Khóa luận Giải pháp nhằm phát triển hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế đất nước, hoạt động kinh tế đối ngoại đã được Chính phủ Việt nam đặc biệt coi trọng. Việt nam có điểm xuất phát vào loại thấp nhất thế giới nên yêu cầu phát triển kinh tế đối ngoại được đặt ra như một nhu cầu sống còn hoặc là phát triển vượt lên trước hoặc là tụt lại sau và ngày càng xa rời các cơ hội phát triển. Từ cuối năm 80 trở lại đây nền kinh tế Việt nam đang đi dần vào thế ổn định và phát triển. Quan hệ đối nội và đối ngoại ngày càng được mở rộng. Quan hệ đối ngoại được coi là "một mũi nhọn của sự đổi mới". Các chính sách ngoại thương luôn được coi là những chính sách nằm trong chiến lược kinh tế xã hội. Từ nay đến năm 2010, với phương châm "phát huy lợi thế tương đối, đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sống hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu bằng những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả". Để đẩy mạnh xuất khẩu cần nâng cao chất lượng, mở rộng sản xuất, đa dạng hoá các mặt hàng. Muốn vậy phải có sự đầu tư thích đáng về máy móc thiết bị cũng như công nghệ sản xuất . trong khi vốn của các doanh nghiệp này còn rất ít ỏi. Thực tế này đã đặt các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu trước một thách thức lớn là vấn đề vốn. Giải quyết bài toán hóc búa này, hoạt động tín dụng của các NHTM nói chung và Ngân hàng Ngoại thương VN nói riêng với tư cách là trung tâm cung ứng vốn đảm bảo cho sự hoạt động của các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu giữ một vai trò rất lớn. Hoạt động cho vay đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu là hết sức phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro, nó không những phải chịu tác động của chính sách kinh tế trong nước mà còn chịu sự tác động trực tiếp của thị trường tiền tệ quốc tế, chịu sự tác động của nhiều qui phạm, nguồn luật khác nhau. Hơn nữa trong thời điểm hiện nay khi các NHTM được phép kinh doanh đối ngoại, rồi sự xuất hiện của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng liên doanh . thì tất nhiên Ngân hàng Ngoại thương VN không còn giữ vị trí độc quyền như trước đây trong việc cho vay phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu và có sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Bởi thế, bức tranh về cho vay xuất nhập khẩu càng phong phú hơn, chứa đựng nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Trong thời gian ngắn, khi nghiên cứu, tìm hiểu thực tế hoạt động tín dụng đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu của Ngân hàng Ngoại thương VN em thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung, biện pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc và thực hiện hoạt động tín dụng của ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường là một việc cần thiết. Với lý do đó cùng với sự hướng dẫn của cô Lê Thị Thanh và sự chỉ bảo tận tình của các đồng nghiệp tại Phòng Tín dụng Ngân hàng Ngoại thương VN em đã mạnh dạn nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp với đề tài: "Giải pháp nhằm phát triển hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam". LỜI MỞ ĐẦU 5 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU Ở NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 7 I. HOẠT ĐỘNG XNK VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 7 1. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng 7 2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động kinh doanh XNK 8 2.1. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế 8 2.1.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 9 2.1.2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu 10 2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu 11 II. HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM 12 1. Nguyên tắc cho vay của tín dụng ngân hàng 12 2. Các nghiệp vụ cơ bản trong cho vay xuất nhập khẩu 13 2.1. Cho vay thông thường 13 2.2. Tín dụng thuê mua - Leasing 15 2.3. Cho vay thấu chi (Overdraft) 15 2.4. Nghiệp vụ cho vay trên cơ sở hối phiếu 16 2.4.1. Tín dụng chiết khấu hối phiếu 16 2.4.2. Tín dụng đối với hối phiếu tư nhân nợ (kỳ phiếu) 19 2.4.3. Tín dụng chấp nhận hối phiếu 20 2.5. Nghiệp vụ cho vay trong khuôn khổ tín dụng chứng từ 21 2.6. Nghiệp vụ tín dụng ứng trước cho hoạt động xuất nhập khẩu 23 2.6.1. Đối với nhà xuất khẩu 23 2.6.2. Đối với nhà nhập khẩu 25 III. CHÍNH SÁCH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU 26 1. Chính sách khách hàng 26 2. Chính sách hạn mức tín dụng 26 3. Chính sách lãi suất 27 4. Chính sách đảm bảo tín dụng 27 5. Chính sách kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn 28 6. Chính sách thu nợ, xử lý nợ và điều chỉnh lãi suất 29 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 30 I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VN 30 1. Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương VN 30 2. Công tác tín dụng của NH Ngoại thương VN trong thời gian qua 30 2.1. Huy động vốn 32 2.2. Sử dụng vốn 34 2.3. Những tồn tại cần khắc phục 37 3. Chấp nhận cạnh tranh và không ngừng đổi mới để hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế 38 4. Các nghiệp vụ kinh doanh sản phẩm ngân hàng mới được mở rộng 39 II. CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VN 40 1. Chính sách khách hàng 40 2. Chính sách thời hạn tín dụng 46 3. Chính sách hạn mức tín dụng 48 4. Chính sách lãi suất tín dụng 50 5. Chính sách tỷ giá hối đoái 50 6. Chính sách đảm bảo tín dụng: 51 7. Chính sách kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn 53 8. Chính sách thu nợ, gia hạn nợ và các biện pháp phòng ngừa rủi ro 54 III. HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VN 56 1. Cho vay xuất khẩu 56 2. Cho vay nhập khẩu 57 3. Đánh giá hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Ngoại thương VN 58 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 62 I. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRONG GIAI ĐOẠN 2003-2005 62 1. Định hướng chung của nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2003-2005 62 2. Định hướng của ngân hàng Ngoại thương Việt nam về hoạt động cho vay xuất nhập khẩu trong thời gian tới 63 II. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 64 1. Giải pháp 64 1.1. Củng cố công tác chỉ đạo về hoạt động cho vay XNK 64 1.2. Tăng nguồn vốn huy động 65 1.3. Đa dạng hoá các hình thức cho vay 65 1.4. Kết hợp đồng bộ và hiệu quả các chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động cho vay xuất nhập khẩu 66 1.5. Đầu tư đổi mới hệ thống công nghệ thanh toán 67 1.6. Tăng chường công tác tổ chức đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ ngân hàng trong hoạt động xuất nhập khẩu 67 2. Kiến nghị 68 2.1. Đối với nhà nước 68 2.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước 69 KẾT LUẬN 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO 71

doc71 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nhằm phát triển hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trả nợ). Thời hạn cho vay được tính căn cứ vào thời hạn một vòng luân chuyển và nhu cầu vốn của bên vay nhưng tối đa không quá 12 tháng. Thời hạn cho vay được tính như sau: - Đối với cho vay thông thường: +Thời hạn cho vay được tính từ ngày rút khoản vốn đầu tiên cho đến khi trả xong nợ. +Thời hạn cho vay tính riêng cho từng lần rút vốn. Doanh nghiệp được chọn một trong hai cách trên. - Đối với cho vay luân chuyển: thời hạn cho vay được tính hàng quý mùa vụ hoặc do hai bên thoả thuận. Tín dụng trung và dài hạn: Tín dụng trung và dài hạn đạt 10.556 tỷ VNĐ tăng 132% so với năm 2001 và chiếm tỷ trọng 40% (năm 2001 là 31%). Khoản mục tín dụng này cũng được chia làm hai phần là tín dụng bằng VND và tín dụng bằng ngoại tệ. Ngân hàng Ngoại thương VN cấp tín dụng trung và dài hạn bằng ngoại tệ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm mục đích: - Nhập khẩu máy móc thiết bị của nước ngoài và chi phi vận tải bảo hiểm. - Góp vốn liên doanh sản xuất hàng xuất khẩu (nếu có nguồn trả nợ và chỉ cho vay bổ sung). Ngân hàng Ngoại thương VN không cho vay ngoại tệ để: +Trả nợ cho vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế trong nước. +Bán lại cho Ngân hàng Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại để lấy tiền Việt nam. Ngân hàng Ngoại thương VN cấp tín dụng trung và dài hạn bằng VND cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm mục đích: - Mua sắm máy móc thiết bị trong nước. - Góp vốn liên doanh. Thời hạn cho vay được xác định căn cứ vào yêu cầu của dự án, các nguồn trả nợ và khả năng thu hồi vốn. Do khả năng nguồn vốn Ngân hàng Ngoại thương VN cho vay chủ yếu trung hạn, chỉ cho vay dài hạn khi đã có nguồn vốn xác định. Thời hạn cho vay tính từ khi bên vay nhận khoản vốn đầu tiên cho đến khi trả hết nợ. Thời gian ân hạn được tính tương ứng với thời gian xây dưng công trình, đơn vị nhận tiền vay thi công công trình, mua sắm thiết bị sản xuất thử. Tuỳ đặc điểm sản xuất kinh doanh và nguồn thu nợ mà ngân hàng và bên vay thoả thuận các kỳ hạn nợ (tháng, quý,...) và số tiền trả nợ từng kỳ. Đối với các công trình xây dựng mới, bên vay không có nguồn vốn nào khác, có thể bắt đầu thu nợ gốc từ sau khi công trình đưa vào sản xuất hoặc khai thác từng phần. Việc nghiên cứu thời hạn tín dụng xuất nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với việc quản lý tài sản của ngân hàng, nó một mặt nhằm thực hiện tốt các quy định về quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước, cho ngân hàng lập kế hoạch cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn, đảm bảo tính thanh khoản của tài sản có đồng thời nâng cao hiệu quả, tăng vòng quay sử dụng vốn. Mặt khác thông qua thời hạn tín dụng của ngân hàng phần nào thấy được sự tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế. Với khoản vay ngắn hạn, thời gian thu hồi vốn ngắn, rủi ro tín dụng thấp và ngược lại với khoản vay dài hạn. Nếu ngân hàng chỉ nhìn vào lợi nhuận của mình thì chắc chắn khoản mục tín dụng ngắn hạn sẽ được chú trọng phát triển, nhưng nếu nhìn trên bình diện toàn bộ nền kinh tế: khi vốn ngắn hạn lớn, vốn đầu tư cho trung và dài hạn ít chứng tỏ sự ồ ạt trong đầu tư theo chiều rộng là chính, kinh doanh thương mại là chủ yếu. Vì vậy về lâu dài ngân hàng cần nâng cao tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn, tạo sự tăng trưởng thật sự về mặt chất cho nền kinh tế. 3. Chính sách hạn mức tín dụng Hạn mức tín dụng là giới hạn quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các đơn vị vay vốn. Cơ sở xác định hạn mức tín dụng cho mỗi đơn vị phụ thuộc tổng hạn mức tín dụng mà Ngân hàng Ngoại thương VN được phép cho vay và nhu cầu vốn vay của đơn vị. Tổng dư nợ các loại tại Ngân hàng Ngoại thương VN của một doanh nghiệp không vượt quá 10% vốn tự có của toàn hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (trừ trường hợp nợ khê đọng đã khoanh và các khoản cho vay theo chỉ định của chính phủ). Tổng số vốn cho 10 doanh nghiệp vay nhiều nhất không vượt quá 30% tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống. Ngân hàng Ngoại thương VN được phép phán quyết cho vay ở các mức sau: +Tín dụng ngắn hạn:10 tỷ VND hoặc 1 triệu USD. +Tín dụng trung và dài hạn: 5 tỷ VND hoặc 1 triệu USD. Nhu cầu vốn tín dụng của các đơn vị thường rất đa dạng, liên tục thay đổi, vì vậy hạn mức tín dụng ấn định thường không được xem là điều bắt buộc, mang tính pháp lý đối với ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương VN phân chia hạn mức tín dụng theo nhu cầu sử dụng vốn của các đơn vị như sau: * Hạn mức tín dụng cấp cho các đơn vị có nhu cầu vốn đều đặn hàng tháng, theo mùa vụ,.. thường bao gồm các đơn vị sản xuất gia công hàng xuất khẩu có hợp đồng ổn định, các đơn vị nhập khẩu vật tư hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất thường xuyên, ngân hàng sẽ ra hạn mức cho vay từng quý hoặc mùa vụ. * Hạn mức tín dụng cấp cho các đơn vị có nhu cầu vốn thất thường: đây là loại phổ biến ở Ngân hàng Ngoại thương VN. Tín dụng cấp cho loại hình này chủ yếu là tín dụng ngắn hạn phục vụ nhu cầu chi trả, thanh toán trong quan hệ kinh doanh buôn bán của khách hàng. Hợp đồng tín dụng được thực hiện theo từng khoản vay khi khách hàng có nhu cầu. Khách hàng có thể rút vốn bất cứ lúc nào nằm trong hạn mức được ngân hàng cho phép. Hạn mức tín dụng trung và dài hạn cấp cho khách hàng bằng tổng mức đầu tư trừ đi nguồn vốn tự có của doanh nghiệp có thể huy động được, tối đa không vượt quá 80% tổng mức đầu tư. Nhu cầu vốn xuất phát từ sản xuất kinh doanh do đó có đơn vị có nhu cầu sử dụng quá hạn mức, ngược lại có đơn vị sử dụng chưa hết hạn mức. Chính vì vậy việc phân chia hạn mức và việc vận dụng chính sách hạn mức tín dụng đòi hỏi phải linh hoạt mềm dẻo đúng quy luật cung- cầu, đảm bảo đồng vốn có hiệu quả. Theo quy định hiện hành chỉ có các đơn vị kinh tế quốc doanh mới được cấp hạn mức tín dụng và sử dụng hạn mức đó trong cả năm hoạt động. Ngân hàng có chính sách ưu tiên hạn mức đối với các đơn vị làm ăn có hiệu quả bằng cách cho vay vượt hạn mức nhưng đến cuối quý cuối năm phải điều chỉnh dư nợ của đơn vị không vượt quá hạn mức cho phép. 4. Chính sách lãi suất tín dụng Một trong những việc liên quan đến quản trị kinh doanh vốn có nhiều biến động nhất trong năm 2002 của Ngân hàng Ngoại thương VN phải kể đến công tác điều hành lãi suất của Hội đồng quản trị. Trong năm 2002, HĐQT đã 19 lần ra Quyết định điều chỉnh lãi suất để điều chỉnh 29 mức lãi suất; trong đó lãi suất tiền Tiết kiệm điều chỉnh 8 lần, lãi suất nội bộ 12 lần, lãi suất cho vay khách hàng 5 lần, lãi suất tiền gửi của Tổ chức kinh tế 4 lần. Năm 2002 không chỉ là năm có số lần thay đổi các mức lãi suất nhiều nhất mà điều đáng ghi nhận trong công tác điều hành lãi suất là năm 2002 đã chứng kiến nhiều chuyển biến tích cực nhất trong việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cụ thể như sau: Lãi suất VND: Cuộc chạy đua về huy động vốn giữa các ngân hàng năm nay diễn ra rất quyết liệt, thể hiện rõ nét qua lãi suất huy động. Nhiều ngân hàng để lãi suất tiền gửi của tổ chức tương đương lãi suất huy động từ dân cư, liên tục phát hành kỳ phiếu, trái phiếu với lãi suất xấp xỉ lãi suất cho vay. Trước sức ép cạnh tranh gay gắt như vậy và để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng tăng cao, lãi suất huy động của Ngân hàng Ngoại thương VN năm nay đã có những điều chỉnh khá lớn về cách thức quản lý và quy mô. Kết quả là huy động vốn từ dân cư đã tăng được 2600 tỷ (+94%) – mức tăng cao nhất từ trước tới nay. + Đối với lãi suất cho vay: chuyển từ qui định lãi suất cho vay theo khung sang quản lý theo cơ chế lãi suất cho vay ưu đãi. Đây là điều kiện thuận lợi để dư nợ tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương VN đạt được bước đột phá (tăng 2500 tỷ trong vòng 4 tháng chiếm 50% mức tăng cả năm). Lãi suất ngoại tệ: Chuyển từ cơ chế qui định mức trần lãi suất huy động tiết kiệm ngoại tệ sang cơ chế lãi suất tham khảo. Lần đầu tiên mức lãi suất thưởng đã được áp dụng. Chủ tịch HĐQT đã ký quyết định thưởng thêm 0.2%/năm cho các chi nhánh huy động vốn ngoại tệ gửi về hội sở chính áp dụng từ 22.11.2002 đến hết 31.12.2002. 