Khóa luận Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Chương 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ 1.1. Khái quát chung về dự án đầu tư và thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư 1.1.1. Dự án đầu tư 1.1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư 1.1.1.2. Phân loại dự án đầu tư 1.1.1.3. Vai trò của dự án đầu tư 1.1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới dự án đầu tư 1.1.2. Thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động của NH 1.1.2.1. Khái niệm 1.1.2.2. Vai trò của thẩm định dự án đầu tư đối với hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng 1.1.2.3. Khái quát nội dung thẩm định dự án đầu tư 1.2. Vấn đề chất lượng thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư dưới góc nhìn ngân hàng 1.2.1. Quan điểm về chất lượng thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư 1.2.1.1. Khái niệm chất lượng thẩm định 1.2.1.2. Khái niệm hiệu quả tài chính 1.2.2. Mối quan hệ của thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư đối với các nội dung khác trong hoạt động thẩm định 1.2.3. Vai trò của thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư 1.2.3.1. Đối với chủ đầu tư 1.2.3.2. Đối với cơ quan có thẩm quyền 1.2.3.3. Đối với các NHTM 1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư 1.2.4.1. Tổng mức vốn đầu tư cho dự án 1.2.4.2. Nguồn vốn và sự đảm bảo nguồn vốn tài trợ cho dự án 1.2.4.3. Chi phí, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của dự án 1.2.4.4. Chỉ tiêu hiện giá thuần ( Net present value-NPV) 1.2.4.5. Chỉ tiêu tỷ suất thu hồi nội bộ (IRR-Internal Rate of Return) 1.2.4.6. Thời gian thu hồi vốn đầu tư (T) 1.2.4.7. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư (Revenue On Investment- ROI) 1.2.4.8. Chỉ tiêu điểm hoà vốn (BEP) 1.2.4.9. Tỷ số lợi ích- chi phí (B/C) 1.2.4.10. Chỉ tiêu độ rủi ro của dự án đầu tư 1.2.5. Các nhân tố tác động hiệu quả thẩm định phương diện tài chính của dự án đầu tư 1.2.5.1. Môi trường vĩ mô 1.2.5.2. Nhân tố chủ quan Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội Nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng 2.2. Khái quát về ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam và sở giao dịch I 2.2.1.Quá trình hình thành và phát triển của NHĐTVPTVN 2.2.2. Cơ cấu tổ chức của sở giao dịch I 2.2.3. Tình hình hoạt động của sở giao dịch I 2.2.3.1. Hoạt động huy động vốn 2.2.3.2.Hoạt động sử dụng vốn 2.2.3.3. Kết quả kinh doanh 2.3. Qui trình thẩm định dự án đầu tư thực hiện tại Sở giao dịch I 2.4. Thực trạng công tác thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư tại sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 2.4.1. Những kết quả chung trong công tác thẩm định dự án đầu tư 2.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư được áp dụng trong khâu thẩm định DAĐT tại SGD I –NHĐTVPTVN 2.4.2.1. Giới thiệu dự án đầu tư 2.4.2.2. Đánh giá khái quát về chủ đầu tư 2.4.3. Những kết quả đạt được 2.4.4. Những khó khăn và tồn tại trong hoạt động thẩm định tài chính của dự án đầu tư tại SGD I Chương 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1. Định hướng Của sở giao dịch I - ngân hàng đầu tư và phát triển 3.1.1. Định hướng chung 3.1.2. Định hướng đối với hoạt động thẩm định dự án đầu tư 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại SGD I 3.2.1. Đào tạo và phát triển đội ngũ chuyên viên thẩm định 3.2.2. Chuyên môn hoá công tác thẩm định hiệu quả tài chính theo một lĩnh vực ngành nghề 3.2.3. Quán triệt nguyên tắc “trách nhiệm, nghĩa vụ luôn đi liền với quyền lợi’’ 3.2.4. Sử dụng hợp lý các chỉ tiêu tài chính cũng như phương pháp đánh giá 3.2.5. Xác định chi phí vốn của dự án đầu tư một cách chính xác nhất 3.2.6. Thực hiện tốt chính sách khách hàng 3.2.7. Phát huy vai trò tư vấn của ngân hàng đối với chủ đầu tư 3.2.8. Giảm thiểu thời gian thẩm định dự án 3.2.9. Cung cấp tín dụng đi liền các dịch vụ chọn gói cho khách hàng 3.2.11. Nâng cao tính quyết định của hiệu quả tài chính của dự án đối với phán quyết cho vay của ngân hàng 3.2.12. Phát triển hệ thống công nghệ, thông tin 3.2.13. Thúc đẩy hoạt động Marketing trong tài trợ dự án đầu tư 3.2.14. Thúc đẩy hợp tác phát triển trên lĩnh vực thẩm định DAĐT 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Đối với nhà nước 3.3.2. Đối với bộ ngành liên quan 3.3.3. Đối với ngân hàng nhà nước 3.3.4. Đối với ngân hàng đầu tư và phát triển 3.3.5. Đối với chủ đầu tư KẾT LUẬN

doc108 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo,...(như dự án minh hoạ, đây là khách hàng đã có quan hệ thân thiết với ngân hàng, không có dư nợ quá hạn, thế nhưng mỗi phương án cho vay đều phải có một mức dư tiền gửi tối thiểu tại ngân hàng như là một tài sản bảo đảm,...). Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp có qui mô vốn tự có nhỏ và thời gian hoạt động chưa lâu, uy tín chưa nhiều nên khả năng thực hiện các dự án lớn có hiệu quả là điều khó thực hiện. Tính chất quyết định của hiệu quả tài chính của DAĐT đối với quyết định cho vay bị đánh giá thấp. - Một dự án nếu kéo dài thời gian trả nợ thì có hiệu quả tài chính, nhưng nếu cán bộ thẩm định đánh giá là dự án có độ rủi ro cao trong khi các biện pháp bảo đảm bằng tài sản của chủ đầu tư không phù hợp thì sẽ bị ngân hàng từ chối cho vay. Bởi vậy, nếu coi tài sản bảo đảm là yếu tố quyết định đối với việc cho vay thì có thể ngân hàng bỏ qua cơ hội tài trợ cho dự án có hiệu quả. E ngại là tâm lý chung đối với cán bộ thẩm định ở tất cả các ngân hàng bởi cho vay DAĐT là nghiệp vụ chứa đựng rất nhiều rủi ro, cán bộ thẩm định rất ngại việc các dự án phải điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc ra hạn nợ. Thẩm định các dự án có yếu tố nước ngoài: Với xu thế phát triển để hội nhập với nền kinh tế thế giới thì việc trong tương lai các dự án đầu tư của nước ngoài đầu tư mới vào Việt Nam, các dự án liên doanh sẽ rất nhiều đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam cũng bắt đầu có những bước tiến trong công cuộc đầu tư ra nước ngoài bởi vậy nhu cầu vốn cho các hoạt động này là rất cao. Việc thẩm định các dự án này đòi hỏi phải có sự phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện tại ở SGDI các văn bản mang tính chất định hướng cũng như hướng dẫn, đánh giá về vấn đề này còn chưa được quan tâm ban hành. 2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại Những khó khăn và tồn tại của ngân hàng chính là khó khăn chung của các ngân hàng thương mại Việt Nam Nguyên nhân bên ngoài ngân hàng: Các qui định cũng như hướng dẫn chung liên quan đến công tác thẩm định DAĐT chưa được thống nhất cho các ngân hàng từ phía ngân hàng nhà nước. Bởi vậy các ngân hàng thường tự đưa ra những quy trình riêng cho hệ thống của mình vì vậy ảnh hưởng đến việc tổng hợp các đánh giá chung cũng như việc trao đổi thông tin, cũng như kỹ năng công việc. Hoạt động đồng tài trợ gặp khó khăn. Hệ thống thông tin phục vụ cho công tác nghiệp vụ của ngân hàng còn rất nhiều khó khăn. Các dự án đầu tư chịu