Khóa luận Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Trong những năm trở lại đây, xã hội nước ta ngày càng phát triển kéo theo những quan hệ xã hội nảy sinh và ngày càng phức tạp. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp, các mâu thuẫn, các sự việc xảy ra trong xã hội gia tăng dẫn đến vi phạm pháp luật ngày càng phổ biến. Trong đó phải kể đến các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự. Sự phức tạp của các vụ án dân sự thể hiện ở chỗ các tranh chấp dân sự không chỉ đơn thuần trong một lĩnh vực nhất định mà ở trong các lĩnh vực khác nhau như tranh chấp về kinh doanh, thương mại; tranh chấp về lao động; tranh chấp về đất đai; tranh chấp về hôn nhân gia đình, đã gây ra không ít khó khăn, vướng mắc cho cơ quan có chức năng trong quá trình giải quyết. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 ra đời đã góp phần giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự trong những năm gần đây. Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định rõ thẩm quyền, cách thức giải quyết các vụ án dân sự thuộc tất cả các lĩnh vực dân sự khác nhau, khắc phục được một phần lớn những vướng mắc đã gặp phải khi giải quyết các vụ án dân sự. Như đã đề cập ở trên, các vụ án dân sự ngày càng có chiều hướng gia tăng, chính vì vậy cần phải áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án này. Một trong những giai đoạn giải quyết đó thì giai đoạn xét xử là giai đoạn rất quan trọng trong thủ tục giả quyết án dân sự. Giải quyết đúng pháp luật là đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự. Trong hoạt động tư pháp thì Tòa án giữ vai trò trung tâm và là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước tiến hành xét xử các vụ án nói chung và sơ thẩm các vụ án dân sự theo pháp luật nói riêng. Trong những năm qua việc xét xử của Tòa án đã góp phần giải quyết được những tranh chấp về các lĩnh vực dân sự tránh được những tranh chấp nghiêm trọng xảy ra và đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong các vụ án. Bên cạnh những mặt đạt được trong xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thì còn một số hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình xét xử dẫn đến tình trạng một số án dân sự sơ thẩm không thi hành được trên thực tế, tồn đọng án chưa xử, một số vụ còn dây dưa kéo dài, . làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Ở địa bàn huyện Nghĩa Đàn trong những năm gần đây, số vụ án dân sự tăng lên đáng kể. Đặc thù của vụ án dân sự là đa dạng về cả nội dung lẫn hình thức. Chính vì vậy, việc áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử những vụ án này gặp không ít khó khăn. Hàng năm, Tòa án huyện Nghĩa Đàn đã thụ lý và giải quyết hang chục vụ về lĩnh vực dân sự, góp phần giải quyết được một phần rất lớn các tranh chấp thuộc các lĩnh vực dân sự trên địa bàn, mang lại quyền lợi và lấy lại lợi ích cho những đương sự đã bị mất đi và quan trọng nhất là đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần xây dựng chế độ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình xét xử vụ án dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn vẫn còn mắc phải một số thiếu sót dẫn đến một số án còn tồn đọng chưa xét xử kịp thời ảnh hưởng tới quyền lợi của người dân và ảnh hưởng tới tính nghiêm minh của pháp luật. Chính vì những lẽ trên tôi chọn đề tài “Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn” làm khóa luận tốt nghiệp. Qua đề tài này tôi mong muốn làm rõ thêm về trình tự tiến hành trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, tìm ra những bất cập và vướng mắc trong pháp luật cũng như trên thực tiễn và từ đó tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự của pháp luật nói chung và thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn nói riêng. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: + Nghiên cứu lý luận về giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam. +Xem xét và đánh giá thực tiễn xét xử các vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn. + Tìm ra những vướng mắc và bất cập trong quá trình vận dụng pháp luật vào thực tiễn xét xử để từ đó tìm ra những giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn nói riêng, đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp của nước nhà. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được những mục đích nêu trên, khóa luận cần phải thực hiện một số nhiệm vụ sau: + Đưa ra khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, nêu đặc diểm, nội dung và các giai đoạn khác nhau của cả quá trình xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật hiện hành. + Đánh giá kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo pháp luật của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn và chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan của hạn chế nêu trên. + Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự đối với Tòa án nói chung và Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn nói riêng. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ã Đối tượng nghiên cứu: + Là việc xét xử các vụ án dân sự theo pháp luật và thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn. ã Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi nghiên cứu của đề tài là giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn. + Thời gian nghiên cứu từ năm 2008 đến năm 2011. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. ã Cơ sở lý luận: Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo pháp luật. ã Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác – Lênin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgic; phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận - Khóa luận là đề tài nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật do đó sẽ góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo pháp luật, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận trong lĩnh vực này. - Khóa luận giúp làm rõ thêm những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật vào giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và góp phần tìm ra những giải pháp nhằm ngày càng hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật tố tụng dân sự trong lĩnh vực xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. - Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần cung cấp cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự theo pháp luật tại các Tòa án nói chung và Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn nói riêng. 6. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khóa luận gồm 2 chương. Chương 1: Pháp luật Việt Nam về xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Chương 2: Thực tiễn xét xư sơ thẩm vụ án dân sự tại TAND huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An từ năm 2008 đến năm 2011. MỤC LỤC PHẦN MỘT: PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài. 1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. 4 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận 4 6. Kết cấu của khóa luận 5 PHẦN HAI: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6 CHƯƠNG 1: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ 6 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của vụ án dân sự. 6 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. 7 1.2. Các giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật hiện hành. 7 1.2.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự 7 1.2.1.1. Khởi kiện vụ án dân sự. 7 1.2.1.2. Thụ lý vụ án dân sự. 13 1.2.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. 18 1.2.3. Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự 29 1.3. Một số kinh nghiệm của các địa phương ở tỉnh Nghệ An về xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 46 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA ĐÀN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2011 49 2.1. Thực trạng xét xử các vụ án dân sự 49 2.1.1. Tình hình và kết quả của xét xử các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn từ năm 2008 đến 2011 49 2.1.2. Thực trạng và nguyên nhân của áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn từ năm 2008 đến năm 2011 51 2.1.2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật trong giai đoạn khởi kiện và thụ lý các vụ án dân sự 51 2.1. 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị xét xử các vụ án dân sự 53 2.1.2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự 57 2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tại huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An. 61 2.2.1. Giải pháp chung. 61 2.2.2 Giải pháp cụ thể 67 KẾT LUẬN 71

doc75 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2213 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận. Nghị án và tuyên án - Nghị án Nghị án là việc Hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án. Trên cơ sở kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để thảo luận giải quyết các vấn đề của vụ án. Việc nghị án được tiến hành theo quy định tại Điều 236 BLTTDS. Khi nghị án mà thấy chứng cứ, tài liệu chưa đủ thì Hội đồng xét xử vẫn cho dừng việc nghị án lại và tiến hành xét hỏi lại, tranh luận lại. Qua nghị án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận (Điều 237 BLTTDS). - Tuyên án Sau khi bản án đã được thông qua, Hội đồng xét xử quay trở lại phòng xét xử để tuyên án. Thủ tục tuyên án được thực hiện theo quy định tại Điều 239 BLTTDS. 1.3. Một số kinh nghiệm của các địa phương ở tỉnh Nghệ An về xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Qua việc tìm hiểu quá trình giải quyết các vụ án dân sự tại tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn và tòa án thị xã Thái Hòa trực thuộc tỉnh Nghệ An có thể rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, cụ thể là: - Ngay trong giai đoạn tiến hành thụ lý vụ án, cán bộ thư ký Tòa án phải yêu cầu đương sự cung cấp toàn bộ giấy tờ, chứng cứ, tài liệu cần thiết cho quá trình giải quyết vụ án. Mục đích thứ nhất là để tạo điều kiện nghiên cứu, xem xét các tình tiết của vụ án để có hướng giải quyết vụ án. Thêm vào đó, mục đích thứ hai của việc yêu cầu đương sự giao nộp đầy đủ giấy tờ, tài liệu, chứng cứ đó là tránh việc sau này khi Tòa án phải đi thu thập chứng cứ khi đương sự không chịu cung cấp thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình thu thập chứng cứ, tài liệu phục vụ cho việc giải quyết vụ án dẫn đến vụ án bị đình trệ, khó giải quyết. - Khi đương sự tới nộp đơn khởi kiện thì cán bộ Tòa án phải nhanh chóng hướng dẫn họ về thủ tục tiến hành hòa giải ở cấp cơ sở ( UBND xã, phường, thị trấn). Vì sao phải hướng dẫn, bởi vì một số vụ án dân sự luật yêu cầu phải qua hòa giải cơ sở sau đó nếu không hòa giải được thì nếu có yêu cầu Tòa án mới giải quyết. Mặt khác, nếu hòa giải được ở cấp cơ sở thì sẽ không phải khởi kiện nữa, Tòa án cũng không phải giải quyết nữa do đó sẽ giảm được một phần công việc cho Tòa án, hạn chế thời gian và tiền bạc cho đương sự. - Ngay từ khi thụ lý vụ án thì cán bộ Tòa án phải tiến hành triệu tập các đương sự để lấy lời khai, ghi biên bản lời khai. Đó chính là những căn cứ quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, là chứng cứ để tòa án xem xét để có hướng giải quyết, tránh được tình trạng sau này không có lời khai của đương sự trong trường hợp bị đơn không chịu hợp tác và đó còn là chứng cứ để đối chiếu với lời khai của đương sự ngay tại phiên tòa xét xử vụ án đó. Kết luận chương 1. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2005 đã thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 vốn có nhiều bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã sửa đổi, bổ sung những thiếu sót và vướng mắc mà Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 đã mắc phải. Nó đã quy định rõ về những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Toà án; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước. Việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự là một bước tiến quan trọng trong việc quy định về thủ tục xét xử các vụ việc dân sự, nó thể hiện sự tiến bộ trong các quy định của pháp luật về mặt tố tụng dân sự. Tuy nhiên trong những năm trở lại đây, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng tiến bộ kéo theo những quan hệ pháp luật ngày càng nảy sinh và phức tạp hơn thì những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự cũng bắt đầu nảy sinh những bất cập, vướng mắc trong các điều luật gây khó khăn không nhỏ tới việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp mà chủ yếu là Tòa án. Chính vì vậy, cần phải tìm hiểu những vướng mắc trong các quy định đó để tìm ra những nguyên nhân và giải pháp nhằm khắc phục những bất cập đó để nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp nói chung và của Tòa án nói chung đảm bảo quyền lợi cho người dân và nâng cao pháp quyền xã hội chủ nghĩa. CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA ĐÀN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2011 2.1. Thực trạng xét xử các vụ án dân sự 2.1.1. Tình hình và kết quả của xét xử các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn từ năm 2008 đến 2011 Nghệ An là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ của nước ta, với 20 huyện- thị xã (18 huyện và hai thị xã) và một thành phố. Nghĩa Đàn là một huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Nghệ An, với 24 xã – thị trấn (23 xã và một thị trấn). Nghĩa Đàn là một huyện rộng lớn, dân cư tập trung đông đúc, kinh tế khá phát triển. Đa số dân cư ở đây tập trung từ nhiều vùng, miền do đó có sự giao thoa giữa các vùng miền văn hóa, giữa các dân tộc với nhau. Vì là một huyện miền núi của tỉnh, có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, chủ yếu phát triển kinh tế rừng, trình độ văn hóa còn chưa cao do đó không khỏi nảy sinh những tranh chấp đời thường. Tôi là một sinh viên sống tại địa bàn huyện Nghĩa Đàn, có cơ hội được tìm hiểu về cuộc sống cũng như những ứng xử đời thường của nhân dân nơi đây nên tôi chọn Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn là đối tượng để nghiên cứu trong đề tài khóa luận này. Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn trước đây có trụ sở tại thị trấn Thái Hòa nhưng từ năm 2010, khi Thị trấn Thái Hòa được công nhận là thị xã thì Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn được tách ra từ tòa án thị xã Thái Hòa. Hiện nay, Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn đã dời trụ sở về thị trấn Nghĩa Bình của huyện Nghĩa Đàn. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn gồm có một chánh án, một phó chánh án, hai thẩm phán và bốn thư ký giúp việc cho các thẩm phán. Như đã trình bày ở trên, Nghĩa Đàn là một huyện khá rộng, dân số đông, kinh tế khá phát triển, đời sống nhân dân ổn định. Tuy nhiên, do dân cư tập trung từ nhiều vùng miền, nhiều dân tộc khác nhau vì thế có sự khác nhau trong sinh hoạt và nếp sống. Thêm vào đó là trong thời gian gần đây, trên địa bàn huyện có sự quy hoạch đất đai, có sự chia tách từ thị trấn lên thị xã. Từ những lý do trên mà hàng năm Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn thụ lý hàng chục vụ án dân sự, đặc biệt là trong thời gian gần đây. Qua tìm hiểu và thống kê từ sổ thụ lý vụ án dân sự của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn thì ta có bảng thống kê sau: Năm Số vụ 1/1/2008 đến 31/12/2008 30 1/1/2009 đến 31/12/2009 37 1/1/2010 đến 31/12/2010 50 1/1/2011 đến 31/3/2011 10 Từ bảng thống kê trên ta nhận thấy mỗi năm Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn thụ lý khá nhiều vụ án dân sự, đặc biệt từ năm 2010, số vụ án dân sự mà Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn thụ lý là 50 vụ. Nguyên nhân là do đầu năm 2010, có sự thay đổi về cơ sở hạ tầng, có sự chia tách về địa chính do đó các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất và quyền thừa kế tài sản ngày càng tăng lên. Đó cũng chính là một trong những khó khăn mà Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn gặp phải. Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn có đội ngũ cán bộ còn thiếu, trong khi đó hàng năm lại thụ lý rất nhiều các vụ việc cả về dân sự lẫn hình sự do đó gặp rất nhiều khó khăn trong công việc. Tuy nhiên, các cán bộ của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn vẫn hoàn thành tốt những nhiệm vụ của mình, phần lớn các vụ án đã thụ lý đều được giải quyết kịp thời và nhanh chóng. Nhìn chung không có vụ việc nào bị đình trệ, không giải quyết được. Không có vụ án nào bị đương sự khiếu nại, không có vụ án nào bị Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa. Đó chính là những thành tựu mà Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn làm được trong những năm qua. Bên cạnh đó cũng có những vướng mắc còn gặp phải. Do mới được tách ra từ Tòa án của thị xã do đó đội ngũ cán bộ của Tòa án huyện Nghĩa Đàn còn thiếu mà số vụ án thì nhiều do đó không tránh khỏi khó khăn trong việc xem xét và giải quyết các vụ án, có một số án còn chưa được giải quyết kịp thời cũng ảnh hưởng tới quyền và lợi ích cho các đương sự. 2.1.2. Thực trạng và nguyên nhân của áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn từ năm 2008 đến năm 2011 2.1.2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật trong giai đoạn khởi kiện và thụ lý các vụ án dân sự Một tranh chấp chỉ được coi là một vụ án dân sự khi các bên khởi kiện ra Tòa án và được Tòa án chấp nhận thụ lý. Chính vì vậy, giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự là giai đoạn đầu tiên trong quá trình xét xử vụ án dân sự. Đây là một giai đoạn quan trọng và không thể thiếu được trong xét xử vụ án dân sự. Hàng năm, Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn thụ lý rất nhiều vụ án dân sự thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, chính vì vậy việc xem xét về điều kiện khởi kiện và thụ lý vụ án gặp rất nhiều khó khăn. Khi có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì việc đầu tiên Tòa án phải xem xét về tính hợp lệ của đơn khởi kiện, xem xét về quyền khởi kiện của đương sự và các điều kiện để được thụ lý đơn khởi kiện. Một vướng mắc gặp phải trong giai đoạn này đó là xem xét về thời hiệu khởi kiện của vụ án còn hay là đã hết thời hiệu khởi kiện. Việc xác định đúng thời hiệu khởi kiện là một vấn đề rất quan trọng, nó là cơ sở để xem xét xem vụ án đó có được Tòa án thụ lý giải quyết hay là trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên việc xác định thời hiệu khởi kiện của Tòa án còn gặp nhiều khó khăn bởi quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện còn có nhiều vướng mắc, chồng chéo dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về thời hiệu khởi kiện. Đây cũng chính là những vướng mắc mà Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn gặp phải trong thời gian qua. Một ví dụ điển hình đưa ra đó là: Năm 2009, ông Bắc gửi đơn kiện đến Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất. Trong đơn ông Bắc trình bầy rằng vào đầu năm 2002, ông có một vườn trồng khoảng 200 cây cà phê, vì ông đi xuất khẩu lao động nên nhờ người anh của mình là ông Nam trông coi hộ. Trước khi đi ông có nhắn nhủ rằng “Anh trông coi, chăm sóc, thu hoạch hoa lợi, duy trì vườn cây cho tôi” và ông Nam đã đồng ý. Mấy năm sau, ông trở về nước, nể công anh chị giữ vườn tược vất vả nên vẫn để cho anh chị tiếp tục quản lý, thu hoạch hoa màu. Nhưng đến năm 2008, ông Bắc nghe tin gia đình ông Nam đã đi đăng kí quyền sử dụng mảnh đất đó và đã được cấp giấy chứng nhận nên ông Bắc đã yêu cầu anh trai trả lại đất. Tuy nhiên, ông Nam một mực khẳng định rằng mảnh đất này là ông Bắc đã chuyển nhượng lại cho mình trước khi xuất khẩu lao động nên không trả lại. Hơn nữa mảnh đất đó ông Nam đã cho người con trai cả khi anh này lấy vợ vào năm 2006. Tháng 6 năm 2009, Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn đã đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Tòa án nhận định ông Bắc không có giấy tờ chứng minh mảnh vườn cà phê là tài sản gửi người anh trông giùm. Trong khi đó, phía người anh đã sử dụng ổn định, lâu dài, không có tranh chấp gì và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do không có nhu cầu sử dụng nên phía người anh đã tặng cho con traivà việc tặng cho này cũng không trái pháp luật. Từ đó Tòa đã bác yêu cầu đòi lại đất của ông Bắc. Theo quan điểm của VKSND huyện Nghĩa Đàn, trước hết TAND huyện đã thiếu sót, không đề cập đầy đủ yêu cầu khởi kiện của ông Bắc, vi phạm khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự. Cụ thể, ông Bắc khởi kiện yêu cầu Tòa đòi lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất nhưng trong thông báo thụ lý vụ án, Tòa chỉ thụ lý việc tranh chấp quyền sử dụng đất mà không hề đề cập gì đến tài sản gắn liền trên đất. Thứ hai, cũng trong thông báo thụ lý vụ án, Tòa xác định bị đơn là vợ chồng người con trai được gia đình người anh ông Bắc cho đất. Tòa không đưa gia đình ông Nam vào với tư cách bị đơn là vi phạm khoản 3 Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự. Qua vụ án trên chúng ta thấy rõ sai phạm của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn trong việc xem xét đơn khởi kiện của đương sự dẫn đến sai lầm trong việc xem xét yêu cầu của nguyên đơn, xác định sai tư cách của những người tham gia tố tụng đã gây ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án và cũng là nguyên nhân cho sự sai phạm về nội dung vụ án khiến cho bản án sơ thẩm bị hủy. 2.1. 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị xét xử các vụ án dân sự Sau giai đoạn thụ lý vụ án là đến giai đoạn chuẩn bị cho phiên tòa xét xử. Trong giai đoạn này Tòa án cần phải thực hiện một số việc để đảm bảo cho vụ án được giải quyết đúng đắn. Trong giai đoạn này, thư ký Tòa án lấy lời khai của các đương sự, yêu cầu đương sự phải cung cấp toàn bộ tài liệu chứng cứ và ghi biên bản lời khai để làm căn cứ trước Tòa hoặc là chứng cứ chứng minh trước Tòa trong trường hợp đương sự vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Tuy nhiên, một vướng mắc trong giai đoạn này mà Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn gặp phải đó là trường hợp đương sự không chịu hợp tác (chủ yếu là bị đơn). Họ cố tình trốn tránh, dù có giấy triệu tập của Tòa án nhưng vẫn không tới Tòa án để lấy lời khai, khiến cho vụ án phải đình trệ. Thêm vào đó, trong giai đoạn gần đây đa số các vụ án mà Tòa án nhân dân huyện Ngĩa Đàn thụ lý là những vụ tranh chấp đất đai giữa các bên về quyền sử dụng đất nhưng vụ việc đã xảy ra từ lâu và khi thụ lý để giải quyết yêu cầu đương sự đưa ra chứng cứ để chứng minh thì lại không có, không thể cung cấp vì đã mất giấy tờ. Vì không thể cung cấp được giấy tờ, tài liệu, chứng cứ do đó Tòa án phải tiến hành thu thập chứng cứ cho vụ án, đây là công việc khó khăn và tốn kém rất nhiều thời gian dẫn tới phải kéo dài thời gian xét xử. Ngoài ra có những vụ án liên quan đến tài sản, đến đất đai cần phải có sự phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan trong địa bàn thì còn có một số trường hợp các cơ quan đó không tạo điều kiện giúp đỡ khiến cho công việc của Tòa án gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ: khi Tòa án gửi giấy yêu cầu cơ quan định giá cử cán bộ đi xuống định giá tại nhà của đương sự thì cơ quan không cử người tham gia vì thế Tòa án không thể định giá tài sản được... Bên cạnh đó, trong BLTTDS còn có một số quy định chưa chặt chẽ dẫn tới khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Cụ thể tại Điều 192 BLTTDS quy định về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, BLTTDS và các văn bản hướng dẫn đã không quy định rõ về trường hợp đình chỉ vụ án dân sự tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Theo quy định tại điểm c khoản 1 điều này thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi “ người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận. Tuy nhiên lại không có văn bản nào hướng dẫn trong trường hợp nào người khởi kiện rút đơn khởi kiện thì được Tòa án chấp nhận và trường hợp nào thì Tòa án không chấp nhận, dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này. Đây cũng là một trong những vướng mắc mà các thẩm phán tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn gặp phải trong quá trình giải quyết án dân sự. Trở lại vụ án đòi lại quyền sử dụng đất của ông Bắc đã nêu ở trên, một sai phạm mà Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn mắc phải đó là, ở quyết định định giá tài sản, trong số bốn thành viên định giá không có ai là chủ tịch hội đồng. Chưa kể là trong quyết định định giá không có tên ông Anh nhưng ông này lại ký tên là chủ tịch hội đồng ở biên bản định giá sau này. Sai sót khác là quyết định đưa vụ án ra xét xử xác định thư ký phiên tòa là ông Sơn nhưng trong biên bản phiên tòa thì thư ký lại là ông Thắng. Việc tòa thay đổi thư ký trước khi mở phiên xử mà không ra quyết định là vi phạm tố tụng. Không chỉ thế, theo VKS huyện, ban đầu các bên khai thống nhất nguồn gốc đất là của cha ông Bắc và ông Bắc. Tuy nhiên, trong một số biên bản, phía bị đơn lại khai rằng đất này do xã cấp. Lời khai của bị đơn mâu thuẫn nhưng khi giải quyết án, thẩm phán lại không cho đối chất. Tại Tòa, những mâu thuẫn này cũng không được làm rõ nhưng khi nhận định trong bản án, Tòa lại cho rằng nguyên đơn đã gửi tài sản cho bị đơn mà không có giấy tờ chứng minh nên bác yêu cầu. Đây là phần nhận định chưa chính xác vì hợp đồng gửi giữ tài sản không quy định hình thức. Trong trường hợp nêu trên, Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn đã không làm rõ những mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, đó chính là những điểm mấu chốt để giải quyết vụ án cũng như đưa ra những nhận định sai quy định của pháp luật dẫn đến giải quyết vụ án sai lầm, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của đương sự và tính đúng đắn của pháp luật. Một trường hợp khác Ông Nguyễn Xuân Lăng kết hôn với bà Hoàng Thu Hương năm 1965 nhưng 2 người chưa về sống chung do bà Nhung bận công tác. Trước khi kết hôn với bà Hương, ông Lăng có hai con riêng và tài sản là một căn nhà cấp bốn trên diện tích 550m2 đất, tại xã Ngĩa Bình. Năm 1973, bà Hương về sống cùng ông Lăng. Hai người có thêm ba con chung. Trong thời gian hôn nhân, ông bà đã sửa ngôi nhà ở xã Nghĩa Bình, năm 1992 xây dựng được một ngôi nhà ba tầng trên diện tích 33,2m2 đất tại xã Nghĩa Bình, hiện bà Hương đang ở ổn định và làm cơ sở chữa bệnh tư. Năm 2002, ông bà tiếp tục nhờ anh Hùng và chị Mai là con riêng của ông Lăng, đứng tên mua 46,6m2 đất, xây dựng một ngôi nhà bốn tầng tại thành phố Vinh, Nghệ An. Ngày 15/7/2007, chị Mai viết giấy giao lại nhà, đất cho ông Lăng và bà Hương nhưng đến nay chưa làm thủ tục chuyển nhượng. Ông Lăng đã ở ổn định tại nhà này từ năm 2007. Quá trình sinh sống, hai bên phát sinh mâu thuẫn. Nhất là từ năm 2006, con trai chung bị chết, bà Hương muốn cho 2 con gái của 2 người (hiện đã có gia đình) 2 ngôi nhà ở Vinh và Nghĩa Bình nhưng ông Lăng không đồng ý mà muốn chia đều cho cả con riêng và con chung, nếu không thì vẫn là tài sản của vợ chồng, con nào khó khăn thì giúp đỡ nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, 2 người đã sống ly thân, các con chung của ông bà cũng không nhận ông Lăng là cha từ khi ông từ chối chia tài sản cho họ. Bà Hương làm đơn xin ly hôn. Tại phiên toà sơ thẩm, Toà án huyện Nghĩa Đàn quyết định: Cho bà Hương được ly hôn ông Lăng. Về tài sản: Xác định ngôi nhà ở xã Nghĩa Bình là tài sản chung và sáp nhập vào khốí tài sản để chia đôi. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn đã giao cho bà Hương được sở hữu cả 2 căn nhà bốn tầng tại Vinh trị giá 1.500.000.000 đồng và tại xã Nghĩa Bình trị giá 1.200.000.000 đồng và phải thanh toán tiền chênh lệch tài sản cho ông Lăng là 600.000.000 đồng. Đồng thời giao cho ông Lăng sở hữu căn nhà cấp bốn trên diện tích 550m2 đất, trị giá 1.000.000.000 đồng tại xã Nghĩa Bình. Sau khi xét xử, ông Lăng kháng cáo đề nghị cho ông được sở hữu căn nhà bốn tầng ở Vinh vì ông đã sinh sống ổn định được hơn 2 năm. VKS nhân dân huyện Nghĩa Đàn cũng ra quyết định kháng nghị vì quyết định của bản án sơ thẩm đã vi phạm Điều 95 Luật hôn nhân gia đình, việc quyết định giao nhà cho các bên còn bất cập, không căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của 2 người để chia cho phù hợp, đảm bảo cuộc sống ổn định cho các bên đương sự, bản án thực sự chưa thấu tình đạt lý. VKS cho rằng ngôi nhà cấp bốn tại xã Nghĩa Bình là tài sản của ông Lăng có trước khi hôn nhân, bà Hương chỉ có công sức đóng góp, sửa sang nên chỉ được hưởng 30% giá trị ngôi nhà. Tòa án phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của VKS, tuyên bố hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn. Cho ông Lăng được hưởng nhiều hơn theo quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân gia đình và cho ông Lăng được tiếp tục sử dụng ngôi nhà bốn tầng ở thành phố Vinh mà ông đã sử dụng ổn định từ năm 2007. Thông qua vụ án trên, chúng ta thấy tính chất của các vụ án dân sự rất phức tạp, nhất là những vấn đề liên quan đến tài sản, đòi hỏi cán bộ làm công tác giải quyết án dân sự phải luôn nghiên cứu, đối chiếu các văn bản pháp luật có liên quan, theo từng giai đoạn để áp dụng cho phù hợp. Bên cạnh đó, khi phát hiện những thiếu sót, vi phạm của Toà án, Viện kiểm sát phải kiên quyết thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị, nhằm hạn chế thấp nhất những thiếu sót, vi phạm, góp phần cùng Toà án ra được những bản án, quyết định đúng quy định của pháp luật, bảo đảm cho quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, tạo được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật. 2.1.2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự Xét xử tại phiên toà sơ thẩm là giai đoạn tố tụng quan trọng nhất, quyết định nhất bởi tại phiên toà sơ thẩm, Toà án giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án, các đương sự công khai bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án. Tại phiên toà, hội đồng xét xử không chỉ dựa vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án mà phải xác định lại chúng đồng thời làm rõ thêm những tình tiết bằng cách nghe ý kiến trình bày của các đương sự, những người tham gia tố tụng khác, xem xét các tài liệu, vật chứng. Chỉ sau khi nghe ý kiến của người tham gia tố tụng và kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ tại phiên toà, hội đồng xét xử mới nghị án để ra các quyết định về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn, tôi thấy có một số những vướng mắc trong quá trình xét xử tại phiên tòa gây khó khăn cho việc giải quyết của Tòa án. Thứ nhất, có một số vụ tranh chấp về đất đai, tài sản trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn khi Tòa án đứng ra giải quyết thì một số đương sự tỏ ra không chịu hợp tác với Tòa án để giải quyết. Cụ thể là khi phiên tòa xét xử được mở thì mặc dù bị đơn đã có đơn triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt, Tòa án buộc phải hoãn phiên tòa. Đến lần thứ hai, đã có giấy triệu tập nhưng đương sự đó vẫn vắng mặt gây khó khăn cho Tòa án. Mặc dù đã có quy định tại Điều 200 BLTTDS nhưng trong một số trường hợp Tòa án vẫn phải hoãn để xem xét xem là liệu rằng bị đơn có nhận được giấy triệu tập hợp lệ của Tòa án hay là không, do đó mà Tòa án buộc phải hoãn phiên tòa không chỉ làm ảnh hưởng tới quá trình xét xử của Tòa án mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của đương sự trong trường hợp này. Thứ hai, khi tiến hành phiên tòa xét xử vụ án dân sự, trong một số trường hợp cần có sự tham gia của một số cán bộ như giám định viên, cán bộ địa chính, cán bộ tài nguyên môi trường… Mặc dù đã có giấy triệu tập của Tòa án nhưng cơ quan được yêu cầu cử cán bộ đã có thái độ không hợp tác và không giúp đỡ Tòa án nên đã không cử cán bộ của mình tham dự phiên tòa dẫn tới một số phiên tòa phải hoãn do sự vắng mặt của những người này gây ảnh hưởng không nhỏ tới phiên tòa ngày hôm đó. Đó là những khó khăn trong thực tiễn mà Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn còn gặp phải khi tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Thứ ba, việc quy định về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa là chưa phù hợp, chưa bảo đảm tính dân chủ và bảo vệ các quyền con người trong quá trình tham gia tố tụng tại phiên tòa, làm đương sự ỷ lại phụ thuộc vào Tòa án, hạn chế tính tích cực, chủ động của đương sự trong tố tụng, vai trò của luật sư tại phiên tòa bị mờ nhạt, toàn bộ trách nhiệm chứng minh được đặt lên vai Hội đồng xét xử đặt biệt là chủ tọa phiên tòa, còn các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, những người tham gia tố tụng khác chỉ tham gia vào quá trình chứng minh ở mức độ hạn chế. Và khi phải đảm nhiệm toàn bộ trách nhiệm chứng minh ở phiên tòa thì Hội đồng xét xử không có điều kiện tập trung vào xem xét, đánh giá các chứng cứ, hướng quá trình tranh tụng giữa các bên đương sự vào việc làm sáng tỏ các yêu cầu, các căn cứ thực tiễn và pháp lý của các yêu cầu đó cũng như các tình tiết khác nhau về quan hệ pháp luật dân sự mà từ đó phát sinh tranh chấp giữa các đương sự. Mặt khác, việc Tòa án chủ động thu thập chứng cứ không bảo đảm sự khách quan, vô tư và công minh trong việc phân xử vụ án, không tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Ngoài ra, trên thực tế hiện nay, thủ tục tranh luận ở nhiều phiên tòa không được tiến hành hoặc được tiến hành rất đại khái, có nhiều trường hợp chủ tọa phiên tòa để cho đương sự tranh luận trong quá trình thẩm vấn. Tòa xét hỏi trước khi xét xử, việc xét xử có chủ định, bàn bạc từ trước. Vì vậy phiên tòa không khách quan, không có việc tranh tụng thực tế mà việc đó diễn ra một cách “hình thức” và một số Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa coi phiên tòa chỉ là một hình thức để hợp pháp hoá một bản án đã quyết định trưóc rồi, quyết định của tập thể Thẩm phán ở tại, của cấp uỷ hoặc của Tòa án cấp trên. Bên cạnh đó, Tòa án chưa thực sự tôn trọng, chưa tạo điều kiện thuận lợi để luật sư đọc hồ sơ vụ kiện; việc triệu tập phiên tòa quá gấp làm luật sư không kịp bố trí thời gian để thực hiện các quyền và nghiã vụ của mình trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa và cũng không ít trường hợp Hội đồng xét xử chưa tôn trọng, lắng nghe ý kiến của luật sư, cá biệt còn tư tưởng coi thường vai trò của luật sư tại phiên tòa, làm phiên tòa thiếu dân chủ. Một ví dụ thực tế: Ngày 20/5/2007, ông Văn cho bà Hằng vay 200 triệu đồng, có viết giấy vay nợ. Theo thỏa thuận giữa hai bên thì đến ngày 20/10/2007 bà Hằng phải trả cho ông Văn số tiền nợ trên (vì là bạn bè thân thiết nên ông Văn không lấy tiền lãi). Đến ngày thỏa thuận mà vẫn không thấy bà Hằng tới trả nợ, ông Văn tới nhà bà Hằng để yêu cầu bà Hằng trả số tiền đó vì ông đang có việc cần dùng, nhưng bà Hằng nói không trả được nợ vì số tiền đó dùng vào việc làm ăn đã bị thua lỗ hết. Đến tháng 01/2008 vẫn không thấy bà Hằng thanh toán tiền nợ cho mình nên ông Văn đã gửi đơn đến Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn yêu cầu đòi lại số tiền cho vay trên. Tháng 5/2008, Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn xét xử sơ thẩm vụ án trên nhưng không thấy ông Văn tới tham dự phiên tòa, vì thế Tòa buộc phải hoãn phiên xét xử. Đầu tháng 6/2008, Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn quyết định đưa vụ án ra xét xử thì ông Văn vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa cho rằng ông Văn đã rút yêu cầu khởi kiện nên Tòa đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Sai lầm ở đây chính là cả hai lần Tòa triệu tập ông Văn đều không nhận được giấy báo, chính vì vậy không thể tới tham gia phiên tòa được. Lần thứ nhất, khi cán bộ xã tới giao giấy triệu tập cho ông Văn mấy lần nhưng không gặp ông Văn ở nhà. Lần thứ hai do vẫn không gặp ông Văn ở nhà nên cán bộ xã đã nhét tờ giấy đó ở phía sau bếp do vậy mà ông văn cũng không nhận được giấy báo triệu tập của Tòa. Chính những quy định trong pháp luật và những tình huống trên thực tế gặp phải đã gây ra không ít những khó khăn, dẫn đến án dân sự khó xét xử, dễ bị hủy. Trong tình huống trên, lỗi một phần là từ phía Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn đã không xem xét nguyên nhân vắng mặt hai lần không có lý do của nguyên đơn mà đã vội ra quyết định đình chỉ xét xử vụ án, làm ảnh hưởng không nhỏ tới quyền lợi của đương sự và uy tín của Tòa án. Tuy nhiên đó cũng là một kinh nghiệm mà Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn rút ra được trong những vụ án dân sự sau này. Một tình huống khác là vụ ly hôn giữa vợ chồng anh Trần Văn Thạnh và chị Bùi Thị Loan. Trong quá trình chung sống, hai vợ chồng có vay mượn của một người bạn với số tiền là 150 triệu đồng. Khi ra tòa ly hôn, hai vợ chồng thỏa thuận thống nhất với nhau là mỗi người sẽ trả một nửa số nợ là 75 triệu đồng. Tuy nhiên khi Tòa tuyên án thì lại xử cho anh Thạnh trả 70 triệu đồng còn chị Loan phải trả số còn lại. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong xét xử vụ án dân sự đó là nguyên tắc tự định đoạt và tôn trọng sự thỏa thuận của các đương sự. Trong quá trình xét xử nếu các bên thỏa thuận được với nhau mà không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Tòa án phải tôn trọng quyền định đoạt đó của đương sự. Trong tình huống trên, anh Thạnh và chị Loan đã tự thỏa thuận được với nhau về nghĩa vụ trả nợ nhưng Tòa án lại không xem xét thỏa thuận của các đương sự và đưa ra phán quyết trái với mong muốn của các bên. Đây cũng là một trong những bất cập trong giai đoạn xét xử vụ án dân sự cần phải được khắc phục ngay để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho đương sự. 2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tại huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An. 2.2.1. Giải pháp chung. Bộ Luật tố tụng dân sự đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ, pháp chế XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng dân sự dân chủ, công khai, đơn giản, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Từ đó, bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. Tuy nhiên, qua hơn 5 năm thi hành Bộ Luật này cho thấy một số quy định đã bộc lộ hạn chế, bất cập; có những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác, có những quy định chưa phù hợp, chưa đầy đủ và thiếu rõ ràng.“Có những quy định chưa đáp ứng được bảo đảm được quyền, lợi ích hợp ích hợp pháp của đương sự, cũng như chưa đáp ứng được các yêu cầu cam kết quốc tế đa phương và song phương”. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật tố tụng dân sự là cần thiết, qua đây cũng nhằm tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, từng bước hoàn thiện căn bản hệ thống pháp luật tố tụng dân sự nói chung và Bộ Luật tố tụng dân sự nói riêng. Cấp sơ thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần thứ nhất. Tất cả các vụ án nếu đưa ra xét xử thì đều phải tiến hành qua cấp sơ thẩm. Đây là cấp xét xử không thể thiếu và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, nếu cấp sơ thẩm xét xử chính xác, nghiêm túc thì bản án sẽ ít bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, từ đó vụ án sẽ không bị kéo dài. Hoặc giả sử, nếu bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm thì cũng không mất nhiều công sức, thời gian và tiền của của Nhà nước cũng như của những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, các quy định về xét xử cấp sơ thẩm đã làm xuất hiện tình trạng một số người tiến hành tố tụng cho rằng “cứ xét xử, sai đã có cấp phúc thẩm xét xử lại”, từ đó thiếu cương quyết, dứt khoát, ỷ lại và lệ thuộc vào cấp phúc thẩm. Còn những người tham gia tố tụng lại coi “cấp sơ thẩm muốn xét xử thế nào cũng được, nếu đạt được ý nguyện thì thôi, nếu không đạt được ý nguyện thì kháng cáo, cấp phúc thẩm xét xử mới có hiệu lực pháp luật thi hành ngay”. Mặt khác, pháp luật dùng khái niệm “sơ” đã làm cho nhiều người hiểu đơn giản rằng, “sơ” là “sơ khai”, “sơ sài”, “sơ qua”, “sơ sơ”, nên giảm lòng tin vào quyết định của cấp sơ thẩm, làm mất đi ý nghĩa quan trọng, cần thiết và bắt buộc của cấp sơ thẩm. Vì vậy, không nên gọi là “cấp sơ thẩm” mà nên gọi là “cấp thứ nhất”. Mặt khác, trong tất cả các văn bản pháp luật tố tụng của nước ta từ trước đến nay không có văn bản nào quy định về thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm, mà chỉ quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm. Vấn đề này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau: Một là, đây là cấp xét xử thứ nhất nên đối tượng xét xử của nó không thể là bản án, quyết định mà là các yêu cầu về dân sự rất phong phú của các đương sự. Theo Điều 25 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS), thì có tới 8 loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trong mỗi loại việc lại có rất nhiều các yêu cầu cụ thể khác nhau. Vì phạm vi xét xử của cấp sơ thẩm quá rộng lớn nên không thể ấn định trước về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm. Sở dĩ pháp luật tố tụng quy định được thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bởi xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị (Điều 242 của BLTTDS) còn Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm là các cấp xét lại bản án, quyết định của cấp xét xử trước. Do đó, quyền hạn của các cấp này dễ dàng ấn định được trước xung quanh các vấn đề: giữ nguyên; sửa; hủy bỏ bản án, quyết định của các Tòa án trước. Hai là, nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự thuộc về các đương sự, Hội đồng xét xử quyết định như thế nào phụ thuộc phần lớn vào việc chứng minh của các đương sự. Hội đồng xét xử có thể chấp nhận toàn bộ yêu cầu hoặc chỉ một phần yêu cầu của các đương sự. Chính vì vậy, việc pháp luật tố tụng không quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm chính là để Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể linh hoạt, ứng biến khi quyết định trong từng trường hợp cụ thể, tùy thuộc vào các tình tiết và diễn biến của vụ án.  Tuy nhiên, ở một góc độ nào đó, việc pháp luật tố tụng không quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm dường như đã tạo ra một khoảng trống, một sự không chặt chẽ, một tâm lý không yên tâm. Như vậy, sẽ không phải là thừa nếu pháp luật tố tụng có điều luật quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm. Tất nhiên, không thể quy định cụ thể cho mọi trường hợp, nhưng nếu nhà làm luật quan tâm tới vấn đề này thì đó là điều hợp lý. Theo tôi, cần quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm là: chấp nhận toàn bộ yêu cầu của đương sự; chấp nhận một phần yêu cầu của đương sự; không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Để đảm bảo cho việc xét xử các vụ án dân sự của Tòa án được tiến hành một cách thuận lợi và đạt kết quả tốt thì cần phải thực hiện một số biện pháp sau: Một là, trong công cuộc cải cách tư pháp, nên tổ chức lại mô hình của Tòa án bảo đảm nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, các cơ quan Tòa án quan hệ với nhau theo thẩm quyền xét xử, mô hình Tòa án theo hình tháp, mà đỉnh của nó là Tòa án nhân dân tối cao. Hai là, quy định lại thẩm quyền của từng cấp xét xử theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ 8 khóa VII của Đảng (tháng 01/1995): “Cần nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện theo hướng xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án nhân dân cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm”. Ba là, hoàn chỉnh pháp luật tố tụng dân sự, lưu ý giới hạn về số lần xét xử, tạo ra một khả năng có thể kiểm soát cả về thời gian cũng như trình tự tố tụng. Pháp luật tố tụng cần quy định hạn chế số lần Tòa án cấp phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm được quyền hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới để giao Tòa án cấp dưới xét xử lại. Thêm vào đó, do đặc điểm của Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, để giải quyết vụ án dân sự, các đương sự bao gồm cả nguyên đơn và bị đơn có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án. Pháp luật nước ta còn quy định luật sư, bào chữa viên cũng có thể tham gia tố tụng trong những trường hợp có yêu cầu hoặc qua hợp đồng dân sự với đương sự; họ có một số quyền thay mặt đương sự thu thập, cung cấp chứng cứ cho tòa. Nhưng thực tế, không phải đương sự nào cũng có khả năng tài chính để thuê luật sư, trong khi đó việc trợ giúp pháp lý miễn phí mới chỉ áp dụng trong phạm vi đối tượng hẹp như người nghèo hoặc gia đình chính sách. Các trường hợp còn lại, đương sự phải đứng ra thu thập, cung cấp chứng cứ và tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước tòa trong khi trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Ngay như trường hợp thu thập chứng cứ tại các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, nhà cửa... đương sự phải đi lại nhiều lần mà chưa chắc hoàn thiện đủ thủ tục. Theo quy định, đương sự không tự thu thập chứng cứ được thì yêu cầu Tòa án tiến hành. Thực tế, nhiều trường hợp thẩm phán thụ lý vụ án trực tiếp thu thập chứng cứ sau đó trực tiếp xét xử. Ở nhiều nước phát triển, Tòa án là cơ quan tài phán đứng giữa, thu thập chứng cứ hoàn toàn là công việc của đương sự, Tòa án không làm việc đó. Trong khi đó, ở nước ta hiện nay, người xác minh thu thập chứng cứ chủ yếu là thẩm phán. Điều này có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của quá trình xét xử và ra bản án. Mặt khác, mặc dù khi xét xử ở cấp sơ thẩm có 2 Hội thẩm nhân dân cùng tham gia, nhưng những người này cũng chủ yếu dựa vào các chứng cứ mà do chính Thẩm phán chủ tọa thu thập. Vì lý do trên, nếu không có sự tham gia của Viện kiểm sát ngay từ đầu, cũng như trong cả quá trình giải quyết vụ án dân sự, với tư cách là kênh phản biện, giám sát và đưa ra quan điểm giải quyết vụ án thì việc giải quyết vụ án đó có nguy cơ thiếu chính xác, khách quan. Bên cạnh đó, thực tế hiện nay có nhiều vụ án đã qua 2 cấp xét xử nhưng kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc phát biểu, đánh giá của kiểm sát viên càng làm tăng thêm tính khách quan để Hội đồng xét xử nghiên cứu, cân nhắc, xem xét, quyết định, bởi đây không phải là quan điểm giải quyết vụ án mà quan điểm của Viện kiểm sát về những vấn đề mà trong quá trình tham gia từ giai đoạn đầu đến giai đoạn thứ hai vấn đề như thế nào, có đúng pháp luật không. Điều đó càng khẳng định rõ, việc tham gia của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án dân sự là một đòi hỏi bức thiết từ thực tế. Do đó, nên có điều luật quy định cho Viện kiểm sát được tham gia tất cả các vụ án dân sự để đảm bảo cho việc xét xử vụ án dân sự ngày càng đạt kết quả cao. Thứ ba, trong thời giam gần đây Đảng và Nhà nước ta đang có Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra định hướng cơ bản về cải cách tư pháp ở nước ta là: “cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ thuận tiện…”.[16] Định hướng này tạo điều kiện cho các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải chủ động rà soát các văn bản pháp luật hiện hành để sửa đổi, bổ sung, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta. Căn cứ theo định hướng BLTTDS cần sửa đổi để phù hợp với sự phát triển của xã hội và phù hợp với định hướng cải cách pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể, BLTTDS hiện hành chưa thực sự hoàn thiện, thủ tục tiến hành chưa thực sự đơn giản. Chính vì vậy, cần lược bỏ một số thủ tục không cần thiết để giải quyết đối với vụ án dân sự tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, không có phản đối về nghĩa vụ dân sự, về cung cấp chứng cứ và thời gian chuẩn bị giải quyết cũng rút ngắn. Đối với những vụ án thực hiện theo thủ tục đơn giản này thì bản ám hoặc quyết định của Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục đơn giản có hiệu lực pháp luật được thi hành ngay sau khi tuyên án, đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị theo thủ thục phúc thẩm. 2.2.2 Giải pháp cụ thể.. Thứ nhất, trong thực tế có một số vụ án dân sự ở cấp xét xử sơ thẩm bị hủy, bị hoãn xét xử vô thời hạn vì không thu thập đủ chứng cứ. Điều 7 Luật Tố tụng dân sự hiện hành còn thiếu quy định cá nhân, cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, đầy đủ, chính xác của việc cung cấp chứng cứ. Vì vậy, cần bổ sung thêm quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, đầy đủ, chính xác của việc cung cấp chứng cứ; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ”. Quy định này sẽ là cơ sở để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện. Thứ hai, một trong những trở ngại lớn trong việc giải quyết các vụ án hiện nay là ý thức chấp hành pháp luật của một số cá nhân, cơ quan, tổ chức rất hạn chế. Điều này thể hiện ở các hành vi cản trở các hoạt động tố tụng của Tòa án. Hành vi cản trở không chỉ do những người tham gia tố tụng (chủ yếu là các đương sự) thực hiện nhằm đạt được lợi thế cho mình trong việc giải quyết vụ án, mà ngay cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng tham gia, gây khó khăn cho Tòa án. Biểu hiện phổ biến và rõ nét nhất là các hành vi: người tham gia tố tụng cố tình không nhận, không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, tự ý bỏ về giữa chừng làm cho việc giải quyết phải hoãn nhiều lần. Hành vi từ chối khai báo hoặc khai báo không đúng sự thật; mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép để ngăn cản người làm chứng hoặc để họ khai báo gian dối; không chịu ký vào các biên bản làm việc của Tòa án. Các cá nhân, tổ chức cố ý tẩu tán, hủy hoại hoặc không cung cấp các tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa cho việc giải quyết các vụ án hành chính, các vụ, việc dân sự mà Tòa án yêu cầu cung cấp hoặc có quyết định thu thập chứng cứ. Các cơ quan chuyên môn không cử cán bộ tham gia Hội đồng định giá tài sản theo yêu cầu của Tòa án; đương sự cản trở hoạt động định giá tài sản, hoạt động xem xét tại chỗ. Hành vi cố ý không thực hiện, thực hiện không đúng việc cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo yêu cầu của Tòa án. Hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa, phiên hòa giải, xúc phạm lẫn nhau giữa các đương sự, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cán bộ Tòa án; đương sự, người nhà của đương sự cố tình xuyên tạc, tố cáo cán bộ Tòa án sai sự thật... Nói tóm lại, mỗi hoạt động tố tụng đều có thể xảy ra các hành vi cản trở tương ứng. Tất các các hành vi cản trở hoạt động tố tụng, dù ở mức độ nào đều có ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của Tòa án. Bộ luật Tố tụng dân sự đã dành một chương (chương XXXII) để quy định về việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các hành vi vi phạm được liệt kê trong chương này cũng chỉ là số ít trong số rất nhiều loại hành vi cản trở hoạt động tố tụng cần phải được xử lý, và chương này cũng chỉ dừng lại ở quy định chung: “thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự do ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định”. Chính vì vậy cần quy định hình thức xử phạt rõ ràng, cụ thể và khắc để sớm khắc phục được tình trạng này. Thứ ba, qua thực tiễn xét xử, còn thấy có vướng mắc mà Tòa án gặp phải đó là điều luật quy định về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 192 BLTTDS). Theo quy tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi “Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận”. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn trong trường hợp nào người khởi kiện rút đơn khởi kiện thì được Tòa án chấp nhận và trường hợp nào thì Tòa án sẽ không chấp nhận. Tất nhiên, các Thẩm phán vẫn dựa trên nguyên tắc chung là “Việc rút đơn là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.[3] Tuy nhiên, vì chưa có hướng dẫn cụ thể nên các thẩm phán, Hội đồng xét xử thường có nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc áp dụng quy định trên không thống nhất. Trường hợp vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa, vụ án không có yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của nười có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có được ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án mà không cần phải mở phiên tòa nữa không. Đây là những vấn đề còn nhiều cách hiểu và cách giải quyết khác nhau. Do đó, cần phải có quy định rõ ràng về việc ra quyết định đình chỉ vụ án dân sự trong trường hợp này để tránh các cách hiểu và cách giải quyết khác nhau dẫn tới cấp sơ thẩm hiểu theo cách này nhưng cấp phúc thấp lại hiểu theo cách khác và làm cho vụ án bị hủy và phải xét xử lại gây ảnh hưởng tới lợi ích chính đáng của các đương sự trong vụ án đó. Thứ tư, phải nâng cao ý thức pháp luật cho người dân bằng cách tuyên truyền, giáo dục nhân dân tìm hiểu pháp luật trong nước, tổ chức những phiên tòa lưu động trong trường hợp thuận tiện. Đó chính là một trong những biện pháp tốt nhất để nhân dân tiếp cận và nắm bắt được pháp luật của Nhà nước ta và nâng cao được ý thức nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của một bộ phận không nhỏ những người dân khi tham gia phiên tòa đó. Từ đó để người dân có ý thức hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc tham gia pháp luật tố tụng dân sự nói chung và pháp luật nước nhà nói riêng. Kết luận chương 2. Qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn chúng ta nhận thấy rằng bên cạnh những ưu điểm mà Bộ luật tố tụng dân sự đã đạt được thì còn có những bất cập và vướng mắc trong quy định của pháp luật ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cũng như chất lượng xét xử của Tòa án các cấp nói chung và Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn nói riêng. Chính vì vậy việc bổ sung và sửa đổi những bất cập đó là một việc làm cần thiết và cấp bách để hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành, không chỉ đảm bảo cho quá trình thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước mà còn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân. KẾT LUẬN Sau hơn 5 năm thi hành, BLTTDS đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng dân sự dân chủ, công khai, đơn giản, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng dân sự. Bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. BLTTDS đã kế thừa được các giá trị của các văn bản quy phạm pháp luật được thể nghiệm trong thực tế, bảo đảm hài hòa lợi ích của các đương sự, tương thích với luật pháp quốc tế và thể hiện sự minh bạch, khả thi. Tuy nhiên, khi triển khai thi hành BLTTDS cho thấy một số quy định của BLTTDS không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định; có những quy định chưa đáp ứng được các yêu cầu cam kết quốc tế đa phương và song phương; có những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác; có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp), chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau; có những quy định chưa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Chính vì vậy, BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 ra đời với mục đích khắc phục những vướng mắc và bất cập mà BLTTDS 2004 mắc phải, góp phần nâng cao hoạt động thực thi pháp luật của Tòa án, đảm bảo quyền, lợi ích của người dân và đặc biệt là tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho toàn dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật dân sự 2005, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Bộ luật tố tụng dân sự 2004, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Đất đai 2003, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật Hôn nhân gia đình (2000), Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật tổ chức tòa án nhân dân 2002. 7. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006; 8. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. 9. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 04/ 2005 ngày 17 tháng 9 năm 2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về chứng minh và chứng cứ. 10. Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb tư pháp Hà Nội, 2005. 11. Từ điển giải thích thuật ngữ luật học LDS, LHN&GĐ, LTTDS - Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân năm1999, tr 197. 12. Hội đồng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989/LTC/HDDNN8 ngày 17/02/1989. 13. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2009), Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án số 10/2009/PL – UBTVQH NGÀY 27/2/2009. Các tài liệu tham khảo bổ sung. 14. Ts. Nguyễn Thị Hoài Phương, Trường đại học luật TPHCM, “Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và những vấn đề đặt ra cho việc sửa đổi Bộ luật TTDS”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 12 năm 2009. 15. Trần Văn Tuân, Tòa dân sự TANDTC, “Một số ý kiến về đề nghị hướng dẫn, sửa đổi một số điều của BLTTDS”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 4 năm 2010. 16. Võ Hồng Sơn, Tòa án nhân dân tối cao, “Cần bổ sung thủ tục đơn giản vào BLTTDS”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 6 năm 2010. 17. Võ Thanh Bình, Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn, “Một số vướng mắc trong việc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 6 năm 2010. 18. Nguyễn Như Bích, nguyên phó cháng án TANDTC, “Một số ý kiến đối với dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2004”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 9 năm 2010. 19. Lương Thị Hợp, Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, “Một số vấn đề trông BLTTDS cần được sửa đổi, hướng dẫn”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11 năm 2010. 20. Quốc hội thảo luận việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự, Website Sở tư pháp Quảng Ngãi: 21. Trúc Huỳnh, “quy định về án phí Tòa án”, Website: 22. Website Thông tin pháp luật Việt Nam – Báo pháp luật BVL – LAWFIRL: www.lawvn.net. 23. Website Báo Lao Động: bàn về bảo đảm quyền tranh luận trong Tố tụng dân sự. 24. Website Hà Nội VDT LAWFIRM: bàn về vướng mắc trong Bộ luật tố tụng dân sự. 25. Website Người bảo vệ quyền lợi của Trung tâm tư vấn pháp luật tại thành phố Hồ Chí Minh – Trung ương Hội luật gia Việt Nam: bàn về giải pháp nâng cao chất lượng xét xử vụ án dân sự của tòa án. 26. Website Góc luật sư: bàn về sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự. 27. Website Thông tin pháp luật dân sự Civil Law Network: bàn về vướng mắc của Bộ luật tố tụng dân sự. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa_luan_tot_nghiep1.doc
Tài liệu liên quan