5. Chính sách tỷ giá hối đoái Một chính sách tỷ giá hối đoái sai lầm thường là nguyên nhân chính gây ra cơn sốt ngoại tệ, đầu cơ ngoại tệ, thầm chí dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ. Vì vậy trong quá trình hoạt động, Ngân hàng Ngoại thương VN đặc biệt chú trọng đến điều chỉnh tỷ giá hối đoái sao cho phù hợp với chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước và góp phần làm ổn định, cân đối nguồn vốn ngoại tệ của ngân hàng, tránh những rủi ro hối đoái, đảm bảo đủ nguồn vốn ngoại tệ cung ứng cho nền kinh tế. Hiện nay nước ta áp dụng chính sách tỉ giá ổn định có điều chỉnh. Chính phủ can thiệp vào thị trường ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỉ giá qui định. Nhà nước qui định một mức tỉ giá chính thức và các NHTM thực hiện các giao dịch mua bán ngoại tệ xung quanh mức tỉ giá này theo một biên độ được Nhà nước cho phép. Tại Ngân hàng Ngoại thương VN hiện nay việc áp dụng tỉ giá cũng được thực hiện theo qui định trên. Ngân hàng áp dụng 3 loại tỉ giá: tỉ giá mua vào trên thị trường, tỉ giá bán ra và tỉ giá chuyển khoản. 6. Chính sách đảm bảo tín dụng: Đối với các ngân hàng việc giảm bớt các rủi ro về vốn bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chính sách đảm bảo tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương VN cũng nhằm thực hiện tốt mục tiêu trên. Đảm bảo tín dụng được thực hiện thông qua hình thức cơ bản là thế chấp, cầm cố tài sản và tín chấp. Thế chấp cầm cố tài sản bằng việc bên vay dùng tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình làm vật bảo đảm để vay vốn ngân hàng. Đến hạn trả nợ, nếu bên vay trả xong nợ thì ngân hàng sẽ trả lại giấy tờ sở hữu tài sản đã nhận làm thế chấp, cầm cố cho bên vay. Ngược lại, nếu bên vay không trả được nợ hoặc trả không hết nợ thì ngân hàng có quyền bán tài sản thế chấp, cầm cố này để thu hồi khoản vốn mình đã bỏ ra. Việc thế chấp, cầm cố tài sản ở Ngân hàng Ngoại thương VN được thực hiện theo qui chế thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 217/QĐ-NH ngày 17/08/1996 của Thống đốc NHNN Việt nam và văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Ngoại thương VN. Đối tượng phải thế chấp cầm cố tài sản: Theo qui định hiện hành tất cả các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh khi vay vốn Ngân hàng Ngoại thương VN bắt buộc phải có tài sản để đảm bảo tín dụng. Các đơn vị thuộc loại hình này bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh Việt nam và nước ngoài, công ty 100% vốn nước ngoài, HTX, hộ sản xuất cá thể. Các đơn vị kinh tế quốc doanh khi vay vốn ngân hàng không nhất thiết phải có tài sản làm đảm bảo tín dụng. Vật đảm bảo, thế chấp, cầm cố: Tài sản được sử dụng là vật thế chấp, cầm cố mà Ngân hàng Ngoại thương VN chấp nhận là các tài sản đã có sẵn và các tài sản được xây cất, mua sắm từ vốn vay của ngân hàng. Tài sản thế chấp bao gồm bất động sản (quyền sử dụng đất đai, nhà cửa, công trình xây dựng,...) và các động sản (phương tiện vận tải, kho hàng...). Tài sản thế chấp phải có các điều kiện sau: + Tất cả các tài sản này phải thuộc quyền sở hữu hợp lý, hợp pháp của bên vay hoặc tài sản của người khác tự nguyện cho bên vay sử dụng để làm thế chấp cho ngân hàng. + Tài sản đang được sử dụng có hiệu quả, chưa dùng thế chấp, cho thuê, cho mượn, gán nợ hoặc chuyển quyền sở hữu dưới bất kỳ hình thức nào. + Đối với tài sản phải mua bảo hiểm theo qui định bắt buộc của pháp luật thì chủ sở hữu tài sản phải mua bảo hiểm đầy đủ cho tài sản. + Tài sản thế chấp không nằm trong danh mục tài sản bị pháp luật cấm. + Tài sản thế chấp là kho hàng thì hàng hoá trong kho phải còn nguyên phẩm chất, có thể bảo quản dài hạn mà không ảnh hưởng đến phẩm chất, qui cách, không bị lạc hậu về kỹ thuật... Kho hàng phải có đầy đủ những điều kiện về chống cháy, mất cắp và mọi nguyên nhân khác có thể làm giảm phẩm chất hàng hoá. + Tài sản hình thành từ vốn vay của ngân hàng dùng để thế chấp khi vay, bên vay làm thủ tục thế chấp mà chưa có giấy tờ sở hữu hàng hoá thì trong quá trình thực hiện ngân hàng phải giám sát bổ sung đầy đủ giấy tờ sở hữu hàng hoá và hồ sơ tín dụng thế chấp theo đúng qui định của pháp luật. Các tài sản bên vay đem cầm cố, Ngân hàng Ngoại thương VN chỉ nhận cầm cố bất động sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên vay, thông thường gồm: vàng bạc, đá quí, chứng chỉ có giá (do NHQD và Kho bạc Nhà nước phát hành) còn thời hạn thanh toán, các máy móc nhỏ có giá trị lớn. Đảm bảo tín dụng bằng thế chấp, cầm cố tài sản là một hình thức mà ngân hàng sẽ chắc chắn thu hồi được nợ tuy nhiên mục tiêu của ngân hàng là tài trợ vốn cho các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh có lãi từ đó trả nợ được cho ngân hàng chứ không phải thu hồi nợ từ việc phát mại tài sản của khách hàng. Do đó biện pháp đảm bảo tín dụng bằng thế chấp, cầm cố tài sản chỉ phát huy tác dụng khi ngân hàng đã sử dụng mọi nỗ lực và biện pháp thu hồi nợ khác nhau mà vẫn không thu được hiệu quả. Tại Ngân hàng Ngoại thương VN, bảo đảm tín dụng bằng tín chấp chiếm tới 60% dư nợ tín dụng, hình thức này giảm được thủ tục phiền hà giữa ngân hàng và khách hàng và cho thấy việc sử dụng đồng vốn của ngân hàng trong sản xuất kinh doanh rất có hiệu quả. Vì vậy Ngân hàng Ngoại thương VN trong việc triển khai công tác tín dụng thời gian qua đã chủ trương mở rộng qui mô tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thông qua việc tìm kiếm, khai thác nguồn hàng tin cậy không chỉ đối với đơn vị kinh tế quốc doanh mà cả với đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh bằng cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo qui định đảm bảo tín dụng ngân hàng, đẩy mạnh việc nghiên cứu, đánh giá khách hàng để tăng tỉ trọng đảm bảo tín dụng bằng tín chấp. 7. Chính sách kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn được tiến hành từ khi phát tiền vay đến khi ngân hàng thu hồi được toàn bộ nợ, chấm dứt hợp đồng tín dụng. Công tác này ở Ngân hàng Ngoại thương VN được thực hiện một cách nghiêm ngặt, có sự giám sát và phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban chức năng quản lý và thực hiện tín dụng với các phòng nghiệp vụ. Ví dụ khi đơn vị xuất khẩu muốn cấp tín dụng phải xuất trình bộ chứng từ thanh toán tại phòng thanh toán xuất khẩu, đồng thời cán bộ tín dụng thường xuyên kiểm tra, nắm bắt tình hình đơn vị và yêu cầu đơn vị định kỳ hàng tháng, quí, năm gửi đến ngân hàng báo cáo tài chính. Với đơn vị nhập khẩu muốn mở L/C phải gửi hồ sơ lên phòng tín dụng, phòng tín dụng xem xét thẩm định nếu đồng ý, sẽ lập hồ sơ cho vay và khi đó phòng thanh toán nhập khẩu sẽ mở L/C cho đơn vị này. Khi giám sát việc sử dụng vốn nếu các trường hợp sau xảy ra, Ngân hàng Ngoại thương VN sẽ đình chỉ việc cấp tín