sự quản lý điều tiết của các bộ ngành liên quan, trong khi đó những thông tin tổng hợp đánh giá của các bộ ngành này lại không được cập nhật liên tục (các chỉ tiêu đánh giá chung về kết quả hoạt động ngành, đánh giá rủi ro ngành, mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp không được thực hiện,..). Đặc biệt qui định về thủ tục giấy tờ cấp phép đầu tư còn chậm trễ gây mất thời gian cho chủ đầu tư cũng như công tác thẩm định của ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN mới chỉ tập hợp các thông tin do các ngân hàng báo cáo lên, bởi vậy độ chính xác của các thông tin phụ thuộc rất lớn vào chủ quan của các ngân hàng, hơn nữa thông tin về xu hướng và triển vọng phát triển ngành kinh tế của doanh nghiệp còn thiếu. Điều quan trọng là cán bộ thẩm định phải có khả năng sàng lọc thông tin đảm bảo thông tin được sử dụng phải chính xác, đầy đủ, đảm bảo tính kinh tế và cập nhật. Một nguồn thông tin mà ngân hàng có thể đảm bảo được độ chính xác và tin cậy cao là các chuyên gia trong ngành thế nhưng ngân hàng không áp dụng hình thức này. Các dự báo về tình hình kinh tế cũng như các yếu tố kinh tế vĩ mô chưa khẳng định được tính chất định hướng: lãi suất, lạm phát, tỉ giá, chu kì kinh tế,...Thị trường tiền tệ nhiều biến động tác động tới việc lựa chọn lãi suất chiết khấu của ngân hàng. Qui hoạch phát triển ngành, vùng miền thiếu sự đồng bộ, gây khó khăn cho việc định hướng các dự án đầu tư cũng như nhận định được những biến động của các yếu tố tác động tới rủi ro của dự án: chính sách thuế, ưu đãi đầu tư,... Các dự án đầu tư vô cùng đa dạng và phức tạp thuộc nhiều lĩnh vực ngành nghề, cũng như khu vực địa lý gây khó khăn cho việc quản lý dự án, bởi vậy đánh giá hiệu quả tài chính DAĐT ban đầu chính xác thế nhưng trong quá trình thực hiện dự án, ngân hàng không có điều kiện giám sát liên tục nên nếu chủ đầu tư cố tình thực hiện sai hoặc có ý sử dụng tiền vay trái mục đích, hoặc cố tình đưa ra những lý do để xin điều chỉnh kì hạn nợ. Đồng thời những dự án có địa bàn xa thì thời gian thẩm định lại phải mất nhiều hơn. Một số doanh nghiệp do thiếu hụt thông tin hoặc do trình độ hạn chế của cán bộ quản lý doanh nghiệp và cán bộ lập dự án, nhiều khi do muốn nhanh chóng được cho vay nên vội vàng lập báo cáo nghiên cứu khả thi với phương pháp phỏng chừng, thời gian không có nhiều bởi vậy việc tính toán rất sơ sài, cán bộ thẩm định khi thực hiện phải yêu cầu bổ sung thêm hồ sơ và thực hiện gần như lại từ đầu, tốn rất nhiều thời gian. Mặt khác, các cơ quan tư vấn lập dự án đầu tư ở nước ta chưa nhiều, lực lượng có kinh nghiệm và trình độ còn ít nên để có thể lập dự án một cách hoàn chỉnh là rất khó. Một thực tế cho thấy là các doanh nghiệp Việt Nam chưa có kinh nghiệm điều tra, phân tích và dự báo thị trường mà đây lại là một khâu rất trọng yếu ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của dự án đầu tư. Các dự án được trình lên thì những chính sách bán hàng, chính sách phân phối sản phẩm hầu như không có hoặc rất sơ sài. Điều này gây khó khăn cho việc đánh gía đầu ra của dự án. Chỉ một dự án nhưng số liệu và số lượng các bảng tính toán là rất nhiều trong khi đó hồ sơ được trình lên để thẩm định chỉ dưới dạng văn bản nên việc kiểm tra độ chính xác trong tính toán hiệu quả tài chính của báo cáo nghiên cứu khả thi của cán bộ TĐ rất khó khăn. Nguyên nhân từ phía ngân hàng: Cán bộ ngân hàng không phải là các kỹ sư tốt nghiệp các trường kỹ thuật, bởi vậy khởi đầu của công việc thẩm định với các dự án mới trong các lĩnh vực ngành nghề mới gặp rât nhiều hạn chế. Cán bộ ngân hàng trên thực tế khi tiến hành thẩm định hiệu quả tài chính DAĐT đã làm rất nhiều vai trò: một nhà tư vấn tài chính, một nhà phân tích tài chính, một chuyên gia kỹ thuật, một nhà đánh giá thị trường; vì vậy một cán bộ thẩm định không có đủ khả năng để thông thạo hết tất cả các ngành nghề. Công tác thẩm định chưa được chuyên môn hoá theo lĩnh vực ngành nghề. Thẩm định hiệu quả tài chính DAĐT trong nền kinh tế thị trường hiện nay còn khá mới mẻ đối với các cán bộ thẩm định mới ra trường và đã sớm làm việc tại các ngân hàng, chưa có dịp tiếp thu hoặc bổ sung kiến thức nghiệp vụ thực tế. Việc ứng dụng tin học vào công tác nghiệp vụ là điều cần thiết, tin học hóa công tác thẩm định hiệu quả tài chính đã được SGDI chú trọng, tuy nhiên do việc nắm bắt và ứng dụng vào thực tế đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có thời gian rất dài. Vì vậy các phần mềm ứng dụng đã được trang bị cho cán bộ thẩm định và việc sử dụng đang trong quá trình hoàn thiện vừa ứng dụng vừa rút ra kinh nghiệm. Trong công tác thẩm đinh hiệu quả tài chính DAĐT thì SGDI chưa có qui trình và tiêu chuẩn thẩm định hiệu quả tài chính cho từng lĩnh vực ngành nghề bởi mỗi dự án đều có sự khác nhau về công nghệ, sản phẩm, thị trường tiêu thụ, qui mô và mức độ rủi ro. Chương 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1. Định hướng Của sở giao dịch I - ngân hàng đầu tư và phát triển 3.1.1. Định hướng chung Trước tình hình cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trên địa bàn, sự lớn mạnh của các ngân hàng thương mại cổ phần và phát triển chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài, SGDI-BIDV tiếp tục không ngừng hoàn thiện để phát triển, chú trọng phát triển toàn diện: - Huy động vốn: trong thời gian vừa qua công tác huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khăn đặc biệt là huy động vốn trung dài hạn.Bởi vậy, ngân hàng đã tìm cách tăng cường huy động vốn bằng việc mở thêm một phòng giao dịch số 14 tại Lạc Trung đồng thời tiếp tục triển khai chương trình tiết kiệm dự thưởng năm 2006 - Về tín dụng: Phương châm hoạt động chung là tăng trưởng tín dụng đi liền với nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng đưa ra định hướng phát triển thành ngân hàng bán lẻ, mở rộng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như cho vay cá nhân. Phấn đấu để tổng dư nợ năm 2006 là 6800 tỷ trong đó dư nợ ngắn hạn là 35%; năm 2007 tổng dư nợ là 8075 tỷ. Với phương châm phục vụ tối đa nhu cầu của khách hàng SGDI tiếp tục mở rộng việc cung cấp một số sản phẩm dịch vụ mới cho khách hàng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của trung ương: cho vay thấu chi, phát hành thẻ tín dụng nội địa và quốc tế, bao thanh toán, chiết khấu chứng từ. SGDI tích cực quảng bá hình ảnh của mình thông qua việc mở rộng thêm chi nhánh, trao giải thưởng cho khách hàng trúng thưởng trong chương trình tiết kiệm dự thưởng. Toàn thể cán bộ của SGDI tích cực không ngừng nâng cao nghiệp vụ để phát huy tối đa năng lực cạnh tranh, tiếp tục phát triển xứng đáng với vai trò là nòng cốt của BIDV. Vừa qua SGDI đã vinh dự được trao tặng huân chương lao động hạng hai khẳng định những đóng góp của SGDI cho quá trình phát triển của đất nước nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng. 3.1.2. Định hướng đối với hoạt động thẩm định dự án đầu tư Hoạt động cho vay dự án đầu tư luôn được chú trọng, với định hướng chung về hoạt động