Vốn luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Về mặt lí thuyết, Ngân hàng thương mại có tương đối nhiều các hình thức huy động vốn dáp ứng nhu cầu tín dụng và đầu tư của Ngân hàng. Bên cạnh đó, từ khi đất nuớc đổi mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế được phép tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, và đạt được những kết quả to lớn. Trong thành công đó có sự đóng góp không nhỏ của nguồn vốn cùng với phương châm phát huy nền tảng nỗ nội lực là chính, đồng thời cũng không bỏ qua ngoại lực.
83 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn ở Ngân hàng đầu tư - phát triển Hà Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó thể khai thác triệt để giá trị lượng tài sản nợ, từ đó thúc đẩy công tác huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả đảm bảo cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn.
Chi phí nguồn vốn và chênh lệch lãi suất.
Chi phí huy động vốn của Ngân hàng.
Chi phí là tất cả những khoản mà Ngân hàng phải chi ra để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Chi phí có tính quyết định trong hoạt động kinh doanh, chi phí thấp hoạt động kinh doanh diễn ra thuận lợi. Chi phí quyêt định tính cạnh tranh của Ngân hàng đặc biệt trong môi trường kinh tế hiện nay thì chi phí là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng và phát triển của Ngân hàng.
Do có ý nghĩa quan trọng như vậy cho nên trong hoạt động kinh doanh, chi nhánh Ngân hàng ĐT-PT Hà Thành luôn tìm giải pháp nhằm giảm chi phí.
Chi phí huy động vốn là tất cả các khoản mà Ngân hàng chi ra để phục vụ cho hoạt động huy động vốn. Hiệu quả của công tác huy động vốn chính là làm sao để được những tập hợp nguồn vốn với chi phí thấp. Ta xem xét lãi suất huy động vốn của Ngân hàng trên cơ sở so sánh với các Ngân hàng khác như sau:
Bảng 12: Lãi suất huy động tiết kiệm dân cư bằng VNĐ kỳ hạn 12 tháng một số Ngân hàng trên địa bàn Hà nội.
Đơn vị: %/tháng
Ngân hàng
31/12/2003
31/12/2004
31/12/2005
SGD NH công thương
0,58
0,63
0,70
SGD NH ngoại thương
0,60
0,63
0,70
SGD NH nông nhiệp
0,58
0,63
0,70
SGD I - BIDV
0,58
0,63
0,70
Chi nhánh Hà Thành
0,58
0,63
0,70
Ta nhận thấy: lãi suất huy động của chi nhánh có xu hướng tăng lên qua các năm 2003, 2004, 2005 (năm 2003 là 0,58%/tháng với loại tiền gửi kỳ hạn 12 tháng, và năm 2005 là 0,7%/tháng) và hiện tại vẫn giữ ở mức 0,7%/tháng. Và tương đối bằng các Ngân hàng khác trên cùng địa bàn, đây là cố gắng của chi nhánh trong việc áp dụng lãi suất cạnh tranh và hấp dẫn với khách hàng.
Bên cạnh đó chi nhánh còn đưa ra các mức lãi suất đa dạng với nhiều kỳ hạn cho khách hàng lựa chọn, áp dụng với từng loại tiền, và tương đối hợp lý đối với nhu cầu của người dân trên địa bàn, đây có thể coi là yếu tố đẩy nhanh mức độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Đối với USD, theo số liệu báo cáo ngày 24/01/2006 với kỳ hạn 12 tháng thì so với các Ngân hàng khác lãi suất huy động của Ngân hàng Hà Thành thấp tương đối so với các Ngân hàng đó, cụ thể: lãi suất của Ngânhàng Hà Thành là 4,5%/năm, bằng các Ngân hàng Công thương, Ngoại thương nhưng thấp hơn NH nông nghiệp, là ở mức 4,55%/năm.
Đối với chi phí nguồn vốn huy động: qua phân tích ta thâý rằng nguồn vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của chi nhánh, do đó chi phí huy động phụ thuộc rất lớn vào chi phí nguồn vốn huy động. Nếu tăng nguồn vốn huy động trong điều kiện chi phí trả lãi cho nguồn vốn huy động quá cao sẽ là nguyên nhân gây khó khăn cho việc quyết định đầu ra của nguồn vốn và việc thực hiện kế hoạch lợi nhuận của Ngân hàng. Chính vì thế, việc xem xét chi phí trả lãi cho nguồn vốn huy động và sự biến động của chi phí này luôn được các Ngân hàng quan tâm, là một việc làm thường xuyên trong công tác quản trị nguồn vốn huy động.
Trên thực tế việc đánh giá chi phí trả lãi cho nguồn vốn huy động được chi nhánh Hà Thành phân tích thông qua chỉ tiêu lãi suất bình quân đầu vào theo định kỳ hàng tháng. Lỹa suất bình quân đầu vào được hiểu là tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả theo cam kết chia cho tổng nguồn vốn bình quân (theo Quy trình huy động vốn và điều hành vốn của NHĐT-PT Việt nam). Trên cơ sở đó lãi suất bình quân đầu vào được tính là: năm 2003 là 0,55%/tháng; năm 2004 là 0,56%/tháng và năm 2005 là 0,57%/tháng.
Chênh lệch lãi suất bình quân.
Chênh lệch lãi suất bình quân được tính như sau:
Chênh lệch lãi suất bq = Lãi suất bq đầu ra- Lãi suất bq đầu vào
Trong đó:
Lãi suất bình quân đầu ra là tỷ lệ giữa tổng lãi phải thu theo cam kết chia cho tổng số sử dụng vốn bình quân
Lãi suất bình quân đầu vào đựơc đề cập ở trên (theo Quy trình huy động vốn và điều hành vốn của NHĐT-PT Việt nam)
Bên cạnh những biến động liên tục của lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại cũng có nhiều thay đổi của cơ chế điều hành lãi suất cho vay. Do đó chênh lệch lãi suất cũng co nhiều biến đổi kéo theo nó, và với sự giảm của lãi suất cơ bản và việc điều hành lãi suất theo cơ chế gián tiếp của NHNN, thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt nam. Đối với đồng đola, Cục dữ trữ liên bang Mỹ liên tục cắt giảm lãi suất của đồng đôla Mỹ, làm lãi suất trên thị trường quốc tế cũng như Việt nam giảm theo. Trước tình hình đó, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động vốn của các Ngân hàng thu hẹp, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng
Đánh giá thực trạng huy động vốn của NHĐT-PT Hà Thành
Kết quả đạt được.
Về hình thức huy động vốn: trong thời gian qua, bên cạnh việc huy động nguồn vốn thường xuyên bằng hình thức tiền gửi của cá nhân, tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm, chi nhánh đã thực hiện phát hành giấy tờ có giá (kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm ổ trứng vàng…) với lãi suất phong phú và hấp dẫn nhằm thu hút ngày càng nhiều lượng vốn nhàn rỗi từ tổ chức và cá nhân
Về quy mô nguồn vốn: trong những năm qua lượng vốn huy động không ngừng tăng lên: năm 2003 lượng vốn huy động là 741.885 triệu đồng và đến cuối năm 2005 là 2.120.249 triệu đồng, trong đó lượng tiền gửi có kỳ hạn luôn ổn định, giúp Ngân hàng chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn của mình. Chi nhánh Hà Thành đựoc coi là một trong những chi nhánh có hiệu quả huy động vốn cao của NHĐT-PT Việt nam.
Về cơ cấu nguồn vốn: chi nhánh đã kết hợp một cách hài hoà các hình thức huy động để tạo hiệu quả ở tất cả các hình thức huy động đó. Việc đưa ra nhiều sản phẩm huy động là một bước sáng tạo để đa dạng hình thức huy động, nâng cao tính an toàn trong hoạt động của chi nhánh.