dụng và có biện pháp xử lý: Đơn vị sử dụng vốn vay không đúng mục đích ghi trong hợp đồng tín dụng. Đơn vị vay vốn tự ý bán tài sản thế chấp mà ngân hàng giao cho đơn vị tự quản lý. Đơn vị vay vốn cung cấp các tài liệu về tình hình tài chính của đơn vị mình không trung thực. Tùy trường hợp và điều kiện cụ thể mà ngân hàng có biện pháp xử lý cụ thể như: thoả thuận cùng với đơn vị tìm biện pháp khắc phục, chấm dứt hợp đồng và yêu cầu đơn vị trả nợ cho ngân hàng, thu hồi nợ trước hạn, phát mại tài sản thế chấp, cầm cố để thu nợ, khởi kiện... Kiểm tra giám sát còn được thực hiện thông qua phòng thanh tra ngân hàng. Tại đây các mối quan hệ nghi vấn giữa cán bộ tín dụng và khách hàng được kiểm tra. Định kỳ hàng tuần thanh tra ngân hàng tiến hành kiểm tra hồ sơ để nắm bắt được doanh số cho vay và những sai phạm trong quá trình cho vay. 8. Chính sách thu nợ, gia hạn nợ và các biện pháp phòng ngừa rủi ro Mục tiêu của chính sách này là làm thế nào thu hồi được cả vốn và lãi mà vẫn duy trì được mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng và khách hàng. Trên nguyên tắc khi hết thời hạn cho vay, khách hàng phải hoàn trả nhưng có thể do một số nguyên nhân như hàng hoá chưa bán được để thu hồi vốn, gặp phải những rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh, do ý thức đạo đức của khách hàng... mà khách hàng không hoàn trả đúng hạn. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà cán bộ tín dụng quản lý việc thu nợ áp dụng những biện pháp thích hợp. Việc thu nợ đối với các khoản vay trung và dài hạn được Ngân hàng Ngoại thương VN qui định quá trình thu nợ như sau: Nợ gốc thu theo thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, lãi thu hàng tháng. Trường hợp đặc biệt bên vay không có nguồn trả lãi hàng tháng thì giám đốc xét duyệt thu vào các tháng kế tiếp kể từ sau khi công trình đưa vào sản xuất do hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Đến hạn trả nợ gốc và lãi bên vay phải chủ động chuyển tiền trả nợ. Nếu bên vay không chủ động ngân hàng được quyền trích tài khoản tiền gửi các loại của bên vay để thu nợ. Nếu tài khoản tiền gửi của bên vay không đủ sẽ chuyển số tiền còn lại sang nợ quá hạn và theo dõi thu khi tài khoản tiền gửi của khách hàng có tiền. Số tiền lãi chưa thu được hạch toán ngoại bảng. Nguồn vốn bên vay dùng để trả nợ gồm toàn bộ khấu hao cơ bản hình thành từ vốn vay, một phần lợi nhuận, các quĩ và nguồn vốn khác có thể huy động được. Bên vay có thể trả nợ trước cho ngân hàng sau khi thông báo bằng văn bản cho ngân hàng. Với tiền vay ngắn hạn Ngân hàng Ngoại thương VN qui định việc thu nợ như sau: Đơn vị vay vốn có thể nộp tiền bán hàng vào bên có tài khoản vay hoặc trích từ tài khoản tiền gửi để trả nợ. Trường hợp khoản vay vượt hạn mức tín dụng, ngân hàng chấm dứt phát tiền vay mới, trích tài khoản tiền gửi của bên vay để thu nợ. Nếu tài khoản tiền gửi của bên vay không đủ trả nợ, ngân hàng yêu cầu bên vay tìm nguồn để trả nợ kịp thời. Nếu bên vay không có nguồn nào để giảm dư nợ vượt mức, ngân hàng chuyển dư nợ vượt mức sang tài khoản cho vay thông thường với thời hạn tối đa là 30 ngày (không được gia hạn nợ). Sau thời hạn này ngân hàng thu theo lãi phạt quá hạn. Trường hợp cho vay ngoại tệ bên vay nhận nợ bằng ngoại tệ nào thì trả nợ gốc và lãi bằng ngoại tệ đấy. Nếu bên vay không có loại ngoại tệ thích hợp thì có thể sử dụng loại ngoại tệ tự do chuyển đổi khác hoặc đồng Việt nam qui đổi ra loại ngoại tệ cần thiết thông qua việc mua bán ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương VN. Đến hạn trả nợ bên vay nếu có lý do khách quan dẫn đến chậm trả thì bên vay có thể gửi văn bản đến Ngân hàng Ngoại thương VN xin gia hạn nợ. Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương VN xem xét nếu thấy có thể gia hạn nợ được thì cho phép làm thủ tục gia hạn nợ nhưng thời gian gia hạn nợ tối đa không được vượt quá thời hạn cho vay. Tổng cộng thời gian cho vay và thời gian gia hạn nợ không được quá 12 tháng. Các hợp đồng tín dụng có thời hạn cho vay từ 10 đến 12 tháng có thời hạn gia hạn nợ tối đa là 3 tháng. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương VN: Biện pháp 1: làm tốt khâu thẩm định và phân tích khách hàng, kiểm tra, giám sát một cách tốt nhất việc sử dụng vốn của khách hàng. Biện pháp 2: Các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải thực hiện thanh toán qua Ngân hàng Ngoại thương VN. Qua hoạt động này ngân hàng sẽ kiểm tra một cách chặt chẽ khoản tiền cho vay của mình, khi có tiền về ngân hàng sẽ biết và thu hồi nợ ngay. Biện pháp 3: khi đơn vị không trả được nợ theo đúng thời hạn thì ngân hàng có thể xem xét giảm mức lãi suất, gia hạn nợ. Biện pháp 4: đơn vị không có khả năng trả nợ sau khi ngân hàng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết, ngân hàng buộc phải sử dụng biện pháp phát mại tài sản thế chấp và cầm cố của doanh nghiệp. III. HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VN Từ khi thành lập đến nay Ngân hàng Ngoại thương VN vẫn là ngân hàng chủ lực trong cho vay xuất nhập khẩu. Doanh số cho vay của ngân hàng chủ yếu là phục vụ cho lĩnh vực xuất nhập khẩu, chiếm tỉ lệ 98% doanh số cho vay của ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương VN đã có đóng góp rất to lớn cho những bước tăng trưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt nam thời gian qua. Là ngân hàng có truyền thống trong thanh toán quốc tế, năm qua Ngân hàng Ngoại thương VN vẫn duy trì được thế mạnh và vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực này, góp phần tích cực vào việc tăng trưởng XNK của đất nước. Năm 2002, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua Ngân hàng Ngoại thương VN đạt 10,2 tỷ USD, tăng 10,2% so với năm 2001, chiếm 28,4% kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của cả nước. Đây là lần đầu tiên doanh số thanh toán XNK của Ngân hàng Ngoại thương VN vượt qua ngưỡng 10 tỷ USD. 1. Cho vay xuất khẩu Ngân hàng Ngoại thương VN cho vay đồng Việt nam với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu. Ngân hàng Ngoại thương VN cho các doanh nghiệp xuất khẩu vay nhằm mục đích xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, mua sắm máy móc thiết bị trong nước, chi trả chi phí xây lắp, góp vốn liên doanh sản xuất hàng xuất khẩu, gia công chế biến và thu mua các mặt hàng xuất khẩu như hàng thủ công mỹ nghệ, hàng nông thổ sản, hàng thuỷ hải sản. Doanh số thanh toán xuất khẩu đạt 4,7 tỷ USD, tăng 5,7% so với năm 2001, chiếm 28,3% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của cả nước. Các mặt hàng đạt tỷ trọng cao trong doanh số thanh toán xuất khẩu qua Ngân hàng Ngoại thương VN là: Dầu thô (39,1%), Thuỷ sản (13,4%), Gạo (6,9%)v..v.. Đặc biệt là mặt hàng chiến lược dầu thô có doanh số thanh toán qua Ngân hàng Ngoại thương VN đạt 1.873 triệu USD, chiếm 58% kim ngạch xuất khẩu dầu thô của cả nước. Ngân hàng Ngoại thương VN đã liên doanh với 2 doanh nghiệp Nhật bản thành lập Công ty cho thuê tài chính Việt nam (VinaLease-VLC). Đây là công ty cho thuê tài chính đầu tiên có ở Hà nội phục vụ cho những doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh. Ngân hàng Ngoại thương góp vốn liên doanh 40% và 2 doanh nghiệp Nhật bản 60% (The Long Term Credit Bank of Japan và Japan Leasing Corporation). Với tiềm lực dồi dào về tài chính, số vốn pháp định ban đầu hơn 10 triệu USD và kinh nghiệm tích luỹ trong lĩnh vực cho thuê tài chính, VLC sẽ cung cấp các dịch vụ cho thuê các loại tài sản gồm: thiết bị viễn thông, thiết bị y tế, nhà xưởng, máy móc công nghiệp, máy xây dựng, phương tiện giao thông, trang thiết bị văn phòng,... Với tiềm năng trên, VLC sẽ góp phần tạo sự phong phú cho hoạt động tài chính-ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, tăng khối lượng hàng xuất khẩu của Việt nam. 2. Cho vay nhập khẩu Ngân hàng Ngoại thương VN cho các doanh nghiệp nhập khẩu vay để nhập khẩu hàng hoá chủ yếu bằng hình thức cho vay ngoại tệ để mở L/C nhập khẩu. Ngân hàng Ngoại thương VN cũng thực hiện bảo lãnh cho các tổ chức kinh tế trong nước nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài. Một điểm nổi bật trong hoạt động cho vay nhập khẩu là cho vay nhập khẩu hàng hoá để tạo vốn thu mua hàng xuất khẩu (tạm nhập, tái xuất). Có thể nói việc gắn nhập khẩu phục vụ sản xuất với thu mua hàng xuất khẩu là một giải pháp hiệu quả và sáng tạo của Ngân hàng Ngoại thương VN trong hoạt động tín dụng. Ngân hàng Ngoại thương VN sẵn sàng cho các doanh nghiệp vay ngoại tệ ngắn hạn để thanh toán các L/C atsight với thời hạn thoả thuận tuỳ theo từng hợp đồng tín dụng và hàng hoá nhập khẩu, thời gian dự trữ hàng hoá và chờ thời điểm có giá lợi nhất. Thông thường ngân hàng áp dụng thời hạn cho vay từ 3 đến 6 tháng. Ngân hàng còn tiến hành bảo lãnh cho các hoạt động này theo hình thức mở L/C trả chậm. Cho vay bằng ngoại tệ để nhập hàng hoá chịu tác động của nhiều nhân tố như tỉ giá, tình hình kinh tế chính trị của đất nước, của khu vực... Chính vì vậy cho vay nhập khẩu tiềm ẩn trong nó rất nhiều rủi ro. Doanh số thanh toán nhập khẩu đạt 5,5 tỷ USD, tăng 14,3% chiếm 28,6% kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước. Các mặt hàng đạt tỷ trọng cao trong doanh số thanh toán nhập khẩu qua Ngân hàng Ngoại thương VN là xăng dầu (26,2%), máy móc thiết bị (12,8%), sắt thép (7,3%)v..v..Riêng doanh số thanh toán xăng dầu – một hàng hoá có tầm quan trọng chiến lược qua Ngân hàng Ngoại thương VN đạt 1,5 tỷ USD, chiếm tới 72% kim ngạch nhập kẩu xăng dầu của cả nước. Trong bối cảnh nền kinh tế đang hướng vào xuất khẩu, số lượng các doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng nhiều thì chiến lược gắn nhập khẩu phục vụ xuất khẩu của Ngân hàng Ngoại thương VN càng phát huy hiệu quả. Hoạt động này đã góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên thương trường thế giới cũng như mở rộng, thu hút thêm khách hàng trong nước. Vốn ngoại tệ của ngân hàng cũng được tăng cường do khoản ký quĩ của doanh nghiệp được ngân hàng bảo lãnh. 3. Đánh giá hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Ngoại thương VN Những tồn tại và khó khăn: Bên cạnh những việc đã làm được cũng còn nhiều tồn tại và khó khăn có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương VN đó là: + Mặc dù Ngân hàng Ngoại thương VN đã nỗ lực thu hồi nợ quá hạn và hạn chế phát sinh mới song nợ quá hạn vẫn luôn là áp lực lên tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương VN. Số dư nợ quá hạn vẫn không giảm, còn ở con số tương đối lớn (khoảng 1300 tỷ) chiếm 14% tổng dư nợ. Đặc biệt là nợ khó đòi tăng nhanh (là 800 tỷ). Như vậy tỉ lệ nợ quá hạn ở Ngân hàng Ngoại thương VN lớn hơn tỉ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ được qui định ( <5% ) trong hoạt động giám sát từ xa của thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Khi thực hiện bất cứ một hoạt động cho vay nào thì mục đích của ngân hàng cũng là làm thế nào thu hồi được cả vốn và lãi tức là thu nợ được và không phát sinh nợ quá hạn. Nợ quá hạn lớn là một trong những nguyên nhân tạo sự "thừa vốn" của ngân hàng trong khi nền kinh tế lại thiếu vốn, nợ quá hạn cao sẽ dẫn đến tâm lý sợ rủi ro khi quyết định cho vay của các cán bộ tín dụng làm ảnh hưởng đến việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt là tín dụng xuất nhập khẩu - một lĩnh vực chứa rất nhiều rủi ro. + Ngân hàng Ngoại thương VN chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Điều này chứng tỏ ngân hàng mới chỉ chú trọng cho vay để thu mua hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chứ tỉ lệ cho vay để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật (cho vay trung và dài hạn) đảm bảo sự phát triển lâu dài cho nền kinh tế còn thấp. Nguyên nhân của các tồn tại trên cần được xem xét cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan cả về phía khách hàng, ngân hàng và Nhà nước. Về phía khách hàng: + Do sự biến động về giá cả của thị trường (nhất là giá nông sản), khách hàng bán sản phẩm không đủ bù đắp chi phí nên không có đủ tiền trả nợ ngân hàng. + Do thiếu vốn trung hạn nên một số doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn để dùng vào xây dựng cơ bản (như Dệt Nam định) không trả nợ đúng hạn phải chuyển sang nợ quá hạn. + Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích dẫn tới chỗ khó khăn về tài chính, nhập khẩu ồ ạt các mặt hàng làm thị trường bị ứ đọng. Đối với bộ phận các doanh nghiệp /90, doanh nghiệp /91 phần lớn đều có tình hình tài chính khả quan, có định hướng hoạt động chắc chắn tạo sự tin tưởng, ổn định cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên ở một số doanh nghiệp vốn được Nhà nước cấp quá nhỏ trong khi nhiệm vụ được giao lại quá lớn, tình hình sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Do nguyên nhân từ định hướng chiến lược phát triển đến giải pháp kinh tế kỹ thuật, sự biến dộng của thị trường... đã làm cho lúc này cung lớn hơn cầu, lúc khác cầu lớn hơn cung, biến động lớn của thị trường gây nên lỗ trong kinh doanh từ đó tác động đến khả năng trả nợ vốn vay của ngân hàng. Về phía Nhà nước: + Các doanh nghiệp đặc biệt là các tổng công ty có nhu cầu vốn lớn trong khi hạn mức đầu tư tối đa vào các doanh nghiệp trên bị hạn chế bởi Pháp lệnh Ngân hàng và Luật Tổ chức tín dụng. Pháp lệnh Ngân hàng qui định ngân hàng không được phép cho doanh nghiệp vay quá 10% vốn tự có và các quĩ của ngân hàng, tổng dư nợ 10 khách hàng vay nhiều nhất không vượt quá 30% tổng dư nợ tín dụng. Trong khi đó khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương VN thường là các khách hàng lớn, có nhu cầu lớn về tín dụng. Mâu thuẫn giữa thừa vốn của ngân hàng mà các doanh nghiệp lại thiếu vốn là mâu thuần cần giải quyết. + Nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi do vậy chính sách, cơ chế của Nhà nước cũng luôn luôn thay đổi và đi tới hoàn thực hiện. Quá trình thay đổi đó nhiều khi là cho doanh nghiệp chuyển hướng không kịp, không giải phóng được vốn và khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng. Ví dụ chỉ thị cấm rừng của Chính phủ làm cho các doanh nghiệp chế biến kinh doanh mặt hàng lâm sản bị đọng vốn. Nhiều khi do chính bản thân cơ chế sinh ra. Ví dụ việc cấp nhiều quota nhập phân bón, sắt thép cho các đơn vị nhập khẩu hàng ồ ạt về một lúc dẫn đến giá giảm, không bù đắp nổi chi phí, nhiều đơn vị bị thua lỗ, không trả được vốn ngân hàng. + Mặt khác về qui định thế chấp và cầm cố tài sản theo Nghị định 85/CP ngày 17/12/1996 thì các doanh nghiệp chỉ được vay tối đa là 70% giá trị tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chủ yếu là đất đai, khách sạn, nhà xưởng rất khó chuyển