Khóa luận Giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát từ xa đối với Qũy tín dụng nhân dân cơ sở tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội

Hoạt động kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh có rất nhiều rủi ro, dễ bị tổn thương khi có gian lận và sai sót; việc đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức này không những được các nhà kinh doanh ngân hàng quan tâm mà còn là mối quan tâm hàng đầu của những người gửi tiền, của các cơ quan quản lý nhà nước, của toàn xã hội vì sự phá sản của một ngân hàng có thể gây nên đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống tài chính- ngân hàng, ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Để ngăn ngừa những tổn thất và các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng, ngoài các biện pháp thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước thì cần thiết công tác giám sát tại tổ chức Bảo hiểm tiền gửi phải có những biện pháp hữu hiệu, mà biện pháp quan trọng nhất là bảo hiểm tiền gửi phải thiết lập được một hệ thống giám sát từ xa một cách đầy đủ và có hiệu quả. Giám sát trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi được hình thành và phát triển ngay từ buổi đầu mà bảo hiểm ra đời và đi vào hoạt động. Vì vậy Giám sát phát triển và hoàn thiện thể hiện một tổ chức bảo hiểm tiền gửi phát triển cao và có hiệu quả. Phát triển hệ thống giám sát tốt cũng chính là thể hiện một hình thức bảo hiểm công khai có kết quả. Trong thời gian thực tập tại BHTG chi nhánh khu vực Hà Nội, nhận thức được tầm quan trọng của giám sát từ xa đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài này. Tôi mong rằng bài khoá luận này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc khẳng định tiếng nói của người cán bộ giám sát và vị trí cần tạo lập của hoạt động này trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi nói riêng và trong nền kinh tế thị trường nói chung. Cuối cùng, dù đã dành nhiều thời gian và công sức, khoá luận có thể còn nhiều hạn chế, nhiều vấn đề cần tiếp tục làn rõ. Xin cảm ơn sự phê bình, góp ý của các thầy cô và bạn đọc.

doc107 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát từ xa đối với Qũy tín dụng nhân dân cơ sở tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chi nhánh và các đối tượng liên quan chưa có, số lượng máy tính chưa nhiều, đôi khi vẫn còn xảy ra lỗi phần mềm, điều này gây nguy hiểm cho các dữ liệu được lưu trữ trong máy. Về việc thực hiện chế độ báo cáo và truyền dẫn thông tin Đến thời điểm này thì báo cáo duy nhất và có độ tin cậy nhất đối với giám sát từ xa đó là bảng cân đối tài khoản kế toán của TCTGBHTG, bảng cân đối này tuy quy định ở tài khoản cấp 3 có tính pháp lý cao song chưa thực sự phản ánh một cách chi tiết các yếu tố cần phân tích. Hơn nữa, thông tin khi đến được bộ phận giám sát từ xa thì đã không còn tính thời sự như : khả năng thanh khoản, hệ số đảm bảo vốn, vì các số liệu trên, bộ phận giám sát từ xa chỉ có thể tiếp cận hàng tháng, sớm nhất cũng phải là ngày10 của tháng sau; Số liệu trong báo cáo còn nhiều nội dung thiếu chính xác không có độ tin cậy cao, nhất là số liệu nợ quá hạn, thu chi tài chính, trích lập dự phòng, mặt khác vẫn còn một số đơn vị gửi báo chưa đều và chậm, chưa tự giác gửi báo cáo đột xuất( khi có sự thay đổi hồ sơ pháp lý của tổ chức tham gia BHTG); Giám sát từ xa còn hạn chế trong việc sử dụng các nguồn thông tin từ giám sát của NHNN mà chủ yếu mới chỉ sử dụng nguồn thông tin từ TCTGBHTG cung cấp, từ đó mà gặp nhiều khó khăn trong đánh gía, nhất là đối với các chỉ tiêu phi tài chính; Về các vi phạm: Một số TCTD thời hạn nộp phí liên tục chậm, thời hạn nộp báo cáo liên tục chậm nhưng chưa có quy định xử phạt đặc biệt đối với trường hợp này, điều này khiến cho các TCTGBHTG chưa có ý thức chấp hành tốt quy định của BHTGVN; Nội dung giám sát còn nặng về thống kê số liệu, so sánh tăng giảm một số chỉ tiêu kinh tế thuộc nguồn vốn, sử dụng vốn, thu nhập chi phí mà chưa xây dựng được chi tiêu đánh giá xếp loại đối với các TCTGBHTG. Các phương pháp logic, suy diễn sâu về nghiệp vụ để trở thành dự báo còn ít được đề cập nên nội dung thông tin thường lặp đi lặp lại, thiếu tính thuyết phục, dễ nhàm chán. Có thể nói các chỉ tiêu mới chỉ dừng lại ở các yếu tố định lượng mà chưa có yếu tố định tính; Chưa có chính sách cụ thể để giải quyết vấn đề trách nhiệm pháp lý của các cán bộ trong bộ phận giám sát; Việc giám sát, tuy là chỉ thể hiện qua các báo cáo mà TCTGBHTG gửi đến, song nó cần và đòi hỏi độ chính xác cao trong kết luận sau giám sát, chỉ một sơ suất nhỏ cũng sẽ gây ra hiệu quả không tốt cho công tác sau này; Một ví dụ nhỏ: Với kết luận là một TCTGBHTG có tỷ lệ HCooke chưa đảm bảo theo quy định sau khi đã cảnh báo rất nhiều qúy nhưng cán bộ giám sát vẫn thấy QTDND này vẫn chưa thực hiện chỉ tiêu đúng theo quy định, trong trường hợp cán bộ này không tìm hiểu kỹ nguyên nhân là “tại sao” mà đã quyết định kiểm tra trực tiếp qũy này. Nếu ở đây mức độ sai sót là QTDND được thành lập trước 30/04/2002 mà thời điểm kiểm tra lại trước 01/07/2005 thì việc kiểm tra tại chỗ đối với chỉ tiêu này của TCTG là hoàn toàn sai, nguyên nhân là cán bộ đã không tìm hiểu rõ về quyết định số 720 hoặc chưa tìm hiểu rõ ràng về hoạt động cũng như thời điểm thành lập của qũy. Như vậy trong trường hợp này người cán bộ gíam sát phải hoàn toàn chịu trách nhiệm pháp lý về quyết định của mình, nhưng trách nhiệm như thế nào, mức độ ra sao, với hình thức nào thì hiện nay BHTGVN vẫn chưa có văn bản quy định về điều này; Trường hợp khác mà nguyên nhân sai là chủ yếu do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Những báo cáo chứa đựng sự gian lận cố ý mà trong quá trình giám sát người cán bộ không thể phát hiện được từ đó làm cho báo cáo giám sát có mức độ sai sót thì trách nhiệm của người giám sát sẽ ở mức độ nào, TCTGBHTG phải có trách nhiệm ra sao, những sai phạm này đòi hỏi các cơ quan liên quan phải có liên đới trách nhiệm như thế nào, trong trường hợp này BHTGVN cùng cơ quan chức năng phải ra văn bản phân định rõ ràng. Với những ví dụ ở trên, tuy nó chỉ là rất đơn giản, ở mức độ thông tin tài chính kinh tế của ta hiện nay thì ảnh hưởng của nó là nhỏ nhưng một khi thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường kinh doanh tiền tệ nói chung của Việt Nam phát triển đạt đến một trình độ của các nước phát triển trên thế giới thì mức độ ảnh hưởng của nó sẽ đi đến đâu? Khi đó những báo cáo giám sát của BHTG nói chung không chỉ có giá trị lưu hành nội bộ như hiện nay mà nó còn là số liệu rất quan trọng cho trước tiên là cho những nhà nghiên cứu kinh tế sau đó là đến các nhà đầu tư, đến lúc đó báo cáo giám sát sẽ có tác dụng rất lớn và có vai trò dự báo rất quan trọng cho các nhà đầu tư trong tương lai của các TCTGBHTG. Vậy một khi báo cáo giám sát sai, số liệu ảo thì mức độ ảnh hưởng của nó không phải là nhỏ, khi này trách nhiêm sẽ thuộc về ai và ai là người xử lý trách nhiệm này? (đặc biệt là chi nhánh BHTG khu vực Hà Nội là một chi nhánh nằm giữa thủ đô, luôn đối mặt vơí tốc độ phát triển đến chóng mặt của kinh tế cũng như của thị trường tài chính tiền tệ- ngân hàng); Như vậy công tác giám sát từ xa còn nhiều bất cập đòi hỏi BHTG cùng NHNN phải có biện pháp giải quyết triệt để. b. Nguyên nhân Giám sát từ xa của BHTGVN là phương thức mới, mang tính hiện đại, được hình thành trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu của các nước ngoài đã và đang làm, do vậy khi áp dụng vào thực tế của nước ta không tránh khỏi lúng túng và hạn chế ban đầu; Điều quan trọng và đáng lưu ý hơn là hiện nay BHTGVN mới chỉ có quy chế giám sát mà chưa có hướng dẫn thực hiện quy chế này. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho công tác giám sát của các cán bộ trong bộ phận giám sát nói riêng và của toàn thể hoạt động của BHTGVN nói chung( vì hiện nay công tác giám sát là công tác được BHTGVN coi trọng nhất và là công tác được thực hiện thường xuyên nhất); Do yêu cầu đổi mới nhanh chóng công nghệ tin học vào hoạt động của giám sát từ xa, nên phải vừa làm, vừa thử nghiệm, vừa trang bị kỹ thuật, trong khi chương trình còn nhiều vấn đề bất cập cả về yếu tố kỹ thuật cả về phương pháp tổ chức thực hiện; Đất nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều yếu tố chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh, đặc biệt là vốn của bản thân các TCTD còn thấp, một số quy chế hướng dẫn chưa cụ thể, nên khi phân tích đánh giá không chính xác, không sát với quá trình chỉ đạo điều hành của các Ngân hàng, do đó hiệu quả thấp; Chưa có căn cứ chung để làm thước đo đánh giá chất lượng báo cáo Việc lập báo cáo của các QTDND hiện nay hầu như không ai theo dõi việc chấp hành chế độ hạch toán để có biện pháp chấn chỉnh và bổ sung kịp thời nên nhiều khi số liệu này lại do các cán bộ kế toán và lãnh đạo của TCTD cố tình làm không chính xác. Từ đó làm cho công tác phân tích khá vất vả, cán bộ phân tích đôi khi biết là không đáng tin cậy vậy mà vẫn phải tin vì chẳng còn nguồn tin nào khác; Như vậy, việc chất lượng báo cáo mà Chi nhánh nhận được ở đây của các TCTGBHTG còn phải đặt ra một dấu chấm hỏi lớn, đòi hỏi cơ quan hữu quan và BHTGVN phải có biện pháp chấn chỉnh trong thời gian tới. Về mặt khách quan NHNN chưa có chế tài về xử phạt hành chính đối với các tổ chức tham gia BHTG không chấp hành chế độ báo cáo theo quy định tại Thông tư 03. Về mặt chủ quan là do thái độ hợp tác của các TCTGBHTG trong việc nộp báo cáo cũng như chấp hành quy định của pháp luật về BHTG còn kém, thời kỳ đầu còn nhiều đơn vị cố tình không hợp tác, thậm chí trong đó còn có cả ban lãnh đạo của các TCTGBHTG cố ý gây khó dễ cho cán bộ của Chi nhánh; Một vấn đề cũng cần phải nhắc đến là QTDND cơ sở là tổ chức hợp tác của chính những người nông dân, họ tự nguyện bỏ tiền của mình ra cùng hỗ trợ nhau trong kinh doanh, do vậy kiến thức của họ trong kinh doanh tiền tệ còn thấp cũng như ý thức chấp hành của họ trong việc chấp hành các quy định về pháp luật, về chế độ báo cáo; Cán bộ chủ chốt, cán bộ chuyên môn của các QTDND trình độ còn hạn chế vì vậy gây khó khăn cho công tác giám sát của Chi nhánh, điều này thể hiện ở chỗ có nhiều đơn vị được Chi nhánh nhắc nhở, cảnh báo nhiều lần song vẫn như cố tình không điều chỉnh trong quá trình kinh doanh. Chương 3. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy công tác giám sát từ xa của chi nhánh bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội đối với qũy tín dụng nhân dân cơ sở 3.1 Định hướng 3.1.1 Định hướng hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong thời gian tới - Xây dựng chiến lược phát triển bảo hiểm tiền gửi với mục tiêu phát triển bền vững, rộng khắp, hiện đại, hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn hệ thống ngân hàng đang tích cực triển khai các hoạt động hợp tác với ASEAN, APEC, ASEM, WTO và các tổ chức đa phương và song phương khác để từng bước hoàn thiện “lộ trình” hội nhập quốc tế, - Tăng cường năng lực tài chính đủ sức thực hiện chức năng nhiệm vụ của chính mình với sự hỗ trợ của Nhà nước, thực hiện quản lý tài sản an toàn và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Khả năng tài chính của BHTGVN hiện nay được đánh gía là chưa cao so với nguồn vốn kinh doanh của các ngân hàng, vì vậy nếu xảy ra sự đổ vỡ bất cứ một ngân hàng nào, dù là cổ phần thì đó cũng là một vấn đề lớn đối với BHTGVN. - Chủ động tăng cường mở rộng cung cấp thông tin với các nước thành viên có mô hình tốt trong Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế, để trao đổi kinh nghiệm quản trị điều hành và các nghiệp vụ hoạt động để xây dựng tổ chức bảo hiểm tiền gửi ngày càng phát triển vững mạnh. 3.1.2 Định hướng hoạt động của chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội. Trên cơ sở định hướng của BHTGVN cùng với công tác thực tế, BHTG Chi nhánh khu vực Hà Nội đã xây dựng cho mình kế hoạch thực hiện trong thời gian tới, mà gần nhất là trong năm 2004 như sau: - Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố, chính quyền địa phương và Hội đồng thanh lý để theo dõi, đôn đốc việc thu hồi nợ cho Bảo hiểm tiền gửi việt Nam. - Nâng cao và hoàn chỉnh hoạt động nghiệp vụ kiểm tra, giám sát đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Công tác giám sát từ xa hiện nay còn nhiều bất cập như đã trình bày ở trên, đòi hỏi Chi nhánh phải có phương hướng để khắc phục nhanh tình trạng đó - Tổ chức nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ công tác chuyên môn, như đẩy mạnh việc tìm hiểu về các nghiệp vụ chính của BHTG đồng thời qua đó rút ra được những kinh nghiệm thực tế, đưa ra các giải pháp có tính khả thi cao áp dụng trong lĩnh vực này. - Triển khai hoạt động nghiệp vụ hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Nghiệp vụ hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG còn chưa chính thức được triển khai, vì vậy để góp phần vào việc giúp các TCTD thấy được sự cần thiết thực sự của BHTG đòi hỏi công tác hỗ trợ tài chính phải được triển khai sớm kết hợp song song với nghiệp vụ giám sát từ xa; - Tăng cường hoạt động truyền thông để nâng cao nhận thức và sự ủng hộ của cộng đồng và các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền đối với vai trò và vị trí của hoạt động Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. 3.2 Giải pháp Do yêu cầu phát triển mạnh mẽ của hệ thống Ngân Hàng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta thời gian tới, trước mắt là từ nay đến 2020 với một hệ thống Ngân Hàng đa dạng và phong phú và được hiện đại hoá, nhằm hội nhập với thế giới đã đặt ra yêu cầu tăng cường công tác quản lý vĩ mô với mục đích kiểm soát thường xuyên và giữ cho hoạt động của chúng đúng pháp luật, ổn định. Đó chính là góp phần vào thực hiện nhiệm vụ ổn định và phát triển nền kinh tế tài chính ở nước ta trong giai đoạn mới, góp phần xây dựng công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được nhiệm vụ trên, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời với công tác giám sát đã đạt được một số kết quả đáng kể, tuy nhiên thời gian hoạt động chưa lâu, lại là hình thức mới mẻ nên vẫn còn nhiều bất cập cần sửa đổi, cần tháo gỡ và cần giải quyết; Nhìn nhận được được tầm quan trọng của công tác giám sát này và mức độ ảnh hưởng của những mặt còn tồn tại, khó khăn như đã nêu ở trên đối với quỹ tín dụng nhân dân nói riêng, hệ thống Ngân hàng nói chung xin đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng của công tác giám sát từ xa đối với quỹ tín dụng nhân dân cơ sở như sau: Hoàn thành quy trình giám sát từ xa tại Chi nhánh Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam Đối với hoạt động giám sát từ xa hiện nay của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nói chung và tại các chi nhánh nói riêng cần thiết xây dựng một chính sách và quy trình giám sát từ xa tốt hơn để đưa TCTD nói chung, QTDND cơ sở nói riêng thành một hệ thống có tính hiện đại và có sức cạnh tranh cao; Thực tế cho thấy một mô hình tổng thể quy trình giám sát từ xa hiện nay của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không khác xa nhiều so với mô hình giám sát từ xa theo công thức CAMELS của NHNN và bản thân nó cùng hệ thống cảnh báo phải được bổ sung sửa đổi và hoạch định ngay từ đầu để trước hết là tránh sự chắp vá, sau đó là không phá vỡ hệ thống phần mềm máy tính đồng thời dễ dàng bổ sung chỉnh lý khi cần thiết. Điều này đòi hỏi có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng mô hình về chuyên môn cùng giải pháp về công nghệ thông tin; Hiện nay chi nhánh đang thực hiện giám sát theo quy trình: Sơ đồ 2: Về quy trình giám sát(*) Các báo cáo Các báo cáo Các chỉ tiêu vi mô. (định tínhvà định lượng) Chỉ tiêu vi mô Phân tích Phân tích Xin kiến nghị Đánh giá xếp loại Đánh giá nhận xét và cảnh báo Cảnh báo ở đây, cần thiết phải đánh giá xếp loại TCTGBHTG trong địa bàn để dễ dàng hơn trong việc nhận biết dấu hiệu trên cơ sở đó đưa ra các khuyến cáo và có biện pháp chấn chỉnh, ngăn ngừa những sự cố xảy ra trước khi quá muộn. Để thực hiện việc đánh giá xếp loại các TCTGBHTG đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó Chi nhánh cần phải quan tâm đến những thông tin xếp loại ngân hàng của CIC; Về vấn đề xếp loại các TCTGBHTG trên địa bàn, thiết nghĩ Chi nhánh khi xây dựng chỉ tiêu cần phân thành 2 nhóm: Nhóm chỉ tiêu định tính và nhóm chỉ tiêu định lượng (chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính) để có phương pháp đánh giá thích hợp: (*)TCNH số 9/ 2003 trang 20 Chỉ tiêu định lượng, khó khăn nhất là nguồn thông tin để tính toán, ngoài thông tin từ các TCTGBHTG cung cấp đòi hỏi Chi nhánh cần phải có thông tin chi tiết, chính xác từ Chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố, từ QTDNDTW, từ các vụ, cục liên quan. Các chỉ tiêu này về cơ bản đó là chỉ tiêu vi mô, nhưng nếu để xếp loại thì cần phải bổ sung một số các chỉ tiêu sao cho phù hợp; Chỉ tiêu định tính, đây là một việc vô cùng khó đối với Chi nhánh bởi một lẽ công tác giám sát từ xa hiện nay chỉ nhận được thông tin về TCTGBHTG qua báo cáo. Tuy nhiên để có thể đánh giá được chỉ tiêu này Chi nhánh cần phối hợp nhiều với đơn vị có liên quan khác như cơ quan pháp luật, cơ quan thuế, chính quyền địa phương quỹ hoạt động, người gửi tiền (khách hàng của các tổ chức tham gia BHTG)…Việc xếp loại này xin kiến nghị là phải làm thường xuyên theo các kỳ giám sát các đơn vị mà hiện nay đó là quý, năm tức là tiến hành đánh giá xếp loại căn cứ vào số liệu trong năm tài chính; Hơn nữa, trong tương lai, Chi nhánh hoàn toàn có thể xếp loại TCTG theo số liệu lịch sử từ 5-7 năm, tìm ra các quy luật phát triển của các tổ chức tham gia BHTG trên địa bàn mình, qua đó dễ dàng thực hiện công tác cảnh báo xa của mình. Nếu làm được điều này thì thực sự BHTG mới trở thành một nhà “tiên tri” theo đúng nghĩa của nó. Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Chi nhánh. Về mô hình chung, trong thời gian không xa Chi nhánh cần hoàn thiện bộ máy tổ chức đáp ứng với yêu cầu hoạt động của mình, như thành lập phòng hỗ trợ tài chính; phòng xử lý nợ, tiếp nhận thanh lý tài sản, phòng tính và theo dõi nộp phí.. . Với một cơ cấu tổ chức hoàn thiện sẽ giúp cho công việc của Chi nhánh không bị dồn đống hay các phòng ban phải làm việc quá nhiều, thực tế cho thấy vì chưa có phòng chi trả, thanh lý riêng biệt nên trong thời gian qua công việc thanh lý, chi trả đều do phòng kiểm tra thực hiện; Với yêu cầu công tác hiện tại của BHTG một phòng ban có thể thực hiện được nhiều công việc trong một lúc. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ chuyên môn sâu về lĩnh vực mà mình làm. Vì vậy việc thành lập các phòng ban riêng biệt đáp ứng nhu cầu công việc thực tế đòi hỏi là một tất yếu; Ngoài ra công tác tổ chức cán bộ còn đặt ra một số yêu cầu đối với Chi nhánh là: Đảm bảo tính độc lập của các kinh tế viên và của bộ phận đặc biệt là cán bộ phòng giám sát, tức là sự phân tách chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, không giao nhiệm vụ của bộ phận này cho bộ phận khác làm. Hiện nay tại Chi nhánh, cán bộ quản lý theo địa bàn nhưng khối lượng tổ chức tham gia trong mỗi địa bàn là khá lớn, vì vậy sẽ gây khó khăn cho công tác phân tích sau này. Do đó vấn đề đặt ra là cần phải phân tổ giám sát theo từng chỉ tiêu kinh tế kết hợp với phân tổ theo địa bàn quản lý: - Phân tổ giám sát về nguồn vốn và sử dụng vốn - Phân tổ giám sát về NQH - Phân tổ giám sát về khả năng thanh toán và an toàn - Phân tổ về thu phí, tính phí, nhận báo cáo . . . Điều này cho thấy sẽ hết sức phù hợp đối với một quốc gia mà khả năng cạnh tranh của các ngân hàng là rất phát triển. Khi đó thì việc nghiên cứu cũng như phân tích đánh giá một chỉ tiêu của một số ngân hàng qua đó xếp loại cho từng chỉ tiêu đó không phải là việc dễ dàng gì. Thực trạng này thật sự đòi hỏi phải có những chuyên gia hiểu biết hết sức xâu rộng trong lĩnh vực Ngân Hàng cũng như việc sẽ phải biết tìm những thông tin kinh tế- tài chính đáng tin cậy ở đâu; Đảm bảo vị thế của bộ phận giám sát trong Chi nhánh, điều này là đặc biệt quan trọng vì công tác giám sát từ xa đối với tổ chức tham gia là thường xuyên, quan trọng nhất không những chỉ hiện tại mà còn cả khi Bảo hiểm tiền gửi đã phát triển. Bởi một lẽ, số lượng tổ chức tham gia nhiều, lại ở các địa bàn khác nhau với đặc điểm xã hội khác nhau, đặc biệt các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hầu hết có mạng lưới hoạt động ở các miền quê nông thôn xa xôi vì vậy việc kiểm tra trực tiếp là khó khăn và còn đặt ra nhiều bất cập lớn; Phối hợp một cách chặt chẽ công tác giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ Về mặt pháp lý, đòi hỏi hệ thống văn bản phải được thực hiện đúng đắn, thể hiện một cách rõ nét mạch lạc mà logic những công việc cụ thể của các phòng ban phải làm trên cơ sở đó tránh được những bất đồng và mâu thuẫn xảy ra giữa các phòng ban. Vấn đề quan trọng đó là phải kết hợp chặt chẽ giữa giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ vì hai bộ phận này cần được kết hợp một cách nhuần nhuyễn và không thể tách rời nhau: Chuyển kết quả phân tích và giám sát cho bộ phận kiểm tra để nghiên cứu nếu có vấn đề thì tổ chức kiểm tra, xác minh cụ thể và có biện pháp xử lý kịp thời. Phối hợp giữa giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ trong việc tiếp nhận các báo cáo của tổ chức tham gia, nghiên cứu kết quả giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ để xử lý ( so sánh kết quả ). Phối hợp giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ để đánh giá và xếp loại tổ chức tham gia: - Xếp loại theo kỳ giám sát. - Phương pháp đánh giá, xếp loại: Tài liệu phân tích và giám sát là cơ sở ban đầu, tài liệu qua kiểm tra tại chỗ là căn cứ xác định. Nếu trong kỳ đánh giá, xếp loại mà không tiến hành kiểm tra tại chỗ thì tài liệu phân tích và giám sát là căn cứ duy nhất để xếp loại tổ chức tham gia. Việc công bố các chỉ tiêu tài chính sau khi công bố phân loại tổ chức tham gia do bộ phận giám sát từ xa đảm nhận. Chi nhánh cần quan tâm hơn nữa trong việc xây dựng môi trường giám sát tốt thông qua một số biện pháp cụ thể sau: Khuyến khích các chuẩn mực về đạo đức, tính tuân thủ các nguyên tắc trong công tác giám sát của các cán bộ. Sắp xếp thêm các cán bộ có chuyên môn và khả năng phân tích cao vào làm việc tại phòng. Tạo cơ hội cho cán bộ tham gia các khoá học đào tạo ngắn hạn và dài hạn về nghiệp vụ Ngân hàng. Tạo điều kiện thuận lợi cho khả năng phát triển của cán bộ, ví dụ như đề bạt, quan tâm đến những cán bộ có năng lực và trình độ chuyên môn giỏi; thực hiện chế độ khuyến khích, khen thưởng và xử phạt sau mỗi kỳ giám sát. Đây là một giải pháp không những có tác dụng trong thời gian trước mắt mà theo kinh nghiệm của nhiều tổ chức thì nó còn thực sự cần thiết và phát huy tác dụng trong tương lai. Một điều kiện làm việc tốt, lành mạnh sẽ giúp cho người cán bộ thấy mình tự tin và có cơ hội phát huy hết năng lực của mình; Hội đồng quản trị của bảo hiểm tiền gửi cần hoàn thiện hành lang pháp lý để giúp công tác giám sát ngày càng gắn liền với thực tế kinh doanh của các TCTD, đồng thời giúp cho người cán bộ thực hiện nhiệm vụ đầy đủ và hiệu quả. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào công tác giám sát từ xa Việc tiếp cận các thông tin, tài liệu còn hạn chế, song đặc biệt BHTG còn thiếu một hệ thống thông tin chuyên ngành Ngân hàng, BHTG. Để đảm bảo nhanh và kịp thời, trong điều kiện hầu hết tổ chức tham gia đã được vi tính hoá, bộ phận giám sát nói chung và toàn hệ thống BHTG cần phải đẩy mạnh việc sử dụng hệ thống máy tính vào việc phân tích chỉ tiêu hoạt động ngân hàng: Xây dựng phần mềm quản lý và phân tích vào hoạt động giám sát cho mỗi chỉ tiêu an toàn để việc tính toán chỉ tiêu, chỉ số nhanh chóng và chính xác, so sánh số chi tiết với số tổng thể, số kỳ này với số kỳ trước và số kế hoạch để phát hiện những điều bất hợp lý và diễn biến bất thường trong hoạt động của các tổ chức tham gia. Công nghệ hiện đại sẽ làm giảm khối lượng, rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát; Nối mạng hệ thống máy tính giữa nội bộ trong Chi nhánh và với các cơ quan liên quan khác. Việc Chi nhánh trong thời điểm hiện nay đã hoạt động được 2 năm nhưng chưa có hệ thống mạng phần nào thể hiện tính “yếu” trong áp dụng công nghệ thông tin. Trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế, ngành ngân hàng đang từng bước hoàn thành “lộ trình” để hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới thì việc đầu tiên và không thể thiếu đó là công nghệ thông tin đảm bảo tính nhanh nhạy, chính xác cao trước mọi sự biến động của nền kinh tế, vì vậy là một cơ quan với trách nhiệm chính là “cảnh báo” cho ngân hàng biết được những rủi ro sẽ xảy đến trong tương lai thì việc nắm bắt thông tin sớm, đầy đủ có tính tin cậy cao là một tất yếu. Do vậy bên cạnh việc có một đội ngũ nhân viên giỏi, nhạy bén thì đòi hỏi Chi nhánh cần nhanh chóng xây dựng một hệ thống mạng thông tin đa chiều với chất lượng cao đáp ứng mọi điều kiện đặt ra; Ngoài ra việc nối mạng giữa các Chi nhánh với BHTG, với các tổ chức liên quan còn giúp cho việc công khai số liệu tài chính trong nội bộ thanh tra ngân hàng được minh bạch, chính xác và giảm nhiều thời gian công sức. Việc áp dụng hệ thống công nghệ thông tin vào công tác phân tích phải đảm bảo: Đảm bảo tính tiêu chuẩn của thông tin, dữ liệu Hỗ trợ quản lý tập trung thông tin. Có khả năng xử lý đa tiền tệ. Khả năng xử lý tự động trực tiếp cao. Hoàn thiện chế độ thông tin báo cáo giám sát từ xa của chi nhánh - Để các chuyên viên kinh tế có thể đánh giá được chính xác khả năng cạnh tranh cũng như những cơ hội thách thức mà các TCTD sẽ gặp phải, đặc biệt là trong quá trình hội nhập( hiệp định thương mại Việt- Mỹ, AFTA, APEC, tiến tới ra nhập WTO) trên cở sở đó đưa ra những khuyến nghị phù hợp, thì chuyên viên kinh tế cần tiếp cận được nhiều loại số liệu và thông tin liên quan tới tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, do cơ sở dữ liệu của hệ thống ngân hàng hiện nay vẫn đang trong tiến trình hoàn thiện, các loại số liệu theo yêu cầu của BHTG đôi khi còn chưa thể cung cấp được đầy đủ và đúng hạn gây ảnh hưởng tới kết quả đánh giá của chuyên viên kinh tế. Những trở ngại về số liệu thống kê liên quan tới hoạt động của hệ thống ngân hàng có thể được giảm thiểu, thậm chí loại trừ thông qua việc các ngân hàng sẽ phối hợp chặt chẽ với các cán bộ giám sát để thống nhất về các số liệu thống kê cần thiết. - Về các báo cáo liên quan: Để phục vụ tốt hơn cho công tác giám sát từ xa, đặc biệt là việc giám sát các chỉ tiêu về an toàn trong hoạt động kinh doanh của các TCTD, xin kiến nghị BHTGVN cần có công văn yêu cầu các tổ chức tham gia BHTG nộp thêm các báo cáo như sau: Báo cáo dư nợ tín dụng, tình hình vay trả của tổ chức Báo cáo tính toán khả năng chi trả và khả năng thanh toán Báo cáo phân loại nợ và trích bù đắp rủi ro tín dụng Báo cáo về thu, chi tài chính và lỗ lãi Ngoài ra, giám sát từ xa cần tiếp cận thông tin từ các nguồn sau: + Nguồn thông tin được cung cấp từ các TCTGBHTG; + Nguồn thông tin từ thanh tra NHNN; + Nguồn thông tin từ kiểm tra tại chỗ của chi nhánh; + Nguồn thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng; Trên cơ sở đó, cán bộ giám sát mới có thể hiểu một cách chi tiết và chính xác về các thông số kế toán mà các tổ chức tham gia BHTG gửi cho mình đồng thời nắm bắt một cách nhanh chóng và kịp thời tình hình kinh doanh của các tổ chức tham gia BHTG, trên cơ sở đó có thể đánh giá ngay tình hình ổn định hay không ổn định của một ngân hàng. . Xác định được một hệ thống chỉ tiêu giám sát phù hợp. Đặc biệt qua đó có thể đánh giá được tình hình ổn định hay không ổn định của một ngân hàng. Bảng cân đối tài khoản của TCTD là phương tiện phục vụ cho giám sát. Nếu tổ chức phân tích tốt sẽ có điều kiện giám sát tốt. Các chỉ tiêu phân tích cần phải đạt được những mục đích của BHTG đề ra nhưng lại phải đạt được những nội dung cụ thể, ví dụ như: - Về cơ cấu nguồn vốn: Phải làm rõ được sự biến động của từng loại vốn và cơ cấu của nó trong tài sản nợ để xem nó có phù hợp với nhiệm vụ hoạt động- kinh doanh của TCTD không? nếu một rong các nguồn tiền gửi bị giảm liên tục hoặc đột biến, tức là có vấn đề nảy sinh trong huy động vốn, phải báo động và có biện pháp xử lý kịp thời; - Về tài sản có: Phải thường xuyên nắm được diễn biến tài sản có. Trong đó quan trọng nhất là chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng được biểu hiện rõ nhất là nợ quá hạn vì nợ quá hạn là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng, do đó phải tiến hành thường xuyên việc kiểm kê và phân tích nợ quá hạn; Việc phân tích nợ quá hạn phải được phân loại theo các tiêu thức cụ thể và phù hợp, áp dụng theo tiêu chuẩn phân loại nợ quá hạn của NHNN: nợ quá hạn dưới 180 ngày, từ 180 ngày đến 360 ngày, trên 360 ngày. Trên cơ sở nợ quá hạn cán bộ có thể nắm bắt được tình hình trích dự phòng rủi ro của các TCTD có đúng theo quy định hay không; - Về kết quả kinh doanh của các TCTD : Đến một thời điểm nhất định cán bộ giám sát phải biết đựơc từng TCTD lỗ hay lãi, tức là biểu hiện kết quả kinh doanh trong hoạt động ngân hàng. Đây cũng là căn cứ để dự báo xu hướng phát triển của các TCTD trong tương lai; Trong việc phân tích tài chính của các NHTM phải xem xét cơ cấu các nguồn thu, chi trong đó chú trọng các khoản thu chủ yếu: lãi suất cho vay, và hoạt động dịch vụ. Đồng thời chú ý tới các khoản chi chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn như: chi lãi tiền gửi, chi phí quản lý, chi khác. Đặc biệt quan trọng là trong thời gian tới Chi nhánh cần xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu giám sát đầy đủ và cập nhập và nhất thiết có cả các chỉ tiêu như: khả năng thanh toán, khả năng quản lý của các tổ chức tham gia BHTG Về bố trí nhân sự và đào tạo cán bộ cho bộ phận giám sát từ xa. Tập trung theo hướng đào tạo bồi dưỡng sâu chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên. Việc Chi nhánh thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ về công tác giám sát và nghiệp vụ khác trong chi nhánh đã giúp cho nhân viên có trình độ hiểu biết ở rất nhiều khâu trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Hơn nữa để có thể làm việc một cách thành thạo ở tất cả các khâu trong quy trình BHTG, Ban giám đốc đã có chính sách điều chuyển cán bộ rất hợp lý: Theo đó một cán bộ không những có cơ hội tiếp xúc với mọi công việc trong nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi mà hơn thế còn làm rất tốt. Chính điều này đã giúp cho các kinh tế viên có cơ hội thể hiện trình độ của mình trong nhiều lĩnh vực; Với sự quan tâm sát sao của BHTGVN, của Ban giám đốc chi nhánh BHTG khu vực Hà Nội, tuy mới ra đời song công tác đào tạo cán bộ tại chi nhánh đã đạt được một số thành tích đáng kể như đã nêu ở trên. Để tiếp tục tăng cường khả năng chuyên môn cũng như tác phong làm việc trong cơ chế thị trường của người cán bộ gương mẫu, tôi xin đưa ra một số biện pháp cụ thể: Tăng cường bồi dưỡng tin học, trong đó phát động phong trào tự học sâu rộng trong cán bộ, động viên, khuyến khích giúp đỡ nhau học. Giải pháp này sẽ phát huy tác dụng tốt nhất khi được kết hợp chặt chẽ với giải pháp nối mạng và tăng cường thêm máy tính cho Chi nhánh; Nên tăng cường tổ chức một số lớp bồi dưỡng nghiệp về tín dụng, về kế toán ngân hàng, bên cạnh đó tổ chức lớp bồi dưỡng về pháp luật kinh tế để mọi cán bộ được tham gia; Cần hình thành một mô hình đào tạo thường xuyên và kiểm tra chất lượng đội ngũ cán bộ giám sát. Công tác đào tạo cán bộ giám sát được tiến hành trên các lĩnh vực: Kiến thức chung về nghiệp vụ ngân hàng; kiến thức pháp luật; kiến thức về kinh tế; kế toán ngân hàng; tin học; ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng anh chuyên ngành Bảo hiểm, Ngân hàng,. . . Kỹ năng giám sát từ xa. Khả năng giao tiếp, cách nắm bắt thông tin trên thị trường... Ngoài ra, bản thân các cán bộ giám sát cần phải tự đào sâu tìm hiểu về các nghiệp vụ khác trong ngành để có cái nhìn tổng quan hơn và chính xác hơn; Mạnh dạn đưa ra những chính kiến của mình đối với mọi đối tượng có liên quan trong công tác: Lãnh đạo, đối tượng giám sát, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố trên địa bàn giám sát. Đây chính là những tiêu chí đóng vai trò rất quan trọng trong việc các cán bộ tự khẳng định mình. Tiếp tục tăng cường học hỏi trình độ, kinh nghiệm về nghiệp vụ bảo hiểm trên thế giới. Về lâu dài Chi nhánh nên có chính sách về chương trình cho cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài để từ đó có thể mang kiến thức học được từ các quốc gia có hệ thống Bảo hiểm tiền gửi lâu năm về áp dụng một cách khoa học, sáng tạo tại Việt Nam. Tổ chức tốt công tác xử lý sau giám sát. Trên thực tế việc xử lý sau giám sát hiện nay, bộ phận giám sát đang tập trung xử lý những đơn vị vi phạm về phí bảo hiểm, về nộp báo cáo còn nội dung trọng tâm nhất liên quan đến sự tồn tại và phát triển của TCTD Bảo hiểm tiền gửi còn chưa làm được, hệ thống cảnh báo về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng còn mang nặng tính hình thức, tính pháp lý còn hạn chế, đây là một trong những nguyên nhân làm cho bảo hiểm tiền gửi còn chưa có tiếng nói, chưa có vị trí vai trò một cách thật sự trong hoạt động của các đối tượng tham gia BHTG; Phải nói rằng công tác giám sát và hệ thống cảnh báo là hai vấn đề không thể tách rời nhau, một quy trình giám sát hoàn chỉnh chính là hệ thống cảnh báo sớm. Qua thực tế cho thấy rằng việc cảnh báo sớm ở đây không chỉ là khái niệm chung chung mà nó cần phải được hiểu chính là cảnh báo xa và cảnh báo gần. Hệ thống cảnh báo của Chi nhánh hiện nay mới đang chủ yếu tập trung ở cảnh báo xa mà chưa thật chú ý đến cảnh báo gần ; Có thể hiểu được, việc cảnh báo xa ở đây là cảnh báo ở tầm vi mô trên cơ sở tất cả các chỉ tiêu được trình bày ở phần II. Các chỉ tiêu này được xác định để phản ánh về hoạt động và tình trạng của TCTGBHTG riêng biệt; qua chỉ tiêu này chi nhánh xác định được những vấn đề đang nổi lên, giúp Chi nhánh tập trung vào những tổ chức, vào những chỉ tiêu có tình trạng yếu kém tiềm tàng. Cảnh báo gần được hình thành từ nhận định của giám sát vĩ mô. Tức là các chỉ tiêu được xây dựng trên cơ sở theo dõi các xu hướng tài chính và kinh tế chủ yếu tác động đến hoạt động của các quỹ này; ví dụ như: Tình hình lãi suất, những thay đổi trong cơ cấu hệ thống ngân hàng, những quy định pháp lý mới tác động đến hoạt động của ngân hàng. Thực chất của giám sát vĩ mô là đưa ra những nhận định có tính chất chiến lược trên cơ sở về dữ liệu xếp loại các tổ chức tham gia BHTG cũng như những dữ liệu thống kê khác, từ đó có những quyết sách để xử lý một TCTGBHTG trong tình huống cụ thể. Trong cảnh báo BHTG cần thực hiện được đầy đủ cả cảnh báo xa và cảnh báo gần; Sơ đồ 3: Hệ thống cảnh báo:(*) Các chỉ tiêu giám sát vi mô Đánh giá xếp loại thường xuyên và định kỳ Kết hợp đánh giá, phân tích Cảnh báo xa Cảnh báo gần Hệ thống cảnh báo sớm Các chỉ tiêu giám sát vĩ mô Cần phải thấy rõ một điều rằng trách nhiệm của Bảo hiểm tiền gửi là vô cùng lớn lao, theo đó Bảo hiểm tiền gửi còn phải có những công cụ của riêng mình đối với tổ chức tham gia BHTG: Một hệ thống cảnh báo hợp lý và hiệu quả sẽ hạn chế một cách tối đa nhất sự đổ vỡ của các tổ chức tham gia BHTG; Nếu làm được như vậy, Bảo hiểm tiền gửi không những hạn chế việc chi trả tiền bảo hiểm cho tổ chức tham gia BHTG, giúp cho tổ chức BHTG có thể bảo toàn vốn, mà hơn nữa còn giúp các tổ chức này hoạt động an toàn và có hiệu quả góp phần vào việc ổn định hệ thống ngân hàng nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. 3.3 Một số đề xuất kiến nghị Để giải quyết các tồn tại và thực hiện các biện pháp đã được đề cập ở trên, tôi xin đưa ra một số ý kiến sau: (*) Nguyễn Đình Tự, Dương Văn Thực trên TCNH trang 19 số 9 năm 2003 Trước hết các cán bộ của Chi nhánh cần xác định được những tồn tại, những khó khăn vướng mắc chưa làm được của phòng mình là do nguyên nhân nào, yếu tố khách quan nào tác động đến và đặc biệt trong bối cảnh kinh tế – xã hội hiện tại, các tồn tại ấy có thể thực hiện giải quyết ngay hay phụ thuộc vào thời gian; Việc giải quyết khó khăn vướng mắc, phụ thuộc lớn vào môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp luật hay cụ thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như ban lãnh đạo của BHTGVN. Và điều quan trọng hơn là người cán bộ cần phải biết trang bị cho mình những kiến thức cần thiết trong công việc; 3.3.1 Đối với Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố Nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của NHNN Ngân hàng Nhà nước sẽ phải đối mặt với những khó khăn thử thách trong việc quản lý các loại dịch vụ ngân hàng, loại hình tổ chức tài chính ngày càng phức tạp cả về tính chất lẫn quy mô hoạt động trước xu thế tự do hoá về chính sách ngày càng tăng. Ngân hàng Nhà nước cần phải tăng cường vai trò và khả năng điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt nhằm mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát, bên cạnh đó phải hoàn thành tốt chức năng thanh tra giám sát để đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh; Đề nghị NHNN sớm ban hành quy chế trao đổi thông tin giữa Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố với Chi nhánh của BHTG. Theo đó các Chi nhánh có thể khai thác kết quả giám sát, kiểm tra và các thông tin khác liên quan đến hoạt động BHTG và ngựơc lại BHTG cung cấp các thông tin liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của các đơn vị chức năng của NHNN, nâng cao hiệu quả giám sát và kiểm tra của các cơ quan liên quan; Kiến nghị với NHNN hoàn chỉnh hệ thống tài khoản kế toán ngân hàng sao cho phù hợp với công tác thực tế hoạt động của các TCTD, đặc biệt cần có tài khoản riêng biệt giữa tiền gửi cá nhân với tài khoản tiền gửi của các tổ chức để dễ dàng cho công tác giám sát hiện tại cũng như trong tương lai; Đề nghị NHNN có quy định cụ thể trong thông tư hướng dẫn nghị định 89 loại tiền được bảo hiểm thuộc loại tiền gửi nào trong hệ thống tài khoản kế toán; NHNN và Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố phải có biện pháp chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa đối với các QTDND cơ sở thực hiện một cách nghiêm chỉnh các chỉ tiêu về an toàn trong hoạt động ngân hàng. Trong quá trình giám sát, chỉ đạo, nếu phát hiện bất kỳ một TCTD nào hoạt động không tốt trong kinh doanh, đề nghị thanh tra NHNN phối hợp chặt chẽ với BHTG trong khu vực để cùng giải quyết và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời; Đề nghị có công văn hướng dẫn tăng dần vốn điều lệ lên tuỳ theo tình hình kinh doanh của các QTDND cơ sở để từ đó mà VĐL có thể thực sự đóng vai trò vốn có của nó; 3.3.2 Đối với Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở Hệ thống QTDND được hình thành, phát triển, vận động theo xu hướng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là những hạt nhân đầu tiên ra đời và cũng chính họ là người chủ sở hữu góp vốn thành lập nên các tổ chức tín dụng hợp tác dưới hình thức liên hiệp HTX và tổ chức liên kết phát triển hệ thống nhằm mục tiêu hỗ trợ hoạt động an toàn và phát triển bền vững; mặt khác, các quyết định liên quan đến xu hướng vận động và phát triển của hệ thống QTDND đều theo nguyên tắc dân chủ. Trong thời gian hoạt động mặc dù hệ hống QTDND đã đạt được mộ số thành tích đáng kể, song vẫn còn nhiều tồn tại cần phải tháo gỡ. Nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống này tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau: a. Cho đến nay hệ thống QTDND chưa được là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và cũng chưa có tổ chức liên kết thành hệ thống. Quỹ tín dụng trung ương với mạng lưới 24 chi nhánh cũng chưa gắn kết được các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Do đó đây đang là một khó khăn lớn cho tổ chức tín dụng này. Các quỹ chưa được làm đại lý bán lẻ vốn cho hệ thống NHN0& PTNT Việt Nam. Một số cơ chế, quy chế khác cho hoạt động của hệ thống này cũng đang trong quy trình hoàn thiện dự thảo.Thiết nghĩ những khó khăn đó cần sớm được khắc phục, đẩy nhanh tiến độ, đặc biệt cần tăng cường tính liên kết của cả hệ thống QTDND. b. Mỗi QTDND cơ sở không chỉ có một số hoạt động như một ngân hàng như mà nó còn có vị trí như một hợp tác xã. Cho tới nay, mới chỉ có các dịch vụ ngân hàng, tài chính là được chú trọng. Bên cạnh đó, ta cũng cần phải lưu ý rằng các QTDND đồng thời cũng là những tổ chức mà các thành viên của nó cấn có sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Trên khía cạnh này, một vấn đề quan trọng là chúng ta cần phải xây dựng một tinh thần tương trợ, đoàn kết chặt chẽ, gắn bó với nhau trong hệ thống các QTDND. Góp phần củng cố, tăng cường hoạt động của Quỹ cũng như làm tăng sự tin cậy lẫn nhau trong hệ thống. Với mong muốn này, việc tăng cường trao đổi thông tin chia sẻ kinh nghiệm giữa các QTDND là rất cần thiết; c. Cần thiết phải có một cơ quan kiểm toán đối với hệ thống QTDND Theo kinh nghiệm của quốc tế nói chung, cũng như TCTD khác, QTDND là loại hình TCTD hợp tác cần phải được kiểm toán toàn diện( bao gồm cả kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán điều hành và hoạt động). Có ý kiến cho rằng chưa nhất thiết cần phải áp dụng kiểm toán ngay với các QTDND vì loại hình này còn quá nhỏ bé, hoạt động đơn giản sơ khai, năng lực tài chính cũng như khả năng quản lý điều hành còn yếu kém. Riêng tôi, tôi lại cho cho rằng ý kiến đó chưa xác đáng vì một mặt các QTDND càng khó khăn, yếu kém thì lại càng cần có được kiểm toán hơn trước hết, mặt khác yêu cầu kiểm toán cũng luôn song hành với phù hợp với mặt bằng trình độ của các QTDND; Kiểm toán không chỉ kiểm tra, nhận xét đánh giá, kết luận về việc tuân thủ các quy định pháp luật, các quy định của NHNN về các tiêu chí, tỷ lệ an toàn, các quy định của điều lệ, với nghị quyết đại hội thành viên, quy chế nội bộ QTDND, mà kiểm toán phải xem xét tổ chức và hoạt động của QTDND đã hợp lý hay chưa, có hiệu quả kinh tế không, có phù hợp với nhu cầu nguyện vọng của thành viên không; Kiểm toán giúp cho QTDND thấy rõ chất lượng từng mặt hoạt động nghiệp vụ và công tác quản trị điều hành, từ đó tư vấn và khuyến khích cho QTDND kịp thời sửa chữa khắc phục các mặt tồn tại, có kế hoạch và giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động và điều chỉnh công tác quản trị điều hành cho phù hợp với mục tiêu tương hỗ và giúp đỡ các thành viên trong quỹ; Như vậy, có thể nói kết quả kiểm toán vừa phục vụ cho chính QTDND, vừa sẽ là nguồn thông tin toàn diện và độc lập để có thể cung cấp cho tổ chức BHTG khu vực. Sử dụng tốt kết quả kiểm toán thì hoạt động BHTG nói chung sẽ đạt được mục đích của mình một cách hữu hiệu về mặt chuyên môn và hiệu quả về mặt kinh tế; Ngoài ra, kết quả kiểm toán còn đựơc coi như một nguồn thông tin khá tin cậy mà hệ thống QTDND cung cấp cho BHTG, đây có thể coi là một tài liệu đáng giá hơn cả. Đặc biệt là trong những hoạt động kinh doanh bất thường của các quỹ này như: thành lập mới, giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia tách các QTDND thì đánh giá của kiểm toán viên hay kết quả kiểm toán có vai trò hết sức quan trọng, thậm chí có tính quyết định mà không tài liệu nào có thể thay thế được. d. Cần tăng cường công tác đào tạo lại và đào tạo “ tinh” cho các cán bộ tại quỹ tín dụng nhân dân cơ sở Hệ thống ngân hàng cần nâng cao đào tạo cán bộ, những người cần được trang bị các kiến thức tổng hợp về nghiệp vụ ngân hàng cũng như các lĩnh vực liên quan khác, có khả năng sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và kỷ luật cao, góp phần nâng cao hiệu suất lao động trong ngành ngân hàng; Với thực trạng về trình độ cán bộ tại các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hiện nay tôi thấy hệ thống quỹ tín dụng nhân dân nên cần thiết phối hợp cùng NHNN, vụ các tổ chức tín dụng hợp tác( chi phí đào tạo hiện nay của các quỹ tín dụng nhân dân được NHNN tài trợ ) tăng cường hơn nữa công tác đào tạo này. Nội dung đào tạo xin kiến nghị về cơ bản như sau: Nội dung cơ bản về luật NHNN, Luật các tổ chức tín dụng, Luật HTX; Những vấn đề cơ bản về tiền tệ- tín dụng ngân hàng; Những kiến thức cơ bản về kinh tế chính trị, pháp luật đại cương, pháp luật kinh tế; Quản trị điều hành QTDND cơ sở; Mô hình tổ chức và hoạt động của QTDND; Nghiệp vụ kế toán; Nghiệp vụ tín dụng; Nghiệp vụ kiểm soát QTDND; Nghiệp vụ thanh tra, giám sát của NHNN; nghiệp vụ kiểm tra, giám sát của BHTG đối với QTDND. 3.3.3 Đối với BHTGVN Kiến nghị BHTGVN có văn bản với NHNN bổ sung sửa đổi, hoàn thiện nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính Phủ sao cho phù hợp với thực tế hoạt động của BHTGVN; Kiến nghị với BHTGVN nhanh chóng cho ra hướng dẫn Quy chế giám sát để tạo điều kiện hành lang pháp lý cho bộ phận giám sát làm việc dễ dàng hơn; Đề nghị nghiên cứu, thay đổi về hạn mức chi trả theo từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế, mức thu nhập bình quân của người dân cũng như tuỳ theo mức tích tụ tài chính của BHTGVN để trình Chính phủ. Với việc thay đổi này sẽ ngày càng khuyến khích được người dân gửi tiền tin tưởng vào tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở đó góp phần giúp các tổ chức tham gia BHTG hoạt động kinh doanh có hiệu quả; BHTGVN sớm ban hành đầy đủ quy chế hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG. Theo đó hoạt động BHTG có tính tích cực hơn đối với các tổ chức tham gia BHTG, đồng thời hoạt động giám sát kiểm tra thực hiện Quy chế hỗ trợ là nội dung kiểm tra mang tính bỗ trợ cho công tác kiểm tra toàn diện đối với các TCTGBHTG; Đề nghị BHTGVN chuẩn bị các điều kiện để sớm kiến nghị cấp có thẩm quyền cho phép thu phí BHTG theo mức độ rủi ro để một mặt khuyến khích các tổ chức tham gia BHTG quản lý, kinh doanh có hiệu quả, mặt khác nâng cao trách nhiệm công tác giám sát, kiểm tra ; Với mức phạt hiện nay mà BHTGVN áp dụng với mức 0.1% trên số tiền phí nộp chậm và thời gian chậm nộp như đã nói ở trên thì hiệu lực pháp lý còn chưa cao, vì vậy kiến nghị BHTGVN nên đưa ra mức phạt tối thiểu đối với tổ chức tham gia BHTG về hành vi vi phạm thời hạn nộp phí. Điều này không những sẽ khuyến khích được cán bộ nâng cao chất lượng công tác giám sát, mặt khác BHTG có thể bù đắp được chi phí hoạt động, quan trọng hơn nữa việc xử phạt này còn tạo sợi dây dàng buộc giữa các tổ chức tham gia BHTG với BHTGVN: sẽ tạo nên cơ chế bắt buộc các tổ chức tham gia BHTG có ý thức trong việc chấp hành đúng theo quy định pháp luật về BHTG; Đề nghị NHNN có quy định về xử phạt đối với tổ chức tham gia BHTG vi phạm trong trường hợp: Không nộp đầy đủ các báo cáo hay nộp báo cáo chậm so với quy định của BHTG; Không gửi báo cáo ngay với tổ chức BHTG trong trường hợp: gặp khó khăn về khả năng chi trả; thay đổi các thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc(Giám đốc); Đề nghị BHTGVN cập nhật các văn bản mới liên quan đến hoạt động BHTG, lĩnh vực hoạt động ngân hàng để thông báo cho chi nhánh thực hiện; Trang bị thêm máy tính cho cán bộ chi nhánh đặc biệt là cán bộ giám sát, kiểm tra; Kiến nghị về tăng cường kiến thức và kinh nghiệm cho cán bộ giám sát, việc này thể hiện qua cần cho cán bộ giám sát đi khảo sát thực tế công việc của các chi nhánh khác cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác trên thế giới. Ngoài ra còn nên tăng cường các cuộc hội thảo, tham quan nghiên cứu các nơi nhằm mở mang kiến thức để giúp cho cán bộ có thể xử lý một cách nhanh chóng, kịp thời những trường hợp bất thường xảy ra; Tăng cường các hình thức tuyên truyền về BHTG và các nghiệp vụ chính trong Bảo hiểm tiền gửi Để góp phần vào việc giúp cho hoạt động BHTG nói chung tại Việt Nam trong tương lai sẽ thành công thì các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về hoạt động BHTG cần phải được chú trọng hơn nữa. Ngoài các hình thức tuyên truyền như phát tờ rơi, đưa tin về hoạt động BHTG trên thông tin đại chúng thì theo tôi cần thiết BHTG phải kết hợp với ngành Ngân hàng và cơ quan liên quan dưới các hình thức sau: + Mở rộng cán bộ được đào tạo trong ngành Ngân hàng các kiến thức về BHTG và nghiệp vụ trong BHTG thông qua việc tổ chức thêm các khoá đào tạo theo các nội dung đã được phổ biến tại các hội thảo, hội nghị chuyên đề, các khoá đào tạo được thực hiện trong khuôn khổ của các Ngân hàng; + Chuyển các kết quả nghiên cứu khoa học phù hợp của BHTG và một số tài liệu, sách đã được cung cấp trong khuôn khổ hoạt động BHTG để cung cấp cho các trường đại học có chuyên ngành về tài chính ngân hàng, đặc biệt là Học viện Ngân hàng, phục vụ cho công tác giảng dạy và đào tạo trong thời gian tới Kết luận Hoạt động kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh có rất nhiều rủi ro, dễ bị tổn thương khi có gian lận và sai sót; việc đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức này không những được các nhà kinh doanh ngân hàng quan tâm mà còn là mối quan tâm hàng đầu của những người gửi tiền, của các cơ quan quản lý nhà nước, của toàn xã hội vì sự phá sản của một ngân hàng có thể gây nên đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống tài chính- ngân hàng, ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Để ngăn ngừa những tổn thất và các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng, ngoài các biện pháp thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước thì cần thiết công tác giám sát tại tổ chức Bảo hiểm tiền gửi phải có những biện pháp hữu hiệu, mà biện pháp quan trọng nhất là bảo hiểm tiền gửi phải thiết lập được một hệ thống giám sát từ xa một cách đầy đủ và có hiệu quả. Giám sát trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi được hình thành và phát triển ngay từ buổi đầu mà bảo hiểm ra đời và đi vào hoạt động. Vì vậy Giám sát phát triển và hoàn thiện thể hiện một tổ chức bảo hiểm tiền gửi phát triển cao và có hiệu quả. Phát triển hệ thống giám sát tốt cũng chính là thể hiện một hình thức bảo hiểm công khai có kết quả. Trong thời gian thực tập tại BHTG chi nhánh khu vực Hà Nội, nhận thức được tầm quan trọng của giám sát từ xa đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài này. Tôi mong rằng bài khoá luận này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc khẳng định tiếng nói của người cán bộ giám sát và vị trí cần tạo lập của hoạt động này trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi nói riêng và trong nền kinh tế thị trường nói chung. Cuối cùng, dù đã dành nhiều thời gian và công sức, khoá luận có thể còn nhiều hạn chế, nhiều vấn đề cần tiếp tục làn rõ. Xin cảm ơn sự phê bình, góp ý của các thầy cô và bạn đọc. Mục lục Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ Phụ lục 1 Danh mục tài liệu tham khảo Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh hiện nay 36 Bảng 1: Phạm vi hoạt động của BHTGVN Chi nhánh Hà Nội 37 Bảng 2: Mạng lưới QTDND cơ sở 38 Bảng 3: Số QTDND cơ sở không tự giác đăng ký tham gia bảo hiểm tiền gửi: 48 Bảng 4: Số QTDND cơ sở nộp chậm phí: 49 Bảng 6: Số báo cáo nộp chậm trong năm 2003 50 Bảng 7: Số phí các QTDND nộp thừa thiếu phí trong năm 2003 53 Bảng 8: Nguồn vốn của các QTDND cơ sở 55 Bảng 9: Tình hình vốn pháp định của các quỹ 56 Bảng 10: Tình hình nợ quá hạn: 58 Bảng11: số QTDND vi phạm tỷ lệ nợ quá hạn trong năm 2003 59 Bảng 13: Vi phạm về tỷ lệ mua sắm tài sản cố định 61 Bảng 14: số QTDND cơ sở vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 62 Bảng 15: Đơn vị có kết quả kinh doanh thu nhỏ hơn chi 65 Bảng 16: Số liệu về các chỉ tiêu lợi nhuận: 65 Sơ đồ 2: Về quy trình giám sát(*) 82 Sơ đồ 3: Hệ thống cảnh báo:(*) 92 Phụ lục 1: Văn bản mà khoá luận đã sử dụng A. Về Bảo hiểm tiền gửi 1. Nghị định 89/1999/NĐ- CP ra ngày 1/9/1999 về BHTG. 2. Thông tư 03/ 2000/ TT- NHNN5 ra ngày 16/3/2000 3. Quyết định 76/2001/QĐ-HĐQT của BHTGVN ra ngày 2/10/2001 4. Quyết định số 1077/2000/QĐ-NHNN ra ngày 27/8/2001 5. Quyết định số 217/2001/ về công tác giám sát. 6. Báo cáo giám sát của Chi nhánh các năm 2002-2003. B. Về Ngân hàng 1. Quy chế giám sát từ xa đối với TCTD hợp tác số 329/cv-TTr1 của NHNN ngày 4/5/2000 2. Quyết định 297/1999/ QĐ-NHNN5 ra ngày 25/8/1999 3. Nghị định 48/NĐ-CP ngày 13/8/2001 4. Thông tư số 09/2001/TT-NHNNra ngày 08/10/2001 về hướng dẫn tổ chức và hoạt động của hệ thống QTDND. 5. Quyết định số 696/2003/QĐ-NHNN ra ngày 02/7/2002 Quyết định 1145/2002/QĐ-NHNN ra ngày 18/10/2002 Công văn số 1075/cv-TTr1 ra ngày 28/10/2003 6. Chỉ thị số 57 –CT/TW ra ngày 10/10/2000. Tài liệu tham khảo A. Tài liệu tiếng Việt 1. Giáo trình Bảo hiểm của đại học Kinh tế quốc dân. 2. Giáo trình Ngân hàng Trung ương của Học viện ngân hàng. 3. Quản trị ngân hàng của Peter Rose ( sách dịch). 4. Phân tích tài chính ngân hàng thương mại của PTS Ngô Hướng, Hồ Điệu, Lê Phan Diệu Thảo 5. Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí thị trường Tài chính, Thời báo Ngân hàng năm 2003-2004 6. Các văn bản nêu trong phụ lục 1 B Tài liệu tiếng Anh 7. Gillian G. H. Garcla: Deposit Insurance Actual and Good Pratices. IMF, Washington DC,2002 8. United States, Federal Deposit Insurance Corporation, 1996, Manual of Policies & procedures for Bank Liquidation & Receivership( Washington:FDIC) 9. Freehills,Vietnam: Banking,Finance and Capital Markets 10. Banking sector review ( June 2002) –World Bank. 11. Vietnam Economic Monitor- Spring 2002, World bank. C. Trang website 12. 13. 14. 15. 16. Bảng ký hiệu, chữ viết tắt Quỹ tín dụng nhân dân QTDND Ngân hàng thương mại NHTM Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi TCTGBHTG Bảo hiểm tiền gửi BHTG Tổ chức tín dụng TCTD Quỹ tín dụng nhân dân trung ương QTDNDTW Nợ quá hạn NQH Vốn tự có VTC Vốn điều lệ VĐL Ngân hàng Nhà nước NHNN Vốn pháp định VPĐ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0310.doc
Tài liệu liên quan