tín dụng của toàn ngân hàng, ngoài việc tiếp tục cho vay đầu tư các công trình trọng điểm của nhà nước, SGDI tiếp tục thực hiện cấp tín dụng để phát triển kinh tế khu vực thành phố Hà Nội và các vùng giáp danh. SGDI tập trung cho vay các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao, ít gây ô nhiễm môi trường; các dự án sản xuất hàng hoá có khả năng thay thế hàng nhập khẩu; tiếp tục phát huy thế mạnh cho vay của ngân hàng là cho vay xây dựng và giao thông thi công cầu đường... Nhằm phục vụ tốt cho công tác thẩm định, SGDI tiếp tục hoàn thiện việc áp dụng quy trình thẩm định dự án đầu tư theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000 của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Phát triển để hội nhập đó là tiêu chí chung của toàn bộ hệ thống BIDV, hoà chung khí thế đó SGDI luôn coi hoạt động thẩm định an toàn đi liền với hiệu quả, không ngừng đào tạo và phát triển cán bộ nhằm đưa công tác thẩm định phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Cụ thể: - Thực hiện đúng các quy trình,các văn bản đã được ban hành đối với công tác thẩm định đồng thời không ngừng nghiên cứu tìm tòi rút kinh nghiệm để có những đóng góp giúp cho việc hoàn thiện qui trình thẩm định trong toàn hệ thống. - Cải tiến “Qui trình luân chuyển hồ sơ giữa phòng tín dụng và phòng thẩm định quản lý tín dụng”. Tham gia đóng góp ý kiến để hoàn thiện việc xếp loại tín dụng khách hàng. Nghiên cứu và đưa vào áp dụng phương phỏp thẩm định và một số chỉ tiờu thẩm định theo thụng lệ quốc tế (cơ chế thị trường) phự hợp từng dự ỏn. - Không ngừng hoàn thiện công tác đánh giá tài sản bảo đảm giúp cho việc đảm bảo khả năng thu nợ k hi nguồn trả nợ từ dự án không đủ. 3.2. Giải pháp  nhằm nâng cao chất lượng thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại SGD I 3.2.1. Đào tạo và phát triển đội ngũ chuyên viên thẩm định Như đã phân tích ở trên, công tác thẩm định hiệu quả tài chính DAĐT phục thuộc rất lớn vào năng lực, trình độ cũng như đạo đức của cán bộ thẩm định. Bởi vậy vấn đề tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực cho công tác thẩm định là điều vô cùng cần thiết. Ngân hàng cần có kế hoạch cụ thể cho việc phát triển nguồn nhân lực phù hợp với sự phát triển của ngân hàng theo hướng giỏi nghiệp vụ ngân hàng, am hiểu công nghệ thông tin, hiểu biết một số ngành...Ngân hàng cần chú trọng công tác đào tạo lại đội ngũ cán bộ sẵn có, đồng thời có chính sách phát triển nguồn nhân lực trong tương lai. Để làm điều này, em xin đề xuất một số ý kiến cho sau: Đối với việc tuyển chọn cán bộ mới phục vụ công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư: + Tuyển chọn một số cán bộ ngành kỹ thuật về rồi đào tạo thêm nghiệp vụ ngân hàng. Bởi trên thực tế, khi thẩm định cán bộ thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư phải thực hiện vai trò của cán bộ kỹ thuật rất nhiều mà lĩnh vực ngành nghề phải thẩm định thì rất đa dạng. Ngân hàng dựa trên định hướng phát triển hoạt động tín dụng của mình trong thời gian tới, lĩnh vực ngành nghề tiềm năng đòi hỏi nắm bắt được mất thời gian rất dài thì ngân hàng sẽ có chính sách tuyển dụng những cán bộ kỹ thuật có trình độ thuộc ngành nghề lĩnh vực đó. Họ sẽ là người có kiến thức kỹ thuật từ đó đưa ra được đánh giá các thông số chính xác, đồng thời có thể là cầu nối ngân hàng với các chuyên gia trên lĩnh vực đó. + Kết hợp đào tạo với nhà trường để có được nguồn nhân lực chất lượng cao: Hiện nay có rất nhiều trường đại học đào tạo lĩnh vực tài chính- ngân hàng (Học viện ngân hàng, Đại học kinh tế quốc dân,...), sinh viên của các trường này sẽ là nguồn nhân lực cho ngân hàng trong tương lai. Nhưng có một thực tế là, các sinh viên này sau khi ra trường (kể cả những sinh viên giỏi) thì kiến thức thực tế hầu như rất hạn chế. Bởi vậy ngân hàng có thể mở các lớp đào tạo ngắn hạn tại trung tâm đào tạo của BIDV để bổ sung kiến thức thực tế cho nhân viên mới tuyển dụng.  Với cách làm này, cán bộ ngân hàng sẽ là người bổ sung kiến thức thực tế cho sinh viên mới được tuyển dụng, ngân hàng tạo điều kiện cho họ tìm hiểu kiến thức thực tế một cách hiệu quả hơn. Đối với đội ngũ cán bộ thẩm định đã làm việc tại ngân hàng: + Tổ chức các lớp tập huấn, cử cán bộ đi học tập và khảo sát thực tế tại các ngân hàng nước ngoài. + Tổ chức các hội thảo, thảo luận về công tác thẩm định hiệu quả tài chính và mời các chuyên gia đầu ngành trong nước cũng như nước ngoài đến nói chuyện. Đồng thời tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm của các cán bộ có thâm niên nghề nghiệp, tổng kết đánh giá kết quả đạt được trong công tác thẩm định hiệu quả tài chính. + Có chế độ thưởng phạt hợp lý để gắn bó được cán bộ lâu dài với ngân hàng, tạo không khí làm việc cởi mở, thân thiện. Ngân hàng nên có chính sách ưu đãi cho cán bộ thẩm định để khuyến khích trách nhiệm, ý thức, tinh thần vươn lên hoàn thiện mình. Ngân hàng phải có chính sách khen thưởng đối với những cán bộ, chuyên gia làm việc giỏi để lưu giữ được nhân tài, đồng thời có biện pháp xử lý đối với những cán bộ có ý thức làm việc không tốt gây thiệt hại cho ngân hàng. + Kích thích tinh thần hăng say học tập và phát triển nghiệp vụ thông qua việc tổ chức các cuộc thi cán bộ có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ giỏi, hiểu biết rộng, nắm bắt được những thuận lợi, khó khăn tác động tới công tác nghiệp vụ của mình. Đặc biệt,ngân hàng cần chú trọng bồi dưỡng trình độ tiếng anh, tin học của đội ngũ cán bộ thẩm định bởi trong xu thế hội nhập hiện nay thì việc thẩm định các dự án đầu tư của nước ngoài là điều tất yếu trong tương lai không xa. Đồng thời các kiến thức kinh tế xã hội trong nước cũng như quốc tế là yêu cầu cần có đối với cán bộ thẩm định. + Xây dựng các yêu cầu đối với cán bộ thẩm định: có kiến thức, có đạo đức nghề nghiệp, tận tình với khách hàng, tận tâm với ngân hàng, không ngừng học hỏi, sáng tạo, nâng cao hiểu biết, khẳng định phương châm của ngân hàng là “mỗi cán bộ BIDV phải là một lợi thế trong cạnh tranh” cả về năng lực và chuyên môn đạo đức. + Thực hiện thường xuyên công tác đánh giá lại đội ngũ cán bộ thẩm định bởi đây là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp. Với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu và áp lực công việc thì thuyên chuyển sang công việc khác, đồng thời luân chyển các cán bộ khác có năng lực vào thay thế. 3.2.2. Chuyên môn hoá công tác thẩm định hiệu quả tài chính theo một lĩnh vực ngành nghề Hiện nay, các dự án đầu tư ngày càng đa dạng về ngành nghề, đối tượng, thành phần tham gia bởi vậy cho vay các dự án đầu tư ngày càng phức tạp và chứa đựng rủi ro hơn. Cán bộ thẩm định không thể nắm bắt hết được. Chuyên môn hóa cán bộ thẩm định theo lĩnh vực hoặc theo một số lĩnh vực ngành nghề liên quan sẽ. Nó tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định có thể tập trung đi sâu tìm hiểu các vấn đề liên quan đến ngành nghề đặc biệt là vấn đề đánh giá thị trường và đánh giá phương diện kỹ thuật để thuận lợi cho việc lượng hoá các giá trị này trong công tác đánh giá hiệu quả tài chính của DAĐT. Từ đó với những dự án thuộc quyền phán quyết của phòng thẩm định thì phòng có thể liên hệ trực tiếp với khách hàng khi có yêu cầu thông tin liên quan đến dự án đồng thời thông báo cho phòng tín dụng biết. Đi liền với việc chuyên môn hoá công tác thẩm định theo lĩnh vực ngành nghề thì ngân hàng cần chú trọng xây dựng các qui trình, tiêu chuẩn thẩm định hiệu quả tài chính tổng hợp cho các loại dự án khác nhau. Mỗi dự án có sự khác biệt nhau về lĩnh vực ngành nghề, công nghệ, sản phẩm, thị trường tiêu thụ, qui mô cũng như rủi ro của dự án; bởi vậy có thể lập tiêu chuẩn thẩm định hiệu quả tài chính cho các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp (tập trung vào một số ngành cho vay truyền thống của ngân hàng), nông nghiệp,... 