Qua chương này, luận văn đã giải quyết được các vấn đề sau:
Thứ nhất, định hướng phát triển của hoạt động kinh doanh của SGD VBARD nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Thứ hai, trên cơ sở những kết quả đạt được, phân tích những tồn tại, nguyên nhân của hoạt động huy động vốn của SGD thời gian qua đã đề cập ở chương 2, tác giả đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại SGD VBARD trong thời gian tới. Giữa các giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nên khi triển khai thực hiện phải tiến hành đồng bộ mới phát huy được hiệu quả. Với nhận thức tạo vốn của NHTM là hệ quả tổng hợp của nhiều mặt hoạt động, do vậy những giải pháp cần phải được thực hiện ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
Thứ ba, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị cụ thể có thể thực hiện được trong tương lai gần đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như đối với Nhà nước.
74 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn ở Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay ngắn hạn trong tổng dư nợ cho vay theo định hướng đề ra, chưa khai thác được nhiều khách hàng có nhu cầu vốn vay ổn định, rủi ro thấp. Hệ thống thông tin trao đổi hai chiều giữa ngân hàng và khách hàng còn hạn chế. Nhìn chung, SGD vẫn chưa thực hiện tốt chiến lược khách hàng.
b. Nguyên nhân
Những hạn chế trong công tác huy động vốn của SGD những năm qua chủ yếu xuất phát từ những nguyên nhân sau:
* Những nguyên nhân khách quan
- Nguyên nhân thuộc về môi trường vĩ mô
+ Môi trường kinh tế còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định
Tình hình kinh tế thời gian qua tăng trưởng chậm. Những biến động của nền kinh tế đã ảnh hưởng bất lợi đến huy động vốn : sốt giá đất, thị trường bất động sản biến động bất thường tác động đến tâm lý đầu tư của người dân khiến một lượng khá lớn vốn chảy vào thị trường này. Tình hình khan hiếm ngoại tệ diễn ra trong thời gian dài, tỷ giá, giá vàng tăng, tâm lý người đầu tư thay đổi... đã gây áp lực cạnh tranh về lãi suất, về chính sách thu hút trong huy động vốn giữa các ngân hàng.
+ Môi trường pháp lý
Luật doanh nghiệp mới đã kích thích trở lại luồng vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh với kỳ vọng đạt được thu nhập cao hơn thay vì gửi vào ngân hàng để hưởng lãi.
Những chính sách cắt giảm lãi suất cơ bản của NHNN Việt Nam, của Cục dự trữ Liên bang Mỹ đối với đồng USD... dẫn đến lãi suất trên thị trường tiền tệ quốc tế cũng như ở Việt Nam giảm theo dẫn đến rủi ro lớn về lãi suất. Chênh lệch lãi suất cho vay - huy động vốn thu hẹp, giảm năng lực tài chính của các NHTM.
+ Cạnh tranh của các NHTM trên địa bàn về khả năng cung ứng dịch vụ mới, lãi suất huy động và cho vay ngày càng gay gắt đối với hoạt động kinh doanh của SGD. Thêm vào đó, các kênh huy động vốn khác ngoài ngân hàng như các công ty bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm bưu điện, trái phiếu kho bạc, đầu tư chứng khoán... cũng ảnh hưởng đáng kể đến lượng vốn huy động vào ngân hàng.
- Nguyên nhân thuộc về khách hàng
Thu nhập bình quân, tỷ lệ tiết kiệm trong dân chúng còn ở mức thấp. Một số khách hàng chưa thực sự tin vào ngân hàng.
Có một bộ phận không nhỏ trong dân chúng vẫn chưa quen với các hoạt động cũng như sử dụng tiện ích của ngân hàng, tâm lý sợ tiền mất giá... khiến họ vẫn ngần ngại trong việc gửi tiền vào ngân hàng.
* Nguyên nhân chủ quan (nguyên nhân thuộc về ngân hàng)
Mức lãi suất huy động chưa thực sự hợp lý, hấp dẫn người gửi tiền.
Chưa đa dạng các sản phẩm trong kinh doanh vốn ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng.
Trình độ ứng dụng công nghệ còn hạn chế, chưa có các chương trình phần mềm đồng bộ về các nghiệp vụ có tính đặc thù của SGD có khả năng tích hợp giữa các chương trình để khai thác tốt số liệu.
Trình độ cán bộ nhân viên ở một số bộ phận chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Kết luận chương 2
Qua phân tích, đánh giá, tổng hợp về hoạt động của SGD VBARD, và bằng phương pháp chỉ số, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, thống kê phân tích, sử dụng số liệu thống kê thực tế, khoá luận đã đi sâu phân tích, đánh giá tổng hợp thực trạng về huy động vốn của SGD VBARD.
Thứ nhất, phân tích, đánh giá diễn biến cơ cấu nguồn vốn của SGD VBARD cho thấy tính linh hoạt trong cơ cấu nguồn vốn huy động, sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động qua các năm.
Thứ hai, phân tích đánh giá tình hình quản lý và sử dụng vốn của SGD VBARD, mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn, thấy được mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại của hai nghiệp vụ này.
Thứ ba, khoá luận đã phản ánh những nhận xét rút ra trong hoạt động huy động vốn của SGD VBARD. Nêu lên những kết quả đạt được, những tồn tại, nguyên nhân của hoạt động huy động vốn của SGD VBARD và đề ra hướng giải pháp trong thời gian tới.
Chương 3
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động huy động vốn của sở giao dịch VBARD
3.1 Định hướng phát triển của SGD
3.1.1 Nhận định một số tình hình trong nước và quốc tế có tác động đến hoạt động kinh doanh ngân hàng trong những năm tới:
- Năm 2003, Chính phủ sẽ đẩy nhanh tiến trình đổi mới sắp xếp lại các Doanh nghiệp Nhà nước, các Tổng công ty nhà nước đặc biệt là tiến trình cổ phần hoá DNNN.
- Chính phủ cho triển khai phát hành công trái Giáo dục, thành lập Ngân hàng hỗ trợ xuất nhập khẩu. Tiếp tục xử lý nợ xấu, tăng quỹ dự phòng rủi ro và bổ sung vốn điều lệ cho các doanh nghiệp quốc doanh.
- Tình hình cạnh tranh giữa các NHTM, các tổ chức tài chính, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng sẽ ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn. Đặc biệt là ở các địa bàn đô thị loại I như Hà nội, TP. Hồ Chí Minh...
- Tình hình khu vực Vùng vịnh và I- rắc rất phức tạp đã ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế toàn cầu, tỷ giá, lãi suất đồng USD và một số ngoại tệ mạnh biến động thất thường khó lường đoán, giá cả một số mặt hàng chiến lược như xăng dầu, sắt thép, phân bón tăng mạnh...sẽ có nhiều tác động xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu và sản xuất tiêu dùng trong nước.
3.1.2 Nhiệm vụ, kế hoạch kinh doanh những năm tới của SGD
1. Thực hiện tốt các nhiệm vụ do Tổng Giám đốc giao như: Quản trị điều hành mạng SWIFT, làm đầu mối thanh toán quốc tế; Đại diện NHNo & PTNT Việt Nam tham gia kinh doanh trên thị trường mở, thị trường tiền tệ liên ngân hàng trong nước và quốc tế; Thực hiện quản lý vốn, điều hoà vốn nội và ngoại tệ trong hệ thống; Hạch toán các loại vốn, quỹ của NHNo &PTNT Việt Nam và thực hiện tốt các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam giao.
2. Mở rộng hoạt động kinh doanh theo hướng:
- Nguồn vốn huy động tăng trưởng 37,5% so với năm 2002, khai thác được các nguồn vốn lãi suất thấp, tăng tỷ trọng nguồn vốn trung dài hạn vừa đảm bảo tự cân đối cho nhu cầu đầu tư tại SGD vừa có thể cân đối bổ sung cho yêu cầu của toàn hệ thống VBARD .
- Dư nợ cho vay tăng trưởng 47% so với năm 2002 và đảm bảo an toàn hiệu quả, thực hiện cho vay theo các dự án đầu tư, tăng cường tiếp thị thiết lập quan hệ toàn diện với các Tổng công ty nhà nước và đơn vị thành viên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mở rộng cho vay các thành phần kinh tế dân doanh...
- Phát triển kinh doanh đa năng, mở rộng các nghiệp vụ, dịch vụ sản phẩm mới phù hợp với điều kiện thực tế của SGD như: Mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh, hoạt động kinh doanh ngoại tệ; Nghiên cứu áp dụng các nghiệp vụ về quản lý tài sản có; dịch vụ thu chi tiền mặt, chi trả tiền lương cho cán bộ nhân viên các đơn vị, tổ chức; chuẩn bị tốt các điều kiện để triển khai ngay khi VBARD cho phép thực hiện các dịch vụ thanh toán thẻ tín dụng, thẻ thanh toán điện tử, séc du lịch... ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu đa dạng, phong phú của mọi đối tượng khách hàng, tăng dần tỷ trọng nguồn thu dịch vụ trong cơ cấu thu nhập tài chính.
3.1.3 Các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2003
- Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2003: 4050 tỷ đồng, bằng số thông báo kiểm tra chỉ tiêu nguồn vốn huy động năm 2003. Trong đó:
+ Nguồn vốn huy động tại SGD: 3758 tỷ đồng, tăng 1071 tỷ đồng (tăng 40%) so với 31/12/2002. Trong đó:
Nguồn vốn nội tệ 2238 tỷ đồng, tăng 612 tỷ đồng (tăng 37,6%) so với năm 2002.
Nguồn vốn ngoại tệ: 98,7 triệu USD (tương đương 1520 tỷ đồng), tăng 26,4 triệu USD (tăng 36,5%) so với năm 2002.
Nguồn vốn năm 2003 dự kiến tập trung:
*Tiền gửi VND: tập trung tăng cường huy động vốn nhàn rỗi (cả không kỳ hạn và có kỳ hạn) của các tổ chức tài chính, phi tài chính, dự kiến tăng 159 tỷ đồng; tiền gửi của các tổ chức kinh tế dự kiến tăng 50 tỷ đồng; tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi dân cư dự kiến tăng 403 tỷ đồng.
* Tiền gửi USD: tập trung tăng cường huy động vốn tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi dân cư dự kiến tăng trưởng 15 triệu USD; tiền gửi của các dự án dự kiến tăng trưởng 2,4 triệu USD. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng trưởng 10 triệu USD, tăng lớn hơn các năm trước do SGD đang thu hút thêm khách hàng xuất khẩu và dự kiến không phải kết hối các nguồn thu ngoại tệ.
* Nguồn vốn kỳ phiếu huy động hộ VBARD: 240 tỷ đồng, giảm 230 tỷ đồng so với 31/12/2002.
Nguồn vốn kỳ phiếu huy động hộ VBARD giảm 230 tỷ đồng là do nguồn kỳ phiếu 12 tháng Công ty chứng khoán làm đại lý huy động đến hạn thanh toán, phải trả cho tổ chức mua kỳ phiếu, chưa có kế hoạch tiếp tục gửi tiền.
- Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2003: 1330 tỷ đồng, tăng 470 tỷ đồng (tăng 54,6%) so với năm 2002.
- Tỷ lệ nợ quá hạn: dưới 1% so với tổng dư nợ cho vay.
- Tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn: chiếm 77% so với tổng dư nợ cho vay.
- Thu dịch vụ đạt tỷ lệ 20% so với tổng thu nhập.
- Chênh lệch thu nhập - chi phí tăng 23% so với năm 2002
- Cơ cấu kế hoạch một số chỉ tiêu:
+ Tổng dư nợ cho vay chiếm tỷ trọng 36,4% so với tổng nguồn vốn huy động.
+ Dư nợ trung, dài hạn chiếm 77% so với tổng dư nợ cho vay.
+ Dư nợ trung, dài hạn chiếm 44,7% so với nguồn vốn trung, dài hạn.
Thuyết minh một số chỉ tiêu tăng trưởng:
- Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay (54%) tuy tăng nhanh hơn chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng nguồn vốn (3,75%) nhưng số tăng tuyệt đối dư nợ cho vay nhỏ hơn số tăng tuyệt đối nguồn vốn huy động và tổng dư nợ cho vay vẫn còn thấp hơn so với tổng nguồn vốn huy động.
- Chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn cao hơn so với mặt bằng chung nhưng do tính chất đặc thù của SGD và khả năng tự cân đối về nguồn vốn để cho vay.
- Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2003: 3650 tỷ đồng, tăng 970 tỷ đồng (tăng 37,5%) so với 31/12/2002.
3.2 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn của SGD
Huy động vốn bao giờ cũng là một trong những nhiệm vụ chính của NHTM, nó quyết định khối lượng tín dụng đầu tư. Có thể nói hiện nay các NHTM ở nước ta hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng việc huy động vốn (đi vay) để đầu tư (cho vay). Vì vậy, chỉ có huy động vốn được nhiều mới có điều kiện mở rộng đầu tư và trên cơ sở đó mới có doanh thu và lợi nhuận.
Đối với Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam cũng vậy, huy động vốn luôn là nhiệm vụ hàng đầu đặt ra trong mọi lúc, mọi nơi. cầu tín dụng. Để có vốn cho vay, SGD VBARD phải có giải pháp để khơi tăng nguồn vốn, khơi dậy mọi tiềm lực về vốn, đánh thức mọi tiềm năng về vốn còn trôi nổi ngoài ngân hàng.
3.2.1 Thiết lập hệ thống quản lý và điều hành vốn đồng bộ
Đây là giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất. Để tiến hành quản lý và điều hành vốn tốt trong hoạt động kinh doanh, SGD cần phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
- Quản lý và điều hành vốn phải tuân thủ các mục tiêu đã được xác định.
- Quản lý và điều hành vốn phải trên cơ sở xây dựng chính sách huy động vốn và sử dụng vốn.
- Quản lý và điều hành vốn phải trên cơ sở bảng cân đối vốn.
- Quản lý và điều hành vốn phải tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ tiêu giới hạn an toàn vốn.
Để tạo nguồn và quản lý nguồn vốn có hiệu quả hơn, SGD nên đổi mới công tác quản lý nguồn vốn theo hướng:
Thành lập ban quản lý tài sản nợ - tài sản có: với việc phân tích các danh mục trong Bảng tổng kết tài sản, sẽ đánh giá chính xác được tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng, là cơ sở quan trọng cho việc quản lý và điều hành vốn của ngân hàng.
Hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý: Để quản trị điều hành nguồn vốn có hiệu quả, phù hợp với sử dụng vốn đồng thời đảm bảo khả năng thanh toán, SGD cần tiếp tục hiện đại hoá thông tin theo hướng có khả năng cung cấp và phân tích thông tin về nguồn vốn và sử dụng vốn chính xác, kịp thời và phù hợp với mục đích quản lý.
3.2.2 Đa dạng hoá các nguồn vốn và dịch vụ liên quan đến huy động vốn
Việc mở rộng đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng không thể coi là vấn đề ngắn hạn, nhất thời, vì nó trước hết là mục tiêu phát triển xã hội lâu dài, hơn nữa nghiệp vụ ngân hàng, nhất là những dịch vụ hiện đại đòi hỏi lượng đầu tư ban đầu rất lớn. Vì vậy, SGD cần phải dựa vào lợi thế và khả năng của mình để hoạch định chiến lược phát triển nghiệp vụ một cách phù hợp, chính xác. Trên cơ sở đó, xác định hướng đầu tư, mức đầu tư và lựa chọn công nghệ cho hợp lý.
SGD nên tiến hành đa dạng hoá nghiệp vụ và đầu tư dần từng bước theo phương châm: khai thác triệt để ưu thế cạnh tranh của mình so với các NHTM khác trên địa bàn. Đảm bảo cung cấp các tiện ích tốt nhất, tiện lợi, an toàn, nhanh chóng và chính xác nhằm thu hút khách hàng quan hệ thanh toán với ngân hàng, gửi tiền vào ngân hàng.Trước hết là hoàn thiện phát triển các nghiệp vụ, dịch vụ hiện có, đồng thời triển khai thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ mà xã hội, nền kinh tế đang cần và ngân hàng mình có điều kiện thực hiện ngay. Tiếp đến là mở ra những nghiệp vụ, dịch vụ mới mang tính định hướng thị trường, sau khi đã đầu tư đổi mới, cải tiến kỹ thuật công nghệ.
Một số biện pháp trong ngắn hạn có thể áp dụng hay mở rộng bao gồm:
áp dụng các hình thức tiền gửi mới như đưa ra các hình thức tiết kiệm mới: ngoài các hình thức tiết kiệm SGD đang áp dụng như tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm bằng VND bảo đảm giá trị theo giá vàng, tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, có thể áp dụng các hình thức huy động vốn mới như tiết kiệm học đường, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm có thưởng, gửi tiết kiệm để “làm quà” cho con cái tương lai... Đây là hình thức huy động vốn mới, cần phổ biến tuyên truyền sâu rộng trong dân chúng nhằm thích ứng với từng lứa tuổi, tâm lý, người gửi tiền để thu hút mọi khả năng, tiềm lực vốn trong dân, từ đó sẽ làm tăng tỷ trọng nguồn vốn huy động trong dân cư - nguồn vốn rẻ và có tính ổn định cao.
Cung cấp tối đa các tiện ích nhằm thoả mãn cao nhất sự mong đợi của người gửi tiền như: mở rộng màng lưới giao dịch, đa dạng hoá các sản phẩm nguồn vốn (như tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu có thời hạn từ 1 tháng đến 60 tháng), các hình thức trả lãi (trả lãi trước, trả lãi theo năm, trả lãi sau...).
Hoạt động tư vấn cho khách hàng, theo đó SGD cung cấp cho khách hàng những thông tin về thị trường trong và ngoài nước, lập dự án, phân tích dự án, tư vấn pháp lý, tư vấn tài chính v.v.. cho khách hàng. Tính khả thi của hoạt động này rất cao nhờ SGD có lượng thông tin lớn, khả năng thu thập thông tin tốt, quan hệ rộng và đội ngũ cán bộ am hiểu nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tài chính, pháp lý và thị trường.
Nghiên cứu mở rộng các dịch vụ, tiện ích ngân hàng mới như mở rộng và thực hiện tốt công tác thanh toán, dịch vụ rút tiền tự động ATM, dịch vụ ngân quỹ, triển khai nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ để thu hút tài khoản cá nhân, tranh thủ các nguồn vốn thanh toán vãng lai.
Mở rộng hoạt động quản lý tài chính, chi trả thu nhập cho các doanh nghiệp lớn. Hoạt động này tạo ra một lượng tài khoản và tiền gửi khá lớn từ các công ty này và cán bộ của họ.
Nhằm tạo ra tâm lý về khả năng chuyển hoá thành tiền của các khoản tiền gửi có kỳ hạn hay các giấy nợ cho khách hàng, SGD cần sớm áp dụng các dịch vụ như chiết khấu, cho phép chuyển nhượng các giấy nợ (hiện nay là chứng chỉ tiền gửi), cho phép rút tiền gửi trước kỳ hạn với tỷ lệ chiết khấu hợp lý hay hưởng lãi suất của kỳ hạn trước đó v.v.. Những dịch vụ này sẽ kích thích khách hàng gửi tiền có kỳ hạn và khách hàng an tâm khi gửi tiền kỳ dài hơn.
Về mặt trung dài hạn, SGD cần phát triển các hình thức tiết kiệm, kỳ phiếu trung dài hạn.
Qua phân tích thực trạng về huy động vốn tại SGD cho thấy, tỷ trọng nguồn vốn huy động trung, dài hạn còn thấp so với dư nợ trung, dài hạn. Vì vậy, SGD cần tăng cường khai thác nguồn vốn trung dài hạn để mở rộng đầu tư trung, dài hạn thông qua phát hành tiết kiệm, kỳ phiếu thời hạn 2 năm, 3 năm đến 5 năm mà chủ yếu là thời hạn 2 năm và 3 năm. SGD VBARD cần phải thông báo rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng cho dân biết về quyền lợi được bảo hiểm tiền gửi của mình khi gửi tiền để người dân an tâm khi gửi tiền với thời hạn dài. Đồng thời, cần sử dụng đòn bẩy lãi suất huy động (lãi suất kỳ hạn dài hơn phải lớn hơn). Với các hình thức trả lãi (trả lãi trước, sau, trả lãi bậc thang) để thu hút người dân gửi tiền. Nên phát hành trong một thời gian tương đối ngắn sau khi đã thông báo và yết thị tại các quỹ tiết kiệm. Có thể gia hạn thêm nếu huy động chưa đủ số lượng vốn cần huy động.
SGD cần sớm thiết lập một bộ phận chuyên trách về nghiên cứu và phát triển sản phẩm - dịch vụ mới và cải tiến sản phẩm, dịch vụ sẵn có. SGD phải thường xuyên đổi mới sản phẩm và chuyển dịch nhanh chóng theo kịp hoặc đi trước thị hiếu của khách hàng hoặc nói cách khác là đi trước đối thủ cạnh tranh. Sản phẩm của ngân hàng phải hội tụ các điều kiện:
_ Nhanh chóng và sẵn sàng.
_ An toàn và tiện lợi.
_ Tính kinh tế.
Chúng ta đều biết rằng các sản phẩm và dịch vụ mới của một ngân hàng sẽ nhanh chóng bị các ngân hàng khác bắt chước nhưng một ngân hàng cũng không thể phát triển nếu nó không thường xuyên tạo ra những khác biệt tích cực. Để thành công trong “đấu trường” này, ngoài việc nắm bắt nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp sẽ chỉ chiến thắng được đối thủ của mình khi chính họ là người đặt bước chân đầu tiên vào một thị trường mới và họ cũng là người đầu tiên biết được các cải cách mới của Chính phủ liên quan đến các sản phẩm của họ.
Cơ hội để phát triển và ứng dụng các dịch vụ mới của các ngân hàng tại Việt nam nói chung và SGD VBARD nói riêng sẽ là rất lớn trong thời gian tới nhờ việc nới rộng phạm vi hoạt động cho các NHTM và sự ra đời và hoàn thiện của các thị trường như thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái v.v.. Xu hướng chứng khoán hoá các công cụ nợ là tất yếu và các giao dịch kỳ hạn, quyền chọn... sẽ nhanh chóng trở nên phổ biến. Do vậy, SGD VBARD cần nhanh chóng nghiên cứu và chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết cho việc ứng dụng các sản phẩm mới, từ đó đa dạng hoá danh mục sản phẩm dịch vụ cung cấp ra thị trường.
Chủ động và tham mưu kịp thời với Trụ sở chính trong các nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu kho bạc, hoạt động trên thị trường mở, thị trường liên ngân hàng để đa dạng hoá các sản phẩm, nghiệp vụ kinh doanh tài sản có, duy trì cơ cấu đầu tư vào tín phiếu, trái phiếu, đầu tư vốn trên thị trường, dự trữ ngoại tệ hợp lý để vừa đảm bảo cho yêu cầu thanh toán vừa kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
3.2.3 Phát triển nguồn vốn vững chắc từ thị trường bán lẻ
Để có một nguồn vốn lớn và ổn định, SGD cần chú trọng hơn đến việc huy động các khoản tiền gửi có quy mô nhỏ và trung bình ngoài việc tìm kiếm các khách hàng gửi tiền lớn. Đối tượng khách hàng của SGD kinh doanh đa năng, không chỉ là những doanh nghiệp Nhà nước và dân doanh; mà phải mở rộng đến mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Từng đối tượng khách hàng có những yêu cầu mang tính đặc thù riêng; do vậy, SGD phải cấu trúc theo hướng hình thành một hệ thống phân phối dịch vụ bán lẻ, vừa đảm bảo khả năng cung ứng dịch vụ một cách tiện lợi cho từng đối tượng, vừa đảm bảo khả năng quản lý một cách thông suốt.
* Mạng lưới hoạt động kinh doanh
Tạo một mạng lưới kinh doanh rộng khắp ở các khu vực thương mại - dịch vụ - khu công nghiệp... vì trước hết đây chính là một trong những phương pháp hữu hiệu tăng khả năng huy động cũng như thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Việc mở rộng mạng lưới một cách phù hợp sẽ giúp ngân hàng thực hiện tốt chức năng tạo tiền và đầu tư vốn, cũng như giúp nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Hiện nay, VBARD là NHTM duy nhất có mạng lưới trên toàn quốc. Mở rộng mạng lưới xuống tận cấp huyện, vùng sâu, vùng xa là chiến lược phát triển lâu dài của Ban lãnh đạo VBARD đã tạo ra một ưu thế cạnh tranh của VBARD với các NHTM khác. ở đâu có dân cư là ở đó có VBARD, nó đảm bảo kênh chuyển vốn và phục vụ mọi đối tượng khách hàng. Khách hàng có thể gửi một nơi và lĩnh nhiều nơi. Là một đơn vị thành viên của VBARD, SGD phải tiến hành mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh để có thể thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư phục vụ cho các hoạt động về vốn của ngân hàng.
Trong năm 2003, SGD tiếp tục mở thêm 2 phòng giao dịch để tăng cường huy động vốn và cho vay đối với khu vực dân cư và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3.2.4 Chính sách giá cả cạnh tranh và linh hoạt trong huy động vốn
Trong cạnh tranh giữa các ngân hàng thì yếu tố giá cả (lãi suất), chất lượng sản phẩm, hệ thống phân phối sản phẩm (mạng lưới hoạt động) và chính sách quảng bá sản phẩm đều rất quan trọng để thu hút khách hàng. Trong đó, yếu tố lãi suất có thể nói là quan trọng hàng đầu, nhất là đối với khách hàng chưa có quan hệ với ngân hàng. Lãi suất là một trong những vấn đề có tính chất “trực tiếp” nhạy cảm nhất.
Kinh nghiệm của các nước thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế, mà trước hết là huy động vốn bằng công cụ lãi suất, đã cho thấy: Chính sách lãi suất chỉ phát huy được hiệu lực của nó trong việc huy động vốn với điều kiện tiền tệ ổn định, giá cả ít biến động hay nói cách khác là lạm phát ở mức vừa phải và không biến động thất thường.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế là vấn đề mà Ngân hàng và người gửi tiền cùng quan tâm. Quan hệ giữa người gửi tiền và ngân hàng thực chất là quan hệ giữa bên bán và bên mua, hai bên cùng thực hiện mục đích kinh doanh tiền tệ. Do đó, lãi suất tiền gửi phải được căn cứ vào cung - cầu trên thị trường để xác định một cách thoả đáng phù hợp với chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất thấp hơn chỉ số trượt giá thì không huy động được vốn. Ngược lại, nếu nâng lãi suất lên rất cao để thu hút thay vì cải tiến để nâng cao chất lượng phục vụ, thiết lập sự tín nhiệm của khách hàng trên nhiều mặt, hoàn toàn không phải là biện pháp tốt, một giải pháp tối ưu trong công tác huy động vốn. Khi đến với ngân hàng, những khách hàng có thể đưa lại chất lượng tín dụng cao nhất là những khách hàng quan tâm đến lãi suất nhiều nhất. Do đó, SGD VBARD cần thiết phải sử dụng chính sách lãi suất hợp lý, mềm dẻo, hấp dẫn để vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội, vừa kích thích các đơn vị tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và đảm bảo Sở giao dịch kinh doanh có lãi. Đặc biệt, đối với tiền gửi dân cư:
- Tiếp tục bám sát diễn biến lãi suất trên thị trường để điều chỉnh kịp thời đảm bảo khả năng cạnh tranh và có lợi cho kinh doanh. Tuỳ điều kiện cụ thể, SGD nên điều chỉnh khung lãi suất phù hợp cho có tính cạnh tranh và linh hoạt. Xét về giá cả, trong khi lãi suất là nhân tố khá quan trọng đối với quy mô và cơ cấu tiền gửi có kỳ hạn thì giá cả các dịch vụ có liên quan lại quan trọng hơn nhiều đối với tiền gửi thanh toán. Lãi suất trả cho tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thấp và ít có sự khác biệt giữa các ngân hàng nhưng tỷ lệ phí dịch vụ lại rất khác nhau. Để tăng loại tiền gửi này thì một số dịch vụ SGD có thể không thu phí, SGD có thể phải bù lỗ cho một số dịch vụ nhất là các dịch vụ mới để thu được lợi ích tổng thể. Chính sách này còn bao gồm việc thực hiện ưu đãi về giá đối với khách hàng có giao dịch thường xuyên, khách hàng có số dư tiền gửi lớn, ổn định. Bên cạnh đó, SGD có thể áp dụng một số hình thức khác như tặng quà nhân dịp những ngày lễ tết hay những ngày có ý nghĩa cho những khách hàng lớn, có quan hệ thường xuyên...
SGD VBARD không thực hiện được mục tiêu chênh lệch lãi suất mà VBARD đã đề ra vì môi trường cạnh tranh quyết liệt mà phải chấp nhận lãi suất bình quân trên địa bàn, song để thu hút khách hàng SGD sẽ thực hiện áp dụng linh hoạt lãi suất cả huy động vốn và cho vay tuỳ theo đối tượng khách hàng gửi vốn cũng như vay vốn.
3.2.5 Tạo lòng tin với khách hàng và hoàn thiện chính sách khách hàng
Uy tín Ngân hàng = an toàn + bảo toàn + thuận tiện + đơn giản
Trong nền kinh tế thị trường, người dân bình thường được tự do lựa chọn cho mình cách giữ gìn tài sản, hay nói cách khác là hình thức tiết kiệm tốt nhất theo ba tiêu chí sau đây:
- Tài sản, của cải phải có độ an toàn cao nhất, số tiền tiết kiệm cần được giữ bí mật cho người gửi tiền.
- Tài sản phải có tính linh hoạt cao, để chuyển đổi từ hình thức này sang hình thức khác tuỳ theo nhu cầu.
- Tài sản phải sinh lời theo thời gian.
Do đó, muốn hấp dẫn dân chúng gửi tiền vào ngân hàng thì chính ngân hàng phải thoả mãn nhu cầu của dân chúng. Nói cách khác, để khuyến khích người dân mua sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng tức là gửi tiền vào Ngân hàng thì Ngân hàng phải có đủ uy tín giống như uy tín cho bất kỳ mác sản phẩm hàng hoá dịch vụ nào khác. Thực tế cho thấy người dân sẵn sàng lựa chọn giải pháp gửi tiền vào Ngân hàng nếu Ngân hàng thực sự có uy tín. Hơn nữa, hiện nay trên địa bàn Hà nội, mức độ cạnh tranh giữa các NHTM, Quỹ tín dụng nhân dân, Tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm nhân thọ v.v.. trong việc thu hút vốn là rất gay gắt. Chính vì vậy, SGD cần nỗ lực cao để nâng cao vị thế của đơn vị cũng như của toàn hệ thống VBARD trong nước và quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh thực sự, kể cả năng lực hoạt động kinh doanh, tài chính, năng lực cán bộ và ứng dụng công nghệ mới, thích ứng với những vấn đề đổi mới cấp bách của Nhà nước về đổi mới củng cố, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
Trong cơ chế thị trường việc lãi, lỗ trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là điều đương nhiên. Nếu Ngân hàng hoạt động tốt, kinh doanh có lãi sẽ thu hút nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng và ngược lại. Vì vậy, phải có thông báo cho khách hàng rõ SGD VBARD có tham gia bảo hiểm tiền gửi và thông báo cho khách hàng được biết về quyền lợi của khách hàng được bảo hiểm tiền gửi, để khách hàng yên tâm gửi tiền vào Ngân hàng. SGD cũng cần thực hiện nghiêm túc Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. nhà nước theo Nghị định của Chính phủ.
Ngoài việc ổn định kinh doanh, SGD cần tiếp tục quản lý chặt chẽ khả năng thanh toán. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thông tin tiếp thị, thực hiện tốt công tác thanh toán, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, cung cấp tiện ích cho khách hàng để thu hút các doanh nghiệp có quan hệ toàn diện về tín dụng,thanh toán và ngoại tệ với SGD.
Mặc dù cần giảm thấp chi phí nhưng SGD vẫn nên duy trì kinh phí đáng kể cho các hoạt động quảng cáo thiết thực. Ngày nay, việc mở rộng hoạt động của Ngân hàng thông qua việc khuyếch trương hoạt động quảng cáo tuyên truyền là một việc rất cần thiết. Với phương châm “mọi khách hàng là bạn đồng hành của Ngân hàng”, “Chúng tôi chính là sự phát triển của các bạn”, SGD phải làm sao cho mọi người biết đến hoạt động của mình, cho người dân thấy được lợi ích khi giao dịch với Ngân hàng.
Quảng cáo mang tính chất khoa học bằng tuyên truyền quảng cáo cộng với sự uy tín của SGD sẽ làm tăng niềm tin nơi khách hàng, và như vậy sẽ ngày càng có nhiều người biết đến và biết rõ về SGD.
Ngoài việc quảng cáo những thông tin và hoạt động chung của SGD qua báo chí, áp phíc như trước đây, SGD nên áp dụng một số loại quảng cáo có chi phí không cao nhưng khá hiệu quả như phát hành lịch biếu, dán biểu tượng tại các khách hàng mà ngân hàng giao dịch. Bên cạnh đó, SGD có thể sử dụng nhiều hơn nữa những phóng sự trên ti vi hay báo chí để quảng cáo cụ thể hơn hoạt động và dịch vụ của Sở giao dịch. Tuy nhiên, chi phí cho các phóng sự này thường cao nên SGD cần lựa chọn thời điểm thích hợp.
SGD còn có thể khuyếch trương thanh thế của mình thông qua việc tham gia các hội chợ, triển lãm, các câu lạc bộ (như CLB Doanh nghiệp, CLB Giám đốc, CLB các nhà đầu tư nước ngoài...) để làm quen khách hàng và giới thiệu các dịch vụ. Trong một số trường hợp, SGD cũng nên xem xét việc tài trợ cho các chương trình thể thao - văn hoá, hoạt động đào tạo và phát hành sách - tạp chí kinh tế. Chi phí cho những hoạt động này thường rất tốn kém nên SGD cũng phải thường xuyên đánh giá hoạt động của nó.
Đi cùng với hình thức quảng cáo đó là khuyến mại hậu mãi nhằm thu hút nguồn vốn vào Ngân hàng. Các hình thức khuyến mại, hậu mãi đa dạng sẽ tạo ra sự thích thú cho khách hàng. Khách hàng không những chỉ được hưởng mức lãi suất mà còn được hưởng những dịch vụ do khuyến mại đem lại như là: Trả lời câu hỏi có thưởng, hình thức xổ số theo số tài khoản, lãi suất ưu đãi đối với khách hàng giao dịch thường xuyên... Đây cũng là những người quảng cáo, tuyên truyền hữu hiệu và tốt nhất bởi họ hiểu rõ về SGD.
Trên cơ sở củng cố, nâng cao uy tín đối với khách hàng, SGD cần thực hiện chiến lược khách hàng hợp lý, đúng đắn. Có thể nói, một nhân tố quan trọng chắc chắn tạo ra lợi thế cạnh tranh trong điều kiện ít có sự khác biệt về sản phẩm và dịch vụ hiện nay là chất lượng dịch vụ khách hàng. Chất lượng dịch vụ khách hàng trở thành con đường dẫn tới thành công lâu dài dựa trên việc duy trì quan hệ dài hạn với các khách hàng đã có và thu hút các khách hàng mới thông qua việc giới thiệu của khách hàng đã có. Trong thời gian qua, việc thực hiện chính sách khách hàng tại SGD còn nhiều hạn chế: chưa chủ động trong việc tiếp thị, khai thác tìm kiếm khách hàng, còn thiếu các biện pháp để tổ chức thực hiện các mục tiêu chiến lược khách hàng. Vì vậy, trong thời gian tới SGD cần thực hiện tốt chính sách dịch vụ khách hàng. Cụ thể:
SGD tăng cường hoạt động chăm sóc khách hàng truyền thống và mở rộng số lượng khách hàng vay vốn bằng những biện pháp cụ thể: chủ động tiếp cận các Tổng công ty là đơn vị thành viên hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, hiệu quả như Tổng công ty XNK xây dựng công trình giao thông I, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Hàng không Việt Nam v.v.. để thiết lập quan hệ tín dụng. Điều tra nắm bắt thị trường khách hàng, bám sát các đơn vị đang có quan hệ tín dụng để chủ động nắm bắt nhu cầu vốn, đầu tư cho vay đảm bảo an toàn, hiệu quả, hướng mở rộng quan hệ với các khách hàng lớn, có uy tín.
Lưu ý đến mảng chăm lo khách hàng đến giao dịch từ nước uống, lịch sự tại quầy giao dịch đến việc trông nom giữ gìn phương tiện đi lại của khách. Khuyến khích bằng lợi ích vật chất như duy trì thường xuyên việc tặng quà, thực hiện các dịch vụ khuyến mãi đối với khách hàng có số dư tiền gửi lớn, cho phép thấu chi trên tài khoản tiền gửi cá nhân đối với một số khách hàng... Điều chỉnh thời gian giao dịch phù hợp ,thực hiện tốt khẩu hiệu “Khách hàng là thượng đế” của ngân hàng.
3.2.6 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng đi đôi với công tác đào tạo và đào lại cán bộ
a. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Khi mặt bằng lãi suất tương đối như nhau hoặc khi chính ngân hàng không thể dùng “lãi suất” để cạnh tranh thì việc sử dụng công nghệ tin học ngân hàng tiên tiến là một bí quyết thành công của một ngân hàng. Bí quyết này sẽ giúp ngân hàng tiết kiệm thời gian, chi phí, phục vụ kịp thời các yêu cầu của khách hàng. Vì vậy, đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới, hoàn thiện kỹ thuật công nghệ ngân hàng, phục vụ mục tiêu tự động hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng là yêu cầu cấp bách đặt ra cho mỗi ngân hàng. Kỹ thuật công nghệ ngân hàng sẽ hỗ trợ đắc lực cho các NHTM trong việc nâng cao chất lượng các nghiệp vụ, dịch vụ kinh doanh từ đó tạo ra sức cạnh tranh cao trong nền kinh tế thị trường, đồng thời kỹ thuật công nghệ hiện đại còn tạo điều kiện cho các ngân hàng thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ.
Trong những năm tới, SGD VBARD cần tiếp tục tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện làm việc và máy vi tính phù hợp với quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng:
- Xây dựng chương trình phần mềm giao dịch đồng bộ đáp ứng yêu cầu quá trình điều hành, quá trình nghiệp vụ đặc thù của SGD đảm bảo việc lưu trữ và cung cấp thông tin đầy đủ, nhanh chóng và khoa học. Trình trụ sở chính để hoàn thiện chương trình nối mạng thanh toán điện tử với Kho bạc Nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển và tiếp tục cho triển khai nối mạng thanh toán điện tử với Bảo hiểm tiền gửi, Tổng công ty Hàng hải Việt nam và các khách hàng lớn.
- Chuẩn bị đủ điều kiện để áp dụng ngay chương trình hiện đại hoá ngân hàng của World Bank khi VBARD cho phép triển khai. Tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp về công nghệ thông tin năm 2002 - 2005 đã xây dựng, giảm tối đa lao động thủ công trong các mặt nghiệp vụ chuyên môn và điều hành.
b. Đào tạo và đào tạo lại cán bộ
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của toàn ngân hàng nói chung và hoạt động huy động và quản lý nguồn vốn nói riêng.
Đào tạo và đào tạo lại cán bộ là nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn mới đòi hỏi công tác đào tạo phải được đầu tư thích đáng, được coi là nhiệm vụ hàng đầu.
Năm 2003 và những năm tiếp theo, SGD phấn đấu đưa khối lượng đào tạo từ 15 - 20% so với năm 2002 đồng thời với công tác đào tạo phải tăng cường đến mức tối đa về công nghệ trên cơ sở trang bị và ứng dụng công nghệ hiện đại có hiệu quả. Đây là hai mặt công việc có tính quyết định đến sự phát triển của SGD nói riêng, toàn VBARD nói chung.
Các biện pháp cụ thể:
- Tiếp tục triển khai thực hiện tốt đề án 2002 - 2005 đã xây dựng.
Về công nghệ và nghiệp vụ ngân hàng
+ Trên cơ sở kết quả thi nghiệp vụ năm 2002, phân loại và tiêu chuẩn hoá cán bộ để tiếp tục đào tạo theo hướng làm nghiệp vụ nào phải giỏi nghiệp vụ đó. Năm 2003 tiếp tục thi tới lãnh đạo các phòng nghiệp vụ để có kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
+ Tranh thủ các lớp đào tạo do Trung tâm đào tạo VBARD tổ chức để cử cán bộ tham gia, đặc biệt là những nghiệp vụ về phân tích doanh nghiệp, thẩm định dự án, kế toán, giao dịch một cửa, dự án hiện đại hoá ngân hàng... SGD tập trung vào việc đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ, nhân viên cả ở trong nước và nước ngoài về các nghiệp vụ, dịch vụ NHTM tiên tiến như: kinh doanh ngoại tệ đầu cơ, nghiệp vụ kinh doanh tài sản có, nghệ thuật tiếp thị, quảng cáo, văn minh giao tiếp, tiếp tục mở hai lớp tiếng Anh nâng cao...
+ Lựa chọn các chuyên đề nghiệp vụ quan trọng để đào tạo chuyên sâu cho cán bộ các nghiệp vụ đặc biệt là các kiến thức về công nghệ cao trong lĩnh vực tín dụng, thanh toán, nghiệp vụ ngân hàng quốc tế để chuẩn bị điều kiện hội nhập khu vực. Chọn lựa các cán bộ giỏi nghiệp vụ, quy hoạch cử ra nước ngoài, tiếp cận với công nghệ hiện đại đào tạo thành chuyên gia đầu ngành.
+ Đẩy mạnh các phong trào thi đua tạo thành động lực tổng hợp, đồng đều trong toàn hệ thống. Tiếp tục phát động và duy trì thường xuyên các phong trào “Thi đua hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch”, phong trào thi đua “Xây dựng đơn vị ngân hàng trong sạch vững mạnh”, phong trào “Thi đua hai giỏi”, phong trào thi đua “Kinh doanh có hiệu quả” và thi đua lập thành tích kỷ niệm 15 năm thành lập VBARD. Đưa các phong trào thi đua trở thành động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh doanh, hoàn thành các nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch được giao.
Về lý luận Marketing
+ Việc trang bị kiến thức Marketing tạo điều kiện cho mỗi thành viên trở thành một mắt xích trong việc thu thập thông tin, xử lý thông tin từ đó đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng.
+ Quán triệt đến mỗi cán bộ tín dụng, kế toán, kho quỹ... ngoài nhiệm vụ tác nghiệp chính còn có trách nhiệm như một cán bộ huy động vốn. Thực hiện việc giao chỉ tiêu kế hoạch huy động vốn đến từng phòng nghiệp vụ chức năng, nắm bắt nhu cầu khách hàng để tiếp thị, thu hút khách hàng gửi tiền.
Về kỹ năng giao tiếp
+ Các kỹ năng này có vai trò ngày càng quan trọng trong các ngành dịch vụ. Để thu hút khách hàng gửi tiền thì tác phong, thái độ phục vụ của mỗi nhân viên SGD phải thường xuyên được chăm lo. Nhân viên của SGD ngoài việc giỏi nghiệp vụ, còn là người bạn của dân, gợi ý cho họ, giúp đỡ, tư vấn góp ý kiến cho họ trong việc đưa tiền vào ngân hàng.
+ Thực hiện văn minh giao tiếp “Văn minh - lịch sự - ân cần - hoà nhã” trong quan hệ giao dịch với khách hàng để làm sao khi gặp bất cứ một nhân viên nào từ nhân viên bảo vệ đến hành chính hoặc các bộ nghiệp vụ, khách hàng đều nhận được sự phục vụ tốt nhất, với những thông tin đầy đủ nhất, từ đó tranh thủ được thiện cảm của khách hàng, tạo nên sự gắn bó giữa khách hàng và SGD VBARD.
Về môi trường kinh tế và pháp luật
Có hiểu biết đầy đủ môi trường kinh tế và luật pháp, các cán bộ nhân viên SGD mới có thể tư vấn tốt nhất cho khách hàng.
3.2.7 Xử lý tốt mối quan hệ giữa nguồn vốn và sử dụng vốn
Tính cân xứng giữa nguồn vốn - sử dụng vốn tại SGD trong những năm qua vẫn còn chưa hợp lý. Chính vì vậy, trong năm 2003 và những năm tiếp theo SGD cần làm tốt mối quan hệ nguồn vốn và sử dụng vốn. Huy động vốn phải gắn chặt với yêu cầu sử dụng có hiệu quả nguồn vốn. Việc sử dụng vốn là cơ sở để ngân hàng thực hiện mở rộng huy động vốn, hơn nữa tính hiệu quả của nguồn vốn không chỉ ở bản thân của việc huy động vốn mà còn phụ thuộc vào quá trình sử dụng vốn. Về mặt kinh tế, sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đảm bảo cho ngân hàng có khả năng trang trải những nguồn vốn đã huy động, đảm bảo kinh doanh có lãi, tạo uy tín cho ngân hàng đồng thời tạo ra cơ sở để ngân hàng áp dụng các biện pháp kinh tế trong công tác huy động vốn sau này. Mặt khác, sử dụng vốn có hiệu quả thúc đẩy sự phát triển trong quan hệ giữa ngân hàng - khách hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng trong thu hút vốn.
Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chính là một cách tạo vốn và phát triển vốn vững chắc nhất. Do vậy, cùng với chiến lược huy động vốn cần có chiến lược sử dụng vốn đúng đắn cho thời gian trước mắt và lâu dài một cách có hiệu quả.
Nâng cao chất lượng các hoạt động huy động vốn - thanh toán - cho vay. Mối quan hệ hữu cơ của ba hoạt động này có tác động tích cực qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Hiệu quả của hoạt động này sẽ là cơ sở để phát triển hoạt động khác và ngược lại. Chính lẽ đó, giải pháp có tính chiến lược, ổn định và bền vững là phát triển các hoạt động dịch vụ này theo hướng nâng cao chất lượng, đẩy mạnh hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin - tin học trong hoạt động dịch vụ thanh toán, dịch vụ huy động vốn, làm cơ sở để mở rộng và tăng trưởng tín dụng có hiệu quả.
Ngoài ra, SGD cần thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ có để tạo điều kiện phát triển nghiệp vụ nợ: tiếp tục mở rộng đầu tư tín dụng tới mọi thành phần kinh tế, đẩy mạnh cho vay nhằm hướng hoạt động ngân hàng thành ngân hàng đa năng và phân tán rủi ro trong quá trình hoạt động, đồng thời tạo động lực thúc đẩy huy động vốn dưới nhiều hình thức.
Những định hướng, các chính sách và giải pháp trên đây cần thực hiện một cách đồng bộ do chúng có quan hệ mật thiết với nhau, hoà trộn và đan xen vào nhau. Việc thực hiện một giải pháp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp khác. Tuy nhiên, việc SGD phát triển nhanh hay chậm và các giải pháp trên đây có phát huy hết tác dụng hay không còn phụ thuộc rất lớn vào các chính sách và việc tạo điều kiện của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước.
3.3 Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại SGD
3.3.1 Đối với Chính phủ và Nhà nước
Nhà nước giữ vai trò rất quan trọng trong việc tạo sự trong sáng của môi trường xã hội nhằm “khai thông” nguồn vốn chảy vào Ngân hàng.
Thứ nhất, Nhà nước phải nhanh chóng chuyển sang một thể chế Nhà nước pháp quyền - duy trì sự quản lý vĩ mô theo hiến pháp và pháp luật, tránh can thiệp vào nền kinh tế bằng những quyết định mang tính võ đoán gây nên những khó khăn, những xáo trộn hoặc những “trói buộc” không cần thiết đối với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và Ngân hàng.
Thứ hai, Nhà nước cần sớm ban hành và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh và phát triển nghiệp vụ của các NHTM.
Thứ ba, cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các NHTM hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế đất nước.
- Chính phủ cần cho phép các NHTM được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước như các doanh nghiệp khác (trong đầu tư hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ để phát triển các dịch vụ ngân hàng quan trọng và thiết yếu). Ngoài việc dùng vốn tự có để đầu tư, cho phép các NHTM vay vốn dài hạn như các doanh nghiệp khác.
- Tăng vốn điều lệ và cấp vốn cho NHTM đầu tư công nghệ hiện đại.
- Cho phép Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính thành lập “Quỹ hiện đại hoá Ngân hàng” để tập trung nguồn tài chính đầu tư cho việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Các nguồn hình thành Quỹ có thể một phần, do Ngân sách Nhà nước bố trí riêng; một phần, từ kinh phí có nguồn gốc Ngân sách như: kinhphí hiện đại hoá và phát triển công nghệ tin học, kinh phí đào tạo trong, ngoài nước; một phần trích từ lợi nhuận trước thuế của các NHTM; một phần từ phát hành trái phiếu trung, dài hạn có khả năng chuyển đổi và cấp trở lại cho hiện đại hoá.
Thứ tư, hoàn thiện môi trường kinh tế, tạo môi trường đầu tư thông thoáng.
Tiếp tục sắp xếp, đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN, chỉ giữ lại những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, mà các thành phần kinh tế khác chưa đủ năng lực, hoặc không thể đảm đương được. Việc giải toả vốn bị đóng băng trong các DNNN làm ăn kém hiệu quả, rút vốn đầu tư ra khỏi doanh nghiệp không thuộc các lĩnh vực xương sống của nền kinh tế. Thông qua tiến hành chuyển dịch sở hữu, xã hội hoá tài sản cũng là biện pháp tạo vốn quan trọng cho Nhà nước. Bằng cách này, Nhà nước vừa trút bỏ gánh nặng trợ cấp, vừa giải phóng vốn khỏi những hoạt động, những khu vực có hiệu quả kinh tế thấp, để đầu tư vào các dự án có khả năng sinh lời và hiệu quả hơn đối với nền kinh tế. Cùng với việc cổ phần hoá, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của khối DNNN, thực hiện công tác kiểm tra, kiểm toán theo các tiêu chuẩn quốc tế để có các thông tin công khai, minh bạch về tình hình tài chính các doanh nghiệp, giúp ngân hàng có thông tin chính xác để có quyết định đầu tư đúng đắn và giúp Nhà nước có nhữg căn cứ tin cậy để nghiên cứu hoạch định chủ trương, chính sách.
Thứ năm, cần có những chính sách đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển bưu chính viễn thông và Internet, tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ.
Quy định trả lương cho cán bộ công nhân viên DNNN thông qua tài khoản của họ ở ngân hàng hay ban hành những bộ luật đảm bảo quyền lợi người dân khi họ gửi và mở tài khoản tại ngân hàng... Trước mắt, sớm có Nghị định về thanh toán qua ngân hàng để thay thế Nghị định số 91/CP ngày 25/11/1993 về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt đã quá lạc hậu. Đồng thời, Chính phủ cần cho phép NHNN thay đổi mệnh giá đồng tiền phát hành, phát hành thêm tiền kim khí để có thể sử dụng được qua các máy tự động, (khi sử dụng các máy tự động, khách hàng muốn nạp tiền vào tài khoản qua máy, thì tiền phải in lại để máy có thể nhận dạng được)... nhằm đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, nhất là trong dân cư.
Sự phát triển của Bưu chính viễn thông, của Internet là tiền đề, là cơ sở để NHTM hiện đại hoá công nghệ và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Nhưng hiện nay các NHTM đang phải thuê bao thường truyền dẫn với mức phí quá cao, lại chưa thật nhanh, chuẩn xác và an toàn trong khi vốn pháp định và nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các ngân hàng còn nhỏ, nên các NHTM rất khó khăn trong việc hiện đại hóa công nghệ và phát triển dịch vụ mới. Mặt khác, phí thuê bao và sử dụng Internet của Việt nam hiện nay còn quá đắt, không khuyến khích doanh nghiệp và cá nhân sử dụng Internet. Tình trạng này khiến cho thương mại điện tử và dịch vụ ngân hàng qua Internet của các NHTM ở Việt nam trở nên xa vời. Do vậy, phát triển bưu chính viễn thông và Internet, không chỉ là vấn đề của riêng ngành Bưu chính viễn thông, là còn là một nội dung quan trọng cần được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ sáu, triển khai hoạt động của thị trường chứng khoán với các công ty chứng khoán của các NHTM một cách mạnh mẽ, đồng bộ để giải quyết nhu cầu vốn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, thị trường chứng khoán sẽ là nơi quy tụ và phân phối các nguồn vốn tiềm tàng trong dân chúng, trong các doanh nghiệp để biến các nguồn vốn vừa mỏng, vừa ngắn hạn nhằm đầu tư để phát triển sản xuất.
