TÓM TẮT
Chúng tôi nghiên cứu đáp ứng miễn dịch của thỏ và của cá rô phi đỏ với vi khuẩn Streptococcus sp. qua 4 thí nghiệm sau:
Thí nghiệm 1: Điều chế kháng huyết thanh từ thỏ kháng vi khuẩn
Streptococcus sp. bằng cách tiêm vi khuẩn dạng FKC rồi định kì phân tích huyết thanh thu được để kiểm tra hiệu giá của phản ứng ngưng kết .
Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của mật độ nuôi của cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) đối với khả năng cảm nhiễm vi khuẩn Streptococcus sp. đã được tiêm vi khuẩn dạng FKC trước đó, bằng cách xem xét tỉ lệ cá cảm nhiễm thực nghiệm.
Thí nghiệm 3: Khảo sát thời gian tạo đáp ứng miễn dịch trên cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) sau khi tiêm huyền dịch dạng FKC của vi khuẩn Streptococcus sp. bằng cách kiểm tra phản ứng ngưng kết nhanh trên phiến kính của huyết thanh cá.
Thí nghiệm 4: Khảo sát khả năng phòng bệnh do vi khuẩn Streptococcus sp. trên cá điêu hồng đã được tạo đáp ứng miễn dịch bằng cách tiêm FKC trước đó, bằng cách xem xét tỉ lệ cá cảm nhiễm sau khi tiêm gây cảm nhiễm thực nghiệm.
Kết quả thu được qua các thí nghiệm như sau:
ã Khả năng tạo đáp ứng miễn dịch trên thỏ chưa tốt, mức hiệu giá ngưng kết cao nhất là 8 lần sau 7 tuần theo dõi.
ã Không thấy có sự khác biệt về tỉ lệ cảm nhiễm đối với vi khuẩn Streptococus sp. trên cá có hoặc không tiêm FKC do ảnh hưởng của mật độ nuôi thấp (25 con/bể) và trung bình (50 con/bể).
ã Có sự khác biệt về tỉ lệ cảm nhiễm trên cá có và không tiêm FKC khi nuôi ở mật độ cao (100 con/bể) là: 16% và 24%.
ã Cá nuôi ở mật độ cao có tỉ lệ cảm nhiễm vi khuẩn cao hơn so với nuôi ở mật độ thấp .
ã Huyết thanh cá rô phi đỏ có trọng lượng trung bình là 87,3g cho phản ứng ngưng kết với vi khuẩn Streptococcus sp. trong thời gian 40 ngày sau khi tiêm FKC với liều đơn.
ã Cá có trọng lượng 87,3g được tiêm FKC có khả năng đề kháng sự cảm nhiễm vi khuẩn Streptococcus sp. sau khi gây nhiễm thực nghiệm.
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC TRANG
TÊN ĐỀ TÀI ii
TÓM TẮT iii
CẢM TẠ iv
MỤC LỤC v
DANH SÁCH CÁC BẢNG viii
DANH SÁCH CÁC HÌNH ẢNH ix
I. GIỚI THIỆU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu 2
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Một số đặc điểm sinh học của cá rô phi 3
2.1.1. Nguồn gốc 3
2.1.2. Phân loại 3
2.1.3. Môi trường sống 3
2.1.4. Đặc điểm sống và tập tính dinh dưỡng 4
2.1.5. Đặc điểm sinh sản 4
2.2. Tình hình nuôi cá rô phi trên thế giới và ở Việt Nam 5
2.2.1. Trên thế giới 5
2.2.2. Ở Việt Nam 7
2.2.3. Các tiến bộ kỹ thuật trong nghề nuôi cá rô phi 7
2.3. Tình hình dịch bệnh ở cá rô phi 8
2.4. Tình hình nghiên cứu bệnh trên cá rô phi 8
2.4.1. Trên thế giới 8
2.4.2. Tại Việt Nam 9
2.5. Một số thông tin về liên cầu khuẩn Streptococcus iniae
gây bệnh trên cá rô phi 9
2.5.1. Đặc điểm hình thái, sinh lí, sinh hóa 9
2.5.2. Loài cá nuôi cảm nhiễm 11
2.5.3. Triệu chứng và bệnh tích 11
2.5.4. Huyết thanh học 12
2.5.5. Dịch tễ học 12
2.5.6. Phòng. trị bệnh 13
2.6. Khái quát về hệ thống đáp ứng miễn dịch của thú 14
2.6.1. Miễn dịch tự nhiên ở thú 14
2.6.2. Miễn dịch thu được ở thú 16
2.7. Khái quát về hệ thống đáp ứng miễn dịch của cá 18
2.7.1. Đáp ứng miễn dịch tự nhiên của cá 18
2.7.2. Đáp ứng miễn dịch thu được của cá 20
2.8. Giới thiệu về chất bổ trợ 21
2.8.1. Nguyên lí tác dụng của chất bổ trợ 21
2.8.2. Các chất bổ trợ thông dụng 21
2.9. Một số nét về vacine phòng bệnh cho cá 22
2.9.1 Nguyên tắc ứng dụng vaccine 22
2.9.2 Các dạng vacine dùng cho cá 22
2.9.3. Các phương pháp chủng vaccine cho cá 23
2.10. Giới thiệu về phản ứng ngưng kết dùng trong chẩn đoán miễn dịch học 23
2.10.1. Định nghĩa kháng nguyên, kháng thể 23
2.10.2. Phản ứng ngưng kết 24
III. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 25
3.1.1. Thời gian 25
3.1.2. Địa điểm 25
3.2. Vật liệu và trang thiết bị nghiên cứu 25
3.3. Phương pháp nghiên cứu 26
3.3.1. Phương pháp thu mẫu cá bệnh 26
3.3.2. Phương pháp bảo quản và vận chuyển mẫu 26
3.3.3. Phương pháp phân lập vi khuẩn gây bệnh 27
3.3.4. Phương pháp nuôi cấy và thu sinh khối
vi khuẩn Streptococcus sp. dạng FKC 29
3.3.5. Phương pháp cấp vi khuẩn dạng FKC và gây cảm nhiễm cho cá 30
3.3.6. Phương pháp lấy mẫu máu và thu huyết thanh 31
3.3.7. Phương pháp thực hiện phản ứng ngưng kết nhanh trên phiến kính 32
3.3.8. Phương pháp xác định hiệu giá của phản ứng ngưng kết 32
3.4. Cách bố trí và tiến hành thí nghiệm 33
3.4.1. Thí nghiệm 1 33
3.4.2. Thí nghiệm 2 34
3.4.3. Thí nghiệm 3 37
3.4.4. Thí nghiệm 4 38
IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 40
4.1. Kết quả thí nghiệm 1 40
4.2. Kết quả thí nghiệm 2 42
4.3. Kết quả thí nghiệm 3 45
4.4. Kết quả thí nghiệm 4 46
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 49
5.1. Kết luận 49
5.2. Đề nghị 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
PHỤ LỤC
ĐIỀU CHẾ KHÁNG HUYẾT THANH THỎ VÀ KHẢO SÁT ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH CỦA CÁ RÔ PHI ĐỎ
ĐỐI VỚI VI KHUẨN Streptococcus sp
53 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2328 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Điều chế kháng huyết thanh thỏ và khảo sát đáp ứng miễn dịch của cá rô phi đỏ đối với vi khuẩn Streptococcus sp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kháng thể tự nhiên
trong lớp nhớt này đặc hiệu với các epitope có chứa thành phần carbohydrate của vách
tế bào kháng nguyên. Trong lớp nhớt còn phát hiện có cả kháng thể đặc hiệu.
Các phân tử hòa tan trong đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu
Gồm một số chất sau: lectines, lytic enzyme, transferrin/lactoferrin,
ceruloplasmin, protein C – raeactive, interferon (IFN) đảm nhận các chức năng bổ trợ
cho các đáp ứng miễn dịch của cơ thể.
Bổ thể
Bổ thể là một kháng thể không đặc hiệu có trong huyết thanh tươi của các loài
động vật, có tác dụng làm tan vi khuẩn đã được kháng thể cảm ứng. (Nguyễn Vĩnh
Phước, 1979; trích bởi Hoàng Hải Hóa, 2001.)
Trong huyết thanh cá tồn tại khoảng hơn 20 loại bổ thể khác nhau, chúng hoạt
động qua hai cơ chế: hoặc tương tác với kháng thể đặc hiệu, hoặc hoạt động một cách
không đặc hiệu với các phân tử ở bề mặt vật kí sinh (Sakai, 1992; trích bởi Fox,
2005.).
2.7.2. Đáp ứng miễn dịch thu đƣợc ở cá ( miễn dịch đặc hiệu)
Đáp ứng miễn dịch đặc hiệu có tính đặc hiệu cao đối với tác nhân gây bệnh . Sự
đáp ứng này càng hoàn thiện sau mỗi lần tiếp xúc với tác nhân gây bệnh. Hệ thống
miễn dịch đặc hiệu có thể ghi nhớ lại tác nhân gây bệnh và ngăn cản tác động gây bệnh
của chúng ở lần tiếp xúc lặp lại tiếp theo (Đỗ Ngọc Liên, 1999).
Sự đáp ứng miễn dịch đặc hiệu bao gồm:
Miễn dịch thể dịch:
Với vai trò tham gia quan trọng của các tế bào lympho B. Ở cá, do thiếu tủy
sống, sự trưởng thành và tăng sinh của các tế bào lympho B diễn ra ở lách và phần
trước của thận (Đỗ Ngọc Liên, 1999).
Cá chỉ tổng hợp được một lớp Ig (immunoglobulin) tương đương với IgM ở
thú. IgM ở cá xương có dạng tetreametric, ở cá sụn có dạng pentametric, trong khi ở cá
mập và cá đuối có dạng monometric (Ambrosius và ctv., 1982; trích bởi Stoskopf S.