Đạt được kết quả như vạy là do các nguyên nhân:
Chi nhánh đã tìm mọi biện pháp để khai thác tiềm lực của các đơn vị kinh tế, triển khai hình thức huy động vốn đa dạng trong dân cư như: tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm tích luỹ, tài khoản tiền gửi nhiều kỳ hạn với lãi suất và kỳ hạn phong phú đa dạng, hấp dẫn đặc biệt với nhiều phương thức thanh toán lãi thuận tiện cho kháchhàng( trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi hàng quí, hàng tháng…). Chi nhánh đã tích cực mở rộng mạng lưới huy động vốn, thực hiện giao chỉ tiêu huy động vốn đến từng phòng. Thường xuyên sơ kết, tổng kết để đánh giá kết quả thực hiện, kịp thời khen thưởng và rút kinh nghiệm.
Trong thời gian qua chi nhánh đã thực thi một số chính sách lãi suất hấp dẫn, linh hoạt trên cơ sở theo dõi thường xuyên biến động lãi suất trên thị trường, từ đó dự đoán xu hướng biến động của nó, dùng lãi suất như một công cụ thực thi chính sách khách hàng.
Chi nhánh Hà Thành đã xây dựng đội ngũ cán bộ với tác phong giao dịch lịch sự, nhanh nhẹn, chu đáo tận tình nhằm tạo nên hình ảnh Ngân hàng đầu tư và phát triển với chất lượng phục vụ tốt, góp phần tạo nên tín nhiệm với nhân dân với bạn hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của khách hàng, chinhánh Ngân hàng đầu tư Hà Thành đã đề ra nhiều biện pháp như có chính sách ưu đãi về lãi suất đối với các khách hàng có số dư tiền gửi lớn, thường xuyên. Bên cạnh việc giữ quan hệ tốt với khách hàng cũ, chi nhánh còn tăng cường công tác Marketing tìm kiếm khách hàng mới, hàng năm mở hội nghị khách hàng, thực hiện kế hoạch tiếp xúc trực tiếp khách hàng nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của khách hàng từ đó có các biện pháp tháo bỏ khó khăn.
Những mặt tồn tại.
Bên cạnh những kết quả đạt được còn có những tồn tại sau:
Tuy lượng vốn huy động tăng nhưng chủ yếu là do điều chỉnh tăng lãi suất huy động, tăng nguồn vốn bằng việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu với lãi suất coa hơn lãi suất huy động tiết kiệm, cho nên chi phí huy động của chi nhánh vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Nền vốn của chi nhánh về cơ bản là không ổn định trong cơ cấu loại tiền, cơ cấu kỳ hạn huy động và sử dụng vốn chưa hợp lý. Việc dư thừa lượng vốn trung dài hạn quá nhiều so với lượng huy động chứng tỏ việc sử dụng vốn vẫn chưa mang lại hiệu quả.
Một số hình thức huy động đưa ra nhưng không mang lại hiệu quả, ví dụ như tiết kiệm tích luỹ là một thất bại trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng.
Nguyên nhân.
Nguyên nhân khách quan.
Môi trường kinh tế xã hội: những biến động phức tạp không lường trước được của nền kinh tế gây ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng: giá vàng tăng cao, tyư giá đồng đôla Mỹ ở trong nước tăng cao…đã ảnh hưởng đến tâm lí của người dân, lượng tiền của dân cư dùng để đầu tư bất động sản, tích trữ vàng, ngoại tệ.
Mạng lưới Ngân hàng trên địa bàn Hà nội hết sức đông đảo, do đó cạnh tranh huy động vốn giữa các Ngân hàng diễn ra rất gay gắt. Các tổ chức tín dụng đặc biệt là các Ngân hàng thương mại Nhà nước liên tục tung ra các chiến dịch lãi suất huy động hấp dẫn, và có xu hướng ngày càng tăng lên. Ngoài ra còn có các kênh huy động vốn khác ngoài Ngân hàng như các công ty bảo hiểm, tiết kiệm bưu điện, trí phiếu kho bạc, đầu tư chứng khoán…cũng ảnh hưởng đáng kể đến vốn huy động của Ngân hàng.
Diễn biến lãi suất huy động, lãi suất cho vay trên thị trường biến động liên tục và không thuận lợi cho Ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước cắt giảm lãi suất cơ bản, Cục dữ trữ Liên bang Mỹ liên tục hạ lãi suất của đồng đôla Mỹ, ảnh hưởng tới chính sách lãi suất huy động của Ngân hàng.
Nguyên nhân từ phía Ngân hàng.
Mạng lưới huy động đã được mở rộng nhưng còn mỏng so với Ngân hàng bạn, các quận mới thành lập và các khu công nghiệp còn chưa có điểm huy động vốn, chưa có địa điểm trung tâm để thu hút khách hàng.
Các hình thức huy động còn ít, chưa thật sự đa dạng để cho khách hàng lựa chọn.
Ngân hàng cần thực hiệ chính sách lãi suất linh hoạt và đúng đắn hơn. Trong thời gian qua, chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách lãi suất của mình, song cũng chỉ dừng lại ở mức tương đối. Trên cơ sở tham khảo lãi suất của các Ngân hàng trên địa bàn là chính, Ngân hàng đưa ra lãi suất mà không dựa trên phân tích lãi suất đầu vào, đầu ra một cách có hiệu quả. Nếu Ngân hàng xây dựng đựoc một hệ thống có thể phân tích đầu vào, đầu ra nhanh chóng, kịp thời để từ đó đưa ra các quyết định về lãi suất một cách chính xác, đúng đắn thì Ngân hàng vừa đảm bảo thu hút được nhiều vốn đồng thời đảm bảo lợi nhuận cho Ngân hàng.
Dịch vụ Ngân hàng chưa phong phú, đa dạng, chưa có sản phẩm đặc biệt để tạo nên sự riêng biệt, cạnh tranh với các Ngân hàng khác.
Việc nắm bắt thông tin về khách hàng và bạn hàng còn ít, chưa nắm bắt kịp thời nên xử lí còn lúng túng dẫn đến mất thời cơ hoặc ảnh hưởng đến lợi ích trong kinh doanh.
Cán bộ của chi nhánh đa số là cán bộ trẻ, có trình độ song còn thiếu kinh nghiệm, khả năng phân tích, tổng hợp còn hạn chế.
Tuy đã nhận thức rõ được chiến lược khách hàng nhưng việc đầu tư vật chất, trí tuệ cho công tác tiếp xúc khách hàng, nghiên cứu thị trường còn chưa thoả đáng.
Chính sách giá cả chưa thật sự mềm dẻo để có thể đồng thời cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng bằng cả lãi suất và chất lượng dịch vụ.
Điều kiện cơ sở vật chất còn gặp nhiều khó khăn do toàn bộ trụ sở phải đi thuê, nhiều địa điểm huy động còn chật chội ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý cán bộ cũng như chất lượng, hiệu quả công việc.
Qua việc phân tích, đánh giá thực trạng nguồn vốn và hiệu quả huy động vốn của NHĐT-PT Hà Thành, vấn đề đặt ra là phải là phải tăng cường huy động vốn, sử dụng vốn để đáp ứng nhu cầu ngày càng mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh doanh, từng bước thực hiện kế hoạch phát triển bền vững và hội nhập mà Ngân hàng đầu tư phát triển Việt nam đã đê ra.
Chương 3
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động của NHĐT Hà Thành
3.1. Định hướng phát triển của NHĐT-PT Hà Thành trong những năm tới.
3.1.1. Định hướng phát triển của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam.
Là Ngân hàng hoạt động kinh doanh đa năng và tổng hợp nhưng chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam đã xác định được vai trò và vị trí chủ đạo của một Ngân hàng quốc doanh trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Định hướng hoạt động luôn gắn liền với chính sách phát triển kinh tế xã hội, chủ yếu là chính sách đầu tư phát triển của đất nước.
Thực hiện chương trình cơ cấu lại thep chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam đã đề ra mục tiêu phát triển của toàn hệ thống năm 2001 tới năm 2005 là: ‘Cơ cấu lại gắn liền với phát triển bền vững, giữ vững nhịp độ tăng truởng cao, hiệu quả, an toàn hệ thống và truyền thống phục vụ đầu tư phát triển, đổi mới đa dạng sản phẩm và dịch vụ với cơ cấu hợp lí, chất lượng tốt, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và của toàn hệ thống theo đòi hỏi của cơ chế thị trường quá trình hội nhập quốc tế, phát triển bền vững với NHĐT-PT Việt nam làm nòng cốt cho việc xây dựng và phát triển tập đoàn tài chính đa năng vững mạnh, hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phát triển kinh tế- xã hội theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước’.
Một số công tác nhiệm vụ trọng tâm như sau:
Thứ nhất, về nguồn vốn: tiếp tục cải tiến cơ cấu nguồn vốn theo nguyên tắc vốn khả dụng không dư thừa, bất cập về kỳ hạn. Đảm bảo cho nguồn vốn hoạt động kinh doanh ổn định , hợp lý về thời hạn, loại tiền đáp ứng yêu cầu cân đối và sử dụng nguồn vốn, đảm bảo các tỷ lệ giới hạn an toàn vốn, khả năng thanh toán, tăng tỷ trọng vốn trung dài hạn. Xác định chỉ tiêu huy động vốn là chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh không bao cấp về nguồn vốn trừ một số địa bàn khó khăn.
Thứ hai, về hoạt động tín dụng: xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế phân cấp uỷ quyền tín dụng, rà soát chất lượng tín dụng, đảm bảo 100% các khoản vay phải có tài sản đảm bảo, tích cực khuyến khích đối tượng khách hàng có nhu cầu vay băng ngoại tệ, bảo đảm cân đối, tận dụng nguồn ngoại tệ đang dư thừa.
Thứ ba, về loại hình dịch vụ: mở rộng các loại hình dịch vụ và tăng dần tỷ trọng lên, phát triển dịch vụ thẻ với nhiều loại hình phong phú, chú trọng công tác thanh toán quốc tế và bảo lãnh.
Thứ tư, phát triển mạng lưới: triển khai các công ty liên doanh để tạo mạng lưới rộng khắp, thu hút đông đảo khách hàng phục vụ có hiệu quả.
3.1.2. Mục tiêu của chi nhánh đầu tư Hà Thành trong thời gian tới.
Xuất phát từ điều kiện kinh tế- xã hội trên địa bàn, từ xu hướng phát triển của nghành Ngân hàng Hà nội và thực hiện chỉ đạo nhất quán của Ngân hàng đầu tư và phát triển trung ương, NHĐT-PT Hà Thành quán triệt thực hiện chiến lược phát triển của toàn hệ thống với nỗ lực quyết tâm cao nhất để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh, cụ thể như sau:
Tăng tỷ trọng vốn huy động/ tổng nguồn vốn: 90%
Tỷ trọng vốn trung dài hạn/ tổng nguồn vốn: 55%
Dư nợ trung dài hạn/ tổng dư nợ: 60%
Lợi nhuận ròng trên tông tài sản có ROA đạt 0,6%
Tỷ trọng dịch vụ trong hoạt động Ngân hàng thu dịch vụ đạt 50% tổng thu nhập.
Phát huy thế mạnh truyền thống của NHĐT-PT Việt nam, cũng như giữ vững, nâng cao uy tín, chất lượng phục vụ trong các hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác huy động vốn nói riêng thì:
Công tác huy động vốn trước hết phải từ giác độ kinh doanh vốn của Ngân hàng để định hướng chiến lược, vạch kế hoạch, biện pháp và chỉ đạo điều hành. Phải xuất phát từ chiến lược kinh doanh là gốc và bám sát chiến lược về vốn của NHĐT-PT Việt nam và của toàn nghành Ngân hàng.
Đẩy mạnh công tác huy động vốn thông qua việc đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng hiện đại nhằm đạt kế hoạch tăng trưởng nguồn vốn đã định.
Phát triển tín dụng bền vững và hiệu quả, nâng cao công tác quản lý tín dụng bằng các biện pháp như áp dụng hệ thống cho điểm tín dụng, phân loại khách hàng nhằm tạo cơ sở quản lý rủi ro tín dụng thống nhất đối với khách hàng trên toàn hệ thống, thường xuyên đánh giá rủi ro theo lĩnh vực đầu tư và điều chỉnh hạn mức tín dụng cho hợp lý.
Cấu trúc lại mô hình tổ chức và ứng dụng các mô hình quản lý, quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế. Xây dựng chi tiết chương trình hành động và triển khai tích cực các mo đun dự án hỗ trợ kỹ thuật để nhanh chóng có một mô hình tổ chức tiên tiến phục vụ cho mục tiêu hoạt động kinh doanh hiệu quả an toàn và tăng trưởng vững chắc.
Củng cố tăng cường mở rộng quan hệ với khách hàng truyền thống, khách hàng mới bao gồm các đối tượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài…
Đồng thời Ngân hàng xác định hướng phát triển trong thời gian tới như sau:
Tạo ra nguồn tiền gửi huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế trở thành nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, giảm bớt sự phụ thuộc vào các nguồn vốn hay biến động.
Tiếp tục hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, đặc trưng của Ngân hàng là nâng cao uy tín đối với khách hàng, góp phần tạo nguồn vốn ổn định với quy mô, cơ cấu phù hợp với yêu cầu phát triển.
Đa dạng hoá hình thức huy động vốn nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và tổ chức. Coi trọng khai thác triệt để các nguồn vốn dưới mọi hình thức theo nhiều kênh khác nhau.
Thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động theo hướng phát triển nguồn huy động có kỳ hạn dài nhằm giảm tỷ lệ dùng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn.
Đảm bảo cơ cấu loại tiền VND và ngoại tệ một cách hợp lý, kịp thời theo xu hướng biến động của thị trường, phù hợp với tình hình hoạt động cảu chi nhánh.
Gắn chiến lược tạo nguồn vốn với chiến lược sử dụng vốn trong một thể thống nhất, đồng bộ, nhịp nhàng, phát huy cao nhất hiệu quả sử dụng vốn.
Để đạt được kết quả đó, chi nhánh đầu tư Hà Thành cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn ở Ngân hàng.
3.2.1. Đa dạng hoá hình thức hoạt động và nâng cao chất lượng các dịch vụ Ngân hàng.
Trong hoạt động Ngân hàng hiện nay, các Ngân hàngcạnh tranh với nhau chủ yếu bằng các hệ thống dịch vụ Ngân hàng. Chiến lựơc này bao gồm việc đa dạng hoá, áp dụng chọn lọc các hoạt động mà Ngân hàng khác cả trong và ngoài nước đã áp dụng, từ đó cải tiến để tạo ra sự khác biệt đối với những dịch vụ mới theo một quy trình chính thức. Dịch vụ đa dạng, thuận tiện sẽ tác động trực tiếp tới qui mô và chất lượng nguồn tiền gửi giao dịch của khách hàng, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn nhằm phục vụ cho các mục đích thường xuyên của họ. Hơn nữa, dịch vụ đa dạng cũng tác dụng kích thích thu hút thêm được nhiều nguồn vốn có kỳ hạn.
Để hấp dẫn người gửi tiền và giảm bớt khối lượng giấy tờ cần thiết phải xử lí thì Ngân hàng phải thực hiện hiện đại hoá, vi tính hoá quy trình thực hiện công việc. Trước đây, nhiều người có tiền không muốn gửi vào Ngân hàng vì họ cho rằng thủ tục gửi tiền và rút tiền rất phiền hà. Do vậy đã hạn chế rất nhiều đến công tác huy động vốn. Muốn nâng cao hiệu quả công tác huy dộng vốn thì Ngân hàng phải cải tiến quy trình nghiệp vụ, giảm bớt thủ tục giấy tờ, tăng năng suất phục vụ khách hàng, tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng.
Trình độ công nghệ Ngân hàng càng cao, khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng về những dịch vụ đựơc cung ứng và yên tâm hơn khi gửi vào Ngân hàng. Đây cũng là yếu tố quan trọng giúp Ngân hàng thực hiện cạnh tranh phi lãi suất vì khách hàng không chỉ quan tâm đến lãi suất mà còn cả chất lượng dịch vụ mà họ đớc cung ứng nhất đối với các khách hàng lớn. Với cùng một mức lãi suất huy động như nhau, Ngân hàng nào cung ứng dịch vụ tốt hơn sẽ chiếm ưu thế hơn trong cạnh tranh. Các dịch vụ Ngân hàng là yếu tốquan trọng nói lên tiện ích của Ngân hàng. Hiện nay, ở nươc ta hệ thống Ngân hàng ngoài việc thu hút tiền gửi tiết kiệm của dân cư thông qua việc cạnh tranh lãi suất và thực hiện những dịch vụ chủ yếu đối với các doanh nghiệp, hiện đang còn một mảng rất lớn các tiện ích Ngân hàng dành cho cá nhân đang bị bỏ ngỏ.
Do vậy, để hoạt động dịch vụ sớm trở thành công cụ cạnh tranh trong thu hút khách hàng, tăng nguồn vốn huy động đồng thời làm tăng thu nhập cho Ngân hàng thì ngoài các dịch vụ đang áp dụng, Ngân hàng cần tiến hành thêm các dịch vụ khách như đầu tư, tư vấn tài chính, tư vấn pháp luật. Mở rộng hoạt động quản lý tài chính, chi trả thu nhập, trả lương cho các doanh nghiệp lớn, phát triển các dịch vụ kiều hối và dịch vụ khác nhằm thu hút ngoại tệ cho hoạt động kinh doanh phù hợp với chính sách quản lý ngoại hối và tăng dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng.
Đa dạng hoá hình thức huy động vốn, cần áp dụng nhiều hình thức huy động vốn mới như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu để huy động vốn trung dài hạn, phát hành chứng chỉ tiền gửi. Về tiền gửi tiết kiệm thì áp dụng nhiều loại hình tiết kiệm trả lãi, nhận và trả tại nhà.
Ngân hàng cần tham gia tích cực hơn nữa vào các hoạt động của thi trường chứng khoán, đây là một kênh thu hút nguồn vốn trung và dài hạn rất quan trọng. Với khả năng của mình, Ngân hàng có thể tham gia vào các hoạt động của thị trường như phát hành, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian môi giới thực hiện mua bán chứng khoán. Ngoài ra, Ngân hàng có thể cho vay bằng cách cầm cố chứng khoán, thực hiện bảo quản chứng khoán và quản lý chứng koán, thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng, tiện lợi, an toàn.
Trong thời gian qua, chi nhánh Ngân hàng đầu tư Hà Thành đã áp dụng khá nhiều hình thức huy động vốn. Đối với tiền gửi tiết kiệm đã có nhiều kỳ hạn cho khách hàng lựa chọn: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 7 tháng, 9 tháng, 11 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng, 60 tháng. Và với nhiều hình thức huy động khác nhau để tăng tính hấp dẫn và thuận tiện cho khách hàng. Đặc biệt với hình thức tiết kiệm dự thưởng đã mang lại hiệu quả cao trong công tác huy động vốn.
Ngân hàng cũng quan tâm hơn đến việc huy động tiền gửi qua tài khoản thanh toán, điều này cũng có nghĩa là khuyến khích dân cư làm quen với việc mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng. Thực tế cho thấy nếu thực hiện tốt công tác này sẽ tạo nguồn vốn lớn cho Ngân hàng với chi phí huy động rẻ nhất. Để làm được điều này trong điều kiện hiện nay cần quy định các tổ chức hành chính sự nghiệp kể cả Kho bạc Nhà nước mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng tạo điều kiện cho Ngân hàng sử dụng khối tiền mặt tạm thời nhàn rỗi cảu các đơn vị này vào quá trình tài trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự tách bạch về thanh toán và mở tài khoản của hệ thống các cơ quan thuộc Nhà nước và thanh toán qua Kho bạc đã làm cho nền kinh tế đã thiếu vốn lại càng thiếu vốn hơn trong lúc đó tiền tạm thời nhàn rỗi trong hệ thống Ngân sách lại không đựơc tận dụng, tất nhiên trong trường hợp Kho bạc là thành viên của thị trường liên Ngân hàng thì số tiền tạm thời nhàn rỗi đó vẫn đựơc tận dụng đem lại hiệu quả cao.
Hiện nay còn có nhiều doanh nghiệp có nguồn tiền lớn như bưu điện, điện lực, cấp nước…nên cần tổ chức qua hệ thống Ngân hàng và thực hiện chuyển khoản, không cần đế cơ quan thu tiền của tổ chức nói trên hay phải trả ở nhà qua người thu tiền. Đơn vị thụ hưởng cũng tiết kiệm chi phí khi không phải qua từng hộ gia đình, từng cơ quan…còn các Ngân hàng quản lý tài khoản của các đơn vị và các nhân nói trên để sử dụng số tiền gửi của họ để tăng cường nguồn vốn huy động của mình.
3.2.2. Thực hiện chính sách lãi suất mềm dẻo và tiết kiệm chi phí huy động.
Lãi xuất là công cụ quan trọng để Ngân hàng huy động vốn hiện có trong các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng khác, đồng thời Ngân hàng có thể sử dụng để điều chỉnh cơ cầu tiền gửi có kỳ hạn do mục đích chủ yếu của khách hàng là có lãi. Chính sách lãi suất hợp lý phải vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều vốn trong xã hội, đồng thời vừa kích thích xác đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Kinh nghiệm thành công trong lĩnh vực huy động vốn bằng các công cụ lãi suất cho thấy: chính sách lãi suất chỉ phát huy được hiệu lực của nó đối với việc huy động vốn trong điều kiện tiền tệ ổn định , giá cả ít biến độn thất thường.
Lãi suất hiện nay còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Do đó, Ngân hàng cần xây dựng và thực hiện chính sách lãi suất trên cơ sở chính sách khách hàng và tính toán lãi suất có hiệu quả, đồng thời phải đảm bảo tính linh hoạt, uyển chuyển, đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, người vay tiền nhưng trên nguyên tắc người kinh loanh có lãi, vận hành chính sách trong khuôn khổ chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất cũng phải tuân theo quy luật về cung cầu vốn trên thị trường, trong đó lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, thể hiện huy động vốn phải được thực hiện trên cơ sở sử dụng vốn. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, Ngân hàng nên điều chỉnh khung lãi suất phù hợp, đảm bảo tính cạnh tranh.
Căn cứ lãi suất điều chuỷên nội bộ của trung ương, mặt bằng lãi suất trên địa bàn , lãi suất bình quân đầu vào, đầu ra, tình hình vốn tại Ngân hàng để quyết định lãi suất huy động. Xác định lãi suất bình quân đầu vào, đầu ra, Ngân hàng cần thường xuyên theo dõi tình hình lãi suất thị trường, dự đoán xu hướng biến động đưa ra lãi suất hợp lý, linh hoạt.
Lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn trong việc kích thích khách hàng gửi tiền, cho nên ngoài yếu tố niềm tin vào Ngân hàng, nếu mức lãi suất huy động hợp lý sẽ thu hút được những khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào Ngân hàng, làm tăng khối lượng nguồn vốn huy động vào Ngân hàng. Hiện nay, vấn đề lãi suất đang là vấn khó khăn đối với tất cả các NHTM. Một mặt, nhằm thu hút khác hàng mặt khác nhằm đảm bảo lợi ích của mình. Do đó việc tính toán lãi suất phải đảm bảo:
Lãi suất huy động tương đối với các khoản tiền gửi, đảm bảo quyền lợi của khách hàng.
Lãi suất huy động phải dựa vào lãi suất đầu ra, bù đắp chi phí của Ngân hàng đảm bảo kinh doanh có lãi
Phản ánh được mức lãi suất thị trường, tạo được sức hút khách hàng.
Với các kỳ hạn càng dài thì lãi suất huy động càng lớn, bởi với thời hạn dài thì khách hàng sẽ gặp nhiều rủi ro.
Khung lãi suất Nhà nước
Lợi nhuận bình quân doanh nghiệp.
áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt kết hợp nghiên cứu nhu cầu khách hàng nhằm đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng để nâng cao khả năng canhhj tranh của Ngân hàng. Thường xuyên theo dõi tình hình lãi suất trên thị trường, dự báo xu hướng biến động, thực hiện tính toán lãi suất bình quân đầu ra, đầu vào để đề ra mức lãi suất vừa có tính cạnh tranh vừa hấp dẫn nhưng vẫn đảm bảo được lợi ích của Ngân hàng.
Về lãi suất gửi tiền tiết kiệm giữa nội tệ và ngoại tệ còn chênh lệch nhau. Do đó cần kéo dần lãi suất đồng Việt nam và ngoại tệ trong điều kiện có tính đến chỉ số lạm phát của hai loại tiền này. Lãi suất và tỷ giácòn nhiều diễn bién phức rạp, Ngân hàng cần cập nhật lãi suất, tỷ giá trên thị trường để chủ động diều hành linh hoạt, an toàn, hiệu quả trong kinh doanh.
Trong huy động vốn, mỗi Ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được nguồn vốn sao cho chi phí huy động thấp nhất và sử dụng vốn đó để cho vay với lãi suất chấp nhận trên thị trường. Chi phí về lãi suất huy động được đánh giá bởi mức lãi suất huy động bình quân, tính bằng bình quân gia quyền của các nguồn vốn huy động. Chi phí đó phải có khả năng bù đắp bằng nguồn thu của Ngân hàng, chủ yếu là lãi cho vay. Bên cạnh chi phí là lãi suất, trong quá trình huy động vốn Ngân hàng còn phải chịu chi phí khác như chi phí tiền lương nhân viên, chi phí in ấn giấy tờ nghiệp vụ, chi phí cơ sở vậtt chất, chi phí giao dịch…Chi phí này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng chi phí nhưng nếu tiết kiệm được cũng giảm bớt gánh nặng cho Ngân hàng.
Đối với chi nhánh Hà Thành, cần thực hiện thêm các biện pháp như sau:
Nâng cao lãi suất đối với tiền gửi trung dài hạn, đồng thời giảm lãi suất tiền gửi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn ngắn để đảm bảo lãi suất trung bình vẫn không bị tăng lên đối với toàn bộ nguồn vốn huy động
Có các biện pháp khuyến khích khách hàng duy trì số dư trên tài khoản với thời hạn dài hơn thời hạn gửi ban đầu. Đó là, nếu hết kỳ hạn gửi đầu tiên mà kháng hàng vẫn chưa có nhu cầu sử dụng khoản tiền đó và tiếp tục gửi tại Ngân hàng, thì thời gian gửi tiếp theo đó Ngân hàng nên thưởng cho khách hàng một tỷ lệ phần trăm nào đó.
3.2.3. Giải pháp về Marketing.
Tăng cường công tác tiếp thị khách hàng và có chính sách khách hàng đúng đắn.
Để có hình ảnh tốt đối với khách hàng, trước tiên Ngân hàng phải được khách hàng biết đến. Một trong những công tác cần thực hiện hiện nay là công tác quảng cáo và tiếp thị. Thông qua đó khách hàng có thể thấy được và so sánh những lợi ích khi giao dịch với khách hàng và lựa chọn cho mình những dịch vụ có lợi nhất. Ngoài hình thức quảng cáo truyền thống và duy nhất như hiện nay, cần phải xây dựng kế hoạch thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng, qua đài truyền thanh phường, panô, áp phích, tờ rơi…
Quảng cáo là phương thức truyền thông không trực tiếp nhằm giới thiệu sản phẩm dịch vụ Ngân hàng hoặc thông qua các phương tiện truyền tin. Quảng cáo của Ngân hàng là hoạt động mang tính chiến lược, là đầu tư dài hạn để duy trì lợi thế cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường. Quảng cáo đựoc sử dụng khá phổ biến trong hoạt động của các tổ chức tài chính Ngân hàng. Tuyên truyền trong xã hộitheo một cách hiểu truyền thống chỉ là gửi đi những thông tin của một Ngân hàng qua các ấn phẩm.
Tuyên truyền hoạt động Ngân hàng trong xã hội.
Ngày nay tuyên truyền trở nên phong phú, đa dạng hơn để xây dựng và nâng cao hình ảnh không chỉ cho Ngân hàng mà còn cho cả dịch vụ mà nó cung ứng, việc sử dụng nhiều công cụ như sau: Báo cáo kết quả thường niên, các bài diễn thuyết của lãnh đạo Ngân hàng, tổ chức hội thảo theo chuyên đề, tham gia các hoạt động từ thiện, bài viết đăng trên các tạp chí, các ấn phẩm khác.
Mục đích của tuyên truyền xã hội nhằm tạo dựng và duy trì sự hiểu biết rộng rãi trong xã hội về Ngân hàng, đặc biệt với các đối tượng sẽ giao dịch với Ngân hàng. Khách hàng ở đây khá phong phú, bao gồm cả nhân viên Ngân hàng mới, các trung gian, các cơ quan chuyên trách của Chính phủ và dân cư. Để phát huy hiệu quả của tuyên truyền xã hội thì các Ngân hàng cần phải xây dựng một chương trình cụ thể và tổ chức thực hiện nghiêm túc và đều đặn. Tuyên truyền hoạt động của Ngân hàng trong xã hội không chỉ liên quan đến khách hàng mà còn liên quan nhiều đến xã hội. Chính vì vậy mà các Ngân hàng thường tập trung tuyên truyền cho hình ảnh một Ngân hàng.
Có thể nói hình ảnh của một Ngân hàng là tất cả những gì khách hàng cảm nhận đựoc về trình độ danh tiếng, số lượng chất lượng dịch vụ cung ứng, kỹ thuật công nghệ, lịch sử văn hoá kinh doanh.
Hoạt động khuyến mãi.
Là việc sử dụng nhóm các công cụ nhằm tác động trực tiếp và tích cực vào việc sử dụng định hướng cho việc lựa chọn Ngân hàng của khách hàng, nó có tác dụng tăng doanh số hoạt động và tạo lợi thế cạnh của Ngân hàng. Khuyến mãi có tác dụng khuyến khích khách hàng hiện tại sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ hơn và thu hút khách hàng mới. Hoạt động khuyến mãi thường tiến hành song song với các chiến dịch quảng cáo để phát huy hiệu quả tổng hợp của chúng. Các hoạt động khuyến mãi này được áp dụng nhiều ưu đãi tín dụng, quà tặng, giảm hoặc miễn phí lần đầu quan hệ hoặc lâu dài. Đây là công cụ cạnh tranh mạnh mẽ nhằm mở rộng thị phần.
Marketing trực tiếp:
Marketing trực tiếp đựơc hiểu là việc sử dụng một hệ thống các biện pháp nhằm thiết lập và mở rộng việc đối thoại trực tiếp giữa Ngân hàng và khách hàng.
Các phương thức của Marketting trực tiếp bao gồm:
Gửi thư và tờ rơi tới từng khách hàng
Gửi lời giưói thiệu về Ngân hàng và sản phẩm của Ngân hàng đến từng khách hàng.
Giải pháp trên truyền hình, truyền thanh.
Điện thoại
Hội nghị khách hàng.
Lợi thế của Marketing trực tiếp so với các phương thức khác đó là gia tăng cơ hội giao tiếp giữa Ngân hàng và khách hàng. Giúp khách hàng nhận được thông tin về Ngân hàng nhanh chóng, đầy đủ, cụ thể, kịp thời. Còn Ngân hàng có cơ hội cung ứng và dịch vụ mới, duy trì khách hàng hiện tại, giảm chi phí quảng caó, tăng hiệu quả thị trường mục tiêu, ghát huy được tính linh hoạt trong quan hệ giao tiếp trực tiếp giữa khách hàng và nhân viên Ngân hàng.
e. Duy trì và đổi mới, nâng cao phong cách phục vụ khách hàng.
Đặc biệt là đối với doanh nghiệp có nguồn thu tiền mặt lớn, nhằm giữ khách hàng cũ đồng thời thu hút thêm khách hàng mới. Nhanh chóng đổi mới phong cách giao dịch, coi “khách hàng là thượng đế”, cải tiến giấy tờ trong giao dịch, rút tiền gửi tiền đơn giản, lịch sự hấp dẫn khách hàng.
Thực hiện mặc đồng phục và tấc phong nghiêm túc trong làm việc đối với tất cả các nhân viên. Đảm bảo an toàn tài sản của khách hàng cũng như cần thiết trong thời gian hiện nay. Khách hàng gửi tiền ngoài yêu cầu về lãi còn về mục đích thuận tiện trong giao dịch .
3.2.4. Mở rộng mạng lưới kinh doanh.
Để từng bước thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường một cách nhanh chóng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, một trong nghững biện pháp hàng đầu cần thực hiện trong huy động vốn kà mở rộng mạng lưới huy động vốn đi sâu đi sát vào từng khu vực dân cư, đưa ra những giải pháp tối ưu nhằm tập trung tối đa nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư vào Ngân hàng. Đây là giải pháp trọng tâm và cấp bách…
Đối với chi nhánh trong thời gian tới cần tập trung vào các khu công nghiệp , khu chung cư đã và sẽ hoạt động trong thời gian tới, các trung tâm kinh tê, siêu thị, chợ…để xây dựng các điểm huy động vốn. Tại các điểm dân cư là chủ yếu cần điều chỉnh thời gian giao dịch sao cho hợp lí (giờ giao dịch có thể sớm hơn hoặc muộn hơn) để thuận tiện cho người gửi tiền.
3.2.5. Nhóm giải pháp nâng cao uy tín của Ngân hàng.
Như đã phân tích, một trong nững nguyên nhân của việc người dan chưa muốn gửi tiền vào Ngân hàng là vì họ chưa hoàn toàn tin tưởng vào hệ thống Ngân hàng Việt nam, điều đó đồng nghĩa với việc uy tín của Ngân hàng chưa được cao. Do đó để lấy lại lòng tin đối với nhân dân thì Ngân hàng phải kiên trì phải phân tích tìm ra nguyên nhân và từng bước đề ra các giải phấp cho phù hợp.
Hoàn thiện các tiện ích cho Ngân hàng.
Điều này có nghĩa Ngân hàng phả luôn cải tiến đổi mới công nghệ và quy trình nghiệp vụ hay dịch vụ để đảm bảo lợi ích và sự tiện dụng cho khách hàng.
Giữ chữ tín với khách hàng
Ngân hàng phải đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi đièu kiện, không được phép khất, trì hoãn với khách hàng vì bất cứ lí do gì. Mà phải làm thật nhanh chóng công tác thanh toán, sử dụng máy đếm tiền, máy vi tính…và hình thức hiện đại hiện nay như: máy rút tiền tự động, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, VISA card, master card, sec du lịch…tham gia thanh toán bù trừ liên Ngân hàng bằng cách nối mạng với trung tâm thanh toán bù trừ. Nếu làm được điều này thì khách hàng sẽ ngày càg tin tưởng vào Ngân hàng và tất yếu họ sẽ gửi tiền vào nhiều hơn.
Công khai báo cáo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Khi khách hàng lựa chọn Ngân hàng để gửi tiền họ đều ohải tìm xem Ngân hàng đó hoạt động kinh doanh có lãi hay không? Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có ổn định, an toàn hay không? Lĩnh vực kinh doanh của Ngân hàng có chứa đựng nhiều rủi ro hay không?…Do vậy, Ngân hàng cần phải công bố công khai kết quả hoạt động của mình thông qua báo cáo tài chính, đây có thể coi là một giải pháp không chỉ nâng cao hiệu quả huy động vốn mà còn nâng cao uy tín của Ngân hàng trên thị trường, tuy nhiên do yếu tố cạnh tranh và tính bảo mật trong hoạt động kinh doanh mà có rất ít Ngân hàng thực hiện giải pháp này (thường là thông qua đợt kiểm tra của cơ quan kiểm toán), nhưng đây chính là cơ sở để người gửi tiền tin tưởng vào hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật
Trong điều kiện hoạt động như hiện nay, cơ sở vật chất là một trong những cơ sở khá mạnh để tạo lòng tin cho người gửi tiền. Ngân hàng cần phải xây dựng đựoc trụ sở với quy mô rộng lớn, vị trí thuận tiện, khang trang hiện đại, thời gian phục vụ nhanh chóng kịp thời đáp ứng và thoả mãn nhu cầu của người gửi tiền, tạo sự tin tưởng cho người gửi tiền, củng cố uy tín, tăng khả năng cạnh tranh, tăng hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng
Đổi mới phong cách phục vụ của Ngân hàng
Trong môi trường hoạt động như hiện nay, khi mà sự đa dạng hoá trong hình thức hoạt động vốn hay viêc áp dụng công nghệ Ngân hàng diễn ra từng ngày thì phong cách phục vụ chính là nhân tố tạo nét đặc trưng cho Ngân hàng, thu hút khách hàng đến với Ngân hàng. Phong cách phục vụ, thái độ của nhân viên Ngân hàng chính là cái gương soi hình ảnh của Ngân hàng. Tại sao khách hàng bước vào Ngân hàng lại bỡ ngỡ, ngại ngùng? Đó là do yếu tố tâm lí, vậy để làm sao thay đổi được diều đó, phải nhờ vào thái độ phục vụ của nhân viên Ngân hàng, với một thái độ giao tiếp cởi mơt, hoà nhã, tận tâm, nhiệt tình giải đáp các thắc mắc của khách hàng…thì kết quả không chỉ là thu hút nguồn vốn của khách hàng mà còn tạo được uy tín cho Ngân hàng.
Mở rộng và nâng cao chất lượng phục vụ
Nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất, để thu hút họ tới tham gia giao dịch, gửi tiền. Đồng thời họ cũng đựợc hưởng những tiện ích cho bản thân và gia đình. Ví dụ như: Ngân hàng thực hiện dịch vụ Ngân hàng tai nhà như nhân tiền gửi, cho vay tại nhà, làm việc ngoài giờ..
Nâng cao trình độ cán bộ và đổi mới công tác quản lý trong Ngân hàng.
Bất cứ nhiệm vụ gì cũng phải thực hiện trên cơ sở quy trình của nó và huy động vốn cũng là một nghiệp vụ của Ngân hàng, thực tế tại Ngân hàng có nhiều cán bộ chuyên môn có năng lực quản lý ngày càng được chú trọng. Tuy nhiên để cho việc huy động vốn đạt hiệu quả cao thì Ngân hàng cần chú trọng hơn nữa về cán bộ nhân viên Nhân viên và công tác quản lý trong Ngân hàng.
Cụ thể về nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác huy động vốn:
Phải tiếp tục đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nhàm trang bị đầy đủ kiến thức về nghiệp vụ và công nghệ nhàm thực hiện tốt nhiệm vụ đựơc giao.
Ngoài ra Ngân hàng nên có chính sách khuyến khích các cán bộ của mình tự nâng cao trình độ bằng cách tự học hoặc tự túc nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ có tâm và giỏi nghiệp vụ chuyên môn.
Đối với công tác quản lý điều hành, ngoài việc cải tiến và đầu tư thêm vào các trang thiết bị phục vụ cho công tác huy động vốn thì Ngân hàng nên hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy, sắp xếp hợp lý. Ngân hàng cần lựa chọnvà đào tạo những cán bộ có năng lực và phẩm chất để giao quyền quản lý điều hành. Việc làm này sẽ nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn.
Tóm lại, nhân tố con người luôn là nhân tố quan trọng nhất, giải quyết mọi sự thành công hay thất bại của mọi hoạt động kinh tế. Do vây, để phục vụ cho sự phát triển lâu dài và nâng cao hiệu quả huy động vốn thì đòi hỏi Ngân hàng phải có sự đầu tư hơn nữa cho công tác này về nhiều mặt: nâng cao trình độ chuyen môn, phảm chất đạo đức, thái dộ làm việc, tổ chức lại bộ máy thực hiện…
Cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ.
Để hấp dẫn người gửi tiền vào mà vẫn giảm bớt khối lượng giwys tơ cần xử lí thì Ngân hàng phải thực hiện hiện đại hoá, vi tính hoá làm cho tiện lợi nhất việc xử lý nghiệp vụ như: nghiệp vụ nhận tiền gửi, rút tiền phát sinh. Trước đây, nhiều người có tiền không muốn đưa vào Ngân hàng vì họ cho rằng thủ tục gửi tiền vào và rút tiền ra rất phức tạp. Thêm vào đó là công tác phòng giao dịch đối với khách hàng thiếu mềm mỏng, tận tình. Điều này đã gây ra một tâm lý ngại ngần quan hệ với Ngân hàng màcho đến nay vẫn còn ảnh hưởng ít nhiều trong dân. Do vậy, nghành Ngân hàng nói chung và chi nhánh Hà Thành nói riêng phải không ngừng đổi mới toàn diện hoạt động của mình.
3.3. Kiến nghị.
3.3.1. Đối với Chính phủ.
Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến hoạt động Ngân hàng.
Hiện nay chúng ta đã có luật các Tổ chức tín dụng, với nhiềuquy định mới , nhièu nội dung mới thể hiện tính chất tiến bộ phù hợp với tình hình mới, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của tổ chức tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong luật vẫn còn một số điểm quy định chưa rõ rằng như qiu định về vốn tự có của Ngân hàng, quy định về các nội dung hoạt động huy động vốn. Một số điểm còn gây tranh cãi trong quá trình tựchiện, ví dụ như các quy định về nghiệp vụ chiết khấu của Ngân hàng, trong đó chỉ nhắc tới các giấy tờ có giá ngắn hạn mà không có trái phiếu dài hạn, nhưng cũng không có quy định nào ngăn cấm chiết khấu trái phiếu. Các quy định về chỉ tiêu hoạt động của Ngân hàng bị thay đổi quá nhiều trong một thời gian ngắn, chẳng hạn chỉ riêng trong năm 1999 đã có tới 5 lần hạ lãi suất. Một vài ví dụ nhỏ đó cho thấy những yếu tố còn thiếu chặt chẽ của Luật khác có liên quan, rất cần được Quốc hội tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung cho phù hợp, đảm bảo tính niêm luật, công bằng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước cũng nên đẩy mạnh một bước nghiệp vụ thị trường mở, một công cụ phổ biến để điều hành chính sách tiền tệ mà không cần trực tiếp tác động vào lãi suất, gây ra những biến động vào lãi suất, gây ra nhũng biến động không có lợi về tình hình đầu tư.
Các văn bản Luật và dưới luật cần được ban hành một cách có hệ thống hơn dảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều được luật phấp hoá, tạo nên môi trường ổn định về pháp lý và chế độ chính sách cho các Ngân hàng.
ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
Sự ổn định môi trường vĩ mô là điều kiện tiên quyết cho việc nâng cao hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng. Bởi nếu môi trường kinh tế bất ổn định thì mọi người không muốn đem tiền gửi, do đó Ngân hàng muốn huy động đủ vốn có thời hạn dài thì có thể trả lãi suất cao và một số điều kiện vốn nhằm bảo toàn số tiền của họ. Đối với Việt nam hiện nay, thì những điều kiện quan trọng để tạo nên sự ổn định nền kinh tế vĩ mô là ổn định chính trị, có chính sách phát triển đúng đắn và ổn định tiền tệ. Nó là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện có hiệu quả và những giải pháp nhàm nâng cao hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng.
ổn định tiền tệ: củng cố vững chắc đồng nội tệ, tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, tránh các đột biến làm giảm sức mua của đồng nội tệ, để ổn định tiền tệ thì:
+ Chính phủ cần có chính sách tiền tệ ổn định, đặc biệt phải quan tâm đến chính sách thu hút nguồn vốn thời hạn dài để đầu tư cho các công trình có dự án lớn. Mặt khác, các chính sách về thu hút vốn từ dân phải đựơc thể chế hoá và có tác dụng đi vào cuộc sống thực tiễn
+ Nhà nước phải luôn duy trì, giữ vững ổn định chính trị bởi có sự mất ổn định về chính trị sẽ gây mất ổn định tiền tệ.
Có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn: Chính phủ đưa ra các chính sách về ngoại giao, tiết kiệm, cải tiến bộ máy Ngân hàng theo hướng tăng cường hiệu lực quản lý, giảm bớt hệ thống quản lý tài chính cồng kềnh sao cho phù hợp và gắn liền với thực tiễn. Ngoài ra, đối với chính sách huy động qua Ngân hàng cũng cần phải được Nhà nước khuyến khích nhiều hơn nữa bằng các biện pháp linh hoạt, cụ thể thông qua các qui định lãi suất, chính sách tỷ giá…Tuy nhiên, trong chính sách chóng lại đầu tư lãng phí, tham ô, làm thất thoát tài sản của Nhà nước và cần thực hiện nghiêm chỉnh những qui định trong các chính sách đó.
Thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính tiền tệ trong nước.
Sự phát triển của thị trường tài chính trong nước là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động nhiều năm nay, nhưng vẫn cần có sự quản lý và hỗ trợ từ phía Ngân hàng trung ương để đẩy mạnh quan hệ giữa các Ngân hàng, tăng kả năng linh hoạt trong huy động vốn. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên giúp đỡ các Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế tạo điều kiện hiện đại hoá hệ thống tài chính tiền tệ nước ta.
Trong nền kinh tế thị trường, sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán là một tất yếu khách quan của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán là một công cụ hữu hiệu trong việc huy động vốn và lưu thông các nguồn vốn trong nền kinh tế. Thị trường chứng khoán là một công cụ hữu hiệu trong việc huy động vốn và lưu thông các nguồn vốn trong nền kinh tế. Thông qua thị trường chứng khoán các công cụ đó do Ngân hàng phát hành như kỳ phiếu, trái phiếu…cũng có thể được mua bán rộng rãi, góp phần ổn định khối lượng và đa dạng hoá cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng, đặc biệt là tăng cường khả năng huy động trung dài hạn. Thị trường chứng khoán ở Việt nam ra đời và bắt đầu vào hoạt động từ tháng 7 năm 2000, tuy nhiên hoạt động của thị trường chứng khoấntị Việt nam vẫn chưa phát huy được vai trò như có vốn có, chủ yếu là do số doanh nghiệp đã cổ phần hoá và đăng kí giao dịch còn quá ít, hàng hoá trao đổi trên thị trường chứng koán vì vậy còn chưa phong phú, đa dạng. Hơn nữa công chúng cũng chưa hiểu biết về chứng khoán nên các đối tượng tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán chưa được mở rộng, làm hạn chế khả năng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, trong đó có chứng khoán của Ngân hàng. Vì vậy công tác tuyên truyền, phổ biến vấn đề này trong xã hội là rất quan trọng.
3.3.2. Đối với NHNN Việt nam.
Tiếp tục kiềm chế lạm phát, đẩy lùi nguy cơ lạm phát và ổn định đồng nội tệ
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các nghành quản lý quỹ đầu tư nước ngoài, quỹ viện trợ từ các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ nước ngoài nhằm động viên mọi nguồn vốn nước ngoài chảy qua kênh Ngân hàng thương mại.
Ban hành cơ chế phát hành và sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…nhằm giúp các Ngân hàng thương mại nhanh chóng triển khai các dịch vụ thanh toán thẻ có hiệu quả.
Cho phép các Ngân hàng thương mại được phép thực hiện việc mua bán các loại giấy tờ có giá như: trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu Kho bạc…nhất là giấy tờ có giá dài hạn
Ngân hàng Nhà nước cần có các khoản cho vay ưu đãi hỗ trợ về mặt tài chính cho các Ngân hàng thương mại trong việc đổi mới công nghệ Ngân hàng.
Thực hiện đổi mới công nghệ Ngân hàng, tăng cường công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, chuyển tiền điện tử nhằm cung cấp ngày càng nhiều dịch vụ Ngân hàng đa dạng, phong phú và thuận tiện cho khách hàng.
Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của thị trường tiền tệ để các Ngân hàng thương mại có thị trường phát triển ngiệp vụ đầu tư tiếp ứng vốn khi cần thiết.
3.3.3. Đối với Ngân hàng đầu tư phát triển Việt nam.
Bổ sung thêm máy rút tiền tự động ATM và nâng cấp chương trình ứng dụng tăng thêm các tiện ích mới, cần khẩn trương triển khai áp dụng các sản phẩm dịch vụ khác như thẻ tín dung…đồng thời bổ sung hoàn thiện các hình thưc huy động vốn đã có đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu khách hàng.
Nhanh chóng hoàn thiện và triển khai chương trình quản lý mẫu chữ ký, dấu của khách hàng để áp dụng hình thức gửi tiền một nơi rút tiền nhiều nơi tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
Có kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn trung dài hạncụ thể từng thời kỳ tạo định hướng và mục tiêu phát triển của nghành và của chi nhánh thành viên
Tạo điều kiện cho chi nhánh trong việc ăng cường mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật tại trụ sở cũng như các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, góp phần nâng cao vị thế của Ngân hàng trong tiến trình hôi nhập đủ điều kiện giao dịch với khách văn minh, lịch sự tạo niềm tin và tín nhiệm đối với khách hàng.
Cần có chính sách đào tạo đối với cán bộ quy hoạch như bồi dưỡng kiến thức về quản trị điều hành, quản lý kinh doanh, marketing Ngân hàng…Cho phép chi nhánh Hà Thành cũng như các chi nhánh khác trong hệ thống được tham gia các lớp tập huấn, tham quan, tham quan, học tập các Ngân hàng hiện đại trong và ngoài nước.
Kết luận.
Vốn luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Về mặt lí thuyết, Ngân hàng thương mại có tương đối nhiều các hình thức huy động vốn dáp ứng nhu cầu tín dụng và đầu tư của Ngân hàng. Bên cạnh đó, từ khi đất nuớc đổi mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế được phép tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, và đạt được những kết quả to lớn. Trong thành công đó có sự đóng góp không nhỏ của nguồn vốn cùng với phương châm phát huy nền tảng nỗ nội lực là chính, đồng thời cũng không bỏ qua ngoại lực.
Với vai trò trung gian tài chính, cầu nối dẫn dắt vốn trong nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại đã hoàn thành tốt sứ mạng lịch sử của mình trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, tực hiện việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi để tiến hành cho vay và đầu tư, để đồng vốn thể hiện tốt giá trị của mình.
Là một chi nhánh của Ngân hàng đầu tư Việt nam- một trong số các NHTM quôc doanh, Ngân hàng đầu tư Hà Thành trong thời gian qua không ngừng vươn lên tự khẳng định mình và vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Ngân hàng luôn tiến hành đổi mới và tự hoàn thiện mình để trở thành là một trong nững chi nhánh hoạt động hiệu quả nhất trong hệ thống Ngân hàng đầu tư. Với những kết quả khích lệ trong kinh doanh, duy trì được quỹ thu nhập dương, nâng cao đời sống cán bộ trong Ngân hàng, đặc biệt trong huy động vốn đã đáp ứng nhu cầu kinh doan cho Ngân hàng.
Với thời gian thực tập ngắn, sự hiểu biết và khả năng có hạn nên những vấn đề đưa ra còn thiếu sót, song em hy vọng những giải pháp và đề xuất kiến nghị nêu ra trong đề tài sẽ góp một phần nhỏ trong tổng thể các giải pháp về hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, đặc biệt là cô giáo Nguyến Thị Thu Hà cùng các anh chị cán bộ trong Ngân hàng đầu tư Hà Thành đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách:
Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng- Học viện Ngân hàng- NXB thống kê Hà nội, 2002.
Quản trị Ngân hàng thương mại- Peter S.Rose- NXB Tài chính Hà nội 2004
Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại- David Cox- NXB chính trị quốc gia, 1997
Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính- Frederic Miskin- NXB Khoa học kỹ thuật, 1999
Giáo trình Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng- Học viện Ngân hàng- NXB Thống kê, 2004.
Báo và tạp chí:
1.Thời báo kinh tế
Thời báo Ngân hàng
Thời báo tài chính
Tạp chí Ngân hàng
Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ
Tạp chí tài chính
Các tài liệu khác của Ngân hàng đâu tư phát triển Hà Thành
Báo cáo thường niên các năm 2002, 2003, 2004.
Một số giấy tờ liên quan đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32419.doc