3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước
Các hoạt động khai thác vốn của NHTM phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Muốn hoạt động trên có hiệu quả thì cần phải:
Thứ nhất, NHNN cần bổ sung, hoàn thiện các chính sách, cơ chế thúc đẩy phát triển nghiệp vụ ngân hàng.
- Trên cơ sở các bộ luật của Nhà nước, cần nhanh chóng xây dựng hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống các văn bản hướng dẫn (dưới luật) về hoạt động ngân hàng để các NHTM thực hiện. Các văn bản hướng dẫn vừa không trái luật, vừa tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động trong điều kiện cụ thể của nước ta và xu thế hội nhập quốc tế.
- Sửa đổi và hoàn thiện cơ chế thanh toán để đáp ứng yêu cầu đổi mới các cơ chế nghiệp vụ khác. Nghiên cứu tạo môi trường cho phép sử dụng các phương tiện thanh toán hiện đại.
- Ban hành cơ chế phát hành và sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng... nhằm giúp các NHTM nhanh chóng triển khai các dịch vụ thanh toán thẻ có hiệu quả, NHNN cần thành lập Hiệp hội thẻ Việt nam trực thuộc NHNN, như một tổ chức quản lý, một Trung tâm thanh toán giữa các Ngân hàng.
- Ban hành cơ chế về quản lý dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện phát triển hệ thống dịch vụ của các NHTM. Giao quyền cho các NHTM quyết định các loại dịch vụ cần thu phí, mức thu phí của từng loại dịch vụ theo nguyên tắc thương mại. NHNN không nên ban hành biểu phí dịch vụ, vừa mất tính cạnh tranh.
Thứ hai, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, hoàn thiện kỹ thuật công nghệ và cơ chế quản lý của các Trung tâm thanh toán bù trừ của NHNN:
- NHNN cần đi trước trong thực hiện hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Tập trung đầu tiên, mạnh mẽ vào công tác thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao chất lượng các phương tiện và công cụ thanh toán.
- Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các NHTM tự đầu tư, hợp tác liên kết và vay vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
- NHNN cần thiết lập các Trung tâm thanh toán bù trừ theo khu vực và quốc gia; đồng thời hiện đại hoá công nghệ thanh toán tiến tới thực hiện thanh toán bù trừ tự động.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường mở, đa dạng các công cụ, chứng chỉ có giá giao dịch tại thị trường mở như: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu công trình... tạo cho thị trường này hoạt động sôi động hơn, trở thành hậu thuẫn vững chắc cho việc đảm bảo thanh khoản và là cơ sở để phát triển nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu thương phiếu và đầu tư của các NHTM.
Thứ tư, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của thị trường tiền tệ để các NHTM có thị trường phát triển nghiệp vụ đầu tư và tiếp ứng vốn khi cần thiết.
3.3.3 Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam
Thứ nhất, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động kinh doanh, nhất là công nghệ tin học.
SGD được Tổng giám đốc VBARD cho triển khai áp dụng dự án hiện đại hoá ngân hàng của World Bank. Tuy nhiên, trong thời gian chưa triển khai dự án, một số chương trình phần mềm viết cho các nghiệp vụ đặc thù của SGD đã lạc hậu, tốc độ chậm không còn phù hợp. Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh toàn hệ thống tốt hơn, đề nghị Trung tâm công nghệ thông tin:
- Sớm có chương trình báo nợ báo có qua Swift, khẩn trương nâng cấp phần mềm Swift nội bộ, để đáp ứng yêu cầu mở rộng thanh toán quốc tế của các chi nhánh, đảm bảo nhanh chóng, an toàn, hiệu quả.
- Bổ sung thêm máy rút tiền tự động và nâng cấp chương trình ứng dụng của những máy ATM đã có để nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng nguồn thu dịch vụ.
Đề nghị Trung tâm công nghệ thông tin, Trung tâm thanh toán tiếp tục hỗ trợ SGD triển khai có hiệu quả các chương trình nối mạng thanh toán điện tử tới Quỹ hỗ trợ phát triển, nâng cấp chương trình thanh toán điện tử với Kho bạc nhà nước và tiếp tục triển khai nối mạng thanh toán điện tử với Bảo hiểm tiền gửi, Tổng công ty Hàng hải... trong năm 2003. Đồng thời, giúp đỡ SGD phát triển dịch vụ sử dụng thẻ thanh toán nhằm cung cấp tiện ích cho khách hàng, mở rộng đối tượng khách hàng giao dịch với ngân hàng.
Tăng diện tích làm việc của SGD, đặc biệt là các phòng kinh doanh ngoại tệ, Swift, kinh doanh nhằm đảm bảo diện tích làm việc, an toàn và nguyên tắc bảo mật trong hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, đào tạo và đào tạo lại cán bộ theo từng chuyên đề nghiệp vụ.
Đề nghị Tổng giám đốc VBARD bổ sung 15 chỉ tiêu biên chế trong năm 2003 để SGD mở thêm 2 phòng giao dịch và bổ sung cán bộ cho các phòng nghiệp vụ.
Thứ ba, nới rộng khung lãi suất để các chi nhánh trực thuộc sử dụng linh hoạt đòn bẩy lãi suất và chủ động trong cạnh tranh thu hút khách hàng.
Kết luận chương 3
Qua chương này, luận văn đã giải quyết được các vấn đề sau:
Thứ nhất, định hướng phát triển của hoạt động kinh doanh của SGD VBARD nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Thứ hai, trên cơ sở những kết quả đạt được, phân tích những tồn tại, nguyên nhân của hoạt động huy động vốn của SGD thời gian qua đã đề cập ở chương 2, tác giả đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại SGD VBARD trong thời gian tới. Giữa các giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nên khi triển khai thực hiện phải tiến hành đồng bộ mới phát huy được hiệu quả. Với nhận thức tạo vốn của NHTM là hệ quả tổng hợp của nhiều mặt hoạt động, do vậy những giải pháp cần phải được thực hiện ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
Thứ ba, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị cụ thể có thể thực hiện được trong tương lai gần đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam, đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như đối với Nhà nước.
Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu cả về phương diện lý luận và khảo nghiệm thực tiễn, đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn ở SGD VBARD”, khoá luận đã rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá được những vấn đề cơ bản về vốn và vai trò của vốn huy động trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
- Phân tích thực trạng nguồn vốn huy động và công tác huy động vốn những năm gần đây, những thành công và hạn chế, những bài học rút ra từ thực tế sinh động.
- Giải pháp có tính hệ thống về nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn ở SGD VBARD.
Những nghiên cứu tìm hiểu phân tích dựa trên phương pháp luận khoa học, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để đi đến các lết luận và kiến nghị. Hy vọng rằng các giải pháp đưa ra sẽ góp phần nhỏ bé, bổ sung vào quá trình lý luận về nghiệp vụ huy động vốn ở SGD VBARD. Tuy nhiên, về giác độ nào đó khoá luận không tránh khỏi những hạn chế nhất định, tác giả của khoá luận rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp để khóa luận hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Thầy giáo - Tiến sỹ Mai Thanh Quế, cùng các thầy cô giáo trong khoa Tiền tệ - Thị trường vốn Học viện Ngân hàng, Ban lãnh đạo SGD VBARD và các cán bộ nhân viên công tác tại SGD VBARD đã tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khoá luận này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37060.doc