… Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có hai cơ quan quản lý về hoạt động FDI trên địa bàn tỉnh, đó là Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ban quản lý khu công nghiệp. Tuy nhiên đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có một dự án FDI nào vào khu công nghiệp. Vì vậy chỉ có Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan duy nhất quản lý hoạt động FDI trên địa bàn tỉnh. Thực tế là quân số của Sở Kế hoạch và Đầu tư chỉ có hơn 40 cán bộ, trong đó chỉ có 5 cán bộ quản lý FDI. Với một số lượng ít ỏi như vậy, chắc chắn họ không thể đảm đương được hết mọi công việc. Do vậy, tỉnh cần phải: + Tăng cán bộ làm công tác quản lý FDI và nâng cấp cơ sở vật chất phòng Kinh tế đối ngoại-phòng duy nhất có trách nhiệm quản lý FDI. + Tiếp đó là việc nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên môn, phải làm cho họ ý thức được trách nhiệm phục vụ doanh nghiệp, coi đó là trách nhiệm hàng đầu của các cơ quan công quyền. + Giám sát, kiểm tra các cán bộ thừa hành thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp, chính sách, chủ trương của Nhà nước, kịp thời sử lý các cán bộ có hành vi tham nhũng, sách nhiễu, tiêu cực. 4. Tăng cường, đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư Công tác vận động xúc tiến đầu tư thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn chế (đã được đề cập ở chương II, phần II, mục 2.2). Với yêu cầu đặt ra trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế–xã hội 10 năm 2001-2010 và kế hoạch phát triển kinh tế–xã hội 5 năm 2001-2005, đòi hỏi công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài phải được đẩy mạnh, cải thiện cả về hình thức và nội dung nhằm đạt được hiệu quả cao hơn. Cần coi vận động đầu tư nước ngoài là một trong những giải pháp quan trọng để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn FDI. Vì vậy, tỉnh cần triển khai các giải pháp sau đây nhằm tăng cường, đổi mới công tác xúc tiến đầu tư : - Nâng cao chất lượng xây dựng Quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư. Sở Kế hoạch và Đầu tư cần nhanh chóng xây dựng quy hoạch thu hút vốn FDI một cách cụ thể, rõ ràng theo từng ngành, địa phương. Giải pháp này liên quan đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư nói chung và FDI nói riêng. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh sẽ phối hợp với các ngành, các cấp có liên quan, các địa phương để lập và công bố danh mục các dự án gọi vốn đầu tư có trọng điểm với ba mức độ khuyến khích (đặc biệt khuyến khích đầu tư, khuyến khích đầu tư có điều kiện hoặc có địa bàn, không khuyến khích đầu tư) gắn liền với việc khai thác ưu thế của Hà Tây (vị trí địa lý, nguồn nhân lực, tài nguyên đất đai, các điều kiện hấp dẫn khác…). - Đổi mới, đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư theo hướng: + Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ thể và hướng nó vào các mục tiêu đã đề ra, đem lại hiệu quả kinh tế cao trong hợp tác đầu tư . + Nâng cao hiệu quả vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng. + Duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư. Tỉnh nên thường xuyên có sơ kết, tổng kết, hội thảo gặp gỡ với cộng đồng các doanh nghiệp có vốn FDI, trên cơ sở đó để tìm hiểu, nắm bắt thông tin, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Vấn đề nữa là cách đón tiếp, giải quyết và trả lời những câu hỏi của các nhà đầu tư . Mọi câu hỏi mà nhà đầu tư nêu ra thì ta đều phải trả lời và trong các nhà đầu tư thì không phải ai cũng mạnh nên ta phải hướng dẫn họ làm thế nào để có lợi nhuận tốt và phù hợp với chỉ đạo của Nhà nước và tỉnh. Ta cũng có thể giới thiệu để họ tiếp cận một dự án nào đó đang hoạt động tốt để chính các nhà đầu tư nói chuyện với nhau. Hai nhà đầu tư với nhau thường dễ tìm được tiếng nói chung. Như vậy sẽ dễ thuyết phục hơn là chính chúng ta nói với các nhà đầu tư . Trong giai đoạn tìm hiểu dự án, nhà đầu tư cần gì sẽ được cung cấp miễn phí, chẳng hạn như thông tin, tài liệu thì trong phạm vi có thể mình sẽ trả lời nhanh, cặn kẽ để giảm thời gian chờ đợi của họ. Nếu mình không làm được thì nhà đầu tư sẽ ngần ngại hoặc nản lòng. Đó là bài học mà một