3.2.3. Quán triệt nguyên tắc “trách nhiệm, nghĩa vụ luôn đi liền với quyền lợi’’ Phòng thẩm định và quản lý tín dụng có nhiệm vụ rất lớn trong công tác đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư. Tuy nhiên phòng chỉ có vai trò tư vấn, đề xuất và có chức năng thuộc khối hỗ trợ kinh doanh chứ không có quyền phán quyết tín dụng. Bởi vậy, ngân hàng nên xem xét để đưa ra một mức giới hạn tín dụng cho phép cán bộ thẩm định đã có thâm niên công tác cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp được quyền quyết định ở một mức nhất định. Điều này vừa giảm thời gian ra quyết định tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đồng thời cũng gắn ý thức tinh thần trách nhiệm càng cao của cán bộ thẩm định đối với công việc đưa ra kết luận về hiệu quả tài chính của dự án. Có thể sử dụng cách sau: Ngân hàng qui định một mức cụ thể với những dự án có qui mô dưới mức bao nhiêu thì một nhóm cán bộ thẩm định chịu trách nhiệm thẩm định và ra quyết định tín dụng, từ mức bao nhiêu thì phải đưa lên cấp trên. Việc phân công thực hiện thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư phải được gắn liền với trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ thẩm định để ngày càng nâng cao ý thức trách nhiệm. Ngân hàng nên có chế độ thưởng phạt cho cán bộ thẩm định gắn với kết quả của mỗi dự án. Chế độ thưởng phạt này phải được áp dụng linh động tránh trường hợp cán bộ sợ phải chịu trách nhiệm dẫn đến việc bỏ qua những dự án có hiệu quả khi họ cho rằng rủi ro của dự án cao mà tài sản bảo đảm thì không có. Hoạt động tín dụng nói chung và công tác thẩm định nói riêng luôn được nhắc đến với những vấn đề rất nhạy cảm, đặc biệt là những vụ việc tiêu cực dẫn đến những hậu quả thiệt hại cho ngân hàng. Bởi vậy tính quyết đoán cũng như sự linh động sáng tạo trong công việc là điều cần thiết. Cán bộ thẩm định dám chấp nhận mạo hiểm, nhưng việc chấp nhận mạo hiểm này phải dựa trên sự đánh giá một cách chính xác và khoa học; tránh tâm lý quá e dè, thiếu quyết đoán với những dự án có hiệu quả tài chính cao nhưng chủ đầu tư lại không đáp ứng được yêu cầu về tài sản đảm bảo. 3.2.4. Sử dụng hợp lý các chỉ tiêu tài chính cũng như phương pháp đánh giá - Ngân hàng cần đảm bảo tính chuẩn mực trong nội dung và qui trình đánh giá hiệu quả tài chính: các văn bản liên quan được ban hành cần phải có hướng dẫn cụ thể, chặt chẽ, chi tiết, hệ thống và không ngừng hoàn thiện cập nhật thông tin, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn công tác thẩm định cũng như yêu cầu thực tế của nền kinh tế. - Để đánh giá đúng NPV của dự án thì trước hết phải đánh giá đúng dòng tiền thực của dự án. Thẩm định hiệu quả tài chính DAĐT phải chú ý đến việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ của dự án bởi báo cáo lưu chuyển tiền tệ mới phản ánh đúng được dòng tiền ra vào thực của dự án. Muốn làm tốt điều này, cán bộ thẩm định phải thực hiện các bước sau: Dự tính luồng tiền của dự án, đưa ra các yếu tố định lượng, xem xét toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp (nghiên cứu xu hướng phát triển của sản phẩm, của ngành; xem xét hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ; xem xét chiến lược quản trị doanh nghiệp). Bên cạnh đó để tăng cường tính chính xác của việc dự tính dòng tiền thì cán bộ thẩm định cần căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của dự án (không ngừng tích luỹ kinh nghiệm trong việc đánh giá mối quan hệ giữa doanh thu và khoản thu, chi phí và khoản chi của từng lĩnh vực ngành nghề) và xem xét chính sách hoạt động của dự án (có cho khách hàng trả chậm hay không). Làm được điều này thì công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư của ngân hàng có thể tránh được việc tài trợ cho các dự án đầu tư khả thi về mặt tài chính trên giấy tờ nhưng đến khi hoạt động thì lại không có hiệu quả về mặt tài chính, không hoàn trả được vốn vay gây khó khăn rất lớn cho hoạt động của ngân hàng. - Bên cạnh việc xem xét dòng tiền của tổng vốn đầu tư, ngân hàng cần chú trọng xem xét dòng tiền của chủ đầu tư. Xây dựng dòng tiền trên giác độ chủ đầu tư sẽ cho thấy một các rõ ràng hiệu quả tài chính đem lại cho chủ đầu tư khi tiến hành dự án. Bằng việc xem xét này cán bộ thẩm định có thể tư vấn cho chủ đầu tư về phần vốn mà chủ đầu tư thực sự bỏ ra để thực hiện dự án và những gì họ thu được thêm so với khi không có dự án. Việc xem xét dòng tiền trên quan điểm của chủ đầu tư ở đây có điểm khác so với dòng tiền trên quan điểm của ngân hàng: phần vốn vay của ngân hàng được coi là dòng tiền vào hay khoản thu và khoản trả nợ gốc và lãi là dòng tiền ra hay khoản chi. - Đối với việc phân tích độ nhạy: trong việc phân tích độ nhạy ngân hàng cần quan tâm tới việc đưa ra những nhận định cho các kết quả đánh giá về mức độ rủi ro của dự án. Từ đó có những biện pháp cần thiết để quản lý các yếu tố tác động đến chỉ tiêu hiệu quả, phòng ngừa rủi ro. Để đánh giá chỉ tiêu này một cách hiệu quả, ngân hàng cần chú trọng đến việc thu thập và xây dựng các cơ sở dữ liệu liên quan đến các dự án, lập hồ sơ theo dõi thường xuyên, thống kê, lưu trữ số liệu theo từng loại hình đầu tư. Chú trọng việc tổng kết và đánh giá lại hiệu quả tài chính của dự án sau khi kết thúc cho vay để đúc rút kinh nghiệm. Báo cáo về việc đánh giá độ nhạy phải theo các cách thức: theo đề án của ngân hàng, theo đề án của khách hàng, đánh giá phương án xấu nhất có thể xảy ra, - Phân tích rủi ro của dự án bên cạnh phân tích độ nhạy có thể sử dụng thêm các phương pháp phân tích tình huống (phương pháp này nên áp dụng khi mà có thể dự tính được xác suất của các trường hợp xảy ra). Ngoài ra, ngân hàng nên xem xét nghiên cứu việc ứng dụng phương pháp mô phỏng Monte Carlo( phương pháp này được sử dụng phổ biến trên thế giới) thế nhưng áp dụng được phương pháp này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có trình độ. Bởi vậy ngân hàng cần có kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng tổ chức và tiến hành phân tích cho các chuyên viên một cách thấu đáo. 3.2.5. Xác định chi phí vốn của dự án đầu tư một cách chính xác nhất - Đối với lãi suất cho vay: hiện nay lãi suất cho vay dự án đầu tư của ngân hàng đối với khách hàng được thực hiện trên cơ chế thoả thuận. Mức lãi suất được lựa chọn sẽ được tính cố định qua các năm. Điều này đôi khi gây bất lợi cho việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án và ngân hàng: + Đối với khách hàng: do cho vay dự án đầu tư thì thời gian càng dài, thì việc xác định biến động của lãi suất càng khó bởi vậy với mức lãi suất cho vay cố định qua các năm thì ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất cao (thông qua việc định mức phí cộng thêm), để đảm bảo tránh được rủi ro khi mà lãi suất huy động tăng. Tức là khách hàng phải chịu mức chi phí vay vốn cao nếu trong những năm sau lãi suất huy động giảm. + Đối với ngân hàng: Việc xác định lãi suất cho vay cố định qua các năm có thể làm cho ngân hàng thiệt hại khi mà lãi suất huy động ở các năm sau có chiều hướng tăng. Bởi vậy, một giải pháp đưa ra là ngân hàng và khách hàng thoả thuận mức lãi suất có điều chỉnh khi có một số điều kiện nhất định xảy ra: Khi mà lãi suất huy động tăng/giảm ở một mức nào đó thì hai bên sẽ điều chỉnh lãi suất cho vay với một mức phù hợp nhằm đảm bảo hai bên cùng có lợi. Mặt khác, việc áp dụng lãi suất cho vay phải theo nguyên tắc thị trường: các khoản cho vay doanh nghiệp nhà nước phần lớn không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đảm bảo thì không đủ hồ sơ pháp lý để thế chấp nên lãi suất cho vay DNNN phải là cao nhất nhưng thực tế lại ngược lại và dư nợ của các doanh nghiệp này rất lớn nên lãi suất cho vay các doanh nghiệp này lại thấp nhất. - Đối với lãi suất chiết khấu: Trên thực tế, vốn tài trợ cho dự án đầu tư bao giờ cũng có một phần vốn tự có tham gia. Việc lựa chọn lãi suất chiết khấu là lãi suất cho vay chỉ phù hợp khi khoản tài trợ của ngân hàng chiếm phần lớn hoặc chiếm toàn bộ tổng mức vốn đầu tư nhưng trong thực tế điều này ít khi xảy ra. Hầu hết các dự án đầu tư chỉ được tài trợ một phần bằng vốn của ngân hàng nên lựa chọn chỉ tiêu chi phí bình quân gia quyền vốn đầu tư của dự án. Việc lựa chọn này cần phải được xem xét so với các dự án khác đã được thẩm định và có hiệu quả trong cùng lĩnh vực: nếu thời gian và qui mô dự án là tương đương thì có thể sử dụng lãi suất chiết khấu, nếu có sự khác biệt thì thực hiện những điều chỉnh cần thiết. 3.2.6. Thực hiện tốt chính sách khách hàng Chính sách khách hàng còn cần đảm bảo lưu giữ được khách hàng tốt đồng thời thu hút thêm được khách hàng có dự án ngành nghề có tiềm năng trong tương lai. Nguyên tắc của chính sách này dựa trên việc phát triển bền vững khách hàng thuộc lĩnh vực ngành truyền thống của ngân hàng đồng thời phát triển khách hàng thuộc các lĩnh vực ngành nghề mang tính định hướng phát triển của nhà nước. Ngân hàng cần thực hiện tốt chiến lược khách hàng. Việc thực hiện tốt này không chỉ là việc lập ra được một chiến lược mà phải tổ chức thực hiện nó một cách có hiệu quả. Đối với công tác thẩm định hiệu quả tài chính, nắm bắt yếu tố của các dự án đầu tư (đặc tính sản phẩm, thị trường, công nghệ,...) là điều không thể thiếu. Bởi vậy với những đối tượng khách hàng tiềm năng mà lĩnh vực ngành nghề mới, ngân hàng cần chủ động đi trước đón đầu bằng việc cho cán bộ thẩm định đi học tập bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành liên quan. Điều này giúp cho cán bộ thẩm định tránh khỏi được sự bỡ ngỡ khi gặp phải ngành nghề mới, giảm thời gian thẩm định khi khách hàng đã có đủ hồ sơ, tính toán chính xác các chỉ tiêu (doanh thu, chi phí,...). Ngân hàng cần quan tâm đến việc “ngân hàng cung cấp cho khách hàng những gì họ cần chứ không phải cung cấp những gì mình sẵn có”. Chỉ có như vậy, ngân hàng mới có thể thu hút được khách hàng. 3.2.7. Phát huy vai trò tư vấn của ngân hàng đối với chủ đầu tư Tư vấn ngân hàng đang là một dịch vụ không thể thiếu đối với công tác cung cấp sản phẩm cho khách hàng, bởi chất lượng cuối cùng của sản phẩm có sự đóng góp rất lớn của khách hàng. Khách hàng thực hiện bài bản, theo đúng yêu cầu của qui trình thủ tục có ý nghĩa rất lớn góp phần giảm thiểu sự bỡ ngỡ cho khách hàng khi tiếp xúc với sản phẩm đặc biệt là khách hàng mới sử dụng dịch vụ lần đầu. Đối với công tác thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư thì vai trò tư vấn của ngân hàng phải được thực hiện bài bản từ khâu tiếp cận với khách hàng. Cán bộ thẩm định chủ động tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá để có thể tiếp cận với những dự án có tiềm năng phát triển cao, từ đó bằng kinh nghiệm thực tế tư vấn cho họ ngay từ khâu lập dự án. Đội ngũ cán bộ thẩm định của ngân hàng có một lực lượng giàu kinh nghiệm về thực tế cũng như trong đánh giá dự án đầu tư cũng như nắm rõ các qui trình thủ tục cho vay của ngân hàng cũng như các yêu cầu cần thiết nhằm đối với đề nghị vay của khách hàng. Thông thường cán bộ thẩm định được tiếp xúc với dự án của khách hàng sau khi phòng tín dụng chuyển hồ sơ lên, thời gian thẩm định sẽ rất lâu khi mà khách hàng cung cấp thiếu các hồ sơ. Bởi vậy, nếu được tiếp xúc ngay từ khâu lập dự án, cán bộ thẩm định có thể tư vấn cho chủ đầu tư về xây dựng các chiến lược thị trường, sản phẩm, phân phối cũng như đầu tư công nghệ,...Đồng thời việc tính toán hiệu quả tài chính của dự án sẽ được thực hiện bài bản theo quy trình của ngân hàng, cán bộ thẩm định không phải mất công thẩm định lại từ đầu, thời gian thẩm định hiệu quả tài chính rút ngắn, khách hàng có thể nắm bắt được cơ hội đầu tư. Mỗi cán bộ thẩm định ngoài công tác chuyên môn của mình cần có các kỹ năng giao tiếp và thực sự trở thành người gắn kết khách hàng với ngân hàng. Vai trò tư vấn của nhân viên ngân hàng phải đảm bảo họ là những người có thể hiểu rõ tình hình của khách hàng cũng như những gì họ cần và giúp họ đưa ra các giải pháp hợp lý để dự án được thực hiện, đồng thời tư vấn giúp cho khách hàng có được hiệu qủa cao nhất khi đầu tư dự án chứ không chỉ có lãi và đủ khả năng trả nợ ngân hàng là được. 3.2.8. Giảm thiểu thời gian thẩm định dự án - Lập các bảng mẫu tính nhanh cho công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư: các bảng mẫu này được lập cho các lĩnh vực ngành nghề mà ngân hàng thường xuyên cho vay, nó rút ngắn thời gian nhập dữ liệu tính toán cho các dự án tương tự. - Khách hàng của ngân hàng có rất nhiều là khách hàng truyền thống trong việc vay vốn cho dự án đầu tư, bởi vậy dự án họ được trình lên rất bài bản và chính xác, bởi vậy ngân hàng nên đề nghị khách hàng ngoài báo cáo trình bằng văn bản thì các phần tính toán hiệu quả tài chính của dự án sẽ cung cấp thêm dưới dạng file Excel. Cán bộ tín dụng sẽ có thể kiểm tra trực tiếp việc tính toán trên máy, bởi các số liệu trên các bảng tính có sự liên kết chặt chẽ với nhau, giảm thời gian nhập dữ liệu vào máy tính, khi có điều chỉnh thì cán bộ thẩm định có thể điều chỉnh luôn trên máy. -Ngân hàng chú trọng cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hoá thủ tục giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng, nhưng vẫn đảm bảo độ an toàn trong giao dịch và thống nhất với qui định của ngân hàng, cũng như qui định của nhà nước. 3.2.9. Cung cấp tín dụng đi liền các dịch vụ chọn gói cho khách hàng đây là một cách để ngân hàng có cơ sở quản lý dòng tiền mặt của khách hàng, tạo ra khả năng về nguồn xử lý nợ của dự án đầu tư. Việc làm này cần có sự kết hợp đồng bộ của các phòng ban trong ngân hàng. Ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng các dịch vụ như thanh toán, tư vấn quản trị tiền mặt, dịch vụ quản lý ngân quỹ, dịch vụ uỷ thác... Dịch vụ này được đặc biệt chú ý cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cán bộ ngân hàng sẽ tư vấn giúp khách hàng quản trị tiền mặt tốt bằng việc tăng tốc độ thu hồi, giảm tốc độ chi tiêu, tư vấn cho khách hàng đầu tư vào tài sản sinh lời có tính thanh khoản cao tạo thêm nguồn trả nợ cho ngân hàng. Mặt khác thực hiện việc này ngân hàng có thể dự báo chính xác dòng tiền của khách hàng, đó sẽ là cơ sở để cán bộ thẩm định tư vấn cho khách hàng lập dự án đầu tư với qui mô phù hợp đồng thời giúp cho việc xác định chính xác khả năng vốn tự có tham gia vào dự án của khách hàng. Hơn nữa ngân hàng còn thu được phí cho các dịch vụ này và cũng thu hút thêm nguồn vốn đầu tư giá rẻ để tăng cường thực hiện công tác tín dụng. Để đảm bảo tư vấn tốt cho khách hàng, thì ngân hàng cần trú trọng việc chuẩn bị đội ngũ cán bộ am hiểu về quản trị tài chính doanh nghiệp. Thực hiện tốt điều này, ngân hàng sẽ có cơ hội tiếp cận thêm được các dự án đầu tư của doanh nghiệp. 3.2.10. Sử dụng phương pháp chuyên gia Với việc giả định doanh thu và chi phí của dự án đều được thực thu bằng tiền thì việc tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án (NPV,IRR) nhiều khi không phản ánh chính xác dòng tiền thực của dự án. Để hạn chế được điều này, ngân hàng cần chú trọng sử dụng phương pháp chuyên gia phục vụ cho công tác nghiên cứu và đánh giá thị trường cũng như công nghệ của dự án nhằm có những thông số (công suất của dự án, giá thành sản phẩm, cũng như dự báo nhu cầu của thị trường…) chính xác cho việc đánh giá khả năng thu được lợi nhuận của dự án. Chi phí cho việc này lớn bởi vậy, ngân hàng chỉ nên sử dụng trong trường hợp ngành nghề cho vay thuộc lĩnh vực các ngành mới chịu nhiều tác động của khoa học kỹ thuật (như điện tử viễn thông,…), thời gian cho vay dài, cán bộ thẩm định không thu thập được các thông tin tin cậy cần thiết, và thời gian cần nhanh. Ngân hàng cần lựa chọn các chuyên gia có trình độ, nắm bắt được tình hình thức tế của lĩnh vực ngành nghề, luôn có những nghiên cứu tìm tòi; họ sẽ là người đưa ra đựoc những nhận định xác đáng cho việc đánh giá của ngân hàng, đồng thời đảm bảo cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư được thực hiện một cách khách quan và chính xác hơn, giảm được hạn chế chủ quan của cán bộ thẩm định, cũng như giúp cán bộ thẩm định có sự quyết đoán trong việc khẳng định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư. 3.2.11. Nâng cao tính quyết định của hiệu quả tài chính của dự án đối với phán quyết cho vay của ngân hàng Hiện nay quyết định cho vay của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của giá trị tài sản đảm bảo. Một dự án cho dù khi đánh giá là có hiệu quả đến mấy mà tài sản đảm bảo của chủ đầu tư không đủ thì dự án khó có thể được vay vốn theo nhu cầu, bởi vậy ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng các hình thức kêu gọi vốn đầu tư khác bên cạnh đó ngân hàng chỉ cho vay ở một mức nhất định theo nguyên tắc hạn chể rủi ro. Các nguồn khác mà khách hàng có thể huy động đó là thuê tài chính, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, kêu gọi vốn góp liên doanh, vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm. Bởi vậy cán bộ thẩm định ngoài những kiến thức về công tác thẩm định cần phải có cái nhìn bao quát đối với việc tài trợ vốn cho dự án đầu tư. Luôn luôn nhớ không được coi tài sản bảo đảm là số 1, điều đáng quan tâm là dòng tiền, gắn với cơ cấu món vay theo thời gian để xem doanh nghiệp có thể trả nợ đúng hạn không. Tài sản bảo đảm vẫn được coi trọng nhưng không coi đó là nguồn trả nợ, mà chỉ là nguồn để xử lý nợ khi không thể thu hồi. Yêu cầu về tài sản phải dựa trên mức độ rủi ro của dự án chứ không phải dựa trên qui mô của dự án. 3.2.12. Phát triển hệ thống công nghệ, thông tin Theo xu thế chung các ngân hàng ngày càng phải thẩm định các dự án với qui mô và tính chất phức tạp ngày càng cao. Cán bộ thẩm định phải thẩm định nhiều dự án của nhiều khách hàng khác nhau, áp lực công việc nhiều đồng thời yêu cầu giải quyết việc thẩm định phải trong thời gian sớm với độ chính xác ngày càng cao để thực hiện được tốt các công việc sau đó. Bởi vậy, hiện đại hoá công nghệ thông tin, chú ý hiện đại hoá công nghệ để thẩm định chính xác hiệu quả tài chính của dự án đầu tư là một trong những điều kiện để đáp ứng nhu cầu của khách hàng vừa đảm bảo lợi ích của ngân hàng cũng như tính cạnh tranh trong việc cấp tín dụng. Công nghệ thông tin trang bị phù hợp với năng lực trình độ của người sử dụng, và việc ứng dụng công nghệ thông tin phải đảm bảo cho sự phù hợp trong thời gian dài. Ngân hàng cần tập trung vào việc nghiên cứu và ứng dụng các phần mềm đánh giá hiệu quả tài chính của dự án hiện có, để qua giai đoạn chạy thử mà đưa vào áp dụng trong phạm vi rộng rãi. Bên cạnh trang thiết bị cho công tác thẩm định thì ngân hàng cần chú ý tới việc đầu tư công nghệ trang thiết bị cho các bộ phận khác liên quan bởi quá trình từ khi thẩm định đến khi quyết định tín dụng và kết thúc là thu nợ còn phụ thuộc vào rất nhiều bộ phận khác: phòng nguồn vốn(đánh gía khả năng nguồn vốn của ngân hàng), phòng kế toán (hạch toán các khoản vay), phòng tín dụng(thực hiện giải ngân và thu nợ), phòng thanh toán quốc tế (liên quan đến các khoản vay ngoại tệ). Bởi vậy ngân hàng cần quan tâm đến việc trang bị công nghệ hiện đại cho các phòng liên quan: các phần mềm quản lý tài sản, phần mềm kế toán kiểm toán, ….. Thông tin là cơ sở rất quan trọng cho công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư nói riêng và công tác thẩm định dự án nói chung. Nhìn chung hoạt động cho vay của ngân hàng gặp rất nhiều rủi ro do tình trạng thông tin không cân xứng. Bởi vậy ngân hàng cần có biện pháp thu thập và lưu trữ thông tin giúp cho việc đánh giá đúng dự án đầu tư. Công tác thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư cần thông tin từ rất nhiều nguồn: từ ngành chuyên môn, cơ quan quản lý của nhà nước thuộc lĩnh vực dự án đang đầu tư, từ các cơ quan chức năng (thuế, thống kê, tài chính..)