Chúng ta đang trải qua những năm đầu của thế kỉ XXI, chỉ còn hơn 10 năm nữa để đất nước ta thực hiện nốt những điều kiện để trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Trong xu thế hội nhập ngày càng cao của toàn bộ các lĩnh vực của đời sống mà đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, các doanh nghiệp của chúng ta cũng đang tự hoàn thiện và vươn lên để sánh kịp, đón đầu sự tất yếu của thời đại.
Xunhasaba đang từng bước tự hoàn thiện mình, đang vượt ra khỏi những khó khăn ban đầu của quá trình hội nhập để củng cố vị trí hàng đầu của Việt Nam trên lĩnh vực xuất nhập khẩu sách báo và để vươn lên thành một doanh nghiệp có uy tín trong khu vực cũng như trên thế giới trong lĩnh vực kinh doanh này.
Khi WTO đang đến rất gần, khi nhịp thở của thời đại kinh tế toàn cầu đang thôi thúc ngay ở sau lưng thì sẽ có rất nhiều việc phải làm với Công ty. Hợp tác hóa toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực trong đó sẽ có cả lĩnh vực xuất bản, in phát hành.Liệu Công ty có bối rối trong những sự hợp tác mới mẻ đó để vươn lên nắm lấy những cơ hội mới, những khoảng trống của nền kinh tế mà vươn lên để phát triển vững mạnh.
95 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Định hướng và những giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm xuất nhập khẩu của công ty Xunhasaba, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n. Tức là hoạt động xuất nhập khẩu dựa phần lớn vào đơn đặt hàng trước của khách hàng. Phần lớn các đơn đặt của Xunhasaba là các thư viện của các trường đại học, các cơ quan ngoại giao, tổ chức xúc tiến …với số lượng rất lớn : Ví dụ với khách hàng trong nước: TTTVQG hàng năm đặt hàng với kim ngạch trên 100.000 USD. Công ty PHBC TƯ cũng có giá trị các đơn đặt dao động từ 92.000 đến 13.5000 USD, Trung tâm thông tin KHXH &NH mỗi năm cũng đặt hàng khoảng 70.000-80.000 USD …
Các khác hàng nước ngoài ví dụ: trung tâm thư viện quốc gia Đức mỗi năm cũng đặt 10.000-12.000 USD tiền sách báo … Như vậy lượng sách báo nhập hay xuất của Xunhasaba chiếm phần lớn từ các đơn đặt hàng (khoảng 80%). Với lượng hàng này thì tổ chức vận chuyển đã có trong hợp đồng giao dịch. Với lượng sách báo xuất khẩu Xunhasaba sử dụng hai hình thức cơ bản là kí hợp đồng gửi qua dịch vụ hàng không và tàu thuỷ (hai hình thức di chuyển này chuyển tới hơn 90% lượng sách báo mà công ty xuất khẩu).
Vói các khách hàng trong nước thì ngoại trừ một số khách hàng như TT TV trường Đại học Đà Nẵng, Đại học Vinh…thì hầu hết khách hàng đều tập trung tại Hà Nội và Tp.HCM do vậy việc tổ chức phân phối sách báo cho họ là điều mà công ty luôn thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên việc thực hiện phân phối báo gặp hạn chế bởi Xunhasaba khai thác qua Công ty phát hành báo chí TƯ và gửi theo đường bưu điện…nên nhiều khi không đảm bảo được về thời gian.
Như vậy nói chính xác là kế hoạch phân phối sách báo của Xunhasaba là việc tổ chức trả hàng theo đơn đặt. Lượng sách báo dự trữ không nhiều (khoảng 10% cho cửa hàng và 10% cho các nhà mua buôn).
Điều này là do:
+) Ở thị trường trong nước, nhu cầu XBP ngoại văn chưa thật sự cao, hơn nữa thị trường tập trung ở Hà Nội, Tp HồChí Minh, Đà Nẵng,…cộng với việc giá bán sách báo nhập khẩu thường cao gấp 2-3 lần giá bìa, do đó việc tổ chức trung gian (kênh phân phối) là chưa thực sự cần thiết. Người tiêu dùng sẽ thiệt thòi hoặc doanh lợi của công ty sẽ giảm.
+ Ở thị trường nước ngoài, kế hoạch tiếp cận nhà bán buôn đã có nhưng thực hiện đầu tư hệ thống phân phối sách báo của công ty là chưa thể.
Trong tương lai Xunhasaba sẽ tổ chức phân phối sách báo của mình theo nhiều phương thức khác nhau (như tổ chức kênh phân phối…) nhưng việc đó phải được làm song song với việc mở rộng thị trường tiêu thụ và xây dụng thương diệu của công ty.
Kết quả kinh doanh của Công ty từ năm 2001-2005.
Kết quả của hoạt động xuất khẩu sách báo.
Bảng 6: Kết quả của hoạt động xuất khẩu sách báo từ năm 2001-2005.
Mặt
hàng
Năm
Sách
Báo, tạp chí
Số lượng
(bản)
Doanh thu
(1000USD)
Số lượng
(bản)
Doanh thu
(1000USD)
2001
38400
141.000
151.000
167.000
2002
41200
144.000
156.000
169.500
2003
43.100
143.500
161.500
170.000
2004
43.600
144.000
163.000
171.500
2005
46.900
151.000
170.000
174.800
(Nguồn: báo cáo tổng kết của Công ty năm 2001- 2005)
+Từ năm 2001-2005 Xunhasaba thực hiện xuất khẩu được lượng sách dao động từ 38400 bản ( năm 2001) đến 46900 bản (2005). Có thể thấy mức gia tăng xuất mặt hàng này là không cao. Trung bình mỗi năm tỉ lệ gia tăng xuất mặt hàng này là 5.1%/năm. Trong đó năm có tỉ lệ gia tăng cao nhất là năm 2002, 2005 với mức tăng lần lượt là 7.29% và 7.5%. Đó cũng được coi là một kết quả tốt trong bối cảnh khó khăn của Công ty. Nhưng so với lượng sách khai thác được thì con số xuất đó là không thật cao. Với mặt hàng báo, tạp chí hoạt động xuất khẩu của Công ty ổn định hơn. Mức gia tăng thấp hơn, trung bình là 3.1%/năm.
+ Năm 2004 tỉ lệ tăng mức xuất khẩu của cả hai mặt hàng thấp. Với mặt hàng sách là 1.16%, với mặt hàng báo, tạp chí là 0.93%. Năm này là năm rất khó khăn với công ty khi mà một số khách hàng lớn cắt giảm lượng nhập khẩu.
Kết quả của hoạt động nhập khẩu sách báo.
Bảng7: Kết quả tiêu thụ sách báo nhập khẩu của Công ty trong
giai đoạn 2001-2005.
Mặt
hàng
Năm
Sách
Báo, tạp chí
Số lượng
(bản)
Doanh thu
(1000USD)
Số lượng
(bản, tờ)
Doanh thu
(1000USD)
2001
88.000
545.000
1.192.000
1.704.000
2002
92.600
554.000
1.209.200
1.714.000
2003
95.800
568.500
1.211.400
1.704.500
2004
93.210
553.000
1.191.200
1.661.000
2005
99.300
603.500
1.241.600
1.734.500
(Nguồn: báo cáo tổng kết của Công ty năm 2001-2005)
Có thể nhận thấy tỉ lệ tiêu thụ báo, tạp chí nhập khẩu luôn cao hơn so với mặt hàng sách nhập khẩu. Điều đó là do nhu cầu của khách hàng về thông tin. Báo, tạp chí là phương tiện đưa tin mang tính thời sự. Mà chủng loại lại rất đa dạng. Từ báo tin nhanh đến báo ngày, báo tuần...rồi các tạp chí. Hơn nữa giá của báo, tạp chí lại rẻ hơn rất nhiều so với giá sách nhập khẩu. Mặt khác lượng tri thức, thông tin trong báo, tạp chí phù hợp hơn với trình độ và cách tiếp cận của khách hàn trong nước. Tỉ trọng doanh thu từ tiêu thụ báo chí luôn lớn hơn gấp nhiều lần so với sách. Năm 2001, tỉ trọng doanh thu từ tiêu thụ măt hàng báo, tạp chí là 75.57% trên tổng doanh thu của tiêu thụ hai mặt hàng. Năm 2002 con số này là 75,5%, năm 2003 là 75 %. Năm 2004 tỉ trọng doanh thu của sách có tăng chút ít trên tổng doanh thu đạt 26,2 %. Và năm 2005 con số ấy là 25,8 %.