nhượng và giảm giá liên tục nên nếu phát mại ngay để thu hồi vốn sẽ dẫn đến bị thua lỗ mặt khác nếu để lâu tài sản xuống cấp cũng bị giảm giá trị. Về phía ngân hàng: + Trước hết, nhìn vào vốn huy động của ngân hàng, vốn huy động chủ yếu là vốn ngắn hạn, vì vậy ngân hàng chỉ đáp ứng được một phần vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp. + Chính sách của ngân hàng có một số điều chưa hợp lý. Thứ nhất: chính sách lãi suất: lãi suất cho vay chưa hợp lý, chưa mang tính cạnh tranh. Lãi suất cho vay của ngân hàng gần như ngang với mức lãi suất trần của Ngân hàng Nhà nước. Thứ hai: chính sách đảm bảo tín dụng của ngân hàng chưa thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Công tác thẩm định tín dụng còn mang nặng tính hình thức. Sự xuất hiện và hoạt động có hiệu quả của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng làm giảm hiệu quả tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Ngoại thương VN. Các ngân hàng này không bị khống chế bởi hạn mức cho vay một doanh nghiệp 10% vốn tự có và quĩ dự trữ, họ sẵn sàng cung cấp cho khách hàng không những đầu vào mà còn tìm cả đầu ra, tìm thị trường xuất khẩu cho khách hàng. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM I. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRONG GIAI ĐOẠN 2003-2005 1. Định hướng chung của nhà nước về hoạt động XNK trong giai đoạn 2003-2005 Bước vào những năm đầu tiên của thế kỷ mới (2003-2005), tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi và cơ hội lớn, đồng thời cũng đặt ra nhiều khó khăn và thách thức đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam nói riêng. Thế và lực của nước ta mạnh hơn nhiều so với trước, chính trị – xã hội tiếp tục ổn định, thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả, năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã tạo ra tiền đề cần thiết cho bước phát triển mới…. Cùng với sự phát triển chung cửa nền kinh tế, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua cũng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, tạo động lực lớn cho các ngành sản xuất hướng tới những kết quả tốt hơn nữa theo chính sách chủ chương khuyến khích của nhà nước. Dưới đây là định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2003 -2005. Nhà nước chủ chương tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt –Mỹ, tiến tới gia nhập WTO. Nhà nước cũng có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ; nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm; …. Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu để tiến tới cân bằng xuất nhập; bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu, có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh.; tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở rộng các thị trường mới. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm 2003-2005 phấn đấu đạt khoảng 87 tỷ USD, với mức tăng hàng năm là 16%. Nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là 15,9%; trong đó, nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp chiếm 43% kim ngạch. xuất khẩu công nghiệp, tăng bình quân hàng năm 22%. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm 16,2%. Tổng kim ngạch nhập khẩu trong năm 2003-2005 sẽ khoảng 90 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm 15%, trong đó nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng chiếm 32,6% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng bình quân hàng năm 17,2%; nhóm hàng nguyên vật liệu chiếm 63,5%, tăng bình quân hàng năm 13,9%; nhóm hàng tiêu dùng chiếm khoảng 3,9%, bằng năm năm trước. 2. Định hướng của ngân hàng Ngoại thương Việt nam về hoạt động cho vay xuất nhập khẩu trong thời gian tới Năm 2002, Ngân hàng Ngoại thương VN đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn cũng như nhiều thử thách, đồng thời nâng cao trình độ hoạt động để tăng sức cạnh tranh và chuẩn bị sẵn sàng cho môi trường hoạt động khắc nghiệt của những năm sắp tới để tiếp tục phát huy là ngân hàng có thế mạnh trong hoạt động cho vay xuất nhập khẩu. Trên cơ sở định hướng chiến lược của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương VN đã vạch ra phương hướng hoạt động trong thời gian tới với một số nội dung chính như: Tăng nguồn vốn huy động, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường đổi mới công nghệ, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực,… Bên cạnh việc duy trì thế mạnh trong các hoạt động như chuyển tiền và nhờ thu, Ngân hàng Ngoại thương VN chủ trương nâng cao trình độ nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ. Trong phương thức thanh toán này, quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng khá khăng khít, thông qua đó, Ngân hàng Ngoại thương VN có thể áp dụng những dịch vụ mang lại lợi ích cho cả hai bên như tài trợ hàng xuất khẩu, chiết khấu bộ chứng từ, . . . Trên cơ sở định hướng của Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương VN cố gắng đẩy mạnh tài trợ xuất khẩu đồng thời tích cực hỗ trợ lĩnh vực nhập khẩu, xăng dầu, hoá chất, tân dược. Trong tương lai, Ngân hàng Ngoại thương VN sẽ chú trọng phát triển mạnh hoạt động cho vay xuất khẩu. Mục tiêu cụ thể của Ngân hàng Ngoại thương VN là phấn đấu để đạt tỷ trọng sử dụng phương thức tín dụng chứng, từ chiếm khoảng 60% trong mảng thánh toán quốc tế (trung bình trong các năm trước tỷ lệ này là 45-50%), từ đó sẽ làrn tăng phần đóng góp của hoạt động thanh toán quốc tế vào tổng thu nhập của Ngân hàng Ngoại thương VN. Trên cơ sở phát triển này, Ngân hàng Ngoại thương VN sẽ tăng cường hơn nữa hoạt động cho vay xuất nhập khẩu… Tín dụng cho vay xuất nhập khẩu cũng sẽ được Ngân hàng Ngoại thương VN quan tâm mở rộng là năm 2003, theo định hướng của Nhà nước, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ có nhiều chuyển biến tích cực do thị trường ngày càng có xu hướng vươn xa nhờ vào các Hiệp định kinh tế song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài. Sự phát triển hoạt động xuất nhập khẩu sẽ đòi hỏi nhu cầu lớn về vốn, đây là cơ hội, đồng thời cũng là thách thức đối với các ngân hàng nói chung và Ngân hàng Ngoại thương VN nói riêng trong việc cung cấp các hình thức cho vay. Để thực hiện tốt các mục tiêu, định hướng đã đề ra ở trên, Ngân hàng Ngoại thương VN cần phải từng bước cải thiện vị trí của mình trong lĩnh vực hoạt động cho vay xuất nhập khẩu đang ngày càng trở nên sôi động và cần có kế hoạch khắc phục những điểm yếu đồng thời phát huy thế mạnh của mình. Sau đây là một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. II. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 1. Giải pháp 1.1. Củng cố công tác chỉ đạo về hoạt động cho vay xuất nhập khẩu Từ trước tới nay, mảng hoạt động kinh doanh đối ngoại đã được chứng minh là ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một ngân hàng thương mại khi mà xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế trở nên mạnh mẽ hơn. Chính vì lý do trên, ban lãnh đạo Ngân hàng Ngoại thương VN cần có chương trình chỉ đạo sâu sắc và tích cực hơn nữa đối với hoạt động cho vay xuất nhập khẩu. Căn cứ vào định hướng của Nhà nước cũng như yêu cầu, triển vọng của mình, hàng năm, Ngân hàng Ngoại thương VN phải đưa ra được những chỉ tiêu cụ thể phát triển hoạt động cho vay xuất nhập khẩu, đồng thời có tổng kết đánh giá, tổ chức rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc và hiệu quả. Trên thực tế, công tác chỉ đạo được đánh giá là rất quan trọng. Thực hiện tốt công tác này sẽ tạo điều kiện cho hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tiến hành trôi chảy và đạt kết quả khả quan. 1.2. Tăng nguồn vốn huy động Tăng trưởng nguồn vốn huy động là mục tiêu hàng đầu của cấc ngân hàng thương mại. Cũng như những ngân hàng khác, Ngân hàng Ngoại thương VN ý thức được rằng nguồn vốn lớn và ổn định sẽ tạo đà cho việc thực hiện thành công các nhiệm vụ khác của Ngân hàng, trong đó có hoạt động cho vay nhập khẩu. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng vốn, trước hết, Ngân hàng Ngoại thương VN cần hoàn thiện các hình thức huy động vốn truyền thống như tiết kiệm, tiền gửi. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên chú trọng mở rộng hơn nữa các hình thức huy động khác để tìm kíếm thêm các nguồn vốn bổ sung như vốn uỷ thác, tiền ký quỹ,…. Để thu hút vốn có hiệu quả, điều cần thiết là Ngân hàng Ngoại thương VN phải có chính sách lãi suất tiền gửi hợp lý bởi lãi suất thường là mối quan tâm đầu tiên khi khách hàng đến gửi tiền và đây cũng chính là một trong những công cụ tiền tệ cạnh tranh giữa các ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương VN cần tiếp tục phát huy thế mạnh hàng đầu của mình trong lĩnh vực thanh tóan không dùng tiền mặt, đặc biệt là nghiệp vụ phát hành và thanh tóan thẻ. Làm tốt công tác này cũng là điểm quan trọng dẫn đến thành công trong việc thu hút tiền tệ vào Ngân hàng. 1.3. Đa dạng hoá các hình thức cho vay Đây là yêu cầu bức thiết không chỉ đối với Ngân hàng Ngoại thương VN mà cả hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, Hiện nay, nghiệp vụ xuất nhập khẩu của chúng ta còn đơn điệu, chủ yếu được các dạng thức cổ điển. Trên thực tế, trong thời gian gần đây, việc thanh toán những mặt hàng chủ lực của Việt Nam đều được tiến hành gần như tối đa qua các chi nhánh nước ngoài. Trong thời gian sắp tới, Ngân hàng Ngoại thương VN cần nghiên cứu đưa thêm những hình thức mới vào danh mục cho vay xuất nhập khẩu. Đa dạng hoá loại hình cho vay sẽ giúp Ngân hàng Ngoại thương VN đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu phong phú của khách hàng, thu hút được một số lượng lớn hơn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu về hoạt động qua Ngân hàng Ngoại thương VN, từ đó góp phần tăng thu nhập và nâng cao uy tín của Ngân hàng. Trước mắt, ngân hàng cần chuẩn bị về cơ bản cơ sở vật chất và con người cho nghiệp vụ cho vay xuất nhập khẩu như các thiết bị tài trợ xuất nhập khẩu hiện đại, hệ thống các văn bản hướng dẫn thủ tục yà quy trình thực hiện tài trợ một cách đầy đủ, thuận tiện và dễ hiểu đối với cả nhân viên và khách hàng; song song với những việc đó, Ngân Hàng cũng cần phải có một đội ngũ nhân viên am hiểu nghiệp vụ thanh toán quốc tế và cho vay xuất nhập khẩu. 1.4. Kết hợp đồng bộ và hiệu quả các chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động cho vay xuất nhập khẩu Trước hết, Ngân hàng Ngoại thương VN cần xây dựng chính sách khách hàng trên cơ sở kết hợp chặt chẽ và đồng bộ với các chính sách khác như thanh toán quốc tế, tín dụng, marketing... Nói cách khác, Ngân hàng Ngoại thương VN nên có chính sách lợi ích tổng thể (lãi suất cho vay xuất nhập khẩu, phí mở L/C, phí thanh toán, chênh lệch giá mua bán ngoại tệ...) gắn liền với từng khách hàng. Thông qua quá trình này, các kế hoạch mục tiêu cụ thể cũng như biện pháp thực hiện các nghiệp vụ cho vay sẽ được xác lập. Ngân hàng Ngoại thương VN cần xây dựng chiến lược hệ thống khách hàng, có chương trình cụ thể về số khách hàng thu hút được của từng năm hay số khách hàng phân theo từng loại, từng khu vực và thị trường ra sao. Một điểm cần chú ý trong chính sách khách hàng là việc lựa chọn khách hàng để cung cấp các ưu đãi trong quá trình cho vay xuất nhập khẩu. Về nguyên tắc, Ngân hàng Ngoại thương VN phải đặt ra các tiêu chuẩn nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu hoặc thị trường xuất khẩu... Ngân hàng Ngoại thương VN cũng nên đẩy mạnh hơn nữa công tác đơn giản hoá các thủ tục ngân hàng, hạ biểu phí dịch vụ, giảm thời gian thẩm định hồ sơ xin cho vay, giảm thời gian kiểm tra xử lý các chứng từ,... đảm bảo phục vụ khách hàng nhanh chóng, thuận tiện và an toàn. Ngoài ra, Ngân hàng cần phát triển hơn nữa dịch vụ tư vấn và môi giới cho khách hàng về nghiệp vụ thanh toán quốc tế và tín dụng xuất nhập khẩu, cụ thể như: Cung cấp các phân tích sâu về xu hướng biến động của thị trường, những hướng dẫn cụ thể về áp dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro; tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn các điều kiện thanh toán phù hợp với từng thị trường, giới thiệu cho khách hàng các nhà xuất nhập khẩu. Thứ hai, đối với nhân viên thực hiện nghiệp vụ cho vay xuất nhập khẩu, Ngân hàng Ngoại thương VN nên có cơ chế khuyến khích về tiền lương, tiền thưởng dành cho những người hoàn thành tốt công việc, đồng thời có cơ chế thu nhập hấp dẫn để lôi kéo chuyên gia giỏi trong hoạt động thanh toán quốc tế về làm việc tại Ngân hàng. Chính sách này cần được xem xét thực hiện đồng thời cùng các chính sách nói trên bởi vì khuyến khích về mặt vật chất sẽ tạo động cơ thúc đẩy nhân viên nỗ lực làm việc tốt hơn nữa, từ đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của nghiệp vụ cho vay xuất nhập khẩu. 1.5. Đầu tư đổi mới hệ thống công nghệ thanh toán Ngày nay, sự tham gia của các phương tiện vật chất thiết bị đã trở thành nhân tố chính trong các ngân hàng hiện đại để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và củng cố thêm tính chuyên nghiệp hoá của nhân viên tiếp xúc, giúp họ xử lý các dịch vụ với tốc độ nhanh hơn và chính xác hơn, giảm bớt những hành động mang tính thủ công. Vì những tác dụng rất lớn đó, Ngân hàng Ngoại thương VN nên dành sự quan tâm thích đáng tới việc đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị, mạng cục bộ và hệ thống truyền thông trực tuyến (on-line). Mặt khác, để phục vụ cho công tác thống kê, báo cáo và quản lý, Ngân hàng Ngoại thương VN cần khẩn trương thiết kế phần mềm tin học liên quan đến đối tượng khách hàng, ngành hàng xuất nhập khẩu, thị trường xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất nhập khẩu của từng khách hàng. Hoàn thiện, nâng cao công nghệ thanh toán, xử lý và cung cấp thông tin và điều quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và nghiệp vụ cho vay nhập khẩu nói riêng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các ngân hàng. 1.6. Tăng chường công tác tổ chức đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ ngân hàng trong hoạt động xuất nhập khẩu Trình độ nghiệp vụ của nhân viên tiếp xúc giữ vai trò chủ đạo và góp phần tích cực trong việc tạo ra những dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao. Sự tham gia của họ nhằm tạo ấn tượng đẹp về hình ảnh ngân hàng. Nhận thức được điều đó, Ngân hàng Ngoại thương VN cần nhanh chóng tăng cường cả về mặt số lượng và về chất lượng đối với đội ngũ nhân viên phụ trách hoạt động thanh toán quốc tế và tín dụng. Trước hết, cần xây dựng và duy trì tác phòng giao dịch lịch sự, văn minh, chất lượng phục vụ tốt . Bên cạnh đó, Ngân hàng Ngoại thương VN cần có một sự đầu tư không nhỏ trong việc lập ra các khoá đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các nhân viên về nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh xuất nhập khẩu và luật quốc tế, hướng dẫn họ sử dụng các công nghệ phần mềm áp dụng trong thanh toán và các kiến thức có liên quan khác. Trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương VN cần phải xây dựng cho mình một trung tâm đào tạo riêng, đây sẽ và nơi chuyên để tập huấn nghiệp vụ. Có như vậy thì mới tập trung và nâng cao được, hiệu quả của công tác đào tạo, đáp ứng được đòi hỏi của Ngân hàng Ngoại thương VN trong những năm tới. 2. Kiến nghị 2.1. Đối với nhà nước Để hoạt động cho vay xuất nhập khẩu thực sự trở nên sôi động thì trước hết hoạt động xuất nhập khẩu phải được mở rộng và phát triển. Muốn vậy, Nhà nước cần có biện pháp cải tổ hơn nữa bộ máy ngoại thương, thủ tục hải quan, thuế suất xuất nhập khẩu. Cần tinh giảm bộ máy quản lý, sắp xếp lại các DNNN chuyên kinh doanh hàng xuất khẩu, khuyến khích giảm giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động trong khu vực làm hàng xuất khẩu. Bộ Thương mại có thể phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan xây dựng chương trình xúc tiến việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam. Bộ Kế hoạch và đầu tư nên cùng các Bộ ngành có lên quan kết hợp với các địa phương tăng cường biện pháp thu hút vốn đầu tư và những nguồn lực khoa học, công nghệ cũng như trình độ quản lý tiên tiến của nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước cần ban hành các cơ chế hỗ trợ những ngân hàng tham gia xuất nhập khẩu. Hiện nay, với chính sách mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của khá nhiều các ngân hàng trên thế giới. Bên cạnh những lợi ích thu được nhờ sự mở rộng thị trường tài chính, việc các ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh hay liên doanh tại Việt Nam đã đặt các ngân hàng trong nước vào thế cạnh tranh khốc liệt. Với những thế mạnh về vốn, công nghệ cùng kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, những ngân hàng này đang dần chiếm lĩnh thị trường tín dụng của các ngân hàng nội địa, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu một lĩnh vực quan trọng với nhu cầu vốn lớn và khả năng mang lại doanh thu cũng như lợi nhuận cao. Trong khi đó, ngoài mục tiêu lợi nhuận, các ngân hàng thương mại Việt nam còn cần phải thực hiện theo đúng đường lối chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước. Bởi vậy, trong cuộc cạnh tranh không cân sức, các ngân hàng trong nước cần sự hỗ trợ hơn nữa của Nhà nước như giảm thuế thu nhập trên phần thu từ cho vay xuất nhập khẩu hay trợ giúp về kỹ thuật và công nghệ. 2.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Như đã biết, tỷ giá hối đoái là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập quy về bản tệ của họ. Sự biến động tỷ giá cũng như tác động đáng kể đến hoạt động thanh toán quốc tế và cho vay xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện chính sách quản lý ngoại hối và can thiệp về tỷ giá một cách linh hoạt, tránh để tỷ giá thay đổi quá lớn gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh đối ngoại nói chung và hoạt động cho vay xuất nhập khẩu nói riêng tại các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng có các giải pháp điều chỉnh cơ chế tín dụng để đảm bảo sự hoạt động nhất quán của Ngân hàng Ngoại thương VN, tránh tình trạng bị các ngân hàng nước ngoài “lấn sân'' trong lĩnh vực thanh toán vì họ có được hoạt động tín dụng thuận lợi hơn. Hiện nay lợi thế của các ngân hàng nước ngoài là không bị khống chế bởi hạn mức cho vay, vì thế các ngân hàng này luôn sẵn sàng cung cấp cho khách hàng cả đầu vào lẫn đầu ra, cho vay xuất nhập khẩu và tìm ra thị trường xuất khẩu cho khách hàng. Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều cố gắng để tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động cho vay xuất nhập khẩu, ví dụ như các quy định cụ thể hướng dẫn việc bảo lãnh phát hành L/C trả chậm. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải tập trung nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Tất cả những kiến nghị trên đây nhằm góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho nền kinh tế nói chung và hoạt động cho vay xuất nhập khẩu nói riêng. Việc thực hiện hoạt động cho vay xuất nhập khẩu có đạt được hiệu quả hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào sự cố gắng của bản thân các cán bộ và nhân viên của Ngân hàng Ngoại thương VN. KẾT LUẬN Trong bối cảnh quốc tế không thuận lợi, kinh tế Việt Nam năm qua đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tăng trưởng GDP đạt 7,04% - mức cao thứ hai trong khu vực sau Trung Quốc. Đầu tư trong nước đã tăng mạnh không những bù đắp được thiếu hụt do nguồn vốn FDI suy giảm mà còn tạo đà cho tăng trưởng hầu hết các ngành, các khu vực kinh tế then chốt đều đạt kế hoạch đề ra từ đầu năm. Nền kinh tế tăng trưởng ổn định và hầu hết các chỉ số vĩ mô đều có những chuyển biến khả quan. Đóng góp vào thành tích chung, năm 2002, ngành ngân hàng cũng đã có những chuyển biến hết sức tích cực. Cơ chế chính sách trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng đang được từng bước hoàn thiện theo hướng thông thoáng, các công cụ của chính sách tiền tệ đã được sử dụng linh hoạt, đồng bộ theo nguyên tắc thị trường thực sự có tác dụng tích cực đẩy mạnh các mặt hoạt động ngân hàng. Bản thân hệ thống các Ngân hàng Thương mại Nhà nước cũng như cổ phần đều đang trong qua trình tái cơ cấu và bước đầu đã gặt hái được những thành công nhất định. Bên cạnh những thuận lợi, hoạt động ngân hàng trong năm qua phải đối mặt với nhiều thách thức. Sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, giá bất động sản và giá vàng tăng mạnh, nhập siêu lớn, mất cân đối cung cầu về vốn đầu tư đã tạo ra sức ép lãi suất cho hệ thống ngân hàng... Vượt qua những khó khăn, tranh thủ các điều kiện thuận lợi, năm 2003 - năm bản lề trong chiến lược phát triển 2000 – 2010. Có thể tin tưởng chắc chắn rằng với đà phát triển mạnh mẽ cùng với sự vững vàng về trình độ nghiệp vụ. Trong tương lai Ngân hàng Ngoại thương VN sẽ đạt được những thành quả lớn hơn và còn tiến xa hơn nữa./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Thanh toán quốc tế Trường Đại học Ngoại thương Hà nội – Gs. Đinh Xuân Trình Cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái và vấn đề kinh tế đối ngoại NXB Giáo dục năm 1994 – Nguyễn Đình Tài Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại NXB Thống kê năm 1997 – Lê Văn Tư Thanh toán quốc tế - Tài trợ ngoại thương và Kinh doanh ngoại hối Nhà xuất bản thống kê, năm 1999 - TS. Đỗ Linh Hiệp, TS. Ngô Hướng, CN. Hồ Trung Bửu Tạp chí Ngân hàng Số 2, năm 2001 Số 1+2, 3, 6 năm 2002 Số 1+2 năm 2003 Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt nam Số 108 tháng 7 năm 2002 Số 109 tháng 8 năm 2002 Hệ thống văn bản pháp quy về thanh toán quốc tế, Bảo lãnh và tài trợ xuất nhập khẩu Tài liệu hội nghị Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, Hà nội, tháng 2 năm 2003 Báo cáo thường niên năm 2001 Bảng tổng kết tài sản năm 2000, 2001, 2002 Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2001-2002 Ngân hàng Ngoại thương Việt nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvan.doc
  • doccopy_luanvan.doc
Tài liệu liên quan