K., 1993). IgM là dạng Ig chủ yếu được tạo ra trong các đáp ứng miễn dịch thì đầu ở
21
thú. Ở cá không có kháng thể IgG. IgM có vai trò hoạt hóa bổ thể, có vai trò trong sự
opsonin hóa, trung hòa virus và sự ngưng kết (Tizard, 1987; trích bởi Stoskopf S.K.,
1993).
Ở lớp nhớt của cá cũng có sự có mặt của các kháng thể loại IgM và Ig tương tự
như IgA ở thú (St-Louis-Cornier và ctv., 1984; Lobb, 1987; trích bởi Stoskopf, 1993).
Miễn dịch qua trung gian tế bào:
Các lympho bào T sinh ra từ tuyến ức của cá giúp cho sự đáp ứng miễn dịch
qua trung gian tế bào . Sau các đáp ứng của đại thực bào, các lympho bào T – helper sẽ
được kích hoạt, trưởng thành thành các tế bào effector. Nó nhận diện được kháng
nguyên và gắn bám vào kháng nguyên thông qua các thể nhận trên bề mặt của các đại
thực bào, từ đó kích thích đại thực bào sản sinh các loại cytokine. Cytokine tác động
gián tiếp gây ra một loạt các phản ứng nhờ các quần thể tế bào khác.
2.8. Giới thiệu về chất bổ trợ
2.8.1. Nguyên lý tác dụng của chất bổ trợ
Cơ chế tác động của chất bổ trợ dùng trong vaccine được giải thích như sau:
Chất bổ trợ có tác dụng gây viêm, kích thích quá trình thực bào, giúp quá
trình đáp ứng miễn dịch xảy ra mạnh hơn.
Các chất bổ trợ hấp thu kháng nguyên và thải kháng nguyên từ từ ra từ chỗ
tiêm.
Chất bổ trợ còn có tác dụng lên tế bào lympho T hỗ trợ (TH).
2.8.2. Các loại chất bổ trợ thông dụng
Các nhà khoa học đã tìm ra hàng trăm chất có tác dụng như chất bổ trợ cho
vaccine. Tuy nhiên đa số trong các chất này, ngoài tính làm tăng khả năng miễn dịch
và kéo dài thời gian miễn dịch cho vaccine, chúng lại có độc tính tương đối cao, vì thế
không được sử dụng rộng rãi mà chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu và trong phòng thí
nghiệm. Để chọn chất bổ trợ ta nên cân nhắc giữa độ an toàn và tính kích thích miễn
dịch sao cho phù hợp.
Hiện nay các chất bổ trợ được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất vaccine gồm
các nhóm:
Nhóm chất vô cơ
Nhôm hydroxit (Al(OH)3) – keo phèn
22
Nhôm phosphat (AlPO4)
Nhôm kali sulfat (AlK(SO4)2.12H2O) – phèn chua
Nhóm chất hữu cơ
Gồm những chất chủ yếu như protamin, mỡ động vật, dầu thực vật, dầu khoáng.
Qua nhiều thực nghiệm cho thấy: một chất bổ trợ được chọn dùng để chế
vaccine, ngoài hoạt tính kích thích sinh miễn dịch không đặc hiệu mạnh mẽ còn phải
có tính an toàn cao, nghĩa là không gây phản ứng phụ sau khi tiêm (Nguyễn Mạnh
Thắng, 2003).
2.9. Một số nét về vaccine phòng bệnh cho cá
2.9.1. Nguyên tắc ứng dụng vaccine
Nguyên tắc của việc ứng dụng vaccine là dựa vào hai đặc tính cơ bản của đáp
ứng miễn dịch đặc hiệu. Đó là tính đặc hiệu và sự ghi nhớ miễn dịch. Các tế bào ghi
nhớ cho phép hệ thống miễn dịch phát triển sự đáp ứng mạnh hơn khi có lần tiếp xúc
lặp lại với kháng nguyên. Sự đáp ứng thứ cấp này đồng thời nhanh hơn và có hiệu quả
hơn sự đáp ứng ban đầu. Nguyên tắc của vaccine là sử dụng các vi sinh vật (vi khuẩn,
virus) hoặc độc tố của chúng đã được cải biến (làm yếu, gây chết) làm cho chúng trở
nên một tác nhân không gây bệnh nhưng không làm mất tính kháng nguyên của chúng
(Nguyễn Đình Bảng và Nguyễn Thị Kim Hương, 2003).
Miễn dịch học cá có lịch sử ngắn hơn nhiều so với miễn dịch học người và thú.
Báo cáo đầu tiên về vaccine trên cá là nghiên cứu về vaccine phòng bệnh furunculosis
của Duff vào năm 1942 (Souter, 1983), đến nay đã có nhiều công trình nghiêu cứu về
vaccine cho cá. Đặc biệt từ khi nhiều nhược điểm của các biện pháp phòng trị bệnh
theo con đường hoá trị liệu bộc lộ nhiều nhược điểm, gây tác hại đến người tiêu dùng
và môi trường, việc nghiên cứu và sử dụng vaccine phòng bệnh cho cá càng thêm sự
khích lệ. Nhưng để đạt được một loại vaccine hiệu quả cả về mặt kinh tế và môi
trường thật là khó (Aasjord và Slinde, 1994). Kể từ năm 1976 cho đến năm 1993,
trong vòng gần 20 năm chỉ có 3 loại vaccine cho cá được thương mại hoá, đó là:
vaccine phòng bệnh enteric – redmouth, vaccine phòng bệnh furunculosis, vaccine
phòng bệnh do vibrio (Souter, 1983).
2.9.2 Các dạng vaccine dùng cho cá
Vaccine chết (killed vaccine) là dạng vi sinh vật đã được bất hoạt thông qua các
phương pháp xử lí hoá – lí. Hầu hết các vacine được thương mại hiện nay để phòng
23
các bệnh trên động vật thuỷ sản đều dựa vào phương pháp xử lí bằng formalin (Austin,
1984; trích bởi Stoskopf S. K., 1993). Ngoài ra còn sử dụng một số hoá chất như:
chloroform và phenol, hoặc các tác nhân vật lí như: sodium hydroxide, sodiumdodecyl
sulfate, nhiệt độ để giết chết vi sinh vật (Stoskopf S. K., 1993).
Vaccine nhược độc (attenuated vaccine): dùng các vi sinh vật đã được làm yếu,
bằng cách: xử lí vi sinh vật với hoá chất ở nồng độ cận ngưỡng chết, xử lí nhiệt độ
thấp. Phương pháp thông thường là nuôi cấy chúng ở môi trường không thích hợp
hoặc với nhiệt độ không thuận lợi cho sự sinh trưởng. Tuy nhiên vaccine dạng này vẫn
chưa được thương mại hóa vì những e ngại là vi sinh vật dùng chế vaccine có thể trở
nên có độc lực mạnh hơn .
Hiện nay ngoài hai dạng vaccine phổ biến trên, các nhà nghiên cứu đang hướng
đến sản xuất vaccine tiểu đơn vị (subunit vaccine) và các loại peptide tổng hợp dùng
làm vaccine phòng bệnh cho cá.
2.9.3. Các phƣơng pháp chủng vaccine cho cá
Việc chủng vaccine trên cá có nhiều sự lựa chọn hơn so với trên thú và con
người. Hiện nay hầu hết các loại vaccine sử dụng cho động vật có xương sống là ở
dạng tiêm (injection) , có thể tiêm dưới da, tiêm cơ hay tiêm xoang bụng (Souter,
1983; Stoskopf S. K., 1993). Ở cá, sự tiêm xoang bụng (intraperitoneal = i.p.) cho hiệu
giá kháng thể cao hơn với nhiều loài vi khuẩn và virus (Austin, 1984; Wolf, 1988),
nhưng nếu tiêm chủng với số lượng cá lớn sẽ không khả thi. Các đường chủng khác
như chủng qua đường miệng thông qua thức ăn hoặc qua đường hậu môn. Tuy nhiên
phương pháp này không hiệu quả bởi vì vaccine bị phá hủy ở đường tiêu hóa của cá
(Austin và Austin, 1987). Vì vậy, việc cấp qua lỗ hậu môn sẽ tránh được tác động
phân hủy vaccine ở đường ruột cá nhưng tốn nhiều công nên chẳng ưu việt hơn
phương pháp cấp bằng đường tiêm vào xoang bụng.
Để chủng vacine với số lượng cá lớn, phương pháp ngâm và tắm là thích hợp
nhất. Các phương pháp này thích hợp với cá nhỏ, nhưng cũng không nên chọn cá quá
nhỏ vì sẽ tạo đáp ứng miễn dịch kém do hệ thống miễn dịch chưa trưởng thành (Tatner
và Horne, 1984; Manning và Mugal, 1985, trích bởi Aasjord và Slinde, 1994).
2.10. Giới thiệu về phản ứng ngƣng kết dùng trong chẩn đoán miễn dịch học
2.10.1. Định nghĩa kháng nguyên và kháng thể
24
Kháng nguyên (Antigen)
Kháng nguyên là những dị chất đối với cơ thể, có đặc tính khi vào cơ thể sẽ
kích thích sinh ra những chất phản ứng đặc hiệu, đối lập với chúng, gọi là kháng thể.
Kháng thể sinh ra sẽ phản ứng một cách đặc hiệu với kháng nguyên tương ứng
(Nguyễn Vĩnh Phước, 1979).