+ Có thể thấy mức độ tăng trưởng của doanh thu từ việc tiêu thụ hai mặt hàng này là không cao và chưa thực sự ổn định. Lượng tiêu thụ năm 2002 đạt 92600 bản, 105.27% so với năm 2001. Năm 2003 lượng tiêu thụ đạt 95800 bản và bằng 103.4% so với năm 2002...Năm 2005 con số này đã được cải thiện đáng kể khi tiêu thụ được 99300 bản 106.5% so với năm 2004.
Với mặt hàng báo, tạp chí thì mức độ gia tăng có ổn định hơn. Khi mà lượng tiêu thụ của mặt hàng này luôn tăng giảm dao động trong khoảng 1%.
Từ kết quả tiêu thụ hai mặt hàng nhập khẩu ở trên và kết quả nhập khẩu của nó (bảng 1) ta có bảng tỉ lệ sau:
Bảng 7.1: Tỉ lệ tiêu thụ sách báo nhập khẩu so với số lượng nhập.s
(Đơn vị %)
Chỉ
tiêu
Năm
Lượng tiêu thụ sách /lượng nhập
Lượng tiêu thụ báo chí/lượng nhập
2001
83.37
98,7
2002
88.2
97,6
2003
86.8
95.2
2004
86.9
98
2005
84
95.9
Có thể nhận thấy lượng tiêu thụ của mặt hàng sách không cao như mặt hàng báo chí. Tỷ lệ tiêu thụ so với lượng nhập tương đối thấp, chưa đạt đến ngưỡng 90%. Điều đó cho thấy tỉ lệ tồn hàng của Công ty cũng tương đối cao. Riêng mặt hàng báo, tạp chí thì tình hình lại khác. Tỉ lệ tiêu thụ so với lượng khai thác được luôn đạt từ 95,2% (năm 2003) đến 98.7% (năm 2001).
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh doanh của Xunhasaba.
Năm
ChỉTiêu
2001
2002
2003
2004
2005
(USD)
2.667.400
2.782.730
2.618.428
2.563.215
2.881.840
Dthu xuất(USD)
308.000
313.500
313.500
321.500
325.800
Dthu nhập(USD)
2.359.400
2.469.230
2.304.928
2.241.715
2.556.040
Lợi nhuận trước thuế (1000VND)
1.624.313
1.690.237
1.720.484
1.708.997
1.754.897
Thuế(1000VND)
902.582
921.441
926500
922900
955152
Lương bình quân(1000VND)
2300
2400
2500
2500
2600
(Nguồn : báo cáo tổng kết năm 2001-2005)
+Qua bảng số liệu cho thấy tỉ trọng doanh thu xuất khẩu chiếm phần nhỏ trong tổng doanh thu (xuất ,nhập). Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu chiếm 11,55%, năm 2002 là 11,3%, năm 2003 là 12%, năm 2004 là 12.5% và năm 2005 là 11,3%.
+Lợi nhuận sau thuế của công ty sau là không thật cao. Tuy nhiên nó tương đối ổn định. Năm 2001 là: 721.731.000(VND), năm 2002 là: 768.796.000(VND), năm 2003 là 793.984.000(VND), năm 2004 là 786.097.000(VND) và năm 2005 là: 799.745.000(VND). Mức tăng trưởng lợi nhuận bình quân trong giai đoạn là 2.64%. Đó là tỉ lệ tăng trưởng không cao. Điều đó sẽ kéo theo tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thấp, hiệu quả do sử dụng vốn chưa cao. Năm 2001tỉ suất lợi nhuận/doanh thu là 1.74%, năm 2002 là 1.78%, năm 2003 là 1.95%, năm 2004 là 1.97%, năm 2005 là 1.79%.
+Chỉ tiêu về lương cơ bản cho người lao động được thực hiện tương đối cao và ổn định. Năm 2001 là 2.3 triệu/người/năm, năm 2002 là 2.4 triệu/người/năm (tăng 4.34%), năm 2003 là 2.5 triệu (tăng 4,17%), năm 2004 là 2.5 triệu (không tăng) và năm 2005 là 2.6 triệu (tăng 4%). Đó là một con số khá cao so với các đơn vị trong ngành. Ngoài ra các chính sách đại ngộ, bồi dưỡng, khen thưởng...đối với cán bộ, công nhân viên của Công ty cũng được thực hiện tốt.
Nhìn chung, việc thực hiện các chỉ tiêu xuất nhập khẩu sách báo, cơ bản công ty đã thu được kết quả tốt, mức tăng trưởng không cao nhưng ổn định.
Đó là cơ sở, bước đệm cho xuất nhập bước vào giai đoạn mới giai đoạn 2006 – 2010.
Nhận xét hoạt động xuất nhập khẩu sách báo của công ty giai đoạn 2001 – 2005.
6.1. Ưu điểm
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, cùng với quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, Công ty Xunhasaba đã từng bước vượt qua khó khăn ban đầu, phấn đấu đạt được những thành công nhất định trong hoạt động kinh doanh sách báo XNK trong những năm qua.
Từ năm 2001 đến năm 2005 Công ty thực hiện đạt tỷ lệ hoàn thành kế hoạch cao về các chỉ tiêu kinh doanh như: doanh thu, chỉ tiêu nộp ngân sách, lợi nhuận, thu nhập của công nhân viên...Điều đó chứng tỏ Công ty đã bước đầu thích ứng được với nhịp đập của cơ chế kinh tế thị trường.
Công tác xuất khẩu có nhiều tiến bộ. Như đã giữ vững được khách hàng ở các thị trường truyền thống như Bắc Mỹ, Úc, Trung Quốc...Nhiều khách hàng tìm đến hoặc quay lại đặt mua sách báo của Công ty cho sự chu đáo nhiệt tình và luôn đảm bảo đúng quy trình nghiệp vụ kinh doanh, thông lệ kinh doanh quốc tế trong quan hệ mua bán của Công ty.
Có nhiều sáng kiến đã được cán bộ, công nhân viên đưa ra và thực hiện có hiệu quả. Như việc biên tập mục lục sách báo, việc đăng cập nội dung thông tin sách mới trên trang web của Công ty, việc gửi thư chúc mừng vào dịp Tết đến khách hàng có kèm theo bản giới thiệu sách báo mới...
Công tác nhập khẩu luôn được đảm bảo về chất lượng nội dung, theo đúng định hướng của Nhà nước và pháp luật. Sự phối hợp nhịp nhàng với các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý luôn tạo đảm bảo cho hàng hóa của Công ty, cũng như trên thị trường được trong sạch, đúng luồng.
Trong quan hệ với khách hàng cũng có nhiều biến chuyển. Việc giải quyết khiếu nại đã được quan tâm chu đáo. Các thắc mắc của khách hàng được Công ty giải quyết thỏa đáng. Đặc biệt là Công ty đã chú trọng hơn vào việc tìm ra nguyên nhân của các thắc mắc khiếu nại ấy để tháo gỡ khắc phục tránh sự tiếp diễn của nó, mang lại sự hài lòng tốt nhất cho khách hàng. Mặt khác công tác thu hồi nợ đọng của khách hàng đã được công ty giải quyết tốt trong thời gian qua. Nó góp phần vào công tác huy động vốn cho hoạt động kinh doanh. Việc thanh quyết toán với các nhà cung cấp cũng luôn được Xunhasaba thực hiện đầy đủ và đúng tiến độ. Đảm bảo uy tín cao trong giao dịch, trao đổi.
Công tác xúc tiến hội chợ, triển lãm được Công ty tham gia thường xuyên. Nâng cao dâng trình độ nghiệp vụ chuyên môn của nhân viên và thực hiện có hiệu quả công tác khai thác nguồn hàng và tìm kiếm bạn hàng. Việc tham gia hội chợ tạo điều kiện hội nhập và hợp tác quốc tế cho Công ty.
Công tác thăm dò thị trường có nhiều tiến bộ. Đặc biệt là việc cử các đoàn đi khảo sát ở các thị trường mục tiêu đã giúp Công ty nắm bắt được nhiều cơ hội kinh doanh, nhiều thị trường mới.
Công tác đầu tư tu sửa cửa hàng, trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ của các phòng ban trong giai đoạn này đã được Công ty thực hiện tốt. Làm cho các khâu nghiệp vụ được thực hiện một cách khoa học, nhanh và hiệu quả.
6.2. Nhược điểm.
Những hạn chế chung.
+ Tình trạng mất cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu.
Có thể nói tình trạng nhập siêu vẫn luôn tồn tại trong nhiều năm qua trong cán cân thương mại của Công ty.
. Năm 2001 tỷ trọng giữa kim ngạch xuất khẩu/ nhập khẩu là : 13%
. Năm 2002 tỷ trọng giữa kim ngạch xuất khẩu/ nhập khẩu: 12,7%
. Năm 2003 tỷ trọng giữa kim ngạch xuất khẩu/ nhập khẩu: 13,6%
. Năm 2004 tỷ trọng giữa kim ngạch xuất khẩu/ nhập khẩu: 14.34%
. Năm 2005 tỷ trọng giữa kim ngạch xuất khẩu/ nhập khẩu: 12,74%
Sự chênh lệch này là khá lớn. Và vẫn chưa có tình hình suy giảm. Năm 2003 và năm 2004 tỉ lệ này có gia tăng nhưng một phần lại do kim ngạch nhập khẩu giảm đi.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là do nhu cầu của công chúng trong nước với sách báo ngoại văn đang tăng lên. Do nhu cầu học ngoại ngữ, do sự tăng trưởng của các lĩnh vực đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, do sự liên kết giáo dục giữa các tổ giáo dục, văn hóa nước ngoài với cơ quan giáo dục, tổ chức kinh doanh của Việt Nam tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua. Đặc biệt việc các tổ chức nước ngoài mở những trường dạy ngoại ngữ, tin học, đào tạo nhân lực... tại nước ta khiến cho một bộ phận lớn nhu cầu về sách báo ngoại văn phục vụ học tập tăng lên nhanh.
+ Tình trạng mất cân đối giữa nhập khẩu báo chí và nhập khẩu sách.
Đó là khoảng cách chênh lệch tương đối lớn giữa kim ngạch nhập khẩu báo, tạp chí với nhập khẩu sách.
Năm 2001 tỉ trọng kim ngạch nhập khẩu sách/ báo, tạp chí là 35,67%. Con số đó giảm đi chút ít vào năm sau đạt 35,59%. Năm 2003 tỉ trọng ấy tiếp tục giảm còn 34,9%. Năm 2004 với tỷ trọng là 34,3% và 2005 con số đó có tăng lên chút ít là 36,57%.
Kết quả đó là do nhiều nguyên nhân khác nhau:
-Thứ nhất là do giá sách nhập khẩu rất cao so với thu nhập bình quân của người dân. Chi phí vận chuyể, các chi phí giao dịch cộng với thuế VAT (5%) đã khyến cho giá của sách nhập thường được bán với giá cao gấp từ 2 đến 3 lần so với giá thành.
_Thứ hai là tình trạng nhập lậu sách thông qua các hình thức khác nhau ( đặc biệt là hình thức quà tặng) vẫn diễn ra. Đặc biệt với những thư viện và các trung tâm hỗ trợ nghiên cứu, phát triển...dẫn đến việc mất khách hàng cho Công ty.
_ Thứ ba là trình độ phổ cập ngoại ngữ trong nước vẫn còn yếu. Do vậy việc tham khảo các tài liệu nước ngoài bằng các ngoại ngữ khác là còn hạn chế. Với các sách ngoại văn là truyện hoặc các hình thức, thể loại của văn học nghệ thuật thì lại càng khó khăn. Trong khi đó việc tham khảo những thông tin, tri thức trên báo, tạp chí là dễ dàng hơn nhiều.
+Tình trạng tồn kho trong kế hoạch nguồn hàng của Công ty.
Trong hoạt động kinh doanh tình trạng tồn kho là không tránh khỏi. Kể cả người ta có thể kinh doanh theo cung cách mua đứt bán đoạn đi chăng nữa. Trong kinh doanh sách báo XNK, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu thì Công ty thường tiến hành theo đơn đặt. Bởi vậy tình trạng tồn kho của Xunhasaba thường là của hoạt động nhập khẩu, và nó diễn ra ở mặt hàng sách là nhiều hơn. Điều đó rất nguy hiểm với mặt hàng vì qua thời gian sách báo sẽ mất dần đi giá trị, đặc biệt với mặt hàng báo, tạp chí. Do vậy trong những năm qua Công ty luôn cố gắng bằng nhiều biện pháp để hạn chế tình trạng này. Tỷ lệ tồn kho của Công ty trong giai đoạn qua đã giảm nhiều. Với mặt hàng sách nhập khẩu tỉ lệ tồn kho (trong một kì kinh doanh) năm 2002 là 13,15%, năm 2003 là 13,2%, năm 2004 tỉ lệ này là 13,5% và năm 2005- năm có tỉ lệ tồn kho thấp nhất trong giai đoạn này- tỉ lệ tồn kho 10,1%. Tỉ lệ tồn kho đã giảm dần qua các năm tuy nhiên mức giảm là không cao lắm. Với mặt hàng báo, tạp chí tỉ lệ tồn kho là thấp hơn. Chỉ dao động trong khoảng từ 1,3% (năm 2001)4,8% (năm 2003). Với những loại hàng hóa thông thường thì đó là một con số đáng mừng. Những với hàng hóa XBP thì chỉ cần một tỉ lệ tồn kho rất thấp thì hiệu quả kinh doanh của Công ty cũng bị giảm sút nhiều. Hơn nữa giá của XBP xuất nhập khẩu thường cao...do đó sẽ rất khó có thể thu lại được nguồn vốn nếu để tỉ lệ tồn kho còn để kéo dài.
Kết quả đó là do những khó khăn chung trong bối cảnh của môi trường kinh doanh hiện nay. Năm 2005 tỉ lệ tồn kho của Công ty đạt thấp nhất, đó sẽ là cơ sở để Công ty phấn đấu giảm tỉ lệ này (chủ yếu với sách) xuống còn một con số.
b. Những hạn chế ở các khâu nghiệp vụ cụ thể.
+ Đó đầu tiên phải là những hạn chế trong công tác xúc tiến. Có thể nói trong công tác này Công ty chưa thu được kết quả như mong muốn. Các hình thức xúc tiến quảng cáo (trên Internet, bao bì, qua thư...), xúc tiến khuyến mại, khuyến mãi, xúc tiến tại cửa hàng đều chưa thu hút được nhiều khách hàng. Đặc biệt hình thức xúc tiến quan trọng nhất là xúc tiến tại hội chợ triển lãm thì Công ty còn nhiều hạn chế, khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Công ty chưa có kế hoạch cụ thể cho công tác xúc tiến hội chợ triển lãm. Một số hội chợ không thuộc diện được cấp kinh phí nhưng Công ty cũng chưa dũng cảm sẵn sàng tham gia. Công tác chuẩn bị_một khâu quyết định 80% thành công của công tác xúc tiến - Công ty vẫn chưa làm tốt. Ở những hội chợ sách quốc tế lớn - nơi có hàng trăm gian hang của hàng trăm các nhà kinh doanh XBP hàng đầu thế giới với hàng triệu bản sách - mà diện tích gian hàng của Công ty chỉ một ít mét vuông và hơn một trăm đầu sách...thì đó chưa thể là một công tác xúc tiến tốt.
- Hơn nữa việc trưng bày, giới thiệu, giao dịch, thảo luận tại hội chợ thực tế đã có nhiều chuyển biến nhưng vẫn chưa thực sự chủ động và xứng tầm với các bạn hàng.
- Một số kết quả thu được trong quá trình tham dự hội chợ với đối tác nước ngoài, sau lại không được triển khai triệt để trong quá trình kinh doanh tiếp theo.
+ Hạn chế thứ hai đến từ công tác khảo sát thị trường.
Thực sự việc tổ chức các đoàn đi tổ chức khảo sát thị trường quốc tế cũng như trong nước của Công ty vẫn được tổ chức thường xuyên (hay đi kèm với tham gia hội chợ..) nhưng hiệu quả thu về là không cao.
Đặc biệt khi đi khảo sát ở thị trường quốc tế là điều rất khó khăn. Công ty không thể thực hiện các công việc khảo sát như ở trong nước được (có nhiều nguyên nhân). Những hạn chế về trình độ ngoại ngữ và kinh phí không cho phép Công ty thực hiện khảo sát một cách hiệu quả. Việc quan hệ với các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam ở nước ngoài là chưa có hoặc chưa thường xuyên. Điều này giống như một người nào đó đi trong đêm mà thiếu người dẫn đường quen thuộc và họ chỉ đi theo cảm giác ban ngày mà họ vẫn đi. Đó chính là dựa vào kinh nghiệm.
+Hạn chế thứ ba thuộc về công tác khai thác.
Khi mà các hình thức khai thác của Công ty vẫn chưa đa dạng. Đặc biệt việc khai thác mặt hàng băng liên kết xuất bản là chưa thực hiện được bao nhiêu. Chính vì vậy hàng hóa XBP của Công ty vẫn chưa có sự khác biệt đột phá so với XBP trên thị trường. Những cuốn sách được gọi là “hot” thì Công ty vẫn chưa chiếm lĩnh được. Thiếu đi “sự dũng cảm”, quyết đoán, nhanh nhậy...Công ty đã không chiếm lĩnh được những cơ hội tốt nhất cho mình...Do vậy chất lượng nguồn hàng khai thác là không cao hay chính xác là thiếu tính cạnh tranh....
Những hạn chế của Xunhasaba có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh doanh. Nhưng nó hoàn toàn có thể khắc phục được nếu Công ty đầu tư cho chiến lược “con người”. Đó cũng là nhiệm vụ sống còn của bất cứ một doanh nghiệp nào.
Chương III. Định hướng và những giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh XBP XNK của công ty Xunhasaba trong giai đoạn tiếp theo.
Phương hướng hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu của Công ty đến năm 2010
Đảng ta luôn xác định, xây dựng và phát triển Văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Trong bối cảnh hiện nay các doanh nghiệp nói chung và công ty Xunhasaba nói riêng, luôn phải phấn đấu thực hiện hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả nhằm đảm bảo mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp, vừa phải luôn bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về văn hóa để thực hiện nhiệm vụ thứ hai cũng rất quan trọng nhiệm vụ xã hội- trên lĩnh vực văn hóa.
Trong thời gian qua, ngoài Luật xuất bản Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về các chế độ chính sách xuất nhập khẩu trong lĩnh vực văn hóa. Như:
+ Thông tư Liên bộ số 26/TT-LB ngày 15/4/1994 của Bộ Văn hóa Thông tin- Bộ Thương Mại, quy định về quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu Văn hóa phảm, vật tư chuyên dùng và thiết bị ngành in.
+ Quy chế xuất nhập khẩu ủy thác giữa các pháp nhân trong nước (ban hành kèm theo quyết định số 117/TM-XNK ngày 22/9/1994).
+ Quy chế về tổ chức và hoạt động phát hành xuất bản phẩm (ban hành kèm theo Quyết định số : 2501-QĐ-CXB ngày 15/8/1997 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin)
............
Định hướng của Đảng cũng chỉ rõ, phải tăng cường mở rộng hợp tác giao lưu Văn hóa giữa nước ta với các nước trên thế giới. Nhằm tiếp thu những tinh hoa văn hóa, những thành tựu KHKT – CN của các nước tiên tiến trên thế giới để làm giàu có hơn nền tư tưởng văn hóa của nước nhà. Đồng thời thực hiện việc giới thiệu, phổ biến những giá trị văn hóa, những thành tựu văn hóa của nước ta với bạn bè năm Châu, góp phần tăng cường vị thế của Viết Nam trên trường Quốc tế.
Bám sát chủ trương đó, Công ty Xunhasaba luôn giữ vững tư tưởng, phấn đấu thực hiện tốt hoạt động kinh doanh của mình.
Dựa trên những điều kiện thực tế, năng lực của Công ty, Xunhasaba đã đề ra phương hướng trong thời gian tới cho chiến lược phát triển của mình:
+ Trước mắt giữ vững nhịp độ phát triển của năm 2005 đẩy nhanh tốc độ ấy vào trong năm 2006 và các năm tiếp theo. Năm 2006 Công ty định hướng tốc độ tăng xuất nhập khẩu khoảng 7-8%.
+ Cần cơ cấu cân đối hơn lượng nhập và xuất sách báo. Thu hẹp khoảng chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu xuống từ 3-5 %.
+ Trong thời gian tới , Công ty sẽ tăng cường mở rộng hoạt động kinh doanh trên hầu hết các phạm vi:
Mở rộng phạm vi thị trường.
Mở rộng phạm vi ngành hàng. Đặc biệt nghiên cứu lập kế hoạch chuẩn bị cho việc kinh doanh những mặt hàng mới như sách điện tử, các đĩa nén...
Mở rộng hình thức khai thác và kinh doanh đặc biệt là hình thức liên kết, hoàn thiện các hình thức kinh doanh tiên tiến hiện nay như qua mạng, qua dịch vụ...
Đề xuất với Nhà nước về việc Công ty tổ chức xuất bản phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình và của các nhà xuất nhập khẩu XBP...
Tất nhiên để làm được những định hướng đó Công ty cần phải làm rất nhiều công việc và phải có nhiều yếu tố phụ giúp. Nhưng rõ ràng Công ty đang đi đúng hướng, đúng xu thế phát triển của ngành và sự phát triển chung của Đất nước.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh sách báo xuất nhập khẩu của Công ty Xunhasaba trong thời gian tới.
1. Các giải pháp ngắn hạn.
Nâng cao hiệu quả các khâu nghiệp vụ.
Để tăng cường hiệu quả kinh doanh, đặc biệt là việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh cụ thể với những chỉ tiêu nhất định, Công ty đã đề ra nhiều biện pháp kinh doanh trong kế hoạch thực hiện năm 2006.
+ Tích cực chủ động tìm kiếm thị trường trong nước, có kế hoạch tiếp thị cụ thể cho từng loại đối tượng khách hàng theo các chủng loại nhu cầu hàng hoá mà khách hàng yêu cầu;
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc tham gia các hội chợ sách quốc tế, đi khai thác hàng hoá ở nước ngoài;
+ Mở rộng việc tìm kiếm các nhà cung cấp mới, đặc biệt với sách, báo chí chuyên ngành, cơ sở dữ liệu chuyên ngành…;
+ Tổ chức và phối hợp với các nhà cung cấp nước ngoài tổ chức các hội thảo về từng lĩnh vực mà khác hàng trong nước quan tâm;
+ Xây dựng các chương trình tiếp thị, quảng cáo, triển lãm – bán hàng trong các dịp có các ngày lễ và các sự kiện quan trọng trong năm 2006;
+ Củng cố, hoàn thiện cá kỹ năng thực hiện các đơn đặt, hợp đồng theo hướng nhanh hơn, chính xác hơn theo chuẩn quốc tế;
+ Xây dựng kế hoạch phục vụ khách hàng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay;
+ Mở rộng việc kinh doanh trên mạng thương mại điện tử, tăng tốc độ đường truyền, nâng cấp trang web của công ty;
+ Ngoài các mặt hàng chính, dịch vụ chính hiện nay cần khẩn trương tìm kiếm mặt hàng, dịch vụ mới mà pháp luột không cấm, tham gia vào hoạt động xuất bản, quảng cáo…;
+Có kế hoạch đối phó với các đối thủ cạnh tranh một cách chi tiết;
+Hiện đại hoá các khâu kinh doanh thông qua ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin hiện đại.
Tổ chức hoàn thiện bộ máy nhân lực:
+ Công ty có kế hoạch rà soát, điều chỉnh lại tổ chức bộ máy các phòng, bộ phận để đảm bảo tính cơ động trong kinh doanh, chịu trách nhiệm cao nhất về hiệu quả kinh doanh, chủ động trong tác nghiệp, giảm tối đa nhân lực ở các khâu không trực tiếp kinh doanh;
+ Tiếp tục đào tạo lại, nâng cao các kĩ năng: ngoại ngữ, ngoại thương, tin học, khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường;
+ Tìm ra giải pháp sắp xếp cho những nhân lực không đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh mới.
Đổi mới cơ chế phân phối thu nhập :
+ Tìm hiểu kinh nghiệm, mô hình phân phối thu nhập của các đơn vị tiên tiến để xây dựng lại hệ thống phân phối thu nhập kích thích đựoc con người, tập thể lao động giỏi, chấp hàng kỷ luật lao động tốt, đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh;
+ Xây dựng hệ thống khen thưởng kịp thời cho các sáng kiến mang lại hiệu qủa kinh doanh, kỉ luật với các vi phạm; khắc phục tình trạng bình quan chủ nghĩa, cào bằng thu nhập.
Tổ chức tốt bộ máy quản trị.
Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh theo hướng tinh giản gọn nhẹ, tránh chồng chéo, ít khâu trung gian, bảo đảm khả năng huy động toàn bộ tiềm lực của bộ máy trong thời điểm cần thiết của quá trình hoạt động kinh doanh.
Đặc biệt, sớm thành lập bộ phận Marketing, bộ phận ứng dụng công nhệ tin học, xây dựng và ban hành quy chế quản lý và hoạt động của bộ phận này với mục đích có tác dụng hỗ trợ cao nhất cho hoạt động kinh doanh.
Các giải pháp dài hạn- chiến lược kinh doanh của Công ty đến năm 2010.
Xây dựng thương hiệu.
Đây là một mục tiêu rất quan trọng của Công ty. Thương hiệu chính là bộ mặt của Công ty. Nó hiện diện của sự có mặt của bất kì một doanh nghiệp kinh doanh nào đó trên thị trường. Xây dựng thương hiệu có ý nghĩa to lớn với Xunhasaba khi mà tình hình cạnh tranh trên thị trường đang trở lên ngày càng gay gắt hơn, khốc liệt hơn. Mục tiêu trong kế hoạch này của Công ty là trong 5 năm tới Xunhasaba phải trở thành một thương hiệu mạnh. Nó được đo bằng lòng tin của khách hàng với Công ty, bằng thị phần lớn mà Công ty chiếm được trên thị trường.
Để làm được điều đó lãnh đạo Công ty đã đề ra những biện pháp cơ bản :
+ Tăng cường xúc tiến quảng cáo bằng nhiều hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào đối tượng khác hàng và từng loại hàng hoá XBP.
+ Tổ chức các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá kinh doanh. Đặc biệt là các biện pháp về khai thác nguồn hàng. Trong đó hướng khai thác bằng hình thức liên kết được quân tâm hàng đầu.
+ Thực hiện có uy tín trong các khâu nghiệp vụ kinh doanh với các bạn hàng, khách hàng. Đó là các khâu nghiệp vụ trong giao dịch, kí kết hợp đồng, thanh toán và các dịch vụ hậu mãi với khách hàng.
….
Tăng cường hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Đây là một yêu cầu cấp thiết trong hoạt động của Xunhasaba. Trong thời gian qua nói chung hiệu quả kinh doanh của Công ty đạt đựoc chưa cao. Các khâu nghiệp vụ luôn được công ty thực hiện đầy đủ nhưng kết quả mang lại chưa xứng tầm với sự đàu tư vào đó. Tăng cường hiệu quả kinh doanh là tăng doanh số, tăng lợi nhuận trên những đơn vị đầu tư chi phí thấp nhất. Để làm đựơc điều đó Công ty đã đề ra kế hoạc thực hiện những biện pháp sau:
+ Lên kế hoạch chính xác các công tác của Công ty trong những kì kinh doanh cụ thể. Kế hoạch về chi phí, về nhân sự, về phương tiện, công cụ, cơ sở vật chất kĩ thuật về thị trường và các biện pháp thực hiện. Đặc biệt kế hoạch nhân sự phải chính xác mới phát huy được hiệu quả chuyên môn. Có thể trong thời gian tới Công ty sẽ thực hiện kế hoạch khoán doanh thu trong các khâu nghiệp vụ như hội chợ, quảng cáo…
+ Thực hiện đầu tư lớn vào các khẩu, nghiệp vụ, hoặc các mục tiêu trọng tâm. Ví dụ những mặt hàng trọng tâm, những thị trường trọng điểm, mục tiêu…để tăng thị phần trên thị trường. Tuyệt đối không thể thử nghiệm ở những thị trường hoàn toàn mới, hoặc những khâu, biện pháp mà công ty chưa thực hiện bao giờ.
+ Tăng cường hiệu quả ở từng khâu nghiệp vụ cụ thể. Như khâu nghiên cứu thị trường cần có một kế hoạch chính xác và cụ thể trước khi thực hiện. Và trong thời gian tới Công ty phải liên hệ với những tổ chức xúc tiến thương mại (có thể trong nước hoặc của nứơc ngoài) để thực hiện tốt nghiệp vụ này. Hoặc trong kế hoạch khai thác thì tránh xác định nhầm nhu cầu của thị trường để rồi nhập lại những mặt hàng không được gọi là bán chạy. Như thế thì lượng tồn kho sẽ rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của Công ty…
+ Thực hiện những biện pháp hỗ trợ nếu có thể. Ví dụ như thực hiện linh hoạt trong thanh toán vớ các nhà cung cấp để lợi dụng được nguồn vốn. Kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức xúc tiến, hỗ trợ thương mại…thực hiện tốt khâu quan hệ với khách hàng để thực hiện đựoc khâu thu hồi nợ của khách hàng, nhằm tích tụ nguồn lực về vốn…
+ Đặc là kế hoạch đào tạo nhân sự trong thời gian tới nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đối ngũ lao động. Nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực trong năng suất lao động.
+ Định hướng tổng quát trong thời gian tới là:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân doanh thu đạt từ 7 đến 8 % mỗi năm.
- Có sự biến chuyển về cơ cấu kim ngạch giữa xuất và nhập khẩu XBP. Và tăng cơ cấu mặt hàng sách trong cán cân xuất nhập khẩu.
- Thị phần doanh số trên thị truờng của Công ty phải luôn dẫn đầu…
Mở rộng thị trường.
Định hướng mở rộng thị trường của Công ty hoàn toàn đúng đắn. Khi mà hoạt động kinh doanh của Công ty đã vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các đối thủ cạnh tranh khác ở những thị trường quen thuộc, thì việc mở rộng thị trường kinh doanh là một hướng đi đúng để khai thác những cơ hội làm ăn mới, những thuận lợi mới…
Kế hoạch mở rộng thị trường của Xunhasaba luôn được hiểu linh hoạt ở hai phạm vi:
+ Mở rộng thị trường theo phạm vi lãnh thổ. Đó là việc tìm đến những thị trường mới hoàn toàn so với các thị trường cũ. Hiện nay thị trường chính của Công ty là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Vinh (với phạm vi trong nước) và thị trường Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc, Úc…Việc mở rộng thị trường trong thời gian tới, Công ty sẽ hướng tới những thị trường đầy tiềm năng đó là Singapo, Niugilan Bắc Âu, Canada...
+ Mở rộng thị trường theo phạm vi khách hàng. Việc thực hiện theo hướng này giúp công ty sẽ chiếm lĩnh được thị phần lớn ngay ở thị trường cũ. Theo hướng đó Công ty sẽ tập trung vào đối tượng là Việt kiều và các trung tâm nghiên cứu văn hoá, các trường đại học, các thư viện…các nước. Trong phạm vi quốc gia thì mở rộng thị thường theo hướng này là đối tượng sinh viên và các doanh nghiệp liên doanh, hoặc của nước ngoài tại Việt Nam. Trước mắt hai nhóm khách hàng này chưa chiếm tỉ trọng doanh thu là bao nhiêu nhưng trong thời gian tới thì đây mới chính là lượng khách hàng đáng kể đến với sách báo ngoại văn.
III. Một số giải pháp đề xuất nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Công ty Xunhasaba trong thời gian tới.
Một số kiến nghị với Nhà nước.
Trong kinh doanh XBP xuất nhập khẩu vai trò của Nhà nước là hết sức to lớn. Nó giúp doanh nghiệp có được cơ hội kinh doanh trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, thông qua pháp luật bảo đảm sự công bằng trong kinh doanh.
Về mặt nào đó, vai trò của Nhà nước là điều kiện cần cho hoạt động kinh doanh này. Sự quan tâm, các chính sách pháp luật, các chính sách hỗ trợ... luôn được các doanh nghiệp hoan nghênh.
Vấn đề quản lý của Nhà nước.
Cạnh tranh là một trong những quy luật đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Song cạnh tranh lành mạnh trong bối cảnh ngày nay thì không dễ dàng chút nào. Với một doanh nghiệp như Xunhasaba thì chỉ cần một cuốn sách ngoại văn có nội dung xấu thì nó sẽ xóa bỏ cả một quá trình kinh doanh tốt. Ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của doanh nghiệp. Hơn nữa nhu cầu về sách báo ngoại văn trong nước ngày càng tăng cao đã khiến cho một số tổ chức, công ty trong nước lao vào kinh doanh trong lĩnh vực này gây ra sự rối loạn trong trên thị trường và trong Quản lý nhà nước và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của Doanh ngiệp.
Vấn đề quản lý Nhà nước để đảm bảo cho:
+ Sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường XBP xuất nhập khẩu;
+ Đảm bảo sự trong sạch của các mặt hàng sách báo trên trên thị trường. Vì nếu còn để tình trạng sách báo nhập lậu vẫn còn diễn ra thì nó sẽ gây nguy hại cho xã hội (vì chất lượng nội dung không đảm bảo, có thể là xấu, phản động) mà trực tiếp là ảnh tới Công ty.
Để tăng cường được vai trò quản lý của mình, Nhà nước cần làm những việc sau:
+ Xây dựng, hoàn thiện các luật, văn bản luật, các quy định...về hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu để đảm bảo hành lang chế tài cho các doanh nghiệp kinh doanh thực hiện hoạt động của mình một cách có cơ sở tránh vi phạm và được ổn định lâu dài;
+ Tăng cường tổ chức tốt hoạt động thanh tra, giám sát với lĩnh vực kinh doanh này. Cụ thể là kiểm tra nội dung XBP, kiểm tra nguồn gốc XBP, kiểm tra việc thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ cũng như nghĩa vụ thực hiện của các doanh nghiệp kinh doanh...Điều đó là để tạo ra sự công bằng trong sân chơi chung cho bản thân các doanh nghiệp, trong đó có Xunhasaba.
+ Tinh giản, đơn giản hóa các thủ tục rườm rà, gây mất thời gian và phiền nhiễu của nhiều văn bản luật, nhiều quy định. Tạo sự thông thoáng trong các thủ tục đăng kí xuất nhập...
Nhà nước cần tăng cường sự hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty.
Nhà nước thực hiện vai trò này trên các khía cạnh.
Một là Nhà nước thực hiện hỗ trợ với cước phí xuất khẩu cho Công ty. Vì hoạt động xuất khẩu sách báo ra nước ngoài phục vụ công tác đối ngoại cần được tăng cường về số lượng.
Hai là Nhà nước hỗ trợ việc tham gia xúc tiến tại các hội chợ, triển lãm của Công ty. Đó là hỗ trợ chi phí cho gian hàng, chi phí cho vận chuyển...Các con số này ít nhất phải từ 50% kinh phí mà công ty phải chi trả.
Ba là Nhà nước thực hiện áp dụng mức thuế ưu đãi hơn với hoạt nhập khẩu sách báo. Vì điều này nó sẽ có ảnh hưởng lớn đến giá cả của hàng hóa. Giảm thuế tức là giá của sách báo nhập khẩu sẽ giảm. Có như vậy sách báo nhập khẩu mới được thị trường chấp nhận nhiều hơn, sách báo ngoại văn đến được với công chúng nhiều hơn, tri thức tiến bộ sẽ được phổ biến rộng rãi hơn trong xã hội.
Mặt khác, đề nghị Nhà nước cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại tại một số thị trường mới có triển vọng. Các trung tâm xúc tiến này sẽ trực tiếp liên hệ giúp đỡ Công ty thực hiện các khâu nghiệp vụ như nghiên cứu thị trường, quảng bá hàng hóa sách báo, phổ biến thương hiệu của Công ty...Và thực tế thì việc cho ra đời các trung tâm này không chỉ có ý nghĩa với Xunhasaba mà còn có vai trò quan trọng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của nước ta.
1.3. Ngoài ra đề nghị Nhà nước xem xét lại việc mở rộng diện cho phép nhập báo ngày nước ngoài và một số tạp chí tổng hợp chính trị- xã hội khác, vì việc kiểm soát nội dung là rất khó khăn. Trong nhiều năm qua Xunhasaba đã rất nỗ lực, cố gắng phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước ngăn chặn, sàng lọc nội dung nhưng đôi khi vẫn xảy ra sơ suất. Nay cho phép cả những đơn vị có những người đã vi phạm do nhập báo chí coa nội dung phản động chuyển đến được thực hiện sẽ có thể gây ra những hậu quả không lường được về chính trị trong khi lợi ích kinh tế mang lại cho Nhà nước là không lớn.
1.4. Trong khai thác nguồn hàng, trong thời gian tới đề nghị Nhà nước cho phép Công ty thực hiện các hoạt động xuất bản để chủ động tạo được nguồn hàng có chất lượng phục vụ nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Một số giải pháp đề xuất với Công ty.
Trên cơ sở thực trạng( ưu điểm, nhược điểm) của Xunhsaba trong hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu trong thời gian qua, xin đề xuất một số biện pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả kinh doanh như sau:
2.1. Các biện pháp trước mắt.
Đó là những công việc cần làm ngay. Các biện pháp này chủ yếu tập trung ở việc hoàn thiện các nghiệp vụ trong kinh doanh của Công ty. Đảm bảo tới mức tối đa Công ty có thể thực hiện được.
Về công tác nghiên cứu thị trường.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu XBP, việc phân đoạn thị trường theo tiêu thức địa lý (chia toàn bộ thị trường của các đơn vị thành các khu vực địa lý) là hợp lý bởi nó dựa trên sự tương đồng ở nhiều phương diện, giữa các quốc gia...nó có ảnh hưởng lớn tới việc hình thành nhu cầu về hàng hóa XBP. Tuy nhiên sự phân chia đó là tương đối khái quát, chưa cụ thể để có thể phân định được thị trường trọng điểm. Do vậy rất dễ gây ra sự lãng phí về chi phí nghiên cứu, chi phí xuất khẩu, đặc biệt bỏ qua nhiều cơ hội trên thị trường. Vì vậy trong thời gian tới Công ty nên thực hiện nghiên cứu thị trường theo hai phương diện với một sự giúp đỡ hỗ trợ, đó là : nghiên cứu thị trường trên hai phương diện địa lý và khách hàng (với đặc điểm nhu cầu của họ). Vì khi đó Công ty vừa có thể nắm bắt được sự khái quát của thị trường vừa nhận thức được yêu cầu cụ thể của khách hàng mà có những biện pháp ứng xử tốt nhất với cả thị trường nói chung và với cả đối tượng, mục tiêu kinh doanh nói riêng. Sự hỗ trợ thuộc về sự chủ động của Công ty. Công ty nên chủ động liên hệ với các tổ chức xúc tiến của nước ta (cũng có thể của các nước, các tổ chức khác) để điều tra, nghiên cứu thị trường một cách có căn cứ và hiệu quả.
Về công tác khai thác nguồn hàng.
Khai thác nguồn hàng không những phải đảm bảo sự thuận lợi trong việc tiêu thụ hàng hóa mà còn phải tạo ra sự chủ động trong việc nắm bắt thị phần và các lợi thế trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, để tạo ra sự đột phá trong chiến lược sản phẩm Xunhasaba cần mở rộng hình thức khai thác theo hướng liên kết, in, phát hành với xuất khẩu. Đây là một hướng khai thác mới nên Công ty cần có kế hoạch kho bản thảo trước đã. Chuẩn bị tốt được kho bản thảo, chất lượng, phù hợp với đối tượng khách hàng...là công tác chuẩn bị nguồn hàng thành công đến 90%. Công ty cần tăng cường công tác khai thác bản thảo từ nhiều phía. Đó là tiền đề để tạo ra sự khác biệt tích cực của sản phẩm.
Về các khâu nghiệp vụ cụ thể. Đó là phải cố gắng thực hiện một cách hoàn thiện, tránh để ra sai sót. Ví dụ trong đóng gói sách báo thì lâu nay Công ty vẫn có những trường hợp nhầm lẫn. Hoặc công tác giao nhận, nhiều khi khách hàng vẫn không hài lòng và có những khiếu nại đáng tiếc. Việc thiết kế bao bì đóng gói hoặc nhãn dán trên bao bì sản phẩm là chưa có sự thay đổi nhiều, yếu tố thẩm mỹ và thông tin chưa đạt yêu cầu.Tất cả các công việc khác cũng vậy. Nó là những công việc rất nhỏ trong cả sợi dây truyền lưu thông hàng hóa XBP, nhưng nó lại có ý nghĩa lớn lao trong hoạt động kinh doanh. Vì nó liên quan đến uy tín của Công ty.
Đó là những biện pháp nhỏ cho chiến lược lớn!
Các biện pháp lâu dài.
Để đảm bảo sự phát triển vững chắc, Xunhasaba cần phải có những biện pháp lâu dài, được xây dựng trên cơ sở của chiến lược hoặc một kế hoạch dài hạn nhằm đạt được những mục tiêu quan trọng.
Dựa trên tình hình kinh doanh của Công ty, những phương hướng của Công ty trong thời gian tới, Xunhasaba nên tập trung vào ba công việc chính. Đó là:
+Phát triển nguồn lực con người. Đó thực chất là nâng cao về mọi mặt của lực lượng lao động trong Công ty.
Hiện nay lực lượng lao động trong Công ty là gần 100 người. Trong đó trình độ đại học là cơ bản. Một số cán bộ có trình độ trên đại học. Trong đó có rất nhiều công nhân viên trẻ. Trong những năm qua chính đội ngũ cán bộ công nhân viên này đã làm lên những thành công bước đầu của Công ty. Nhưng trong thời gian tới đội ngũ lao động sẽ phải được chú ý hơn rất nhiều nếu không muốn trở thành lạc hậu so với xã hội.
Những hạn chế cơ bản của lực lượng lao động trong Công ty là:
.Trình độ không đồng đều. Nhiều cán bộ công nhân viên rất có khả năng làm việc, nhanh nhậy với thị trường. Nhưng cũng còn một số người còn thụ động trong công việc. Thường làm việc theo lệnh hơn là sự sáng tạo và đề xuất. Với loại hình kinh doanh đặc thù là sách báo xuất nhập khẩu, thì hạn chế ấy sẽ ảnh hưởng đến cả dây chuyền hoạt động của Công ty và có thể ảnh hưởng đến uy tín của Công ty.
. Trình độ làm việc với các đối tác nước ngoài còn thấp. Điều đó xuất phát từ trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp, kinh nghiệm làm việc, khả năng tiếp nhận những luồng tri thức mới...của lao động trong Công ty là chưa thật cao. Do vậy hiệu quả của công tác xúc tiến là qua hội chợ, quảng cáo...vẫn chưa thu được kết quả như mong muốn.
.Tình thần làm việc, sức sáng tạo của lực lượng lao động của Xunhasaba là chưa thật tốt. Đã có một số sáng kiến được đưa ra. Nhưng đó không nhiều và không mang ý nghĩa chiến lược. Nên yếu tố kinh nghiệm có thể được xem lên hàng đầu với một số người.
Trong thời gian tới Công ty phải đặt ra những chỉ tiêu cụ thể để hạn chế được những yếu điểm của lực lượng lao động trong thời gian qua. Công ty nên tập trung theo hai hướng.
. Một là tổ chức đào tạo trình độ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ cho những lao động còn yếu. Đặc biệt với ngoại ngữ thì Công ty phải có những người giỏi nhiều ngoại ngữ. Trên cơ sở đó sắp xếp lại nguồn nhân lực theo khả năng của từng người. Để chuyên môn hóa hơn từng khâu nghiệp vụ.
. Tổ chức tuyển dụng có hệ thống, chặt chẽ, lực lượng lao động mới, nhằm thay thế cho lớp cán bộ Công ty đã đến tuổi về hưu. Khi tuyển dụng thì chất lượng và tâm huyết nghề nghiệp là hai yếu tố song hành.
Chiến lược con người phải đảm bảo tính hiệu quả, cơ cấu lao động của Công ty.
Phát triển nguồn lực về lâu dài đó là sự chuẩn bị cho tương lai. Sự chuẩn bị ấy phải được thực hiện liên tục và mạnh mẽ.
+ Nghiên cứu và xây dựng kế hoạch chất lượng hàng hóa XBP .
Cần phải xác định được sản phẩm của Công ty đang đứng ở vị trí nào trên thị trường. Nghĩa là đâu là mặt mạnh của sản phẩm và đâu là hạn chế của nó. Và nguyên nhân do đâu mà có những ưu điểm và khuyết điểm ấy. Từ đó có các biện pháp thúc đẩy hoặc sửa chữa cho nó phù hợp.
Trước hết Xunhasaba phải nghiên cứu mẫu hàng hóa trên thị trường mà chính đối tượng khách hàng mục tiêu của Công ty sủ dụng với mức độ thỏa mãn như thế nào? Từ đó xây dựng kế hoạch cho ra đời hai mức độ sản phẩm. Một là loại sản phẩm sẽ kinh doanh trong thời điểm hiện tại, loại sản phẩm này phải mang đặc trưng cơ bản của mẫu nghiên cứu nhưng tạo ra sự khác biệt nhất định. Hai là loại sản phẩm cho kế hoạch tương lai. Sản phẩm này phải được hình thành từ những đặc điểm của sản phẩm hiện tại, nhưng trên co sở dự đoán xu hướng vận động của nhu cầu trong tương lai.
Như thế tức là Công ty đã tự chủ được nguồn hàng kinh doanh của mình.
Cơ sở của việc xây dựng kế hoạch chất lượng nguồn hàng là xác định thị trường cho nó dừng chân. Do vậy sự khác biệt nhiều khi chỉ dừng ở mức tương đối.
Xunhasaba phải tập chung vào kế hoạch “sản phẩm mềm”. Luôn luôn có sự đáp ứng tốt nhất linh hoạt nhất nhu cầu của khách hàng.
+ Xây dựng kế hoạch xúc tiến, quảng bá sản phẩm.
Trong thời gian qua, Công ty vẫn tiến hành thường xuyên và với khối lượng tương đối lớn. Nhưng hình thức Công ty tham gia còn đơn lẻ, phạm vi sử dụng các biện pháp còn ít, quá trình chuẩn bị còn chưa chủ động...nên hiệu quả chưa cao.
Trong thời gian tới Xunhasaba nên :
- Xây dựng kế hoạch thực hiện các biện pháp xúc tiến, đặc biệt là việc tham gia hội chợ triển lãm cụ thể. Kế hoạch ấy phải rõ ràng số lần thực hiện, ở đâu? khi nào..?
-Từ đó lên kế hoạch chuẩn bị kĩ càng trước khi thực hiện về nhân lực, về tài chính, nguồn hàng, cơ sở vật chất kĩ thuật...chu đáo trước khi tham gia. Trước khi thực hiện (với hội chợ triển lãm) Công ty nên tổ chức các buổi hội thảo với chính các nhà cung cấp hoặc các bạn hàng...về các vấn đề như đặc điểm nhu cầu của khách hàng (cả trong và ngoài nước), về chủng loại hàng hóa tham gia, về những cuốn sách hay, mới xuất bản...
- Trong thời gian tới Công ty phải tiến hành mở rộng các hình thức xúc tiến kinh doanh. Không chỉ là quảng cáo trên Internet, trên thư, trên cửa hàng, qua hội chợ...mà còn phải mở rộng quảng cáo sang các phương tiện thông tin đại chúng khác như báo, như truyền hình, truyền thanh, băng zôn, biển quảng cáo ngoài trời...Tất nhiên nó phải có quá trình chuẩn bị một thời gian nhất định. Do vậy, đó sẽ là biện pháp cho lâu dài...
Còn rất nhiều các biện pháp khác, từ vĩ mô đến vi mô để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Công ty. Nhưng trên đây có thể sẽ là một số biện pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty trong thời gian tới cũng như trong chiến lược kinh doanh lâu dài của Công ty Xunhasaba.
Lên kế hoạch cho chiến lược kinh doanh mặt hàng mới: sách điện tử, cơ sở dữ liệu... Kế hoạch đón trước tương lai.
Thực tế thì thuật ngữ sách điện tử (Ebook), cơ sở dữ liệu (Database) không còn mới với các nhà kinh doanh. Nhưng còn rất nhiều vấn đề để đi đến thống nhất về khái niệm và những chính sách, quy định quản lý của Nhà nước về loại mặt hàng này.
Hiểu nôm na thì sách điện tử, cơ sở dữ liệu...là hình thức mang tin mới với cách trình bày, nội dung chủng loại thông tin tri thức như sách thông thường, nhưng chất liệu và quá trình, cách thức vật hóa thông tin tri thức của nó là khác với sách truyền thống. Nó là sản phẩm trực tiếp của thành tựu Công nghệ thông tin của nhân loại.
Có hai hình thức trình bày là lưu trên đĩa CDROM và trên Online. Thực tế thì nội dung và các cách thức trình bày của nó không khác so với sách truyền thống. Tuy nhiên nó có rất nhiều tiện ích lớn mà sách thông thường không thể có được:
Lượng thông tin rất lớn. Chỉ một chiếc CDROM bình thường nó cũng có thể chứa đựng nội dung tri thức bằng rất nhiều cuốn sách truyền thống. Hàng trăm, nghìn, vạn…thậm chí hàng triệu cuốn. Điều này còn phụ thuộc vào mức độ nén từ trong quá trình ghi đĩa.
Nó cho phép rất nhiều người có thể “đọc” cùng một lúc được. Ví dụ một thư viện nào đó khi kết nối mạng hệ thống thì chỉ cần một máy chủ với hệ thống máy con là có hàng trăm, nghìn…người có thể đọc được. Thậm chí chỉ cần ngồi ở Việt Nam cũng có thể đọc được sách ở thư viện lớn nhất Anh quốc…
Chính những tiện ích lớn vậy nó kéo theo những lợi thế khác như công tác bảo quản rất đơn giản, chi phí cho xây dựng các trung tâm lưu trữ, thư viện là giảm đáng kể, việc lưu trữ thông tin trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều…
Tuy nhiên loại sách mới mẻ này cũng có một số hạn chế nhất định. Như người sử dụng phải có trình độ nhất định về Công nghệ thông tin, phải có một số điều kiện cần đủ để quá trình sử dụng được tiến hành…
Khó khăn đó hiện nay không phải là mối quan tâm hàng đầu khi mà sự phát triển của xã hội đang ngày càng cao, cho phép con người khắc phục hoàn toàn những hạn chế đó.
Từ đó mà khả năng phát triển loại mặt hàng này trong thời gian tới là rất lớn đối với các nhà kinh doanh.
Hiện nay đã có không ít các trường Đại học thực hiện sử dụng loại thông tin mới này như: trường Đại học Nông nghiệp, Kiến trúc, Ngoại ngữ, Quốc gia, Vinh, Sư phạm ngoại ngữ. Và đã thu lại những tín hiệu phát triển đáng mừng.
Trong thời gian qua Xunhasaba đã thực hiện việc kinh doanh loại mặt hàng này. Kết quả cũng hết sức khả quan (ước doanh thu đạt khoảng 1 triệu USD). Trong thời gian tiếp theo Công ty cần tập trung đầu tư. đẩy mạnh hơn nữa tốc độ phát triển, hiệu quả kinh doanh mặt hàng này. Đặc biệt khi mà dự án WB- dự án hỗ trợ thực hiện mở rộng các thư viện điện tử cho các trường Đại học, Cao đẳng ở Việt Nam do ngân hàng thế giới tài trợ - đang tiến hành. Công ty cần lên kế hoạch xúc tiến ngay với các trường trong kế hoạch. Nên tổ chức hội thảo khách hàng về loại mặt hàng này. Để cho thấy khả năng cung ứng cũng như những lợi thế của Công ty mang lại cho khách hàng khi khách hàng tìm đến Công ty. Đồng thời phải tích cực tìm kiếm, khai thác mặt hàng nhằm làm đa dạng chủng loại mặt hàng nhưng trọng tâm phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng (vì giai đoạn này việc sử dụng sách điện tử, cơ sở dữ liệu… vẫn chưa thực sự phổ biến tại nước ta).
Và có nên chăng nếu Công ty bằng những hình thức nào đó (liên kết, đầu tư độc lập...) cho ra đời những ấn phẩm sách điện tử, cơ sở dữ liệu của riêng mình. Khi đó chất lượng, nội dung, giá cả…của mặt hàng này có lẽ rất phù hợp với thị trường. Và Công ty sẽ dành được thế chủ động trong kinh doanh.
Trước mắt Công ty đang nhắm tới các trường Đại học, Cao đẳng. Nhưng trong tương lai Xunhasaba sẽ phải mở rộng đối tượng khách hàng ra phạm vi rộng hơn. Đó trước hết là các Viện, Trung tâm nghiên cứu, Cơ quan đầu ngành... Và sau đó sẽ là công chúng – lực lượng khách hàng rất lớn.
Để làm được điều đó ngoài sự nỗ lực của toàn thể Công ty thì sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước cũng có vai trò không nhỏ. Ngay như việc các chính sách không nhất quán của Nhà nước hiện nay cũng gây không ít khó khăn cho Công ty. Ví dụ hiện nay chúng ta chưa có khái niệm nhất quán về sách điện tử, cơ sở dữ liệu do vậy việc xếp mặt hàng này vào diện nào để đánh thuế là không thống nhất. Nếu nó là một loại sách thì thuế phải đánh như sách bình thường, nhưng các cơ quan Hải quan lại cho đó là một loại băng đĩa thì việc đánh thuế lại phải như mặt hàng băng đĩa...
Đó là một trở ngại đối với Công ty. Hi vọng trong thời gian tới, cùng với việc hoàn chỉnh các chính sách pháp luật của Nhà nước về loại mặt hàng này, Công ty Xunhasaba thực hiện thành công chiến lược kinh doanh loại mặt hàng còn rất tiềm năng này.
Kết Luận.
Chúng ta đang trải qua những năm đầu của thế kỉ XXI, chỉ còn hơn 10 năm nữa để đất nước ta thực hiện nốt những điều kiện để trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Trong xu thế hội nhập ngày càng cao của toàn bộ các lĩnh vực của đời sống mà đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, các doanh nghiệp của chúng ta cũng đang tự hoàn thiện và vươn lên để sánh kịp, đón đầu sự tất yếu của thời đại.
Xunhasaba đang từng bước tự hoàn thiện mình, đang vượt ra khỏi những khó khăn ban đầu của quá trình hội nhập để củng cố vị trí hàng đầu của Việt Nam trên lĩnh vực xuất nhập khẩu sách báo và để vươn lên thành một doanh nghiệp có uy tín trong khu vực cũng như trên thế giới trong lĩnh vực kinh doanh này.
Khi WTO đang đến rất gần, khi nhịp thở của thời đại kinh tế toàn cầu đang thôi thúc ngay ở sau lưng thì sẽ có rất nhiều việc phải làm với Công ty. Hợp tác hóa toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực trong đó sẽ có cả lĩnh vực xuất bản, in phát hành...Liệu Công ty có bối rối trong những sự hợp tác mới mẻ đó để vươn lên nắm lấy những cơ hội mới, những khoảng trống của nền kinh tế mà vươn lên để phát triển vững mạnh.
Công việc của Công ty bây giờ có thể chỉ là giữ vững tốc độ phát triển trước mắt, có thể chỉ là tăng thu nhập, tăng doanh số, tăng lương cho người lao động...và có thể chỉ là một doanh nghiệp xuất nhập khẩu sách báo hàng đầu của Việt Nam. Nhưng trong tương lai tại sao không nếu như Xunhasaba trở thành một doanh nghiệp hàng đầu trong khu vực về kinh doanh XBP?
Điều đó là có thể làm được khi mà những vận hội mới luôn có với Xunhasaba.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32537.doc