vài tỉnh, thành phố lớn đã làm. Đồng thời tổ chức giáo dục tuyên truyền về ý thức tư tưởng cho người dân để họ thấy được vai trò và sự cần thiết của FDI nên cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI hoạt động. + Có hình thức khen thưởng kịp thời các cá nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích vào sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và vận động đầu tư nước ngoài nói riêng. ở tỉnh Thái Bình, các nhà đầu tư, doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động tại Thái Bình nếu kéo thêm được nhà đầu tư mới mà dự án mới có hiệu quả kinh tế-xã hội cao thì được ưu đãi giảm 30% tiền thuê đất trong suốt thời gian thực hiện dự án. - Tăng cường năng lực hệ thống tổ chức xúc tiến đầu tư. Tỉnh cần phải thành lập cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư để thực hiện chức năng xúc tiến đầu tư theo phương châm: một cửa, một đầu mối, chi phí thấp, nhanh, hiệu quả… - Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư, tập trung vào một số nước và khu vực có tiềm năng. Cần tìm hiểu phong tục, tập quán, chính sách và mục đích của đối tác nước ngoài để đưa ra được các biện pháp xúc tiến thích hợp. - Tăng cường hợp tác về xúc tiến đầu tư theo hướng: duy trì, mở rộng quan hệ hợp tác với các Cơ quan chính phủ phụ trách về xúc tiến đầu tư cũng như các cơ quan, tổ chức xúc tiến đầu tư, thương mại. Các dự án trên địa phương thời gian qua thường theo ba con đường: Thông qua các bộ, ngành giới thiệu Thông qua đại sứ quán, văn phòng đại diện của các nước Vào theo tập đoàn thông qua các dự án đã hoạt động hoặc được cấp giấy phép ở địa phương. Do vậy, để thu hút mạnh mẽ đầu tư cần có quan hệ tốt, tranh thủ các Bộ, ngành, các chủ doanh nghiệp lớn, tạo điều kiện cho các dự án vào để tự bản thân nó tạo ra môi trường tốt lôi kéo các dự án vào tiếp theo. Bên cạnh đó, chúng ta phải giữ mối quan hệ thường xuyên với các văn phòng đại diện, các công ty tư vấn đầu tư, các cơ quan ngoại giao để cung cấp thông tin, cơ hội đầu tư ở Hà Tây cho các nhà đầu tư. - Cải tiến, nâng cao chất lượng thông tin các tài liệu vận động đầu tư, các website, CD-ROM…Trang web về Hà Tây cần phải được đổi mới cả hình thức lẫn nội dung, cung cấp lượng thông tin phong phú và cập nhật về tình hình kinh tế – xã hội cũng như các thông tin về đổi mới cơ chế chính sách của tỉnh giúp các nhà đầu tư trong việc ra quyết định đầu tư. - Bố trí kinh phí cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong ngân sách chi thường xuyên của tỉnh, đồng thời tiếp tục tận dụng tối đa sự hỗ trợ tài chính, kỹ thuật của các công ty, tổ chức nước ngoài. Chú trọng việc hỗ trợ các dự án FDI đang hoạt động tại Hà Tây, xem đây là biện pháp tiếp thị đầu tư trực tiếp, tiết kiệm và hiệu quả nhất, vì qua thực tế tiếng nói của các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động có nghĩa rất lớn đối với các nhà đầu tư mới. 5. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực Với dân số 2,5 triệu người, lực lượng lao động của Hà Tây đông đảo nhưng đa phần là lao động phổ thông, chưa được đào tạo một cách hợp lý nên chưa thể đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay tuy có một đội ngũ trí thức đã tốt nghiệp ở các trường đại học nhưng phần lớn trong số này hiện đang làm việc tại Hà Nội và các tỉnh khác trong cả nước. Do vậy tỉnh cần có những chính sách khuyến khích và thu hút đội ngũ này trở về phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Hơn nữa tỉnh cũng cần phải chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên kỹ thuật và công nhân có tay nghề theo hướng vừa trang bị kiến thức cơ bản vừa đào tạo chuyên sâu. Đầu tư nước ngoài là một lĩnh vực mới mẻ lại đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao trong khi kiến thức và kinh nghiệm của chúng ta nhìn chung chưa nhiều. Từ thực tế công tác này những năm qua đã chỉ rõ sự yếu kém của đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật. Vì vậy tỉnh phải có kế hoạch đào tạo thường xuyên liên tục, trước hết là đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại và cán bộ trực tiếp tham gia trong các liên doanh tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài. - Các cán bộ làm công tác quản lý cần phải được trang bị những kiến thức kinh tế đối ngoại, am hiểu luật đầu tư và các luật lệ khác có liên quan, thông thạo ngoại ngữ, thông qua các hình thức đào tạo phù hợp như các khoá bồi dưỡng ngắn hạn, các lớp đại học tại chức và sau đại học…Ngoài ra, tỉnh cần có kế hoạch, biện pháp quản lý, giúp đỡ bồi dưỡng thông qua các cuộc sinh hoạt, trao đổi kinh nghiệm, hội thảo, hội nghị để giúp đội ngũ này nâng cao trình độ. - Đối với đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, tỉnh cần phải thực hiện đa dạng hoá các hình thức đào tạo như mở các trường hướng nghiệp, dạy nghề, các lớp đào tạo ngắn hạn, kèm cặp tại nơi làm việc, phổ biến kinh nghiệm thường xuyên để nâng cao trình độ và chuyên môn nghề nghiệp. - Đối với lao động trẻ, tỉnh có thể đưa danh sách gửi đi đào tạo tại các trường trong và ngoài nước, sau đó các lao động này sẽ về làm việc cho tỉnh. Tỉnh cũng cần có chính sách khuyến khích và đầu tư cho các sinh viên của tỉnh đang theo học tại các trường đại học và trường dạy nghề trong cả nước, tạo điều kiện cho họ thấy được cơ hội khi về tỉnh nhà làm việc. Trước mắt, tỉnh cần mở các trung tâm, trường dạy nghề chuyên nghiệp theo các hình thức công lập, dân lập, bán công để đáp ứng nhu cầu về đội ngũ lao động có tay nghề cho các doanh nghiệp có vốn FDI. Có chính sách khuyến khích và thu hút các nhà khoa học và lao động lành nghề của các tỉnh bạn vào làm việc tại Hà Tây một cách hợp lý, đồng thời giảm bớt tình trạng di chuyển đội ngũ lao động khoa học và lao động tay nghề sang làm việc cho các tỉnh khác, đặc biệt là Hà Nội. Kết luận Hiện nay, chúng ta đang ở trong một thế giới ngày càng mang tính toàn cầu hoá, không một nước nào có thể tồn tại và phát triển trong sự biệt lập về kinh tế. Trong bối cảnh đó, các nhà đầu tư ngày càng trở nên năng động và luôn có điều kiện so sánh môi trường đầu tư và kinh doanh giữa các khu vực và các nước để quyết định hoạt động đầu tư của mình. Hà Tây cũng như các địa phương khác trong cả nước đang phải đương đầu với một thách thức rất lớn là các nước trong khu vực đang cạnh tranh quyết liệt nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và trên thực tế thì nhiều nước đang thực sự “trải thảm đỏ” mời các nhà đầu tư. Khi mà quốc tế hoá đời sống kinh tế – xã hội đã và đang là xu thế khách quan của thời đại thì sự cạnh tranh là không thể tránh khỏi và có xu hướng ngày càng tăng. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu thu hút vốn FDI phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội đã đề ra, tỉnh cần phải xác định rõ chủ trương, quan điểm và các giải pháp cụ thể đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài, trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng những lợi thế và bất lợi thế cạnh tranh của mình. Trong phạm vi khoá luận tốt nghiệp này, những giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDT vào Hà Tây còn ở mức độ nhất định song nếu thực hiện tốt các giải pháp này sẽ tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có tính cạnh tranh cao với các địa phương trong cả nước cũng như với các nước khác trong việc thu hút nguồn vốn quan trọng này; góp phần thực hiện mục tiêu thu hút FDI của tỉnh, xây dựng Hà Tây thành một tỉnh có nền kinh tế phát triển vững mạnh theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Tài liệu tham khảo Sách: Giáo trình Đầu tư nước ngoài – TS. Vũ Chí Lộc Đầu tư quốc tế – Phùng Xuân Nha (Nhà xuất bản ĐH Quốc Gia Hà nội-2001) Tư liệu kinh tế xã hội 61 tỉnh và thành phố (Nhà xuất bản thống kê Hà Nội-2000) Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoàI vào Việt Nam – TS. Bùi Anh Tuấn (Nhà xuất bản thống kê Hà Nội-2000) Các quy định pháp luật về ĐTNN tại Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội - 2001) Danh mục các dự án đầu tư ở Việt Nam đến năm 2010 Báo, tạp chí: Tạp chí Kinh tế và phát triển : số 59, 61, 62, 65 (2002) Tạp chí Kinh tế và dự báo : số 5, 8 (2002) Tạp chí Nghiên cứu kinh tế : số 293 (2002) Tạp chí Thương mại : số 20 (2002) Tạp chí Ngoại thương : số 15, 20, 22, 23 (2002) Tạp chí Du lịch Việt Nam : số 4, 5 (2002) Thời báo kinh tế : số 115 (25/9/2002) Báo Đầu tư : số 112, 114 (2002) Kinh tế 2000-2001 Việt Nam và Thế giới Kinh tế 2001-2002 Việt Nam và Thế giới Thông tin câu lạc bộ Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài : số 22 (2001); số 24, 25, 27 (2002) Trang website: www.vneconomy.com.vn www.vir.com.vn www.hapi.gov.vn Các tài liệu, báo cáo của UBND tỉnh Hà Tây, Sở Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo tình hình kinh tế xã hội nhiệm kỳ 1996-2000 và nhiệm vụ 5 năm 2001-2005 Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài tại tỉnh Hà Tây (1992-1997) và phương hướng nhiệm vụ những năm tới Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài năm 2000 và triển vọng trong những năm tới Báo cáo tình hình thực hiện dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà Tây năm 2000 Báo cáo tình hình triển khai các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài năm 2001 trên địa bàn tỉnh Hà Tây Báo cáo tham luận tại Hội thảo về thực trạng FDI của Hà Tây (T2/2002) Quyết định 188-QĐ/UB ngày 30/3/1996 về việc thành lập Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây Dự thảo quy chế về việc thực hiện một số chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mục Lục Lời mở đầu: 1 Chương I: KháI quát chung về FDI và FDI tạI Việt Nam 3 I.Khái quát chung về FDI 3 1.Khái niệm và đặc điểm 3 1.1.Khái niệm 3 1.2. Đặc điểm 3 2. Các nhân tố tác động đến FDI 4 2.1. Tình hình chính trị 4 2.2. Chính sách – pháp luật 4 2.3. Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên 5 2.4. Trình độ phát triển kinh tế 5 2.5. Đặc điểm phát triển văn hoá-xã hội 5 3.Xu hướng vận động hiện nay của dòng FDI 6 3.1. Đầu tư quốc tế tập trung vào các nước phát triển 6 3.2. Đầu tư tập trung vào các ngành “kinh tế mới” 7 3.3. Xu hướng vận động của dòng vốn FDI ở các nước đang phát triển 8 3.4. Xu thế đầu tư quốc tế gia tăng ngày một rõ nét 9 3.5. Sáp nhập sẽ trở thành hình thức đầu tư chủ yếu 9 II. Tình hình thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam trong những năm qua 10 1. Kết quả thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam 10 1.1. Qui mô vốn đầu tư 10 1.2 Cơ cấu vốn đầu tư 12 2. Đóng góp của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam 17 3. Những tồn tại, hạn chế 21 Chương II : thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh hà tây trong thời gian qua 24 I. Lợi thế của Hà Tây trong việc thu hút FDI 24 1. Điều kiện tự nhiên 24 1.1. Vị trí địa lý 24 1.2. Tài nguyên đất đai 25 1.3. Tài nguyên khoáng sản 25 1.4. Tài nguyên cảnh quan, di tích lịch sử, du lịch 26 2. Kinh tế –xã hội 27 2.1. Cơ sở hạ tầng 27 2.3. Nguồn nhân lực 27 II.Cơ chế quản lý và xúc tiến đầu tư 28 1.Cơ chế quản lý 28 1.1. Các văn bản pháp luật liên quan đến FDI 28 1.2. Các cấp quản lý 29 1.3. Thủ tục quản lý dự án FDI 31 2. Cơ chế xúc tiến đầu tư 32 2.1. Chính sách ưu đãi 32 2.2. Xúc tiến đầu tư 35 III. Thực trạng thu hút FDI vào Hà Tây trong thời gian qua 36 1. Kết quả thu hút và sử dụng vốn FDI 36 1.1. Quy mô và nhịp độ thu hút FDI 36 1.2. Cơ cấu vốn đầu tư 38 2. Kết quả đạt được và những khó khăn tồn tại- nguyên nhân 45 2.1. Kết quả đạt được 45 2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân 50 Chương III: đề xuất một số giải pháp nhằm tăng Cường thu hút FDI vào Hà Tây trong những năm tới 56 I. Định hướng thu hút FDI của Hà Tây trong những năm tới 56 1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2010 56 2. Nhu cầu vốn đầu tư và định hướng thu hút FDI giai đoạn 2001-2010 57 2.1. Nhu cầu vốn đầu tư 57 2.2. Định hướng thu hút FDI II. Đề xuất một số giảI pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng FDI vào Hà Tây trong những năm tới 60 Hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư 60 1.1. Cải thiện chính sách đất đai 60 1.2. Tăng cường hơn nữa các chính sách ưu đãi và khuyến khích FDI 65 2. Cải thiện cơ sở hạ tầng 65 3. Cải cách hành chính 67 3.1. Thủ tục hành chính 67 2.3. Bộ máy hành chính 70 4. Tăng cường, đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư 71 5. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực 75 Kết luận 77 Tài liệu tham khảo 78

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan