Khóa luận Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn

Các hoạt động ngân hàng liên quan đến tín dụng đóng vai trò chủ chốt trong hầu hết các ngân hàng. NHNT đặt việc quản lý lên ưu tiên hàng đầu bởi ngân hàng nhận thức rất rõ nếu chất lượng tín dụng không tốt và quản lý tín dụng yếu kém thì sẽ dẫn đến những thất bại của bản thân ngân hàng. Khung cẩm nang quản lý rủi ro tín dụng của Vietcombank được công ty kiểm toán quốc tế uy tín Earnst & Young xây dựng. Các chính sách và quy trình được cải tiến sẽ đề ra chuẩn mực và thước đo nhằm hướng dẫn cán bộ ngân hàng trong việc thực hiện cho vay và quản lý các khoản vay. Trong hoạt động tín dụng trung-dài hạn, các khoản cho vay có thời hạn dài nên việc nắm bắt mọi thông tin không những trong hiện tại của doanh nghiệp mà việc dự đoán, phân tích tình hình tương lai của doanh nghiệp là việc làm vô cùng quan trọng giúp ngân hàng tránh và hạn chế được rủi ro tín dụng. Sau khi ngân hàng cho vay, việc quản lý khoản vay đó cũng quan trọng không kém khi quyết định cho vay. Quản lý khoản vay là một trong các trách nhiệm quan trọng của cán bộ tín dụng. Việc không thực hiện giám sát tín dụng chặt chẽ cũng là một trong 2 nguyên nhân khiến các ngân hàng cho vay không bảo toàn được vốn. NHNT rất chú trọng đến công tác này. Các cán bộ tín dụng của Ngân hàng giám sát hoạt động và kết quả kinh doanh của khách hàng vay trước tiên nhằm mục tiêu đảm bảo khách hàng vay tiếp tục tuân thủ cádc điều khoản trong hợp đồng tín dụng, bên cạnh đó nhằm xác định cơ hội phát triển hoạt động và mở rộng quan hệ.

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và phát triển có trách nhiệm đảm nhận các dự án đầu tư do nhà nước giao, chủ yếu là xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở cho nền kinh tế. Như thế có thể coi ngân hàng này là một loại ngân hàng chính sách về đầu tư của Nhà nước trong phát triển kinh tế. Ngân hàng này vậy là không phải mất sức lực, chi phí cạnh tranh, lại nhận được nguồn vốn tài trợ của Bộ Tài chính và ngân sách Nhà nước với lãi suất thấp. Hơn nữa, trong khi nguồn vốn này chưa giải ngân hết theo kế hoạch, ngân hàng có thể sử dụng vào mục đích thương mại, từ đó có thể hưởng mức chênh lệch cao hơn là huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế để cho vay. Thế mạnh chủ yếu của ngân hàng là cho vay trung và dài hạn và cho vay tài trợ uỷ thác. Nguồn vốn huy động bằng tiền gửi ngoại tệ tăng đáng kể trong 4 năm 1999-2002, gây khó khăn cho Ngân hàng Ngoại thương. Tuy có chủ trương không phát triển mạnh nguồn vốn huy động này trong thời gian gần đây nhưng tính về tương lai xa thì Ngân hàng cũng phải chú ý đến điểm này. 2.4.2. Khối ngân hàng TMCP và chi nhánh ngân hàng nước ngoài Từ khi thực hiện đổi mới, thị trường ngân hàng chứng kiến sự ra đời và phát triển của một loạt các ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Tình trạng này đã làm sôi động không khí cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Vậy các tổ chức này đã ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động tín dụng dài hạn của ngân hàng Ngoại thương? Các ngân hàng TMCP ra đời với một thế bất lợi là có nguồn vốn tự có quá thấp so với các ngân hàng TMQD. Uy tín của ngân hàng chưa đủ để có khả năng thu hút được một nguồn vốn lớn. Vì thế hoạt động của các ngân hàng này không phát triển, không có đủ nguồn lực tài chính để thu hút khách hàng cũng như tham gia tích cực trong lĩnh vực cho vay dài hạn. Hướng phát triển của họ là mạo hiểm tập trung đầu tư vào một khách hàng nên mức độ rủi ro rất cao. Hơn thế nữa, các ngân hàng không có đủ vốn bù đắp cho chi phí huy động cao hay mức lãi suất thấp. Vì thế, một số ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn, hoạt động kém hiệu quả và phá sản, buộc các ngân hàng Nhà nước khác phải gánh chịu khoản nợ họ đã gây ra cho nền kinh tế, như việc ngân hàng Ngoại thương phải tiếp nhận ngân hàng TMCP Châu á -Thái Bình Dương làm ăn thua lỗ, ngân hàng Eximbank đang trên bờ vực phá sản…. Hiện tại các ngân hàng này không gây trở ngại gì cho Ngân hàng Ngoại thương trong hoạt động tín dụng trung-dài hạn nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Tuy nhiên, trong tương lai gần các ngân hàng này lại có nhiều cớ hội mở rộng thị phần do đối tương cho vay của họ là các tổ chức kinh tế và cá nhân không có đủ điều kiện vay vốn ở các ngân hàng TMQD, nhất là khối các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thị trường này thực chất là rất rộng lớn và giàu tiềm năng. Hoạt động hợp nhất của các ngân hàng này cũng gây lo ngại cho các ngân hàng TMQD do chất lượng hoạt động cũng như tiềm năng tài chính của họ đã tăng lên. Điển hình cho hoạt động này là ngân hàng TMCP á châu và ngân hàng Phương Nam đang từng bước sát nhập và thôn tính các ngân hàng TMCP hoạt động kém hiệu quả hơn nhằm mở rộng thị trường và cạnh tranh ngang bằng với các ngân hàng TMQD. Do đó, Ngân hàng Ngoại thương cũng phải có một số chiến lược phù hợp để có thể phản ứng lại với những đối thủ đã mạnh hơn nhiều so với trước kia, nhất là sau khi Việt Nam được các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF... giúp đỡ nhằm lành mạnh hoá hoạt động của các ngân hàng trên. Không phải ngẫu nhiên mà thị phần tín dụng của các ngân hàng TMQD giảm mạnh sau đổi mới. Tham gia hoạt động ở Việt Nam là chi nhánh các ngân hàng nổi tiếng của nhiều nước đang tìm cơ hội phát triển tại một thị trường còn non trẻ mà trình độ của ngành ngân hàng còn lạc hậu. Hiện nay ở Việt Nam có 28 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động một cách tích cực. Các chi nhánh này có một nguồn vốn hỗ trợ rất lớn về ngoại tệ với các công ty mẹ, hội sở chính là các nhà khổng lồ, các tập đoàn tài chính như Citibank (Mỹ), HSBC (Hồng Kông), Standard Chartered Bank (Anh)… . Tuy hiện nay họ phải gặp không ít bất lợi và hạn chế về mặt chính sách so với các ngân hàng trong nước, nhưng trong thời gian rất ngắn, với yêu cầu về hội nhập của Việt nam, họ sẽ thật sự khuấy đảo thị trường ngân hàng đang không lấy gì làm vững chãi. Xét khả năng chưa sẵn sàng đối đầu với các NHTMQD trong lĩnh vực đầu tư dài hạn nên các ngân hàng này đã mau chóng chuyển sang tập trung vào tín dụng ngắn hạn. Với những chiến thuật linh hoạt và nhanh chóng, các ngân hàng này đang đẩy các ngân hàng Việt nam vào một tình thế khá khó khăn. Nếu trước kia khách hàng của các ngân hàng này chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đang hoạt động ở Việt Nam hay các doanh nghiệp liên doanh thì nay họ đang tấn công sang các Tcty nhà nước lớn có quan hệ xuất-nhập khẩu và làm ăn có lãi. Chính những ngân hàng này đang đe doạ cướp đi hay chia sẻ các khách hàng truyền thống của Ngân hàng Ngoại thương với những thoả thuận hấp dẫn, dịch vụ chất lượng cao. Ngoài ra, công nghệ ngân hàng và hệ thống thông tin hiện đại theo tiêu chuẩn thế giới cho phép họ hoạt động rất tốt trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ mà ngân hàng Ngoại thương cũng đang hướng tới với những tiện ích vượt trội rõ rệt mà họ dành cho khách hàng. Các ngân hàng hoạt động tích cực nhất ở đây là ANZ (Australia) và Citibank(Mỹ), HSBC (Hồng Kông). Các ngân hàng này không những bành trướng trong các dịch vụ ngân hàng bán lẻ mà đã len lỏi vào các dự án đồng tài trợ lớn của chính phủ, cho thấy một tiềm năng phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn. Một số lớn các chi nhánh khác thì hoạt động theo phương thức uỷ thác đầu tư hoặc cố vấn tài chính cho các doanh nghiệp hay dự án đầu tư của các tổ chức tài chính nước ngoài. Ngoài ra, con số …. văn phòng đại diện nước ngoài tại Việt nam cũng là dấu hiệu báo trước một cuộc cạnh tranh còn gay go hơn nhiều đối với Ngân hàng Ngoại thương.   2.4.3. Khối các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác Khối này thực chất bao gồm các tổ chức như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính thuộc các TCty 90-91. Các tổ chức bảo hiểm với các dịch vụ được đưa ra rầm rộ trong thời gian qua cùng với các loại hình dịch vụ tài chính đa dạng (tiết kiệm bưu điện…) đang và sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Còn các công ty tài chính cũng chưa có một mô hình và cơ chế hoạt động thực sự phù hợp với nền kinh tế Việt Nam nên chưa thể phát huy hết tác dụng của mình. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng trung dài hạn thì các công ty mới chỉ có thể khai thác các thị trường mà ngân hàng không quan tâm lắm. Nhưng trong tương lai, khi chức năng của các công ty này được công nhận bình đẳng với các ngân hàng thì đây cũng là những đối thủ không hề nhẹ nhàng. Chương 3 kiến nghị và Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng ngoại thương việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Trong Chương 2, chúng ta đã có một cái nhìn tổng quát về khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương trong giai đoạn 1998-2002. Những kết quả đạt được không nhiều đã minh chứng cho tình trạng khẩn cấp trong hoạt động đầu tư dự án dài hạn của Ngân hàng. Các công cụ cạnh tranh không phát huy hết các thế mạnh của mình đồng thời lại gây thêm một số khó khăn cho ngân hàng, trong khi đó môi trường kinh doanh ngày càng tỏ ra bất lợi cho ngân hàng trong nỗ lực mở rộng thị trường và khẳng định lại vị trí của mình. Chưa bao giờ ngân hàng lại đứng trước những khó khăn và bất lợi như thế. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết, ngân hàng cần phải có những biện pháp cụ thể để có thể thay đổi tình thế, mang lại cho ngân hàng những sức mạnh mới để đủ sức cạnh tranh không chỉ vì mục đích tồn tại mà còn là mục đích phát triển và chiếm lĩnh thị trường. I – Những thuận lợi và thách thức đối với Ngân hàng Ngoại thương 1. Thuận lợi Là một trong 23 doanh nghiệp được nhà nước xếp hạng là doanh nghiệp đặc biệt và là ngân hàng phục vụ đối ngoại lâu đời nhất ở Việt Nam, NHNT luôn được biết đến như một ngân hàng uy tín nhất trong các lĩnh vực tài trợ, thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh ngân hàng, ngân hàng quốc tế và các nghiệp vụ thẻ tín dụng. Là một trung tâm, hội tụ các nguồn ngoại tệ mạnh trong nước, chủ yếu là ngắn hạn: vốn ngoại tệ trong nhiều năm liên tục tăng, luôn chiếm từ 65-70% tổng nguồn vốn. Lượng ngoại tệ huy động của Vietcombank so với toàn hệ thống luôn giữ thị phần trên 46% qua nhiều năm. Sức mạnh của Vietcombank thể hiện rõ nhất trên tài khoản nostro mở tại các ngân hàng lớn ở nước ngoài: đây là điểm tựa cho các hoạt động bảo lãnh L/C, tiền ký gửi, tín dụng ngắn hạn, mua bán ngoại tệ, thanh toán xuất nhập khẩu và cả thu nhập của Vietcombank. Số dư thường xuyên trên dưới 3 tỉ USD, chiếm hơn 70% tổng nguồn vốn ngoại tệ huy động được. Có những trung tâm giao dịch cực lớn: Hội sở chính và Chi nhánh Hồ Chí Minh có doanh số thanh toán xuất nhập khẩu bằng 71% tổng doanh số của toàn ngành. Đặc trưng này giúp Vietcombank giữ được thế mạnh của mình Tạp chí Ngân hàng, số 1+2, 2003, trang 72 . Các doanh nghiệp Nhà nước là những khách hàng tín dụng chính, thường chiếm trên 70% tổng dư nợ. Số đông khách hàng của Vietcombank là khách hàng lớn thuộc các ngành dầu khí, bưu chính viễn thông, hàng không…. Lĩnh vực thương mại chiếm trên 50% tổng dư nợ, do vậy vốn của Vietcombank chu chuyển nhanh, doanh số cho vay, thu nợ trong năm lớn. Là trung tâm chuyển tiền qua mạng swift: hàng năm nhận và chuyển trên 500,000 điện chuyển tiền qua mạng swift, một phương tiện giúp củng cố vị thế của Vietcombank trên thị trường. Đề án Tái cơ cấu Ngân hàng Ngoại thương đến năm 2005 giai đoạn đầu đã thực hiện thành công, giai đoạn 2 (2003-2005) đang được triển khai và đạt những kết quả hết sức khả quan. 2. Khó khăn và thách thức đối với Vietcombank Bên cạnh những thuận lợi và cơ hội trên, Vietcombank còn đối mặt với khá nhiều khó khăn thách thức, đó là: Nợ khê đọng, khó đòi của thời kỳ bao cấp và những năm đầu chuyển sang cơ chế thị trường còn lớn. Với những nỗ lực của NHNT trong việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng và bảo lãnh, số nợ quá hạn phát sinh từ các khoản vay mới rất thấp (dưới 3%). Tuy nhiên, số nợ quá hạn, nợ khoanh, nợ có bảo lãnh… còn ở mức cao, trong khi đó, tài sản thế chấp chủ yếu là quyền sử dụng đất, bất động sản, nhiều tài sản chưa đủ thủ tục pháp lý nên chưa thể khai thác. Thị phần tín dụng của NHNT thấp, chưa tương xứng với quy mô tài sản (thị phần tín dụng của NHNT chỉ bằng 8.3% của toàn ngành ngân hàng và 12% khố ngân hàng thương mại quốc doanh Nguồn vốn thiếu cân đối: Bình quân 5 năm trở lại đây, tỉ trọng của nguồn vốn huy động ngoại tệ quy ra đồng ở mức xấp xỉ 70% nguồn vốn huy động. Nguồn vốn ngoại tệ lớn tạo khó khăn tiềm ẩn liên quan đến chính sách của Nhà nước và đến các diễn biến trên thị trường tài chính quốc tế. Một mặt là rủi ro phát sinh từ việc thay đổi quy chế quản lý ngoại hối của Nhà nước, mặt khác do nguồn vốn ngoại tệ lớn và tăng trưởng nhanh trong khi dư nợ ngoại tệ thấp và tăng chậm hơn nên NHNT phải gửi ngoại tệ trên thị trường quốc tế để tăng thu nhập. Nguồn thu nhập lớn từ lãi suất này phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngoài tầm kiểm soát của NHNT. Mỗi thay đổi về tỷ giá sẽ có ảnh hưởng mạnh đến nguồn thu nhập lãi suất của NHNT. Vốn tự có thấp: tỷ trọng vốn tự có của NHNT còn rất thấp. Nếu tính hệ số an toàn vốn trong tổng tài sản (nội bảng và ngoại bảng) có