Kháng thể (Antibody)
Kháng thể là các protein của huyết thanh được gọi tên chung là globulin miễn
dịch (immunoglobulin), được sinh ra trong huyết thanh khi một kháng nguyên xâm
nhập vào cơ thể, cơ thể phản ứng bằng cách sản sinh ra kháng thể để chống lại kháng
nguyên. Tính chất đặc hiệu của kháng thể là kết hợp một cách đặc hiệu với kháng
nguyên đã sinh ra nó (Đặng Đức Trạch và ctv., 1987; trích bởi Hoàng Hải Hóa, 2001).
2.10.2 Phản ứng ngƣng kết
Là sự dính các vi khuẩn vào nhau thành đám nhờ có kháng thể tương ứng và
khi có mặt dung dịch nước muối sinh lí (chất điện phân) (Vương Thị Việt Hoa và ctv.,
1999).
Đối với các kháng nguyên hữu hình như xác vi khuẩn, khi gặp kháng thể đặc
hiệu, các vi khuẩn sẽ kết lại với nhau thành đám lớn, mắt thường có thể quan sát được.
Đó là hiện tượng ngưng kết trực tiếp.
Khi cơ thể được miễn dịch, trong huyết thanh có chứa nhiều kháng thể đặc hiệu.
Khi cho kháng nguyên hữu hình (tế bào vi khuẩn đã chết) trộn với kháng thể đặc hiệu
tương ứng, các vi khuẩn phân tán rời xa nhau trong hỗn dịch, sẽ kết lại với nhau qua
cầu nối kháng thể đặc hiệu. Do mỗi cầu nối với các kháng nguyên dưới hình thức
mạng lưới nhiều chiều, tạo nên những đám ngưng kết biểu hiện bằng những đám
ngưng kết lổn nhổn như những hạt cát hoặc những cụm bông lơ lửng.
Trong thực tế, phản ứng ngưng kết xảy ra được còn phụ thuộc nhiều điều kiện
khác nhau. (Lê Văn Hùng, 2002).
Kháng thể gây ngưng kết gọi là kháng thể ngưng kết, còn kháng nguyên kích
thích sinh ra kháng thể ngưng kết gọi là kháng nguyên ngưng kết. Phản ứng tạo ra cặn
lợn cợn. Không phải chỉ có vi khuẩn có khả năng ngưng kết mà cả hồng cầu, nấm
men, nấm mốc, tinh trùng... cũng có khả năng gây ngưng kết (Vương Thị Việt Hoa và
ctv., 1999
25
III. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
3.1.1. Thời gian
Từ ngày 1/3/2005 đến ngày 15/7/2005
3.1.2. Địa điểm
Địa điểm thu mẫu: tại các bè nuôi xảy ra dịch bệnh.
Địa điểm thí nghiệm: Trại thực nghiệm thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường
đại học Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh.
Địa điểm phân tích mẫu: Phòng Bệnh học, Khoa Thủy sản, Trường đại học
Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh.
3.2. Vật liệu và trang thiết bị nghiên cứu
Dụng cụ
Đĩa petri
Que cấy
Lame và lamelle
Ðèn cồn
Erlen, bình tam giác
Ống nghiệm
Bơm tiêm
Kéo
Kẹp
Ðĩa microplate 96 giếng (dạng hình chữ "U").
Pipetman và pipette
Thiết bị
Kính hiển vi
Tủ lạnh
Cân phân tích
Bể xi măng nuôi 0,75 m3
Máy sục khí
Máy lắc (Stuart Scientific)
26
Máy ly tâm (Hettich Zentrifugen)
Vật liệu
Vi khuẩn Streptococcus sp. phân lập từ cá bị nhiễm bệnh do Streptococcus
sp. tại thời điểm thực hiện đề tài.
Thỏ
Cá rô phi đỏ
Hóa chất
Nước cất
Dầu khoáng
Cồn 96o
Nước muối sinh lý 0,9%
Môi trường thạch dinh dưỡng NA (Nutrient Agar)
Môi trường canh dinh dưỡng NB (Nutrient Broth)
Glycerol
Thuốc gây mê (Ethylenglycol monophenylether – C2H10O2)
Dung dịch formalin 36% (Xưởng sản xuất thực nghiệm, Công ty hóa chất
vật liệu điện và vật tư khoa học kỹ thuật - Bộ Thương mại) .
3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
3.3.1. Phƣơng pháp thu mẫu cá bệnh
Dụng cụ: túi nylon, bình oxy.
Nguyên tắc thu mẫu:
Ghi các triệu chứng cá bệnh trước khi thu mẫu.
Không thu mẫu cá đã chết, mẫu thu phải có những biểu hiện bệnh lí đặc
trưng.
Số lượng mẫu thu: 5 – 10 mẫu.
3.3.2. Phƣơng pháp bảo quản và vận chuyển mẫu
Mẫu cá bệnh được cho vào túi nylon chứa từ 1/3 – 1/2 lượng nước, sau đó bơm
khí oxy vào rồi cột chặt túi lại. Vận chuyển mẫu cá bệnh đến nơi phân tích (Phòng thí
nghiệm) càng nhanh càng tốt.
27
3.3.3. Phƣơng pháp phân lập vi khuẩn gây bệnh
Phương pháp chung được thể hiện qua sơ đồ dưới đây:
Mẫu cá
Mổ khám
Ghi nhận các dấu hiệu bệnh tích
Lấy mẫu vi khuẩn (gan, thận, não)
Cấy mẫu lên môi trường NA
Xem xét khuẩn lạc
Ghi nhận kết quả
Phƣơng pháp kiểm tra dấu hiệu bên ngoài và mổ khám bệnh tích
-Kiểm tra các dấu hiệu bên ngoài: quan sát cách cá bơi, mắt, vảy, da, vây bụng,
hậu môn và mang của cá bệnh, nhận định sự khác biệt so với cá khỏe.
-Mổ khám bệnh tích bên trong:
+Mổ xoang bụng cá: trước khi tiến hành mổ cá, cá cần được đánh vẩy sạch tại
vị trí cần mổ, sau đó dùng bông tẩm cồn 70o sát trùng thật kĩ tại khu vực mổ để tránh
sự nhiễm tạp của các vi khuẩn từ bên ngoài.
-Đặt cá với phần bụng quay về phía người mổ.
-Cắt bỏ vây lưng và vây ngực.
-Mổ xoang bụng cá bằng 3 đường cắt:
Đường thứ nhất: bắt đầu từ phía trước hậu môn cho đến phần đầu, dừng trước
nắp mang.
Đường thứ hai: bắt đầu từ trước hậu môn hướng lên phía trên theo thành bụng
tiếp giáp thân về phía đầu đến phần mở của mang cá.
Đường thứ ba: nối hai đường cắt trên.
28
Não cá
(màu trắng đục)
Hình 3.1 : Đƣờng cắt giải phẫu xoang cơ thể cá.
-Dùng kẹp đã khử trùng gắp bỏ phần cơ bụng cá đã cắt.
-Quan sát các mô và cơ quan sau:
Quan sát dịch nhầy xoang bụng và màu của dịch nhầy, chất dịch có nhiều hay
ít.
Gan: kiểm tra màu sắc, bề mặt, rìa của gan.
Lách: như trên
Thận: kiểm tra màu sắc, kích cỡ.
+ Mổ phần đầu cá: dùng kéo cắt một đường ngay phía sau mắt cá, một đường
ngay trên đỉnh nắp mang sao cho đối xứng qua sống lưng cá. Chiều dài đường cắt
khoảng 1 cm. Cắt bỏ phần cơ và sụn giữa hai đường cắt, sẽ bộc lộ phần não của cá.
Hình 3.2 : Giải phẫu não cá
29
Phƣơng pháp phân lập vi khuẩn
Mẫu vi khuẩn thường được lấy ở gan, thận và não. Trong nghiên cứu này chúng
tôi chọn mẫu từ thận và não cá vì sẽ hạn chế được sự nhiễm tạp các vi sinh vật không
mong muốn từ bên ngoài.
Dùng kẹp gạt các phần nội tạng sang một bên, thận cá nằm sâu trong xoang
bụng cá, ngay phía dưới xương sống. Dùng mũi kéo đã khử trùng cắt một vết nhỏ trên
thận. Đưa que cấy vòng nhúng vào chỗ cắt, sau đó cấy ria trên môi trường thạch NA.
Ủ ở nhiệt độ phòng trong 18 – 24 h.
Đối với mẫu cấy từ não cũng thực hiện tương tự như khi lấy mẫu ở thận.
Phƣơng pháp xác định vi khuẩn Streptococcus sp. có trong mẫu
Sau 24h nuôi cấy mẫu, ta tiến hành quan sát màu sắc, hình thái và mật độ của
khuẩn lạc đã mọc.
Khuẩn lạc Streptococcus sp. trên môi trường NA có màu trắng đục, hình tròn,
rìa đều, bóng, lồi thấp, tâm hơi đậm, đường kính từ 0,5 – 0,7 mm.
Chọn khuẩn lạc có đặc điểm trên cấy chuyền sang đĩa môi trường NA mới, ủ ở
nhiệt độ phòng trong 24 h để phân lập dòng vi khuẩn. Từ đĩa cấy chuyền thu được, tiến
hành lưu trữ vi khuẩn làm giống trong môi trường canh NB có bổ sung 50% glycerol
(v/v).
Để quan sát hình thái vi khuẩn, ta thực hiện bằng cách: dùng que cấy lấy một ít
khuẩn từ một khuẩn lạc có hình thái đặc trưng trên cho lên lam kính có sẵn một giọt
nước muối sinh lí, quan sát hình thái vi khuẩn với vật kính 40 của kính hiển vi.
Streptococcus sp. có dạng hình cầu, có thể đứng riêng lẻ, thành từng cặp hoặc tạo
thành chuỗi dài. Trong môi trường canh, Streptococcus sp. có dạng chuỗi dài hơn
trong môi trường thạch.
3.3.4. Phƣơng pháp nuôi cấy và thu sinh khối vi khuẩn Streptococcus sp.
dạng FKC (Formalin Killed Cell)
Phƣơng pháp nuôi cấy tăng sinh vi khuẩn
Dùng que cấy vòng đã khử trùng lấy một ít vi khuẩn từ ống giống vi khuẩn gốc
cấy lên đĩa môi trường NA, ủ ở nhiệt độ phòng trong 24h. Đây là bước tăng sinh sơ
khởi (tiền tăng sinh) để chọn được khuẩn lạc như mong muốn và số lượng cần thiết.
30
Chọn khuẩn lạc mong muốn cấy vào bình môi trường NB. Nút chặt bình, nuôi
cấy lắc ở nhiệt độ phòng trong 24h. Yêu cầu là bình nuôi cấy phải lớn để có thể thu
được sinh khối vi khuẩn mong muốn.
Phƣơng pháp tạo FKC
Sau 24 h nuôi cấy, môi trường trở nên đục do vi khuẩn phát triển nhiều. Để
kiểm tra sự tạp nhiễm, lấy mẫu cho lên lam kính, quan sát dưới kính hiển vi với vật
kính 40, xem xét hình thái đặc trưng của vi khuẩn và các vi sinh vật có hình thái khác.
Dùng pipette hút dung dịch formalin 36% với số thể tích bằng 0,5% thể tích
môi trường có trong bình (Theo Aasjord P. M. và Slinde E., 1994). Trộn đều, để qua
đêm. Với nồng độ trên, formalin sẽ giết chết hết số vi khuẩn có trong bình.
Đem li tâm huyền dịch vi khuẩn ở 6000 vòng/phút trong 20 phút. Hút bỏ phần
nước nổi. Rửa lại bằng nước muối sinh lí 0,9% liên tiếp 3 lần để xả sạch hết formalin.
Xác vi khuẩn thu được sẽ có màu trắng, đựơc gọi là vi khuẩn dạng FKC. Số vi khuẩn
thu được đem cân để xác định khối lượng, rồi pha loãng bằng nước muối sinh lí để thu
được huyễn dịch FKC có nồng độ 10 mg/ml.
Để kiểm chứng vi khuẩn đã bị tiêu diệt hoàn toàn, dùng que cấy vòng lấy một ít
mẫu cấy từ bình nuôi NB đã cho formalin lên đĩa môi trường NA, đem ủ ở nhiệt độ
phòng. Quan sát sự xuất hiện khuẩn lạc vi khuẩn trong một tuần liên tục. Nếu không
thấy bất kì khuẩn lạc xuất hiện thì vi khuẩn đã hoàn toàn bị tiêu diệt.
3.3.5. Phƣơng pháp cấp huyền dịch vi khuẩn dạng FKC và gây cảm nhiễm
cho cá
Chúng tôi chọn phương pháp cấp FKC của vi khuẩn Streptococcus sp. bằng
phương pháp tiêm xoang bụng (intraperitoneal = i.p.) vì nó tạo cho cá đáp ứng miễn
dịch tốt hơn các phương pháp khác (Klesius và ctv., 2000; Stoskopf S. K., 1993). Gây
cảm nhiễm cho cá cũng bằng phương pháp tiêm trên.
Xi lanh dùng để tiêm phải có dung tích và mũi kim thích hợp với từng kích cỡ
cá để tránh gây stress cho cá có thể dẫn đến tử vong. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
chọn xi lanh bằng plastic có dung tích 1ml.
Liều tiêm phụ thuộc vào kích cỡ cá. Đối với cá có trọng lượng nhỏ hơn 50 g/cá
thể: tiêm liều 0,1 ml. Đối với cá có trọng lượng lớn hơn 50 g/cá thể: liều 0,2 ml. Liều
tiêm này được áp dụng cho cả tiêm FKC và gây cảm nhiễm.
31
3.3.6. Phƣơng pháp lấy máu và thu huyết thanh.
Lấy máu cá
Vào những ngày theo định kì lấy máu cá, sử dụng 3 con cá bất kì trong lô để lấy
3 mẫu máu. Cá sau khi lấy máu được loại bỏ khỏi lô thí nghiệm.
Để lấy mẫu máu, dùng bơm tiêm bằng plastic loại 5 ml, đầu kim 26G * 1/2.
Theo Smith và ctv. (1952; trích bởi Stoskopf M. K., 1993), xi lanh bằng plastic được
khuyến cáo sử dụng hơn so với xi lanh bằng thuỷ tinh vì nó ít làm cho máu chóng
đông hơn, cũng như nó dễ kiếm, rẻ và đã được tiệt trùng sẵn. Đâm mũi kim vào cơ
phía mặt bụng cá, hơi chệch về phía trước hậu môn so với phần đầu một chút cho đến
khi nào chạm vào xương sống cá. Tiếp tục đẩy nhẹ, giữ chặt và hút máu cho chảy vào
xi lanh. Vì máu cá ít cho nên cần phải thao tác nhanh, nếu không máu sẽ đông lại bịt
kín mũi kim gây trở ngại cho thao tác lấy.
Máu lấy được cho chảy từ từ vào thành xi lanh rồi để nằm nghiêng trong 15 –
20 phút cho máu đông lại. Cần nới pitton ra xa phần máu để tạo khoảng trống cho
huyết thanh chảy ra, cũng như khi thu huyết thanh sẽ không làm vỡ hồng cầu, ảnh
hưởng đến chất lượng huyết thanh. Mẫu máu thu được được mang lên phòng thí
nghiệm để thu huyết thanh và thử phản ứng ngưng kết. Nếu chưa thực hiện công việc
tiếp theo thì để mẫu máu qua đêm trong ngăn mát của tủ lạnh.
Lấy máu trên thỏ: Thỏ được lấy máu ở tĩnh mạch vành tai. Các chú ý khi lấy
máu thỏ cũng tương tự như lấy máu trên cá.
Hình 3.3. Thao tác lấy mẫu máu trên cá
32
Thu huyết thanh
Có thể thu huyết thanh bằng cách chắt lấy huyết thanh sau khi để xi lanh nằm
nghiêng, các thành phần trong huyết tương đã đông lại. Hoặc li tâm mẫu máu, cách
này sẽ thu được nhiều huyết thanh và huyết thanh trong hơn.
3.3.7. Phƣơng pháp thực hiện phản ứng ngƣng kết nhanh trên phiến kính
Dùng một phiến kính sạch, nhỏ lên đó một giọt huyết thanh của cá hay thỏ, sau
đó nhỏ vào một giọt kháng nguyên đã biết, trộn đều, đọc kết quả trong vài phút. Nếu
trong huyết thanh có kháng thể tương ứng thì sự kết hợp kháng nguyên – kháng thể sẽ
tạo thành đám ngưng kết dạng lấm tấm như hạt cát hay dạng bông. Phản ứng ngưng
kết mạnh khi cho kết quả trong 5 phút.
Để so sánh, thực hiện mẫu đối chứng tương tự như trên nhưng với một kháng
nguyên khác.
Hình 3.4 : Phản ứng ngƣng kết nhanh trên phiến kính
3.3.8. Phƣơng pháp xác định hiệu giá của phản ứng ngƣng kết
Sử dụng đĩa microplate 96 giếng (giếng chữ U) để thực hiện phản ứng ngưng
kết.
Kháng nguyên sử dụng là dung dịch FKC nồng độ 10 mg/ml.
Thực hiện chuỗi pha loãng huyết thanh bậc 2:
Cho 25 μl nước muối sinh lý vào tất cả các giếng trừ giếng H1.
Cho 25 μl huyết thanh vào các giếng H1 và G1.
Dùng pipetman để trộn hỗn hợp ở trong giếng G1. Như vậy ta sẽ được hỗn
hợp huyết thanh pha loãng 2 lần.
Chuyển 25 μl của giếng G1 sang giếng F1.
Tiếp tục thực hiện như thế cho đến giếng A1 (chú ý: nhớ hút bỏ 25 μl hỗn
hợp huyết thanh và nước muối ra khỏi giếng cuối cùng).
Kháng nguyên
Kháng thể
33
Đối với huyết thanh từ thỏ đối chứng cũng làm đồng thời để dễ kiểm soát được
kết quả.
Thêm 25 μl huyền phù vi khuẩn vào mỗi giếng, rồi bọc đĩa lại bằng một
miếng phim. Đặt đĩa lên máy vortex và tiến hành vortex trong 2 phút.
Kết quả sẽ được ghi nhận lại ở giếng cuối cùng có xuất hiện sự ngưng kết
Gieáng
H1 G1 F1 E1 D1 C1 B1 A1
Nöôùc muoái sinh lyù ( l)
25 25 25 25 25 25 25
Huyeát thanh ( l)
25
25
Vi khuaån ( l) 25 25 25 25 25 25 25 25
Toång coäng ( l) 50 50 50 50 50 50 50 50
Hình 3.5 : Sơ đồ biểu diễn cách xác định hiệu giá của phản ứng ngƣng kết
3.4. Cách bố trí và tiến hành thí nghiệm
Chúng tôi bố trí và tiến hành 4 thí nghiệm sau:
3.4.1. Thí nghiệm 1: Khảo sát khả năng tạo đáp ứng miễn dịch trên thỏ,
bƣớc đầu điều chế kháng huyết thanh dùng cho chẩn đoán và điều trị.