…Ngân hàng cần có kế hoạch lưu trữ cũng như thu thập các thông tin. Một số biện pháp có thể áp dụng để thực hiện đó là: - Tổ chức thu thập và đánh giá thông tin: thông tin cần phải đảm bảo tính chính xác cũng như tính cập nhật và kinh tế. Đặc biệt, ngân hàng chú trọng cập nhật thông tin ngành nghề mà ngân hàng có định hướng cho vay. SGDI nên có một bộ phận chuyên cung cấp thông tin, bộ phận này không chỉ có vai trò lưu trữ các thông tin được cung cấp từ các bộ phận khác mà thường xuyên cập nhật thông tin các loại thông tin liên quan: thông tin về tính năng,đặc điểm hoạt động của máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất, …để giúp công tác thẩm định đánh giá đúng công suất, số lượng bảo đảm cho doanh thu của dự án, tính chi phí sản xuất kinh doanh; các thông tin về thị trường cạnh tranh, đối thủ cạnh tranh, thị trường cung cấp yếu tố đầu vào; thông tin biến động giá cả; chính sách xuất nhập khẩu và đầu tư của nhà nước; xu thế nền kinh tế (tác động của việc mở cửa, gia nhập các tổ chức quốc tế của nền kinh tế Việt Nam..). - Ngân hàng cần tổ chức lưu trữ thông tin khoa học và theo lĩnh vực ngành nghề và thường xuyên lưu trữ thông tin về các dự án đã được thẩm định để có sự đánh giá lại và đúc rút kinh nghiệm. Đồng thời tăng cường hệ thống thông tin nội bộ nhằm giảm thiểu rủi ro đạo đức của cán bộ thẩm định. 3.2.13. Thúc đẩy hoạt động Marketing trong tài trợ dự án đầu tư Mọi cố gắng của ngân hàng nhằm làm cho công tác thẩm định hiệu quả tài chính có chất lượng đều vô nghĩa nếu như các dự án đưa nên không có hiệu quả ngay từ đầu, tất nhiên ngân hàng sẽ tốn kém chi phí. Bởi vậy, ngoài việc cán bộ ngân hàng phải tìm kiếm khách hàng thì ngân hàng cũng cần có các biện pháp nhằm thu hút khách hàng tốt tự tìm đến với mình. Các khách hàng tốt họ mong muốn ở ngân hàng sự tận tình chu đáo và thuận tiện. Để khách hàng tìm đến với mình ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp sau: - Quảng bá sản phẩm của ngân hàng: sản phẩm tín dụng đa dạng đảm bảo phù hợp tối đa theo nhu cầu thực tế của khách hàng được phục vụ bởi đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp; thủ tục thuận tiện; công nghệ tiên tiến hiện đại. - Công bố công khai chính sách cho vay của ngân hàng cũng như tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách cập nhật: công bố công khai danh mục cho vay của ngân hàng (danh mục cho vay có chất lượng cao, loại hình cho vay, thời gian đáo hạn, qui mô và chất lượng khoản vay) cùng với giá cả và chất lượng tạo ra sự khác biệt sẽ tạo lòng tin cho các khách hàng có ý định sử dụng sản phẩm tín dụng của ngân hàng cũng như lưu giữ được khách hàng cũ. - Tổ chức thường kì việc tuyên dương các khách hàng có chất lượng tín dụng tốt hàng đầu, cũng như các khách hàng thân thiết: Ngân hàng tổ chức định kì các hoạt động đánh gía các doanh nghiệp tiêu biểu có chất lượng tín dụng tốt và đưa thông tin lên báo chí cũng như trang web của ngân hàng. Điều này vừa có thể quảng cáo cho khách hàng cũng đồng thời quảng cáo chất lượng dịch vụ của ngân hàng và sự tin tưởng của các doanh nghiệp có qui mô, đầu tư dự án có hiệu quả. Ngân hàng sẽ nâng cao uy tín, có cơ hội tiếp cận với các dự án lớn có chất lượng cũng như cơ hội làm tư vấn cho các dự án đầu tư nước ngoài, tạo điều tiếp xúc với các dự án đầu tư được lập theo tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế (các cách tính toán chi phí.., các giải pháp về lựa chọn công nghệ cũng như nhà thầu, đánh giá thị trường…). Đặc biệt ngân hàng cần chú trọng quảng bá về khả năng chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên ngân hàng cũng như sự tiên tiến hiện đại trong hệ thống thông tin của ngân hàng: đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của ngân hàng sẽ giúp cho khách hàng được phục vụ trong thời gian nhanh nhất, đánh giá đúng được tiềm năng của ngân hàng giúp khách hàng không bị mất cơ hội đầu tư. 3.2.14. Thúc đẩy hợp tác phát triển trên lĩnh vực thẩm định DAĐT Hoạt động cho vay dự án đối với các ngân hàng không phải lúc nào ngân hàng cũng có thể đáp ứng hết được nhu cầu vốn của khách hàng do qui mô của ngân hàng không đủ cũng như tâm lý ngại rủi ro cao, bởi vậy một hình cách phổ biến là ngân hàng kêu gọi đồng tài trợ, hoạt động này được thực hiện sẽ giúp cho việc kết hợp các mặt mạnh cũng như kinh nghiệm lợi thế của các ngân hàng. Để tăng cường khả năng thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư, ngân hàng chú trọng hợp tác với các ngân hàng nước ngoài rất có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, đồng thời hợp tác để đưa cán bộ đi đào tạo và thực tế thêm nghiệp vụ thẩm định. Hợp tác phát triển cần được liên kết đồng bộ ngay với các chi nhánh ngân hàng trong cùng hệ thống: các chi nhánh ngân hàng trong cùng hệ thống thường nắm rất rõ thông tin về tình hình kinh tế vùng địa bàn hoạt động, bởi vậy, SGDI cần có sự liên hệ chặt chẽ với cán bộ thẩm định tại địa bàn nơi dự án đầu tư triển khai và hoạt động để có thêm thông tin cho công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án ( chính sách ưu đãi của tỉnh, đất đai, thị trường sản phẩm của doanh nghiệp,...). Hơn nữa, các tổ chức tư vấn về lập dự án ngày càng có xu thế được phát triển rộng rãi, bởi vậy ngân hàng cần chú ý đến việc liên kết với các tổ chức tư vấn có tín nhiệm trong và ngoài nước để hỗ trợ cho vay các dự án đầu tư: các tổ chức tư vấn sẽ tư vấn cho các chủ đầu tư lập dự án kinh doanh có hiệu quả còn ngân hàng sẽ thực hiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính và cho vay. 3.3. Một số kiến nghị Hoạt động dự án đầu tư rất đa ngành, đa địa bàn cũng như đối tượng điều chỉnh bởi vậy để công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư nói riêng và công tác thẩm định dự án đầu tư nói chung rất cần có sự phối kết hợp của các bộ ngành liên quan cụ thể 3.3.1. Đối với nhà nước Các dự án đầu tư được lập ở hiện tại thế nhưng các hoạt động đầu tư lại diễn ra ở thì tương lai, bởi vậy chủ đầu tư luôn mong muốn một môi trường hoạt động ổn định, với cơ chế chính sách thống nhất, rõ ràng và ổn định. Đầu tư là một chính sách của nhà nước, là chương trình quốc gia, chứ không phải chỉ của riêng một ngành nghề, một khu vực. Bởi vậy, những qui hoạch, định hướng phát triển của đất nước cần phải được đưa ra đồng bộ, có tính chất định hướng phát triển ngành nghề, vùng miền, cũng như các chính sách ưu đãi đầu tư để chủ đầu tư có định hướng cho hoạt động đầu tư của mình, cũng như đánh giá được khả năng mở rộng thị trường sản phẩm mà mình định đầu tư. Nhà nước cần chú trọng hoàn thiện các văn bản luật liên quan đến hoạt động đầu tư như Luật đầu tư trong nước cũng như luật khuyến khích đầu tư nước ngoài cùng với các luật về thuế, …Nhà nước ra các văn bản quy định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, người tư vấn lập dự án đầu tư, người ra quyết định cho phép đầu tư đối với việc đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư. Các ngân hàng cũng rất cần những văn bản định hướng phù hợp nhằm đảm bảo cho hoạt động an toàn, hiệu quả về bền vững. Bởi vậy, nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, tiếp tục chỉnh sửa luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng tạo điều kiện cho các NHTM đa dạng hoá các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó là luật đất đai bởi đất đai là tài sản thế chấp chủ yếu cho hoạt động đi vay để thực hiện dự án đầu tư. Một thực tế cho thấy là hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng điều rất cần thiết hiện nay là nhà nứơc cần có biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa nhỏ về tiềm lực lại vừa hạn chế về uy tín. Nhà nước cần quan tâm hỗ trợ thành lập và phát triển quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để bảo lãnh cho các doanh nghiệp này vay vốn ngân hàng. Nhà nước cũng cần chú ý từng bước đầu tư công nghệ hiện đại để kết nối thông tin của các ngành nghề liên quan, giúp cho công tác thống kê, đánh giá ngành được thuận lợi và cập nhật. Đồng thời có các văn bản qui định về công khai thông tin đối với các ngành nghề, các doanh nghiệp, ngân hàng,… Xúc tiến thành lập trung tâm định mức và xếp hạng tín nhiệm. 3.3.2. Đối với bộ ngành liên quan - Các bộ ngành liên quan cần phối kết hợp chặt chẽ với ngân hàng nhà nước bằng việc thường xuyên cung cấp các văn bản, quyết định liên quan đến công tác thẩm định nói riêng và các công tác khác nói chung giúp cho thông tin được cập nhật. - Các bộ ngành liên quan đến việc thẩm định và cấp giấy phép đầu tư cũng cần không ngừng hoàn thiện và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ cũng như bồi dưỡng đạo đức và tinh thần trách nhiệm của họ trong việc ra quyết định. - Tổng cục thống kê cần tích cực đưa ra những báo cáo tổng kết, thông tin cập nhật về tình hình hoạt động của các ngành nghề liên quan cũng như các kết quả của nền kinh tế. - Các bộ ngành liên quan cần phối kết hợp với nhau để xây các đề án chiến lược, cũng như đưa ra hệ thống các tiêu chuẩn, chỉ tiêu, các chuẩn mực thẩm định để đánh giá hiệu quả của từng ngành nghề công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,….Hệ thống các chỉ tiêu này phải xác thực, làm cơ sở để đối chiếu, đánh giá các yếu tố của dự án đầu tư…. - Các bộ ngành cần có những đánh giá kết quả chung của ngành cũng như kế hoạch phát triển trong ngắn hạn cũng như dài hạn cho hoạt động phát triển của mình. Đặc biệt những đánh gía thống kê về các chỉ tiêu bình quân chung của ngành, cũng như rủi ro ngành, đánh gía hoạt động của các doanh nghiệp cần được tổng kết và công bố công khai, kịp thời 3.3.3. Đối với ngân hàng nhà nước - Ngân hàng nhà nước với vai trò là lãnh đạo định hướng cho hoạt động của các ngân hàng theo định hướng phát triển của đất nước. Bởi vậy, ngân hàng nhà nước thực hiện tốt vai trò đầu mối tổ chức các cuộc hội thảo cũng như các đợt tập huấn, trao đổi kinh nghiệm thẩm định hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại. Kết hợp với các tổ chức tài chính nước ngoài mở các lớp đào tạo và truyền đạt những kiến thức về thẩm định, đặc biệt là thẩm định theo các tiêu chuẩn quốc tế. - Hoạt động cho vay đồng tài trợ của các ngân hàng thương mại hiện nay đang được áp dụng rất mạnh mẽ. Nguyên nhân chủ yếu là để phân tán rủi ro với những dự án qui mô quá lớn hoặc là do vốn của ngân hàng không đáp ứng đủ bởi thiếu vốn hoặc bị hạn chế bởi giới hạn cho vay. Bởi vậy ngân hàng nhà nước cần có những văn bản hướng dẫn chung cho hoạt động thẩm định, đặc biệt là xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của các dự án đầu tư giúp cho hoạt động đồng tài trợ của các ngân hàng tránh được sự không thống nhất trong quan điểm tính toán, rút ngắn thời gian thẩm định. NHNN cần tập trung lấy ý kiến của các cán bộ thẩm định có kinh nghiệm tại các ngân hàng thương mại nhằm thu thập được những thế mạnh trong công tác thẩm định của họ, giảm thiểu những mặt yếu. - Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước cần được phát huy vai trò hơn nữa. Ngoài việc đưa các thông tin mà các ngân hàng cung cấp thì, trung tâm cần bổ sung thêm các về đánh giá phát triển ngành để các ngân hàng tham khảo, đặc biệt là thông tin về các kinh nghiệm thẩm định trên quốc tế, cũng như việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thẩm định. Với vai trò là tổ chức điều hành các ngân hàng, NHNN cần xây dựng CIC trở thành trung tâm thông tin liên kết động bộ thông tin giữa các ngân hàng. Làm được điều này sẽ giảm được rất nhiều chi phí cũng như giúp cho các ngân hàng thu đựơc rất nhiều lợi ích trong đánh giá khách hàng: có thông tin đồng bộ để đánh giá khách hàng đúng đắn hơn, tiết kiệm thời gian tìm kiếm thông tin, tăng khối đoàn kết giữa các tổ chức tín dụng, tăng sự thống nhất trong các nghiệp vụ tín dụng, tạo niềm tin cho khách hàng vào ngân hàng. - Ngân hàng nhà nước cần có các chính sách để ổn định thị trường tiền tê, bình ổn lãi suất, có các qui định về dự trữ bắt buộc, các mức lãi suất hợp lý để hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ổn định, tránh được rủi ro. 3.3.4. Đối với ngân hàng đầu tư và phát triển - Thực hiện tuyển dụng rộng rãi, công khai cho toàn hệ thống, đó là một cách vừa thu hút được nhân tài, vừa quảng bá được hình ảnh của ngân hàng cũng như năng lực của đội ngũ nhân viên của ngân hàng. - Phát triển văn hoá ngân hàng: tạo đựơc sự gắn kết của các nhân viên trong ngân hàng, duy trì được đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp. - Để tạo điều kiện tiếp cận giữa ngân hàng với các khách hàng có dự án đầu tư tốt thì ngân hàng thì một trong những phương tiện hữu ích hiện nay là qua mạng Internet. Ngân hàng cần chú trọng đầu tư xây dựng website chuyên nghiệp với thông tin cập nhật đặc biệt là các chính sách của ngân hàng đối với khách hàng, công khai về tình hình tài chính của ngân hàng. - Để mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngân hàng có thể tổ chức tài trợ cho chương trình ngân hàng với doanh nghiệp trên sóng phát thanh để có thể giải đáp những thắc mắc hoặc bức xúc của doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Ngân hàng nên phát động phong trào nghiên cứu khoa học toàn hệ thống để có thể có những tài liệu có gía trị để đưa ra hướng dẫn chung cho toàn hệ thống. Hàng năm tổ chức riêng hội nghị tổng kết đánh giá kết quả của công tác thẩm định đặc biệt là thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư để hoàn thiện qui trình thẩm định cho toàn hệ thống. Đồng thời xây dựng các định hướng phát triển cho công tác thẩm định. 3.3.5. Đối với chủ đầu tư  - Không ngừng nâng cao năng lực và trình độ đội ngũ làm công tác lập và thẩm định dự án đầu tư để lập dự án đầu tư thực sự có hiệu quả và theo đúng các qui định của pháp luật.Trong quá trình lập dự án cần trú trọng đến công tác điều tra, dự báo thị trường, cũng như chú trọng công tác lập chiến lược tiếp thị sản phẩm, tránh lập dự án theo mẫu dự án đã thành công, cung ứng cho thị trường những sản phẩm giống nhau làm thay đổi cung cầu. - Chú trọng khâu tiếp xúc ngân hàng ngay từ khâu lập dự án để có thể có được những tư vấn hợp lý. Lựa chọn đầu tư phù hợp với khả năng của mình, xác định đầu tư có hiệu quả chứ không phải đầu tư phong trào. Thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán và báo cáo theo đúng qui định của nhà nước, thực hiện kiểm toán bắt buộc tạo điều kiện cho ngân hàng thuận lợi trong công tác thẩm định tài chính dự án cũng như đánh gía vốn tự có của doanh nghiệp tham gia dự án. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNganHang 81.doc
Tài liệu liên quan