điều chỉnh theo mức độ rủi ro thì trong các năm gần đây, hệ số an toàn vốn (CAR) của Ngân hàng đạt mức rất thấp. Vốn tự có thấp một mặt ảnh hưởng đến uy tín quốc tế của Ngân hàng về mức độ an toàn, mặt khác hạn chế mở rộng tín dụng. Thông thường tỷ lệ CAR theo tiêu chuẩn quốc tế là 8% nhưng với trường hợp NHNT thì cần phải duy trì tỉ lệ này cao hơn do khả năng gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh quốc tế. Bảng 8: Tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản của NHNT giai đoạn 1998-2002 Năm/ Hệ số Bình quân 2002 2001 2000 1999 1998 Vốn tự có /TổngTS (%) 4.1 5.40 2.66 3.13 4.56 4.73 Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNT các năm 1998-2002 Bảng 9: Hệ số CAR của NHNT giai đoạn 1998-2002 Năm/ Hệ số Bình quân 2002 2001 2000 1999 1998 CAR (%) 6.16 N/a 4.48 5.53 7.94 6.69 Nguồn: Rating Report – Capital Intelligence- January 2003 Mô hình tổ chức và cán bộ: Giữa các phòng ban chưa thực sự có sự liên kết và chỉ đạo thống nhất một cách chặt chẽ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Vẫn còn tình trạng các khách hàng, đặc biệt là các khách hàng lớn có nhu cầu đa dạng về dịch vụ khách hàng phải tiếp xúc với khá nhiều đầu mối; Ngân hàng chưa chủ động nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và tiếp thị các sản phẩm của mình; cán bộ chưa đủ điều kiện chuyên sâu nghiệp vụ và nắm bắt rõ khách hàng vì phải làm việc với nhiều loại khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp…); công tác đào tạo còn thiếu chiến lược và chưa gắn liền với việc bố trí, sắp xếp cán bộ và; chưa có cơ chế thực sự khuyến khích người lao động tích cực làm việc. Quản lý rủi ro tín dụng: hiện còn thiếu quy trình, quy chế cụ thể. Ngay cả việc phân loại khách hàng, phân loại các khoản vay theo mức độ rủi ro, nhất là các khoản vay trung và dài hạn, việc quản lý thông tin về khách hàng một cách thống nhất cũng chưa được thực hiện. Các rủi ro khác như rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro hoạt động kinh doanh và rủi ro thanh khoản cũng chưa được đo lường kịp thời, chính xác. Cơ cấu sản phẩm chưa đa dạng: NHNT chưa cung cấp được cho khách hàng nhiều sản phẩm mới. Các nghiệp vụ tại NHNT chủ yếu là những nghiệp vụ truyền thống. Các công cụ huy động vốn chưa đa dạng nên chưa đáp ứng được nhu cầu khác nhau của khách hàng. Các hình thức sử dụng vốn cũng hạn hẹp, chủ yếu tập trung vào hai hình thức chính là cho bay trong nước và gửi tiền tại các tổ chức tín dụng ở nước ngoài. Trong hoạt động tín dụng, khách hàng phần lớn chỉ gồm các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp lớn. Nền tảng công nghệ: được coi là hiện đại so với các NH trong nước nhưng còn thấp so với tiêu chuẩn quốc tế, khả năng ứng dụng công nghệ còn hạn chế. NHNT còn thiếu vốn đầu tư cho công nghệ. Trong điều kiện các ngân hàng thương mại khác đang chú trọng đầu tư phát triển công nghệ, nếu NHNT không tập trung phát triển hơn nữa trong lĩnh vực này thì thế mạnh về công nghệ của NHNT so với các NHTMQD khác sẽ mất dần và có thể xuất hiện nguy cơ tụt hậu. Môi trường đầu tư khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh: Mặc dù mức sinh lời của NHNT cao trong hệ thống NHTM nhưng khó khăn trong môi trường kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh cũng như những hạn chế về quy phạm pháp quy trong quản trị điều hành là một tình trạng phổ biến tạo nên mưc sinh lời thấp trong hệ thống NHTM nói chung và trong NHNT nói riêng. Với một môi trường kinh doanh và pháp lý như hiện nay thì NHNT khó có thể theo đuổi được các mục tiêu cơ sở trong hoạt động ngân hàng (đánh giá thông tin về khách hàng và cơ hội đầu tư, đánh giá rủi ro thông qua việc thẩm định tín dụng, giảm thiểu rủi ro thông qua đa dạng hoá tài sản nợ, quản trị tính thanh khoản thông qua thu hồi các khoản vay đang trong hạn và thay đổi liên tục cấu trúc tài sản nợ). Bên cạnh đó, các nguyên tắc kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng còn bộc lộ nhiều yếu kém. Các tiêu thức phân loại khoản vay của NHNN cũng chưa hợp lý, hầu hết vẫn dựa trên thời gian phát sinh quá hạn mà chưa phân loại trên cơ sở rủi ro của các khoản vốn vay. Việc ban hành Nghị định 178 về cho vay không bảo đảm trong thực tế lại gây khó khăn cho các NHTM nói chung và NHNT nói riêng trong việc ra quyết định cho vay do không biết dựa vào tiêu thức nào để đưa ra quyết định cho vay trong một môi trường luật pháp chặt chẽ mà các cơ quan bảo vệ pháp luật thường có hướng hình sự hoá các quan hệ kinh tế trong hoạt động ngân hàng, tạo thêm thách thức về pháp luật cho môi trường đầu tư tín dụng ngân hàng. Sức ép cạnh tranh ngày càng tăng và đòi hỏi có những thay đổi để thích ứng: Như đã phân tích ở Chương 2, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt không những của các ngân hàng TMQD mà còn từ các ngân hàng ngoài quốc doanh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính phi ngân hàng đang là một thách thức đối với Ngân hàng Ngoại thương. II - Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Ngọại thương trong hoạt động tín dụng trung-dài hạn 1 - Kiến nghị: Sau quá trình nghiên cứu về khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương và sau thời gian công tác thực tế tại NHNT, tôi xin đưa ra đây một số kiến nghị như sau: Tự chủ trong kinh doanh, giảm và bãi bỏ việc cho vay theo chỉ định: Hoạt động tín dụng mang ý nghĩa sống còn đối với ngân hàng. Đến nay, việc can thiệp sâu vào các quyết định kinh doanh, cho vay của NHTM nói chung và NHNT nói riêng đã giảm đáng kể. Chính phủ cần tách bạch rõ ràng giữa việc cho vay thương mại và cho vay chính sách hau theo sự chỉ đạo của Chính phủ. Trường hợp cho vay theo chỉ đạo của Chính phủ thì cần có bảo lãnh của Bộ Tài chính cho khoản vay đó. Thực tế đã cho thấy nợ khê đọng tại NHNT còn tồn tại hoặc đã giải quyết phần lớn là các khoản cho vay các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ hoặc đã phá sản, và một phần các khoản đó Chính phủ phải đảm đương việc trả nợ cho ngân hàng. 1.2. Tự chủ về tài chính: Hiện nay NHNT chưa thực sự được tự chủ về tài chính, đặc biệt liên quan đến tiền lương, trích lập các quỹ… Việc nâng cao quyền tự chủ về tài chính giúp NHNT tập trung tạo ra cơ chế khuyến khích vật chất đối với cá nhân kinh doanh giỏi đạt hiệu quả cao và các cơ chế tài chính thuận lợi nhằm khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng là rất quan trọng. Thực tế cho thấy, nếu so sánh lượng bình quân của cán bộ NHNT với lương nhân viên các ngân hàng cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại VN thì cho thấy sự chênh lệch lớn (chỉ bằng một nửa). Cơ chế bình quân chủ nghĩa về tiền lương gây tâm lý làm việc không cố định đối với các cán bộ giỏi, nhất là cán bộ làm công tác tín dụng. Nhà nước cần có cơ chế tiền lương thoáng hơn, giao quyền tự chủ cho NHNT trong việc quyết định tiền lương trên cơ sở lợi nhuận. 