Vật liệu và dụng cụ:
+ Thỏ: 2 con, trọng luợng mỗi con là 1,5 kg. Một con để tiêm huyền dịch FKC
của vi khuẩn Streptococcus sp., con còn lại được tiêm nước muối sinh lí 0,9%. Thỏ
được nuôi trong chuồng có kích thước 40 x 60 x 40cm. Cho thỏ ăn thức ăn tự nhiên
được rửa sạch như rau muống, cà rốt …
+ Vi khuẩn Streptococcus sp. dạng FKC: được chuẩn bị theo qui trình 3.3.4
+ Dầu khoáng: đóng vai trò là chất bổ trợ (adjuvant) để tăng hiệu lực tạo đáp
ứng miễn dịch trên thỏ.
+ Bơm tiêm để tiêm huyễn dịch FKC và lấy máu thỏ loại 5 ml.
34
Cách tiến hành:
+ Nhũ hóa 1ml FKC và 1ml dầu khoáng (tỉ lệ 1:1) bằng cách cho vào ống ly
tâm có nắp và lắc mạnh. Dùng ống tiêm 5ml hút dung dịch trên.
+ Cắt lông lưng thỏ một vùng rộng phía mặt lưng, tiêm 1ml dung dịch trên dưới
da thỏ. Sau đó, thỏ được tiêm huyền dịch FKC lặp lại theo định kỳ: sau 2 tuần (14
ngày), 4 tuần (28 ngày), 5 tuần (35 tuần). Thỏ đối chứng tiêm nước muối sinh lí. Đồng
thời tại các thời điểm này, chúng ta lấy mẫu máu từ thỏ, thu huyết thanh và thử phản
ứng ngưng kết với kháng nguyên (vi khuẩn Streptococcus sp.) để xác định mức độ tạo
kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên. Trên thỏ đối chứng cũng thực hiện cách thử
nghiệm tương tự như trên.
Bảng 3.1 : Lịch tiêm huyền dịch vi khuẩn Streptococcus sp.
dạng FKC cho thỏ
Ngày tiêm Loại để tiêm Vị trí tiêm Liều tiêm (ml) Ngày lấy máu
Ngày thứ 1
Ngày thứ 14
Ngày thứ 28
Ngày thứ 35
Ngày thứ 42
FKC + DK
FKC + DK
FKC + DK
FKC
FKC
Dưới da
Dưới da
Dưới da
Dưới da
Tĩnh mạch tai
1
1
1
1
1
Ngày thứ 14
Ngày thứ 28
Ngày thứ 35
Ngày thứ 42
Ngày thứ 49
Chú thích:
FKC: các tế bào của vi khuẩn Streptococcus sp. được giết bởi dung dịch
formalin.
DK: dầu khoáng
3.4.2. Thí nghiệm 2: Khảo sát ảnh hƣởng của mật độ nuôi cá rô phi đỏ
(Oreochromis sp.) đối với vi khuẩn Streptococcus sp. đã đƣợc tiêm vi khuẩn dạng
FKC trƣớc đó
Dụng cụ và vật liệu:
+ Cá rô phi đỏ: có trọng lượng trung bình là 34,6 g. Được nuôi trong điều kiện
thí nghiệm 1 tháng trước khi tiến hành thí nghiệm. Cá được nuôi bằng thức ăn viên
công nghiệp. Sau khi tiêm gây cảm nhiễm, cá không được cho ăn.
35
+ Bể xi măng: có thể tích 0,75 m3, đặt trong nhà có mái che, sục khí liên tục và
thay nước hàng ngày.
+ Huyền dịch của vi khuẩn Streptococcus sp. dạng FKC: chuẩn bị tương tự như
mục 3.3.4.
+ Vi khuẩn Streptococcus sp.: cùng dòng vi khuẩn điều chế FKC. Trước tiên vi
khuẩn được nưôi cấy tăng sinh trên môi trường thạch NA, ủ ở nhiệt độ phòng trong
24h. Sau đó thu nhân sinh khối vi khuẩn. Pha loãng vi khuẩn bằng nước muối sinh lí
0,9%. Vi khuẩn được xác định nồng độ bằng cách thực hiện theo phương pháp đếm
khuẩn lạc trên đĩa thạch.
Cách thực hiện:
Thí nghiệm được bố trí thành 6 lô gồm: 3 lô thí nghiệm (E1, E2, E3) và 3 lô đối
chứng (C1, C2, C3) với các mật độ cá nuôi khác nhau: 25 con (mật độ nuôi thấp), 50
con (mật độ nuôi trung bình), 100 con (mật độ nuôi cao).
Tiêm cá vi khuẩn Streptococcus sp. dạng FKC như mục 3.3.5. Cá ở lô đối
chứng tiêm nước muối sinh lí.
14 ngày sau khi chủng cá, thực hiện gây cảm nhiễm (tiêm thử thách) tất cả số cá
(cả lô thí nghiệm và lô đối chứng) với vi khuẩn Streptococcus sp. còn sống có nồng
độ 8,5*105 CFU/ml với liều tiêm và cách tiêm như mục 3.3.5. Sau khi gây cảm nhiễm,
cá không được cho ăn.
Tiếp tục theo dõi trong 14 ngày, mỗi ngày kiểm tra xem có cá chết hay hấp hối
không. Nếu có thì tiến hành phân tích quan sát dấu hiệu, mổ khám bệnh tích và phân
lập vi khuẩn để xác định nguyên nhân. Sau thời gian thí nghiệm, tất cả số cá còn lại
được giải phẩu để phân lập vi khuẩn gây bệnh giống như phân lập mẫu cá bệnh thu
ngoài tự nhiên.
36
Hình 3.6: Bể bố trí thí nghiệm 2
Tóm tắt thí nghiệm được thể hiện qua bảng 3.2
Bảng 3.2. : Cách bố trí thí nghiệm 2
Lô
Các thông số
Lô thí nghiệm Lô đối chứng
E1 E2 E3 C1 C2 C3
Số cá (con)
Loại chủng
Liều chủng (ml/cá thể)
Nồng độ vi khuẩn (CFU/ml)
Liều gây cảm nhiễm (ml)
Thời gian theo dõi sau khi
gây cảm nhiễm (ngày)
25
FKC
0,1/0,2
8,5*10
5
0,1/0,2
14
50
FKC
0,1/0,2
8,5*10
5
0,1/0,2
14
100
FKC
0,1/0,2
8,5*10
5
0,1/0,2
14
25
NMSL
0,1/0,2
8,5*10
5
0,1/0,2
14
50
NMSL
0,1/0,2
8,5*10
5
0,1/0,2
14
100
NMSL
0,1/0,2
8,5*10
5
0,1/0,2
14
Chú thích:
FKC: Formalin Killed Cell – Các tế bào vi khuẩn được giết bởi formalin
NMSL: Nước muối sinh lí 0,9%.
37
3.4.3. Thí nghiệm 3: Khảo sát thời gian tạo đáp ứng miễn dịch dặc hiệu
trên cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) sau khi tiêm huyền dịch dạng FKC của vi
khuẩn Streptococcus sp.
Vật liệu và dụng cụ:
+ Cá rô phi đỏ có trọng lượng trung bình là 87,3 g được mua từ bè nuôi của
nông dân, cá được nuôi trong điều kiện thí nghiệm 1 tháng trước khi tiến hành thí
nghiệm. Cá được cho ăn thức ăn viên công nghiệp.
+ Bể nuôi: là bể xi măng, có thể tích 0,75 m3, đặt trong mái che, sục khí liên tục
và được thay nước đã được khử chlorine hàng ngày.
+ Huyền dịch dạng FKC của vi khuẩn Streptococcus sp.: chuẩn bị theo mục
3.3.4
+ Thuốc gây mê: loại ethylenglycol monophenylether
+ Bơm tiêm: loại 1 ml dùng dể tiêm vaccine, loại 5ml dùng để lấy mẫu máu.
+ Lam kính
+ Nước muối sinh lí
+ Máy li tâm
Cách tiến hành:
Thí nghiệm được chia thành 2 lô: A1 và A2. Mỗi lô bố trí 50 con cá.
Chuẩn bị huyễn dịch vi khuẩn Streptococcus sp. dạng FKC có nồng độ 1 mg/ml
bằng cách pha loãng với nước muối sinh lí 0,9%. Tiêm với liều 0,2 ml vào xoang bụng
cá. Lô A2 được tiêm nhắc với liều lượng như trên vào ngày thứ 15 sau khi tiêm lần thứ
nhất. Trước khi tiêm, cá được gây mê.
Sau khi tiêm, định kì lấy máu cá, thu huyết thanh, thử phản ứng ngưng kết
nhanh trên phiến kính. Thực hiện liên tục cho đến khi nào không phát hiện kháng thể
đặc hiệu với vi khuẩn Streptococcus sp.
Toàn bộ thí nghiệm được tóm tắt theo bảng 3.3:
38
Bảng 3.3 : Cách bố trí thí nghiệm 3
Lô thí nghiệm A1 A2
Tổng số cá (con)
Số lần tiêm (lần)
Nồng độ vaccine (mg/ml)
Liều tiêm (ml/cá thể)
Ngày lấy máu kể từ sau khi tiêm
50
1
1
0,2
7, 10, 15, 20, 25, 30, 35, 40, 45
50
2
1
0,2
15, 20, 25, 30.
3.4.4. Thí nghiệm 4: Khảo sát khả năng phòng bệnh do vi khuẩn
Streptococcus sp. trên cá rô phi đỏ đã đƣợc tạo đáp ứng miễn dịch bằng cách tiêm
FKC trƣớc đó.
Dụng cụ và vật liệu:
+ Cá điêu hồng từ thí nghiệm 3: sau 30 ngày được tiêm FKC của vi khuẩn
Streptococcus sp. lần đầu
+ Bể nuôi: bể xi măng, có thể tích 0,75 m3, sục khí liên tục và thay nước hàng
ngày để đảm bảo chất lượng nước.
+ Vi khuẩn Streptococcus sp.: chuẩn bị tương tự như thí nghiệm 2
+ Bơm tiêm: loại 1 ml
+ Kéo, kẹp, đĩa petri
Cách tiến hành:
Toàn bộ thí nghiệm 4 được tóm tắt theo bảng 3.4
39
Bảng 3.4. : Cách bố trí thí nghiệm 4
Tên lô thí nghiệm B1 B2 B3
Số cá (con)
Nguồn lấy
Số lần đã tiêm FKC trước đó (lần)
Thời gian chờ trước khi thử thách (ngày)
Liều tiêm thử thách (ml/cá thể)
Nồng độ vi khuẩn (CFU/cá thể)
Thời gian theo dõi sau khi tiêm (ngày)
15
A1
1
30
0,2
1,58*10
6
14
15
A2
2
30
0,2
1,58*10
4
14
15
A2
2
30
0,2
1,58*10
6
14
Thí nghiệm được chia thành 3 lô: B1, B2, B3. Mỗi lô bố trí 15 con cá.
Gây cảm nhiễm cho cá với vi khuẩn Streptococcus sp. còn sống bằng cách tiêm
vào xoang bụng cá với nồng độ và liều tiêm như bảng 3.4. Trước khi tiêm, cá được
gây mê. Thí nghiệm được theo dõi trong 14 ngày sau khi tiêm, mỗi ngày kiểm tra xem
có cá chết hay hấp hối không. Nếu có thì tiến hành phân tích, quan sát dấu hiệu và mổ
khám bệnh để tìm nguyên nhân. Sau thời gian theo dõi, toàn bộ số cá còn lại được giải
phẫu để phân lập vi khuẩn gây bệnh giống như phân lập mẫu cá bệnh thu ngoài tự
nhiên.
40
IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả thí nghiệm 1
Bảng 4.1 : Kết quả kiểm tra hiệu giá ngƣng kết của kháng huyết thanh thỏ
tại những thời điểm khác nhau
Thời gian (ngày) Thỏ Loại tiêm
Kết quả thử
nghiệm sự
ngưng kết
Hiệu giá (lần pha loãng)
0
ĐC NMSL -
TN FKC + DK (da) -
14
ĐC NMSL -
TN FKC + DK (da) -
28
ĐC NMSL -
TN FKC + DK (da) + 1
35
ĐC NMSL -
TN FKC (da) + 2
42
ĐC NMSL -
TN FKC (tai) + 4
49
ĐC X -
TN X + 8
Chú thích:
NMSL: nước muối sinh li,9%
FKC: Formalin Killed Cell
DK: dầu khoáng
ĐC: đối chứng
TN: thí nghiệm
(+): phản ứng ngưng kết dương tính
(–): phản ứng ngưng kết âm tính.
X: không tiêm
Trong 4 tuần đầu tiên, chúng tôi thực hiện tiêm thỏ bằng FKC có trộn dầu
khoáng nhưng khi kiểm tra hiệu giá ngưng kết, kết quả âm tính, riêng ngày 28 thấy có
ngưng kết nhưng rất yếu. Pha loãng huyết thanh ra 2 lần thì không còn ngưng kết.
41
TN
A
B
Sau ngày 28, chúng tôi tiêm FKC không có dầu khoáng. Kết quả thể hiện trong
lần lấy máu vào ngày 35, 42. Lượng kháng thể tăng lên rõ rệt.
Vào ngày 49, chúng tôi thu kháng huyết thanh và thực hiện hiệu giá ngưng kết.
Có phản ứng ngưng kết giữa kháng nguyên – kháng thể khi pha loãng huyết thanh 8
lần.
Điều đó chứng tỏ, trong 4 tuần đầu, khả năng đáp ứng miễn dịch chưa mạnh.
Có thể do một nguyên nhân là sự nhũ hóa giữa dầu khoáng và FKC được thực hiện
không hiệu quả.
Chú thích: A: Dương tính: vi khuẩn bất hoạt phân tán đều ở đáy giếng.
B: Âm tính: vi khuẩn bất hoạt lắng tụ tạo thành đốm trắng nhỏ ở đáy
giếng.
ĐC: thỏ đối chứng.
TN: thỏ thí nghiệm.
Hình 4.1. : Kết quả ngƣng kết trên đĩa 96 giếng
Chúng tôi cũng thực hiện các thử nghiệm ngưng kết nhanh trên phiến kính giữa
huyết thanh thỏ với vi khuẩn Streptococcus sp. dạng FKC và vi khuẩn còn sống phân
lập từ cá rô phi đỏ cảm nhiễm vào các thời điểm kiểm tra hiệu giá ngưng kết. Các kết
quả thu được tương ứng với kết quả kiểm tra hiệu giá ngưng kết.
ĐC
TN
42
4.2. Kết quả thí nghiệm 2
Sau khi phân lập được chủng vi khuẩn Streptococcus sp. từ mẫu bệnh phẩm,
chúng tôi tiến hành điều chế dạng FKC và tiêm cho cá. 14 ngày sau khi chủng, cũng từ
chủng vi khuẩn chúng tôi sử dụng để gây cảm nhiễm cho cá với liều lượng 8,5*105
CFU/ml nhằm xác định hiệu lực phòng bệnh của cá tiêm FKC. Thí nghiệm được theo
dõi trong 14 ngày tính từ lúc tiêm huyền dịch vi khuẩn. Kết quả gây cảm nhiễm được
trình bày qua bảng 4.2
Bảng 4.2 : Số cá chết trong 14 ngày theo dõi
Tên lô C1 C2 C3 E1 E2 E3
Số cá trong lô (con) 25 50 100 25 50 100
Số cá chết
Ngày thứ 1
Ngày thứ 2
Ngày thứ 3
Ngày thứ 4
Ngày thứ 5
Ngày thứ 6
Ngày thứ 7
Ngày thứ 8
Ngày thứ 9
Ngày thứ 10
Ngày thứ 11
Ngày thứ 12
Ngày thứ 13
Ngày thứ 14
0
1
1
0
1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
2
3
1
0
0
1
1
2
0
2
0
0
0
0
1
0
0
1
1
0
0
0
0
0
0
0
0
1
0
1
0
0
0
1
0
0
0
0
0
0
0
2
5
2
2
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Tổng 3 1 12 3 3 11
Tỉ lệ (%) 12 2 12 12 6 11
43
Bảng 4.2 cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ chết nếu so sánh trong cùng
một mật độ nuôi giữa cá được tiêm FKC và cá đối chứng (tiêm nước muối sinh lí):
12% (lô E1) và 12% ( lô C1) (mật độ nuôi thấp), 2% (lô C2) và 6% (lô C2) (mật độ
trung bình), 12% (lô E3) và 11% (lô C3) (mật độ cao). Kết quả cũng tương tự khi so
sánh tỉ lệ chết của các mật độ nuôi khác nhau trong cùng điều kiện thí nghiệm. Theo
kết quả nghiên cứu của Shoemaker C.A và ctv. (2000) về ảnh hưởng của mật độ nuôi
và liều cảm nhiễm của vi khuẩn Streptococus iniae lên cá rô phi (Oreochromis
niloticus) với 3 mật độ: 5,6 g/l, 11,2 g/l, 22,4 g/l và gây cảm nhiễm cá với liều vi
khuẩn từ 2,5*107 – 1*108 CFU/ml bằng phương pháp ngâm, cho thấy mật độ có ảnh
hưởng đến tỉ lệ chết của cá. Mật độ nuôi thấp sẽ cho tỉ lệ chết thấp hơn. Có lẽ trong thí
nghiệm này, liều tiêm chưa đủ dể tạo độc lực mạnh làm chết cá.
Bảng 4.2 cũng cho thấy số cá chết thường tập trung trong tuần lễ đầu tiên sau
khi tiến hành cảm nhiễm vi khuẩn cho cá. Những ngày còn lại không có cá chết, chỉ có
duy nhất ở lô cá đối chứng có mật độ nuôi 100 con/bể (Lô C3).
Theo kết quả nghiên cứu của Chang và Plumb (1996), cá chết có những triệu
chứng bệnh lí khá điển hình như mắt lồi và giác mạc đục. Song trong thí nghiệm mà
chúng tôi tiến hành không ghi nhận được các triệu chứng bệnh tích điển hình như vậy.
Nhưng khi phân lập thì xác định được chủng vi khuẩn Streptococcus sp. trong mẫu
bệnh phẩm. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Klesius và ctv. (1999) với
một liều chủng vaccine S. iniae dạng FKC qua con đường i.p. trên cá rô phi
(Oreochromis niloticus) đã làm giảm tỉ lệ chết xuống 91,3% và ngăn ngừa được các
triệu chứng như: bơi lội bất thường, lồi mắt và giác mạc đục trên cá có trọng lượng 25
g và 100 g. Trong thí nghiệm của chúng tôi, cá có trọng lượng trung bình là 34,6 g và
tỉ lệ sống sót trên nhóm tiêm FKC là 88 – 94%. Cũng theo nghiên cứu sau đó của
Klesius và ctv. (2000) trên cùng đối tượng, Klesius cho rằng hiệu lực của vaccine phụ
thuộc vào độ tuổi của cá, cá nhỏ sẽ tạo đáp ứng miễn dịch kém hơn so với cá lớn. Kết
luận này cũng được Muzquiz và ctv. (1999; trích bởi Klesius và ctv., 2000) đưa ra
nhưng trên đối tượng nuôi là cá hồi. Từ thí nghiệm 2 chúng tôi cũng ghi nhận các kết
quả tương tự như các kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây.
Theo ghi nhận của chúng tôi thì hầu hết các cá chết trong thời gian theo dõi cá
nhỏ, có trọng lượng cơ thể từ 15 – 20 g. Điều này phù hợp với kết luận ở trên.
44
Việc phân lập vi khuẩn từ cá chết trong thời gian theo dõi phát hiện thấy vi
khuẩn Streptococcus sp. trong mẫu bệnh phẩm, theo chúng tôi có lẽ liều tiêm chưa đủ
tạo độc lực mạnh, và bản thân cá tồn tại sức đề kháng với mầm bệnh. Tuy nhiên sự
loại thải vi khuẩn xảy ra không hoàn toàn, một số ít vi khuẩn vẫn xâm nhập vào các
nội quan nhưng chưa tạo độc lực đủ mạnh để gây nên các triệu chứng bệnh đặc trưng.
Tuy nhiên, nếu so sánh về tỉ lệ chết với nhóm cá đối chứng, rõ ràng huyễn dịch
FKC đã chuẩn bị không chứng tỏ được hiệu quả. Nếu nghi ngờ một số yếu tố tạo stress
có tác động đến tỉ lệ chết thì theo kết quả nghiên cứu cứu Evans và ctv., (1999)
vaccine làm giảm sự tạo stress khi có mầm bệnh xâm nhiễm. Trong nghiên cứu này
của ông, đối tượng nghiên cứu là cá rô phi vằn (O. niloticus) và vaccine phòng bệnh
do S. agalactiae.
Sau khi hết thời gian theo dõi 14 ngày, chúng tôi tiến hành giải phẫu tất cả số cá
còn lại, phân tích vi sinh vật giống như phân tích mẫu cá bệnh thu ngoài tự nhiên. Kết
quả phân tích qua giải phẫu được thể hiện qua bảng 4.3
Bảng 4.3: Số cá phát hiện có nhiễm Streptococcus sp. qua giải phẫu
Lô C1 C2 C3 E1 E2 E3
Số cá giải phẫu (con)
Kết quả phát hiện
Tổng số cá nhiễm (con)
Tỉ lệ sau cùng (%)
22
0
3
12
49
0
1
2
88
12
24
24
22
0
3
12
47
0
3
6
89
5
16
16
Qua bảng 4.3 cho thấy có 17 con phát hiện có nhiễm Streptococcus sp., tập
trung vào các lô cá mật độ cao 100 con/bể: 5 con ở lô E3 và 12 con ở lô C3. Kết quả
này đã bộc lộ tỉ lệ cảm nhiễm ở lô nuôi mật độ cao (100 con/bể) giữa cá có tiêm và
không tiêm FKC có sự khác biệt rõ rệt (16% so với 24%). Cá được tiêm FKC có khả
năng chống stress tốt hơn cá không tiêm FKC, giảm được tỉ lệ cảm nhiễm vi khuẩn.
Bảng 4.3 cũng thể hiện tỉ lệ cảm nhiễm với vi khuẩn của cá ở mật độ nuôi cao
cao hơn so với nuôi ở mật độ thấp (25 con/bể và 50 con/bể) trong cả lô đối chứng và lô
tiêm FKC, chứng tỏ sức đề kháng của cá kém hơn khi nuôi ở mật độ cao.
45
Hình 4.2 : Hình thái khuẩn lạc của vi khuẩn Streptococcus sp.
trên môi trƣờng NA sau 24h nuôi cấy
4.3. Kết quả thí nghiệm 3
Mẫu máu cá được lấy định kì, thu huyết thanh và thử nghiệm phản ứng ngưng
kết nhanh trên phiến kính với vi khuẩn dạng FKC nhằm phát hiện kháng thể đặc hiệu
với vi khuẩn Streptococcus sp. Kết quả thử nghiệm ngưng kết được thể hiện trong
bảng 4.4
Bảng 4.4: Kết quả thực hiện phản ứng ngƣng kết nhanh trên phiến kính của các
mẫu thu đƣợc với vi khuẩn Streptococcus sp.
Lô A1(tiêm FKC 1 lần) A2 (được tiêm nhắc)
Số mẫu máu mỗi lần
thu (mẫu)
3 3
Ngày lấy máu, thử
phản ứng ngưng kết
7 10 15 20 25 30 35 40 45 20 25 30
Kết quả + + + + + + + + - + + +
Chú thích: (+) : dương tính
(–) : âm tính
46
Do số lượng cá có giới hạn (50 con/lô) và vì phải trích lấy thực hiện tiếp thí
nghiệm 2 sau 30 ngày theo dõi, nên chúng tôi chỉ theo dõi khả năng tạo kháng thể đến
ngày thứ 45 đối với lô cá tiêm FKC liều đơn. Đối với lô tiêm FKC nhắc lại, huyết
thanh cá được theo dõi đến ngày thứ 30.
Khả năng tạo đáp ứng miễn dịch ở cá điêu hồng diễn ra trong thời gian được 40
ngày. Đến ngày thứ 45 thì hoàn toàn không phát hiện được nữa. Điều này phù hợp với
các nghiên cứu trên cá nói chung. Các nghiên cứu đó cho rằng việc tạo đáp ứng miễn
dịch trên cá sau khi tiếp xúc với tác nhân gây bệnh thường kéo dài khoảng vài tháng
nếu không có sự tiếp xúc lặp lại sau đó như nghiên cứu của Eldar và ctv. (1997) trên
cá hồi (Oncorhynchus mykiss) với vaccine phòng Streptococcus iniae khi tiêm qua
xoang bụng chỉ với liều đơn có thể phát hiện kháng thể đặc hiệu trong 4 tháng.
Khả năng tạo kháng thể tốt nhất vào khoảng 3 tuần đầu sau khi cá được chủng
vaccine. Điều này căn cứ vào thời gian phản ứng ngưng kết xảy ra và mức độ tạo
thành ngưng kết giữa kháng nguyên và kháng thể. Kết quả này chúng tôi không thể
hiện ra đây nhưng qua các thử nghiệm đã được ghi nhận . Tất cả số mẫu huyết thanh
thử nghiệm đều cho phản ứng. Như vậy khả năng tạo đáp ứng rất đồng đều giữa các cá
thể trong đàn .
Dù không tiếp tục theo dõi trên lô được tiêm FKC nhắc lại, nhưng chắc chắn
thời gian tạo đáp ứng miễn dịch với vi khuẩn Streptococcus sp. sẽ kéo dài hơn với lô
chỉ chủng liều đơn . Có thể là do cá lớn, trọng lượng trung bình là 87,3 g nên khả năng
tạo đáp úng miễn dịch tốt.
4.4. Kết quả thí nghiệm 4
Kết quả theo dõi số cá chết hoặc hấp hối và số cá cảm nhiễm được thể hiện qua
bảng 4.5
47
Bảng 4.5. Kết quả theo dõi trong suốt thí nghiệm 4
Tên lô thí nghiệm B1 B2 B3
Nguồn lấy (lô) A1 A2 A2
Số cá trong lô (con) 15 15 15
Số cá chết (con) 0 0 0
Số cá mổ khám (con) 15 15 15
Số cá phát hiện có nhiễm (con) 0 0 0
Tỉ lệ tổng nhiễm (%) 0 0 0
Bảng 4.5 cho thấy không có cá hấp hối hay chết trong suốt thời gian theo dõi,
cũng như sau khi mổ khám vào cuối thí nghiệm, không phát hiện thấy cá nhiễm vi
khuẩn Streptococcus sp. Qua kết quả thu được từ thí nghiệm 3, chúng tôi phát hiện cá
có thể tạo được kháng thể đặc hiệu trong thời gian 40 ngày. Kết quả đó là trên cá rô
phi được chủng liều đơn. Vì cá có các tế bào có chức năng ghi nhớ miễn dịch trong hệ
thống miễn dịch nên sẽ tạo được đáp ứng mạnh hơn trong lần tiếp xúc lặp lại với cùng
loại kháng nguyên, cho nên trên cá được tiêm FKC lặp lại, thời gian sản xuất kháng
thể đặc hiệu sẽ dài hơn. Theo Klesius và ctv., (1999) khả năng miễn dịch kháng S.
iniae của cá rô phi phụ thuộc vào kháng thể kháng S. iniae cả về lượng và chất. Kết
quả thu được từ thí nghiệm 3 cho thấy rằng trong khoảng tháng đầu tiên sau khi tiêm
FKC, cá tạo được lượng kháng thể kháng vượt trội. Cá được tiêm thử thách sau giao
đoạn này nên khả năng kháng bệnh sẽ cao. Ở thí nghiệm này, cá tạo đáp ứng miễn dịch
tốt mặc dù được thử thách với nồng độ vi khuẩn rất cao là 1,58*106 CFU/ml.
Hơn nữa, cá được thí nghiệm ở đây là cá lớn (trọng lượng trung bình là 87,3 g)
nên khả năng đề kháng và tạo đáp ứng miễn dịch tốt hơn so với cá nhỏ. Điều này
chúng tôi đã thảo luận ở trên. Kết quả thu được cũng gần giống với kết quả nghiên cứu
của Klesius và ctv. (1999) đạt từ 84,2 – 94,7% khi các nhà nghiên cứu tiến hành trên
cá có trọng lượng trung bình là 100 g có tỉ lệ sống sót tương đối (RPS – relative
percent survival) nhưng liều thử thách cao hơn 1*108 CFU/cá thể, thời gian theo dõi
dài hơn tới 60 ngày.
Với thời gian tạo kháng thể như thế thì vi khuẩn đã bị trung hòa hoàn toàn, cô
lập và loại thải khỏi cơ thể trong những ngày đầu. Điều này được chứng minh qua việc
48
không phát hiện được vi khuẩn trong nội quan của cá khi mổ khám – phân lập sau khi
hết 14 ngày theo dõi.
Như vậy, việc tiêm cho cá rô phi có trọng lượng trung bình là 87,3 g với huyền
dịch FKC của vi khuẩn Streptococcus sp. bằng phương pháp tiêm i.p. đã giúp cá
không bị cảm nhiễm vi khuẩn đã dùng gây bệnh .
49
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Ở thỏ có xảy ra sự đáp ứng miễn dịch với vi khuẩn Streptococcus sp. nhưng
khả năng tạo đáp ứng miễn dịch chưa cao trong 7 tuần (49 ngày) khảo sát.
Khả năng tạo đáp ứng miễn dịch trên cá có trọng lượng 34,6 g kém, không
đủ để bảo vệ cơ thể cá khỏi nhiễm bệnh do Streptococcus sp.
Mật độ nuôi có ảnh hưởng lên tỉ lệ cảm nhiễm vi khuẩn Streptococcus sp.
giữa mật độ cao (100 con/1m3) và mật độ thấp (25 con/m3), giữa mật độ cao và mật độ
trung bình (50 con/m3) dù đã được hay chưa được kích thích đáp ứng miễn dịch trước
đó. Tuy nhiên, giữa mật độ nuôi thấp và mật độ nuôi trung bình, tỉ lệ cảm nhiễm
không có sự khác biệt.
Cá có trọng lượng 87,3 g cho đáp ứng miễn dịch cao khi tiêm xoang bụng
(i.p.) với FKC của vi khuẩn Streptococcus sp., thời gian tạo kháng thể đặc hiệu với
kháng nguyên vi khuẩn Streptococcus sp. khi tiêm liều đơn kéo dài được 40 ngày.
Cá có trọng lượng 87,3 g đã được kích thích tạo đáp ứng miễn dịch trong 30
ngày có tỉ lệ nhiễm Streptococcus sp. sau khi gây nhiễm là 0,00% trên tất cả các lô.
5.2. Đề nghị
Trên cá
Tiếp tục theo dõi khả năng đáp ứng miễn dịch của cá khi được kích thích
miễn dịch lặp lại về thời gian, cường độ đáp ứng.
Tiếp tục khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố khác ảnh hưởng đến tỉ lệ chết vì
bệnh do vi khuẩn Streptococcus sp, từ đó đưa ra chiến lược quản lí và kiểm soát dịch
bệnh để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất và an toàn cho môi trường.
Nghiên cứu sản xuất vaccine phòng bệnh do vi khuẩn Streptococcus sp. và
các bệnh do vi khuẩn khác cho cá.
Trên thỏ
Tiếp tục khảo sát đáp ứng của thỏ với các chất bổ trợ khác.
Nghiên cứu điều chế kháng huyết thanh thỏ có hiệu giá ngưng kết cao hơn
với vi khuẩn Streptococcus sp. dùng cho chẩn đoán bệnh.
50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1/ Báo Khoa học phổ thông và Nhà văn hóa khoa học, 2002. Hội thảo chuyên
đề: Thủy sản: nuôi trồng, chất lượng và xuất khẩu.
Website: www.ctu.edu.vn/colleges/aquaculture/aquafishdata/index.htm.
2/ Dương Phượng Uyên, 2005. Khảo sát kỹ thuật nuôi và bệnh do
Streptococcus sp. trên cá rô phi nuôi bè. Khóa luận tốt nghiệp kỹ sư Thủy sản, trường
Đại học Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh.
3/ Đỗ Ngọc Liên, 1999. Miễn dịch học cơ sở. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội, 240 trang.
4/ Hoàng Hải Hóa, 2001. Chẩn đoán huyết thanh học bệnh thương hàn gà do
Samonella gallinarum – pullorum bằng phương pháp ngung kết nhanh trên phiến kính.
Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Khoa Chăn nuôi – Thú y, Đại học Nông Lâm Tp. HCM
5/ Lê Văn Hùng, 2002. Miễn dịch học thú y. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Tp.
HCM, Việt Nam. 192 trang.
6/ Mai Chi, 2002. Thấy cá điêu hồng tìm hiểu nguồn gốc rô phi đỏ. Báo Khoa
học phổ thông số 638 : 43 – 46.
7/ Nguyễn Đình Bảng và Nguyễn Thị Kim Hương, 2003. Vaccine và chế phẩm
miễn dịch trong phòng và điều trị. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
8/ Nguyễn Mạnh Thắng, 2003. Nghiên cứu sử dụng montanide – 50 làm chất bổ
trợ miễn dịch cho vaccine tụ huyết trùng. Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Khoa Chăn nuôi
– Thú y, Đại học Nông Lâm Tp. HCM .
9/ Nguyễn Thị Ngọc Bích, 2005. Khảo sát một số đặc điểm gây bệnh của các vi
khuẩn phân lập từ cá rô phi nuôi bè. Khóa luận tốt nghiệp kỹ sư Thủy sản, Trường Đại
học Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh.
10/ Nguyễn Tri Cơ, 2004. Điều tra tình hình nuôi và dịch bệnh trên cá rô phi
nuôi bè ở đồng bằng sông Cửu Long và cách phòng trị. Khóa luận tốt nghiệp kỹ sư
Thủy sản, Trường Đại học Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh.
51
11/ Nguyễn Vĩnh Phước, 1977. Vi sinh vật thú y. Tập 1. Nhà xuất bản ĐH và
THCN, Hà Nội.
12/ Trần Văn Vỹ, 1999. 35 câu hỏi đáp về nuôi cá rô phi. Nhà xuất bản Nông
nghiệp, Hà Nội.
13/ Võ Văn Tuấn, 2005. Hiện trạng và tình hình bệnh vi khuẩn trên cá rô phi
đỏ nuôi lồng bè tại tỉnh Đồng Nai. Khóa luận tốt nghiệp kỹ sư Thủy sản, trường Đại
học Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh.
14/ Vương Thị Việt Hoa, Vũ Thị Lâm An, Tô Minh Châu, Nguyễn Thị Ngọc
Diệp, Lâm Thanh Hiền và Nguyễn Thúy Hương, 1999. Vi sinh vật học đại cương.Tủ
sách trường Đại học Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh, 220 trang.
52
Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
1/ Aasjord P. M. and Slinde E., 1994. Fish vaccine: development, production
and use of bacterial vaccine with special reference to salmon. Fisheries processing
biotechnological application (Martin A. M.). Chapman & Hall, London, England, p.
432 – 465.
2/ Chang P.H. and Plumb J.A., 1996. Histopathology of experimental
Streptococcus sp. infection tilapia (Oreochromis niloticus) and channel catfish
(Ictalurus punctatus) (Rafinesque). Journal of fish disease.: 236.
3/ Eldar A., Horovitcz C. and Bercovier H., 1997. Development and efficacy of
affecting mortality of Streptococcus iniae infection infarmed rainbow trout. Vet.
Immunol. Immunpathol. Vol.56, no. 1 – 2:175 – 183.
4/ Evans J.J, Klesius P.H., Shoemaker C.A. and Fitzpatrick B.T., 2005.
Streptococcus agalactiae vaccination and infection stress in Nile tilapia, Oreochromis
niloticus. Journal of Applied Aquaculture 13 (issue 3/4):105 – 115.
5/ Fox J. M., 2005. Immune respone of aquatic organisms.
Website: www.sci.tamuec.edu/pals/index/WEBPAGE/immune.ppt
6/ Klesius P.H., Shoemaker C.A and Evans J.J, 2000. Efficacy of single and
combined Streptococcus iniae isolate vaccine administered by intraperitoneal and
intramuscular routes in tilapia (Oreochromis niloticus). Aquaculture 188: 237 – 246.
Elsivier science B.V, Armterdam, NL.
7/ Klesius P.H., Shoemaker C.A and Evans J.J., 1999. Efficacy of a killed
Streptococcus iniae vaccine in tilapia (Oreochromis niloticus). Bull. Ass. Fish Pathol
19 (1): 1-3.
8/ Nguyen H.T. and Kanai K., 1999. Selective agars for the isolation of
Streptococcus iniae from Japanese flounder, Paralichthys olivaceus, and its cultural
environment. Journal of Applied Microbiology 86 : 769 – 776.
9/ Popma T., Masser M., 1999. Tilapia, life history and biology.
Website: www.aquanic.org/publicat/usda_rac/srac/283fs.pdf.
10/ Roberson B.S., 1990. Bacterial agglutination. Techniques in fish
immunology (J.S Stolen, TC Pletcher, D.P. Anderson, B.S Roberson, W.B. van
Muiswinkel), SOS Publications, New Jesey, USA, p. 81 – 86.
53
11/ Shoemaker C.A., Klesius P.H and Evans J.J., 1999. Density and dose:
factors affecting mortality of Streptococcus iniae infected tilapia (Oreochromis
niloticus). Aquaculture 188: 229 – 235.
12/ Souter W. B., 1983. Immunization with vaccines. A guide to integrated fish
health management in the Great Lakes basin (Meyer F. P., Warren J. W., Carey T. G.),
Ann Arbor, Michigan, USA , p. 111 – 119.
Website: www.glfc. Org/pubs/special_pubs/sp83_2/pdf/chap13.pdf
13/ Stoskopf M. K., 1993. Clinical examination and procedures. Fish medicine
(Stoskopf M. K.), W. B. Sounder, Philadelphia, USA, p. 62 – 78.
14/ Stoskopf S. K., 1993. Immunology. Fish medicine (Stoskopf M. K. ), W. B.
Sounder, Philadelphia, USA, p. 149 – 159.
15/ Weistein M.R et al., 1997. Invasive infections due to a fish pathogen,
Streptococcus iniae. The New England Journal of Medicine 337 (9): 589 – 595.
Website: www.nejm.org.
16/ Yanong R.P.E. và Floyd R.F, 2001. Streptococcal infections of fish.
Website: www.edis.ifas.ufl.edu/FA057-25k