1.3. Tăng vốn tự có: Theo quyết định số 297/QĐ-NHNN5 ngày 25.8.1999 của Ngân hàng Nhà nước quy định trong vòng 3 năm (kể từ tháng 9/1999) các NHTM phải đạt được tiêu chuẩn tỉ lệ vốn tự có so với tổng tài sản có được điều chỉnh theo rủi ro (CAR) là 8%. Năm 2002 Vietcombank được Chính phủ cấp 1,000 tỉ đồng tăng vốn tự có, dự tính 2002-3003 được cấp thêm 1,200 tỉ đồng. Tuy nhiên, mức này vẫn chưa đủ đạt mức tổng vốn tự có là 9,000 tỉ tính đến 2005. Điều rõ ràng là uy tín của ngân hàng có một vị trí quan trọng trong lợi thế cạnh tranh của ngân hàng mà uy tín lại đánh giá rất nhiều qua nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Như trong chương 2 đã phân tích, NHNT có nguồn vốn tự có quá thấp khiến chỉ tiêu quốc tế về an toàn vốn trong tổng tài sản có điều chỉnh là quá nhỏ trong khi mức tối thiểu của thế giới là 8%. Vì vậy, để đảm bảo yêu cầu của quyết định của NHNN cũng như đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, Chính phủ cần nhanh chóng cấp bổ sung vốn cho NHNT để bảo đảm cho ngân hàng có chỗ đứng trên thị trường thế giới, có thể phát huy được chức năng là ngân hàng đối ngoại của Việt Nam và có đủ uy tín cũng như danh tiếng đủ sức hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài. Ngoài ra, kiến nghị Chính phủ cho phép Vietcombank được dùng một phần lợi nhuận để lại để tăng vốn điều lệ. Từng bước xoá bỏ những ưu đãi giành cho các ngân hàng khác Ngân hàng Nhà nước nên loại bỏ những ưu đãi vốn có giành cho các ngân hàng khác như Ngân hàng Đầu tư và phát triển cũng như Ngân hàng Nông nghiệp. Các chính sách ưu đãi về vốn và khách hàng của nhà nước giành cho các ngân hàng này đang bóp nghẹt thế cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương nói riêng và các ngân hàng TM khác nói chung, đồng thời gây ra tâm lý trì trệ cho rằng không cần cạnh tranh mà có thể tồn tại dựa vào sự bảo trợ của Nhà nước. Để các ngân hàng này tự tìm kiếm khách hàng và tiếp thị sản phẩm của mình không có nghĩa là đẩy các ngân hàng này vào đường cùng mà chỉ có tác dụng bắt họ phải cạnh tranh một cách lành mạnh và tự giác hơn, từ đó có thể hi vọng tiến trình lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng TMQD có hiệu quả hơn và chứng minh được nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng. Một hoạt động có thể được sử dụng để ngăn chặn hành động ưu đãi của nhà nước là tổ chức đấu thầu trực tiếp và công khai đối với các dự án của chính phủ kể cả trong trường hợp bao gói tài trợ hay đồng tài trợ chứ không theo chế độ giao cho một ngân hàng thực hiện như trước kia. Lúc này các ngân hàng có cơ hội thể hiện toàn bộ những năng lực đặc biệt trong hoạt động cũng như tạo hình ảnh uy tín của mình để có thể cạnh tranh và thành công một cách lành mạnh. Yếu tố cần thiết để thành công chính là nội lực của ngân hàng. Nếu ngân hàng nào không có khả năng hay năng lực tài chính hoặc hiệu quả hoạt động quá yếu kém, lẽ dĩ nhiên ngân hàng đó sẽ bị đánh bật khỏi cuộc chiến. Kết quả của các cuộc đấu thầu này cũng phần nào làm tăng uy tín của ngân hàng chiến thắng và giúp cho thị trường đánh giá lại uy tín của ngân hàng thất bại. Các dự án của Nhà nước thường có giá trị rất lớn và có tính khích lệ đặc biệt đối với các ngân hàng nên hình thức này sẽ đem lại một làn sóng mới cạnh tranh có hiệu qủa hơn, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Giới hạn tín dụng Theo quy định của NHNN, giới hạn tín dụng áp dụng cho một khách hàng là không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng 15% chứ không phải 20% . Trong khi đó, vốn tự có của các NHTMQD nói chung và của Ngân hàng Ngoại thương nói riêng là quá thấp trong khi nguồn vốn huy động được rất lớn lại không thể cho vay. Nhất là tại Ngân hàng Ngoại thương, với đặc điểm khách hàng không nhiều nhưng lại là các doanh nghiệp lớn có nhu cầu vốn rất lớn về cả ngoại tệ và VND. Giới hạn tín dụng này đặt ra đã hạn chế rất nhiều khả năng cho vay của NHNT. Cho dù Ngân hàng đã có biện pháp chuyển số tiền ngoại tệ dư thừa sang gửi tại các ngân hàng nước ngoài để nhận lãi suất tiền gửi nhưng biện pháp này chỉ có tính tạm thời và chịu nhiều tác động của biến động lãi suất và hoạt động tài chính quốc tế. Do vậy khả năng cạnh tranh của ngân hàng không thể phát huy khi cơ hội cho vay lại hạn chế như vậy. Với việc tăng mức được phép cho vay đối với một khách hàng trên vốn tự có, ngân hàng nhà nước sẽ tạo cho Ngân hàng Ngoại thương rất nhiều cơ hội để nâng cao hoạt động tín dụng trung và dài hạn của mình. 1.6. Chính phủ và các cơ quan quản lý cần phải xây dựng một hệ thống công cụ quản lý hiệu quả, các nhiệm vụ và kế hoạch đề ra; tạo hành lang pháp lý thông thoáng giúp ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn. 2. Giải pháp Huy động vốn Huy động vốn là một hoạt động vô cùng quan trọng đối với cho vay đầu tư dài hạn vì nó cung cấp nguyên liệu cho quá trình sản xuất mặt hàng dịch vụ này. Hiện tại ngân hàng cần chú trọng vào thu hút tiền đồng vì cho vay của ngân hàng chủ yếu là tiền đồng còn USD huy động được rất nhiều nhưng tỉ trọng cho vay lại chiếm một phần rất nhỏ trong tổng dư nợ. Để có thể có một lượng tiền đồng mạnh hơn trong các năm qua, ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động sau: Trước hết ngân hàng phải tạo được uy tín trong dân cư bằng cách quảng cáo để nâng cao thanh thế, tuyên truyền để hình ảnh của ngân hàng đi sâu vào niềm tin của dân và từ đó dân cư mới có cơ sở để tin tưởng và gửi tiền vào ngân hàng. Tiếp đó là mở rộng chi nhánh một cách hợp lý để có thể tiếp cận đến từng người dân và các cơ sở sản xuất từ trước đến nay chưa được ngân hàng quan tâm. Nếu hiện tại ngân hàng mới chỉ có một sở giao dịch và 24 chi nhánh trên cả nước với trên 3000 nhân viên tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn và khu công nghiệp thì nay cần có một hệ thống chi nhánh hợp lý hơn nhưng cũng không quá cồng kềnh. Có thể đơn cử một số ý kiến như tại các thành phố lớn và có tiềm năng phát triển sẽ lập thêm ở mỗi quận một chi nhánh với số nhân viên hợp lý bảo đảm cho hoạt động của mỗi phòng ban, tăng thêm cán bộ cho phòng đầu tư dự án... Sử dụng lãi suất như một công cụ hấp dẫn công chúng gửi tiền nhưng phải đảm bảo được mức thu lợi nhuận. Mà mức lãi suất huy động không thể quá cao như hiện nay. Hiện nay một trong những vấn đề quan trọng của ngân hàng là tăng cường huy động VND. Mức lãi suất huy động không nên tăng nữa mà thay vào đó, ngân hàng nên mang lại cho khách hàng một số ưu đãi như cung cấp một số dịch vụ hay khuyến mại làm tăng lợi ích của khách hàng. Do đặc thù trước đây là ngân hàng phục vụ đối ngoại của Chính phủ nên Ngân hàng có lợi thế về vốn ngoại tệ và nguồn vốn ngắn hạn. Do vậy cần đặc biệt chú trọng việc huy động vốn dài hạn để phục vụ nghiệp vụ cho vay trung dài hạn của Vietcombank, có thể dưới dạng phát hành cổ phiếu hoặc các chứng chỉ góp vốn. 2.2. Cải thiện bộ máy tổ chức Bộ máy tổ chức của ngân hàng hiện nay còn có những khiếm khuyết rất lớn cần phải khắc phục nhưng việc thực hiện các hoạt động này phải được thực hiện một cách khoa học và không hấp tấp, không để xảy ra các cú sốc nội bộ ảnh hưởng đến hoạt động của toàn ngân hàng Bố trí đủ cán bộ để làm việc, tránh tình trạng quá tải như hiện nay: với tốc độ dư nợ tín dụng tăng nhanh như hiện nay, nhất là việc mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ và tư nhân cá thể, trong khi đó tình hình chung tại các chi nhánh cho thấy cán bộ tín dụng đang chịu áp lực làm việc quá căng, đồng thời phải kiêm nhiệm thêm cả các công việc khác như vốn, kinh doanh ngoại tệ nên rất dễ dẫn đến tình trạng thẩm định khách hàng và phương án vay vốn không kỹ, không có thời gian kiểm soát chặt giai đoạn trong và sau cho vay. Thông tin sơ bộ cho thấy toàn ngành hiện có khoảng 400 cán bộ tín dụng quản lý tổng dư nợ tín dụng là …..21.901 tỉ (6/2002;;? 12/2002). Như vậy, bình quân mỗi cán bộ tín dụng quản lý … tỉ VN (không tính trưởng phó phòng). Cũng do tình trạng thiếu cán bộ nên không nắm bắt được kịp thời thông tin xấu về khách hàng để ngừng cho vay, thu hồi nợ. Phổ biến nhất là do thiếu cán bộ nên công tác chủ động tích cực tìm kiếm các khách hàng tốt, các khoản cho vay hiệu quả bị hạn chế. Chia các cán bộ phòng đầu tư dự án thành các nhóm có những chức năng khác nhau như thực hiện thẩm định tài chính dự án hay phân tích rủi ro... đòi hỏi với mỗi dự án công việc được thực hiện một cách toàn diện và đồng bộ, sâu sát hơn, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân sử dụng được sở trường của mình và được trau dồi trong môi trường làm việc, đồng thời phải có tính đoàn kết cao độ mới có thể hoạt động có hiệu quả. Mỗi quyết định cuối cùng đều là sự tổng hợp ý kiến của nhiều bộ phận, tận dụng hết nguồn nhân lực có trong phòng, tránh tình trạng có những cán bộ có năng lực và kinh nghiệm lại phải đảm nhận quá nhiều dự án trong khi những nhân viên trẻ lại chưa đủ tư cách thẩm định một dự án hoàn chỉnh không có việc làm và khá rỗi rãi so với những người khác, gây mất cân đối trong hoạt động của phòng. Như vậy các cá nhân mới sẽ được phát huy hết khả năng của mình cũng như học hỏi được nhiều kinh nghiệm của những người đi trước. Ngoài ra tính độc lập của mỗi cán bộ sẽ được nâng cao do phải tận dụng hết các năng lực để tránh bị đào thải ra khỏi môi trường làm việc. Sắp xếp lại hoạt động của phòng Khách hàng. Bộ phận này sẽ không còn làm một số việc cơ bản như chăm sóc, tặng quà cho khách hàng mỗi dịp lễ tết mà sẽ chuyên tâm vào lĩnh vực nghiên cứu khách hàng và sản phẩm, có thể đổi luôn thành phòng Marketing chuyên trách và tập hợp một số cá nhân có kinh nghiệm trong từng nghiệp vụ, quản lý phần việc Marketing ngân hàng và quản trị chiến lược. Việc chăm sóc khách hàng sẽ do một nhóm của phòng đầu tư có trách nhiệm làm việc trực tiếp với khách hàng đảm nhận, sẽ mang lại hiệu quả cao hơn do mối liên hệ trực tiếp và cụ thể hơn. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng, ban của ngân hàng để có thể mang lại những thông tin bổ ích nhất và tiện lợi nhất cho hoạt động của bộ phận đầu tư dự án. Bộ phận thông tin phải thường xuyên thông báo về các biến động trong thị trường và xu hướng phát triển của từng ngành trong nền kinh tế cũng như bất cứ một thông tin gì liên quan đến từng khách hàng mà phòng đầu tư đang có quan hệ sau khi đã xử lý và phân tích thông tin. Tăng cường công tác tái thẩm định các khoản vay trung và dài hạn: Xu hướng đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn diễn ra tại hầu hết các chi nhánh NHNT trong vài năm trở lại đây, nhất là trong năm 2002. Ưu điểm của loại hình cho vay này là tạo được dư nợ ổn định cho ngân hàng, việc sử dụng vốn vay sai mục đích khó xảy ra và thường có tài sản để đảm bảo khoản vay. Tuy nhiên, do thông tin không đầy đủ, cơ chế chính sách thay đổi, tính chất khoản vay phức tạp trong khi quy mô thường lớn… nên đòi hỏi trình độ cán bộ thẩm định phải đạt mức cao. Trong khi đó, chỉ trừ một số chi nhánh lớn có đội ngũ cán bộ tín dụng có kinh nghiệm (Hội sở chính, chi nhánh HCM, Đồng Nai, Đà nẵng…), còn lại phần lớn CBTD chưa được đào tạo và có kinh nghiệm trong cho vay dự án. Nhằm đảm bảo cho vay an toàn, trong khi chưa huấn luyện kịp cán bộ tín dụng, các dự án có giá trị vượt quá mức tối đa cho phép duyệt vay và có thời hạn dài (trên 3 năm) sẽ được trình Trung ương để tái thẩm định. Kiểm tra giám sát hoạt động của phòng đầu tư, tạo cho các cán bộ thái độ có trách nhiệm cao với công việc mình đang thực hiện nhưng không can thiệp vào công việc chuyên môn hay quyết định của cán bộ tín dụng trong phòng. Phòng tổ chức và đào tạo cán bộ nên quan tâm tới nhu cầu nhân lực của phòng đầu tư, sắp xếp những cá nhân thích hợp và có năng lực làm việc trong phòng. 2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Do phòng đầu tư dự án đòi hỏi những cá nhân có năng lực rất cao trong một loạt các công việc phức tạp như phân tích tài chính dự án, thẩm định dự án, dự báo tài chính doanh nghiệp... nên khâu tuyển lựa vào phòng phải được thực hiện một cách gắt gao và nghiêm túc, bảo đảm đầu vào có chất lượng tốt mới có thể đưa đến những sản phẩm đầu ra thuyết phục. Đi kèm với việc tuyển chọn có chất lượng thì các mức ưu đãi, khen thưởng cũng phải xứng đáng, khuyến khích được người lao động hết lòng làm việc sao cho xứng đáng với những gì mình được hưởng, đồng thời có những hoạt động quan tâm đến người lao động nhằm có một sợi dây liên kết giữa người lao động và ngân hàng, ngăn chặn tình trạng các ngân hàng khác cũng lôi kéo và có mức đền bù cao đối với nhân viên có năng lực của mình. Trong các bộ phận nghiệp vụ của ngân hàng thì bộ phận tín dụng vất vả hơn các bộ phận khác, trong đó bộ phận cán bộ làm nghiệp vụ tín dụng trung-dài hạn vất vả hơn. Hiện các ngân hàng khác (như Ngân hàng Công thương và Ngân hàng Kỹ thương) đã thực hiện các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, nhất là các cán bộ tín dụng với những mức phụ cấp khác nhau thay vì theo tỉ lệ đồng đều như hầu hết các ngân hàng, trong đó có Ngân hàng Ngoại thương, đang áp dụng. Chế độ lương thưởng thích đáng cũng là nguồn động lực khuyến khích cán bộ thực hiện công việc của mình tốt hơn và với trách nhiệm cao hơn. Tổ chức đào tạo, huấn luyện nhân viên phòng đầu tư với những kĩ năng mới nhất và theo chuẩn quốc tế về phân tích tài chính, phân tích rủi ro tín dụng và nghiệp vụ cho vay, cho điểm tín dụng nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động của cán bộ. Xây dựng một trung tâm đào tạo riêng của ngân hàng, mời các chuyên gia kinh tế và ngân hàng nước ngoài giảng dạy, qua đó có thể cung cấp những kiến thức mới và nâng cao trình độ ngoại ngữ cũng như kĩ năng giao dịch với các đối tác nước ngoài của cán bộ. Đầu tư cho cán bộ theo hướng cấp một số học bổng cao học hoặc đào tạo chuyên sâu, sao đó những cán bộ này sẽ quay về phục vụ ngân hàng với những kiến thức mới tiên tiến hơn và đạt được hiệu quả cao hơn. Không ngừng tìm kiếm và bổ sung đội ngũ cán bộ bằng những nhân viên mới, các sinh viên có năng lực thuộc chuyên ngành ngân hàng–tài chính. Bên cạnh đó, tăng cường thu hút, lôi kéo các cán bộ có kinh nghiệm và năng lực từ các ngành khác vào hoạt động trong khâu phân tích kỹ thuật của dự án để có thể tận dụng những kiến thức của họ trong những hoạt động mang tính chuyên môn cao mà các cán bộ xuất phát từ ngành ngân hàng không thể có. Đi kèm theo đó là các hoạt động đào tạo lại và nâng cao về nghiệp vụ cho vay trung dài hạn cũng như các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. 2.4. Nâng cao khả năng quản lý rủi ro Các hoạt động ngân hàng liên quan đến tín dụng đóng vai trò chủ chốt trong hầu hết các ngân hàng. NHNT đặt việc quản lý lên ưu tiên hàng đầu bởi ngân hàng nhận thức rất rõ nếu chất lượng tín dụng không tốt và quản lý tín dụng yếu kém thì sẽ dẫn đến những thất bại của bản thân ngân hàng. Khung cẩm nang quản lý rủi ro tín dụng của Vietcombank được công ty kiểm toán quốc tế uy tín Earnst & Young xây dựng. Các chính sách và quy trình được cải tiến sẽ đề ra chuẩn mực và thước đo nhằm hướng dẫn cán bộ ngân hàng trong việc thực hiện cho vay và quản lý các khoản vay. Trong hoạt động tín dụng trung-dài hạn, các khoản cho vay có thời hạn dài nên việc nắm bắt mọi thông tin không những trong hiện tại của doanh nghiệp mà việc dự đoán, phân tích tình hình tương lai của doanh nghiệp là việc làm vô cùng quan trọng giúp ngân hàng tránh và hạn chế được rủi ro tín dụng. Sau khi ngân hàng cho vay, việc quản lý khoản vay đó cũng quan trọng không kém khi quyết định cho vay. Quản lý khoản vay là một trong các trách nhiệm quan trọng của cán bộ tín dụng. Việc không thực hiện giám sát tín dụng chặt chẽ cũng là một trong 2 nguyên nhân khiến các ngân hàng cho vay không bảo toàn được vốn. NHNT rất chú trọng đến công tác này. Các cán bộ tín dụng của Ngân hàng giám sát hoạt động và kết quả kinh doanh của khách hàng vay trước tiên nhằm mục tiêu đảm bảo khách hàng vay tiếp tục tuân thủ cádc điều khoản trong hợp đồng tín dụng, bên cạnh đó nhằm xác định cơ hội phát triển hoạt động và mở rộng quan hệ. Công ty Kiểm toán quốc tế Earnst & Young đã phát triển một phương pháp Cho điểm Tín dụng dành cho NHNT. Phương pháp này được xây dựng bởi nhiều ma trận cho điểm tín dụng, bao gồm các chỉ số liên quan đến tín dụng, tỷ trọng của từng loại chỉ số và một hệ thống chấm điểm. NHNT trên cơ sở phương pháp của E&Y, VCB sẽ xây dựng các chuẩn mực của hoạt động cho vay, giúp các cán bộ ngân hàng có một cái nhìn tổng quát nhất về bản thân doanh nghiệp, tiết kiệm được không ít công sức và chi phí so với việc vẫn tuần tự tiến hành các bước thẩm định như trước kia. Hệ thống này có thể bao gồm những thông tin sau: Thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp: thông tin dựa trên báo cáo tài chính mới nhất do doanh nghiệp cung cấp, tập trung vào khả năng thanh khoản, tính hiệu quả của hoạt động, tổng số dư công nợ hiện tại và khả năng sinh lời. Phương pháp cho điểm dựa trên Quyết định số 57/2002QĐ-NHNN ngày 24/1/2002 của Ngân hàng Nhà nước VN. Thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một số năm gần đây quan hệ của doanh nghiệp với NHNT và các tổ chức tín dụng khác; hiệu quả của các khoản vay. Thông tin về nội bộ doanh nghiệp thông tin về bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp: trình độ quản lý của ban lãnh đạo; kinh nghiệm kinh doanh và tính khả thi của các kế hoạch kinh doanh. 2.5. Chú trọng hơn đến chiến lược sản phẩm Chiến lược sản phẩm xác định những gì ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng. Ngày nay, khách hàng không chỉ cần đến sản phẩm của ngân hàng như một lựa chọn duy nhất mà đã có những thị trường sản phẩm thật sự cho phép khách hàng có thể mua hàng tuỳ thuộc vào khả năng và nhu cầu cảu mình. Chiến lược sản phẩm hướng tới khách hàng tỏ ra là có ý nghĩa trong thời điểm này khi tất cả các ngân hàng phải đặt nhu cầu của khách hàng lên làm mục tiêu hoạt động chính mới có thể đứng vững trên thị trường. Vì vậy, ngân hàng ngoại thương cũng cần phải có những chiến lực phù hợp và có hiệu quả Ngân hàng cần xây dựng một chiến lược sản phẩm nhằm chống lại những hành động bất lợi của ngân hàng khác. Trước hết, trước nhu cầu vay vốn nội tệ tăng mạnh, ngân hàng cần chú trọng vào thu hút nguồn vốn nội tệ, giải quyết tình trạng thiếu cân đối về nguồn vốn huy động cũng như mất cân đối về các khoản vay. Thứ hai là ngân hàng phải nhận thức rõ trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng không thể hoạt động theo quan niệm khách hàng cần đến mình, chỉ bán những gì mình có mà phải bán những gì khách hàng cần. Chỉ có như thế, chiến lược sản phẩm hướng tới khách hàng mới đạt hiệu quả cao và có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác. Bên cạnh đó với hoạt động của phòng nghiên cứu khách hàng, ngân hàng có thể đưa ra những chiến lược Marketing phù hợp cho hoạt động của ngân hàng. Thứ ba, ngân hàng phải ngày càng nhanh nhạy trong vấn đề đa dạng hoá sản phẩm tín dụng. Hiện nay cho vay luân chuyển mới đang được áp dụng kèm theo dự án nhằm cung cấp vốn lưu động cho dự án của doanh nghiệp. Nhưng bản chất của cho vay luân chuyển cũng là một loại hình tín dụng trung và dài hạn được cấp cho những khách hàng quen thuộc và có chất lượng tín dụng tốt, vì vậy khi ngân hàng cung cấp sản phẩm này cho khách hàng sẽ được coi như một hình thức ưu đãi cho khách hàng, mang thêm nhiều tiện ích cho khách hàng và giữ khách hàng lại với ngân hàng. Tiếp tục tiến hành việc xây dựng sản phẩm tín dụng mới mang tính chuyên biệt cao dành cho các khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ đi đôi với việc mở rộng chi nhánh tại những trung tâm kinh tế lớn và các vùng kinh tế mới phát triển… Thiết lập hệ thống thông tin ngân hàng Thực tế cho thấy hiện thông tin phục vụ cho công tác cho vay cũng như công tác quản lý tín dụng (cả tại Hội Sở chính và Chi nhánh) còn nhiều vấn đề bất cập, không đạt cả về chất lượng lẫn số lượng theo yêu cầu. Chính vì vậy, hệ thống thông tin của Ngân hàng trong thời gian tới cần được chú trọng phát triển hơn theo hướng đầy đủ, kịp thời và có tính cảnh báo. Tại Hội sở chính có một bộ phận chuyên trách thu thập nghiên cứu đánh giá và dự báo các loại thông tin thuộc ngành nghề, mặt hàng, khách hàng, lãi suất, tỉ giá, đối thủ cạnh tranh để các chi nhánh có thể định hướng hoạt động tín dụng hoặc thoả thuận cho vay khách hàng phù hợp. Bước đầu thực hiện, ngân hàng có thể đưa ra những hoạt động cụ thể cho phòng thông tin tín dụng của ngân hàng. Phòng này hiện nay chỉ thực hiện việc thông báo về dư nợ của khách hàng tại các ngân hàng khác cũng như các biến động chính trên thị trường. Khi các phòng ban cần thông tin về một số khách hàng cụ thể làm một trong những căn cứ để cho vay khách hàng đó, phòng chưa cung cấp đủ các thông tin cần thiết, hoặc việc cung cấp thông tin còn phụ thuộc nguồn thông tin từ Ngân hàng Nhà nước. Càng sớm càng tốt, ngân hàng cần phải thiết lập được một cơ sở dữ liệu về khách hàng chứ không phải chỉ là những số liệu tài chính mà khách hàng cung cấp. Mạng lưới thông tin này sẽ mang tính cục bộ sử dụng riêng cho ngân hàng. Mạng lưới bao gồm những bộ phận chủ yếu như: (1)bộ phận thu thập thông tin (trong nước và ngoài nước) về các lĩnh vực: xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam và thế giới, xu thế và các biến động của thị trường xuất nhập khẩu thế giới, các biến động về tỷ giá, thông tin về doanh nghiệp…; (2) bộ phận xử lý thông tin: gạn lọc các thông tin cần thiết, phân tích thông tin…; (3) bộ phận cung cấp thông tin : quản lý và cung ứng thông tin qua mạng LAN nội bộ giúp cho tất cả các phòng ban có thể nhanh chóng cập nhật thông tin, giảm bớt được các thủ tục hành chính phiền hà và dài dòng, có chuyên viên phụ trách mạng thông tin của ngân hàng và sẵn sàng cộng tác như chuyên viên về thông tin mỗi khi các phòng ban cần tới. Thay đổi quy trình nhập số liệu vào mạng nhằm khai thác được các thông tin mang tính cảnh báo như thông tin về các Hợp đồng tín dụng đã ký song chưa giải ngân, thông tin nợ xấu tiềm ẩn… Nguồn thông tin về khách hàng để hỗ trợ cho cán bộ tín dụng được lấy từ (i) các phòng ban khác trong ngân hàng có giao dịch với khách hàng vay; (ii) các nhà cung cấp chính của khách hàng vay có thông tin về khả năng của khách hàng vay trong việc thanh toán tiền hàng mua từ các nhà cung cấp này; (iii) các tổ chức tài chính khác; (iv) trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và; (v) từ chính khách hàng vay. Ngoài ra ngân hàng có thể đầu tư để thành lập một công ty chuyên cung cấp thông tin cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác, thu phí cung cấp. Vốn đầu tư vào đây không chỉ phục vụ cho bản thân ngân hàng mà còn góp phần vào sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế. Hoặc thậm chí ngân hàng có thể tận dụng ngay hệ thống thông tin mình đang có và tiến hành nối mạng toàn cầu, có thể đáp ứng thông tin về thị trường và doanh nghiệp Việt Nam cho tất cả những tổ chức quan tâm đến môi trường đầu tư tràn đầy triển vọng này. Trao đổi thông tin giữa các ngân hàng không có nghĩa là làm rò rỉ thông tin mà mục đích chính là phục vụ cho sự an toàn của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thời gian đầu có thể hoạt động miễn phí để thu hút khách hàng và khẳng định uy tín cũng như chất lượng của nguồn thông tin, sau một thời gian tiến hành thu phí, khẳng định chất lượng của thông tin đi đôi với giá trị phải bỏ ra để có được thông tin đó. Công việc tiến hành thu thập thông tin là một khâu cơ bản trong hoạt động của hệ thống thông tin. Thông tin có thể được thu thập từ nhiều nguồn nhưng nguồn cơ bản nhất cũng là từ chính bản thân doanh nghiệp. ở đây ngân hàng phải tận dụng được tất cả những lợi thế trong quan hệ trước kia cũng như tài ngoại giao, khéo léo để thuyết phục doanh nghiệp cung cấp thông tin cho mình. Ngoài ra, các nguồn không chính thức cũng phải được tận dụng triệt để nhưng phải thận trọng và nhạy bén. Các cán bộ cũng cần đến sự giúp đỡ, phối hợp của các ban, ngành liên quan mới có thể có được những thông tin tổng quát nhất về doanh nghiệp. 2.7. Tăng cường hoạt động nghiên cứu khách hàng Phòng khách hàng dựa trên những thông tin do mạng thông tin cung cấp để có thể có những phân tích và đánh giá về khách hàng. Một mảng chủ yếu trong những thông tin quan trọng mà phòng này có thể cung cấp cho phòng đầu tư dự án là các đánh giá, phân loại về khách hàng, cho điểm tín dụng khách hàng và phân loại thị trường khách hàng mục tiêu. Thực chất Ngân hàng Ngoại thương đã có đề án xây dựng hệ thống cho điểm tín dụng dựa trên một loạt các tiêu chí như: khả năng tài chính của doanh nghiệp, khả năng lãnh đạo của ban giám đốc doanh nghiệp, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường và trong nội bộ ngành, quan hệ giữa ban giám đốc và công nhân viên cũng như quan hệ trong nội bộ ban giám đốc ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp và hiệu quả thực hiện dự án như thế nào... Cơ cấu khách hàng ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng, vì thế phòng nghiên cứu khách hàng phải đưa ra được cơ cấu khách hàng phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế và khả năng của riêng ngân hàng. Các khách hàng là TCty lớn của nhà nước là các khách hàng truyền thống mà ngân hàng cần phải tích cực duy trì nhưng trước sự cạnh tranh ngày một mạnh mẽ của các ngân hàng khác đang dần dần chia sẻ các khách hàng quan trọng này, ngân hàng cần phải nhanh chóng mở rộng thị trường, đa dạng hoá khách hàng nhằm chiếm được ưu thế trên thị trường tín dụng trung và dài hạn. Thị trường doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất rộng lớn và phát triển mạnh nhưng ngân hàng chưa có đủ thông tin và điều kiện xây dựng một sản phẩm có tính chuyên biệt so với các ngân hàng khác nên đây vẫn là một nhiệm vụ mà ngân hàng phải cố gắng thực hiện trong thời gian tới. Đối với thị trường các doanh nghiệp liên doanh và có vốn đầu tư của nước ngoài ngân hàng mới chỉ có thể thâm nhập rất nông và kết quả đạt được chưa cao. Các công ty xuyên quốc gia hoạt động tại Việt nam cũng chưa là khách hàng của ngân hàng. Rõ ràng đây là những thị trường đầy tiềm năng mà ngân hàng phải nỗ lực rất nhiều về vốn, trình độ nghiệp vụ cũng như nâng cao uy tín của ngân hàng mới mong có được chỗ đứng và giành được lòng tin của khách hàng. 2.8. Công nghệ ngân hàng và cung ứng dịch vụ ngân hàng Tuy ngân hàng đã có những nỗ lực vượt bậc để cải tiến cũng như áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng nhưng những gì còn phải cố gắng vẫn còn rất nhiều vì trình độ công nghệ của Ngân hàng Ngoại thương so với các ngân hàng trong nước tuy là vượt trội nhưng lại chưa thể so sánh với trình độ chung trong khu vực, nhất là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trang bị công nghệ vô cùng hiện đại. Ưu tiên cao nhất cần được phát triển trong số các ứng dụng nghiệp vụ ngân hàng lõi (core banking) chính là việc phát triển hệ thống thông tin khách hàng tập trung mang tính quốc gia (country-wide) làm nền tảng cho một loạt các ứng dụng khác, đặc biệt là các hệ thống quản lý mối quan hệ khách hàng và quản lý tri thức. Trên nền tảng hệ thống ngân hàng bán lẻ đã được triển khai và áp dụng trên toàn hệ thống, hồ sơ thông tin khách hàng được chuẩn hoá, liên kết các ứng dụng bán lẻ và tiếp tục mở rộng để đồng nhất với các ứng dụng khác như bán buôn, tài trợ thương mại. Trước mắt các cán bộ ngân hàng nên nắm vững và sử dụng nhuần nhuyễn các công nghệ hiện có trong ngân hàng, phát huy hết hiệu quả của các công nghệ hiện có. Có như vậy họ mới có cơ sở để tiếp nhận và sử dụng các công nghệ mới hơn mà không gặp khó khăn hay lúng túng đáng kể. Ngân hàng nên đầu tư nhiều hơn nữa vào việc trang bị các thiết bị hỗ trợ cho các cán bộ tín dụng trong công tác thẩm định mà đơn giản nhất là hệ thống máy tính đầy đủ,bằng các phần mềm tiên tiến và các thiết bị kết nối thu thập thông tin... Bên cạnh đó việc ứng dụng các công nghệ mới sẽ góp phần giúp cho tốc độ giao dịch tăng nhanh, tạo nên một lợi thế mới cho ngân hàng trong cố gắng thu hút khách hàng. Không ngừng cải tiến và thay thế các trang thiết bị lạc hậu, không đồng bộ bảo đảm cho hoạt động giao dịch của ngân hàng dược tiến hành thuận lợi và suôn sẻ nhất. Song song với việc duy trì trên cơ sở hoàn thiện và hiện đại hoá các dịch vụ ngân hàng truyền thống, ứng dụng các tiến bộ của công nghệ thông tin, quan điểm và cách thức nhìn nhận về một ngân hàng hiện đại trên nền tảng internet đang ngày một phổ biến và chi phối mọi hoạt động tài chính thương mại (e-banking); phát triển dịch vụ ngân hàng như Ngân hàng tại nhà (home-banking), ngân hàng qua điện thoại (voice-banking), ngân hàng di động (mobile-banking), internet banking, ngân hàng mạng (net-bank), thương mại điện tử (B2B và B2C); Phát triển hệ thống phát hành và thanh toán thẻ các loại, đa dạng hoá các loại thẻ phát hành như thẻ nội địa, thẻ ghi nợ, thẻ liên kết…. 2.9. Đẩy mạnh hoạt động cơ cấu lại nợ Công tác cơ cấu lại nợ của ngân hàng cũng rất cần thiết cho hoạt động cho vay dài hạn của ngân hàng. Nợ của ngân hàng Ngoại thương cần được phân chia theo 3 nhóm: nợ có tài sản bảo đảm, nợ không có tài sản bảo đảm và con nợ không còn tồn tại; và nợ không có tài sản bảo đảm và con nợ vẫn còn tồn tại. Ngân hàng sẽ dùng nguồn dự phòng rủi ro để trang trải cho những khoản nợ không có khả năng thu hồi ở nhóm 1 và 3. Những khoản nợ này chủ yếu là nợ chờ xử lý liên quan đến các vụ án và nợ quá hạn lâu năm của các doanh nghiệp đã giải thể và phá sản. Thực chất đây không phải là xoá nợ mà là chuyển nợ ra ngoại bảng để làm sạch bảng tổng kết, sau đó sẽ có biện pháp để tận thu nợ. Những khoản nợ có khả năng thu hồi sẽ được chuyển sang AMC để xử lý. Những khoản nợ nhóm 2 chủ yếu là những khoản nợ mà Nhà nước đã cho phép khoanh mà con nợ không còn tồn tại sẽ được Nhà nước hỗ trợ tái cấp vốn trong thời gian ngắn nhất... Cùng với sự ra đời của công ty VCB-AMC, hy vọng ngân hàng sẽ có được những chuyển biến mới trong hoạt động cho vay trung-dài hạn của mình nhằm đạt chỉ tiêu đạt tốc độ tăng trưởng tín dụng 15-20% năm. KếT LUậN Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, việc mở rộng cho vay trung-dài hạn là rất cần thiết với mỗi ngân hàng. Ta có thể nhìn nhận lợi ích của việc gia tăng cho vay trung-dài hạn là rất lớn, góp phần đa dạng hoá danh mục đầu tư của Ngân hàng, chia xẻ rủi ro, tăng nguồn lợi nhuận ổn định, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Đây là thị trường đầy tiềm năng và hứa hẹn mà Ngân hàng Ngoại thương cần khai thác một cách triệt để, hiệu quả. Qua thời gian công tác tại Ngân hàng Ngoại thương, tôi nhận thấy Ngana hàng đã có rất nhiều nỗ lực trong việc tăng cường công tác cho vay trung-dài hạn và đa dạng hoá cơ sở khách hàng, tuy nhiên Ngân hàng còn gặp không ít khó khăn từ nhiều phía: môi trường pháp lý, doanh nghiệp và bản thân Ngân hàng. Để tháo gỡ những khó khăn này cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa Ngân hàng, doanh nghiệp và các cơ qua quản lý Nhà nước. Có như vậy, tín dụng ngân hàng mới đạt hiệu quả cao, kích thích các doanh nghiệp phát triển và thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tôi mong rằng những kiến nghị và giải pháp được trình bày trong Khoá luận Tốt nghiệp này có thể phần nào giải quyết được yêu cầu cải thiện tình hình cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương hiện nay, góp phần vào thành công của Đề án Tái Cơ cấu Ngân hàng Ngoại thương tiến đến trở thành ngân hàng hàng đầu tại Việt nam và là ngân hàng quốc tế cấp khu vực, vì sự phát triển của nền kinh tế quốc gia, đưa đất nước tiến nhanh theo con đường CNH-HĐH, hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Tài liệu tham khảo Peter S. Rose, “Quản trị Ngân hàng Thương mại”, NXB McGraw-Hill Irwin, 1/1988. Paul G. Keate, “Kinh tế học Quản lý”, Prentice Hall PTR, 1/1996. TS. Nguyễn Văn Tiến: “Đánh giá và Phòng ngừa Rủi ro trong Kinh doanh Ngân hàng”. NXB Thống Kê-2002. Luật Ngân hàng và Luật các Tổ chức Tín dụng Việt nam, NXB Thống kê, T4/1999. Giáo trình Phân tích và quản lý dự án đầu tư, ĐH Kinh tế Quốc dân Quy định về thẩm định dự án đầu tư trung dài hạn của Ngân hàng Ngoại thương. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương năm 1999-2003. “Đề án Tái Cơ cấu Ngân hàng Ngoại thương đến năm 2005” – 2001. Khung cẩm nang quản lý rủi ro của Earnst & Young, 2002. Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt nam các năm 1999-2003. Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt nam số 1+2+3/2003 “Các Ngân hàng Thương mại Việt nam trước thách thức và hội nhập”, “Vietcombank – 40 năm xây dựng và trưởng thành”. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, số 24 ngày 15/12/2002. Tạp chí Ngân hàng (Banking Review) của Ngân hàng Nhà nước, số 0866-7462, chuyên đề 2003; Số 1+2/2003. Thời báo Ngân hàng, Xuân Quý mùi 2003. Website của Ngân hàng Ngoại thương. ******

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiai phap nang cao kha nang canh tranh cua Ngan hang Ngoai t.doc
  • docBIA.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan