LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: HUY ĐỘNG VỐN - SỬ DỤNG VỐN NGHIỆP VỤ CHÍNH YẾU CỦA MỘT NGÂN HÀNG HƯƠNG MẠI
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
1. Ngân hàng và hoạt động Ngân hàng
2. Các chức năng cơ bản của Ngân hàng thương mại
2.1. Chức năng trung gian tín dụng
2.2. Chức năng trung gian thanh toán.
2.3. Chức năng tạo tiền.
3. Vai trò của Ngân hàng thương mại với nền kinh tế.
3.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
3.2. Ngân hàng là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường.
3.3. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
3.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
II. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
1. Nguồn vốn - cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
1.1. Nghiệp vụ tài sản nợ của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Nguồn vốn tự có
1.1.2. Nguồn vốn vay
1.1.3.Vốn điều chuyển trong thanh toán
1.1.4.Vốn huy động
1.2. Sự cần thiết khách quan của công tác huy động vốn
2. Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại
2.1. Tạo vốn qua huy động các khoản tiền gửi của khách hàng
2.1.1. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
2.1.2. Tạo vốn qua huy động tiền gửi
2.2. Tạo vốn qua đi vay
2.3. Các hình thức huy động vốn khác
III. HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN CỦA NHTM
1. Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng
1.1. Nghiệp vụ ngân quỹ (vốn đảm bảo thanh toán)
1.1.1. Dự trữ pháp định (Dự trữ bắt buộc)
1.1.2. Tiền mặt tại quỹ
1.1.3. Tiền gửi ở các Ngân hàng khác
1.2. Nghiệp vụ đầu tư
1.3. Nghiệp vụ tín dụng
1.3.1. Tín dụng ngắn hạn
1.3.2. Tín dụng trung – dài hạn
1.4. Tài sản có khác
2. Công tác quản lý tài sản có và vấn đề thanh khoản đối với một Ngân hàng thương mại
IV. TÍNH CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN VỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
1. Sự cần thiết phải đảm bảo cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn
2. Nội dung công tác cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn
2.1. Khái quát về bảng cân đối vốn của Ngân hàng thương mại
2.2. Nội dung của sự cân đối
2.2.1. Cân đối vốn theo kỳ hạn
2.2.2. Cân đối theo loại tiền
2.2.3. Đảm bảo khả năng thanh toán.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn
3.1. Vấn đề huy động vốn
3.2. Sử dụng vốn
3.3.Vấn đề dư nợ quá hạn
3.4.Lãi suất
3.5. Khả năng quản trị điều hành của Ngân hàng
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
I. VÀI NÉT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI (NHNO&PTNT Hà Nội).
1. Sự hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Hà Nội
2. Cơ chế hoạt động và bộ máy tổ chức
II. TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
1. Cơ cấu tổng nguồn vốn theo hình thức huy động
1.1. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
1.2. Tiền gửi tiết kiệm dân cư
1.3. Tiền gửi của các tổ chức tín dụng
1.4. Kỳ phiếu Ngân hàng
1.5. Nguồn tiền gửi khác
2. Cơ cấu tổng nguồn theo kỳ hạn huy động
III. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN TẠI NHNo&PTNT HÀ NỘI
IV. HIỆN TRẠNG TÍNH CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TẠI NHNo&PTNH HÀ NỘI
1. Cân đối theo kỳ hạn và theo nội - ngoại tệ
1.1. Tính cân đối giữa huy động và cho vay ngắn hạn
1.2. Tính cân đối trong cho vay và huy động trung - dài hạn
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới tính cân đối
2.1.Vấn đề nợ quá hạn và ảnh hưởng của nó tới tính cân đối
2.2. Chính sách lãi suất và ảnh hưởng của nó tới tính cân đối
CHƯƠNG III: MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
I. NHỮNG TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC CÂN ĐỐI VỐN GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TẠI NHNO&PTNT HÀ NỘI
1. NHNo Hà nội chưa tận dụng hết khả năng huy động vốn
2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng chưa tương xứng với sự mở rộng nhanh chóng của nguồn vốn huy động
3. Ngân hàng chưa thực sự triển khai chính sách khách hàng, chính sách thông tin quảng cáo, tiếp thị một cách có hiệu quả
4. NHNo Hà nội chưa có các nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG TÍNH CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN
1. Về phía Nhà nước và các cơ quan pháp luật
2. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam
3. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
3.1. Trên cơ sở yêu cầu sử dụng vốn, Ngân hàng xác định qui mô, cơ cấu nguồn vốn cho phù hợp, đảm bảo tính cân đối với hoạt động sử dụng vốn
3.2. Ngân hàng cần xây dựng chiến lược sử dụng vốn hợp lý trên cơ sở đa dạng hóa loại hình đầu tư kinh doanh và dịch vụ Ngân hàng
3.3. Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và đẩy mạnh giải quyết những vấn đề còn tồn tại nhằm nâng cao tính cân đối giữa công tác huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn trong thời gian tới
3.4. Về tình hình nợ quá hạn
3.5. Về chính sách lãi suất
3.6. Những vấn đề khác có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và công tác cân đối vốn nói riêng
3.6.1. Về kỹ thuật nghiệp vụ của công tác cân đối
3.6.2. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công nghệ Ngân hàng
3.6.3. Ngân hàng cần thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ
3.6.4. Mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng
3.6.5. Về công tác cán bộ
KẾT LUẬN
82 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp về tính cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấy một cách tổng thể tình hình sử dụng nguồn vốn của NHNo Hà nội. Dư nợ ngắn hạn có sự tăng trưởng qua các năm. Trong năm 2000, nguồn vốn cho vay ngắn hạn răng lên 28,5% so với năm 99. Đạt được kết quả này là do trong năm tín dụng nội tệ tăng nhanh chóng mặc dù tín dụng ngoại tệ giảm. Năm 1999 tín dụng nội tệ ngắn hạn tăng rất nhanh từ 487.170 triệu đồng tăng lên 1.064.693 triệu đồng (từ bảng 18). Về tỷ trọng tăng lên :
(1.064.693 - 487.170) x 100 =118,5%
487.170
dẫn đến nguồn cho vay ngắn hạn tăng. Đến quý I/2001 nguồn tín dụng nội tệ tiếp tục tăng sẽ đưa nguồn cho vay ngắn hạn tăng.
Bên cạnh hoạt động cho vay ngắn hạn, trong những năm qua NHNo Hà nội đã có bước chuyển dịch về cơ cấu tín dụng, tăng dần tỷ trọng cho vay trung dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư. Ngân hàng đã chủ động khai thác và bổ sung các nguồn vốn trung dài hạn bằng VND và ngoại tệ với lãi suất hợp lý để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Tóm lại, trong quá trình hoạt động NHNo Hà nội luôn đặt ra mục tiêu là sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả nhất. Kết quả là năm 2000 tổng dư nợ của Ngân hàng đã tăng lên 35,4% so với năm 99, thể hiện nỗ lực của Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ với khách hàng, tìm nguồn đầu tư vào những dự án trọng điểm của Nhà nước.
Cho vay với DNNN chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ thể hiện hướng chủ đạo của Ngân hàng là tập trung vào những doanh nghiệp quốc doanh – là những doanh nghiệp lớn an toàn và làm ăn có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay trung dài hạn đang có xu hướng tăng trong tổng dư nợ.Những khoản đầu tư này sẽ là nguồn thu nhập lớn cho Ngân hàng, tuy nhiên Ngân hàng cũng cần phải chú ý theo dõi để thu nợ kịp thời, tránh tình trạng dẫn tới nợ quá hạn.
Hiện nay tín dụng ngoài quốc doanh tại Ngân hàng đang còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Do vậy đứng trước nhu cầu mở rộng quan hệ với khách hàng, và sự khẳng định vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế. Trong thời gian tới Ngân hàng cần phải mở rộng quan hệ tín dụng với thành phần kinh tế này nhằm nâng cao uy tín và tận dụng mọi nguồn thu của mình.
IV. HIỆN TRẠNG TÍNH CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TẠI NHNo&PTNH HÀ NỘI
1. Cân đối theo kỳ hạn và theo nội - ngoại tệ
1.1. Tính cân đối giữa huy động và cho vay ngắn hạn
Bảng 20: Cân đối cho vay ngắn hạn và huy động ngắn hạn
Đơn vị: Triệu VND
Thời gian
Khoản mục
31/12/98
31/12/99
31/12/00
31/3/01
a.Huy động ngắn hạn
1.388.118
1.371.951
2.164.435
2.360.605
b.Cho vay ngắn hạn
815.150
820.196
1.146.751
1.248.587
c.Hệ số sử dụng nguồn(b/a x 100)
58,732%
59,78%
52,98%
52,89%
Phần dư
572.968
551.755
1.017.684
1.112.018
Biểu 3: Cân đối cân đối vốn ngắn hạn.
Từ số liệu bảng trên ta thấy, với sự dồi dào của nguồn vốn ngắn hạn, chủ yếu là nguồn tiền gửi của khách hàng (TCKT) và huy động từ dân cư đã đáp ứng đủ nhu cầy cho vay của Ngân hàng. Năm 98, 99 trung bình dư nợ cho vay chiếm gần 60% nguồn vốn huy động, hệ số sử dụng vốn đạt hơn 59% là kết quả tương đối cao của Ngân hàng. Thể hiện thị trường tín dụng của Ngân hàng vối khách hàng khá phát triển mà chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh. Ngân hàng đã thiết lập quan hệ với các DNNN làm ăn có hiệu quả như doanh nghiệp thuộc Tổng công ty 90-91 với doanh số cho vay lớn. Cuối năm 2000, số dư nợ tăng trưởng chậm hơn tốc độ tăng của vốn huy động, kết quả là hệ số sử dụng nguồn hạ xuống còn 52,9%. Mặc dù hệ số sử dụng nguồn giảm nhưng không ảng hưởng nhiều đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Với uy tín và nỗ lực bản thân, Ngân hàng đã thu hút được một số khách hàng lớn để cho vay như Công ty Cao su Sao vàng, Công ty Vật tư Nông sản, Tổng công ty Cà phê Việt nam, Công ty than Đông bắc... đã góp phần làm cho dư nợ của Ngân hàng tăng lên. Chỉ trong quý I/2001 hệ số sử dụng nguồn đã đạt 52,8%, bằng hệ số sử dụng nguồn của cả năm 2000.
Tuy nhiên hoạt động cho vay ngắn hạn của Ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa thực sự phát triển và còn gặp nhiều khó khăn. Lý do chính là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu có quy mô nhỏ, vốn tự có thấp, không ít doanh nghiệp làm ăn theo kiểu “chụp giật”, chây ỳ không chịu trả nợ. Do đó đã hạn chế mở rộng hoạt động cho vay ngoài quốc doanh, ảnh hưởng không nhỏ tới dư nợ ngắn hạn nói chung của Ngân hàng.
Với lợi thế về khả năng huy động vốn, ngoài hoạt động cho vay NHNo Hà nội còn thực hiện việc điều chuyển vốn dư thừa qua hệ thống NHNo Việt nam, hỗ trợ vốn cho các chi nhánh trên địa bàn. Tuy nhiên không phải lúc nào nguồn vốn Ngân hàng cũng đáp ứng đủ nhu cầu cho vay, có thời điểm Ngân hàng cũng gặp khó khăn về vốn, điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 21: Cân đối huy động-cho vay nội, ngoại tệ ngắn hạn.
Đơn vị: Triệu VND
Thời gian
Khoản mục
31/12/98
31/12/99
31/12/00
31/3/01
a.Huy động ngoại tệ
b.Cho vay ngoại tệ
c.Hệ số sử dụng nguồn(b/a x 100)
192.605
342.660
177,9%
54.380
333.026
612,4%
86.935
82.058
94,4%
88.267
81.712
92,6%
a.Huy động nội tệ
b.Cho vay nội tệ
c.Hệ số sử dụng
1.195.513
472.490
39,5%
1.317.571
487.170
36,9%
2.077.500
1.064.693
51,2%
2.272.338
1.116.875
51,3%
Dễ dàng nhận thấy trong hai năm 98,99 nhu cầu về nguồn ngoại tệ ngắn hạn phát triển rất mạnh, đặc biệt là năm 99, dẫn đến hệ số sử dụng nguồn tăng từ 177,9% lên tới 612,4%. Huy động ngoại tệ không đủ cung cấp cho vay ngoại tệ ngắn hạn. Do đó trong thời gian này theo cơ chế điều chỉnh vốn giữa NHNo Việt nam với các chi nhánh trong cùng hệ thống thì, NHNo Việt nam sẽ tiến hành cho vay ngắn hạn khi Ngân hàng thiếu nguồn ngoại tệ và Ngân hàng phải trả lãi suất cho khoản tín dụng này. Như vậy trong 2 năm 98,99, Ngân hàng đã nhận vốn điều chuyển từ trung tâm điều hành từ NHNo Việt nam khoảng 150 tỷ đến 280 tỷ đồng. Đây là vấn đề đòi hỏi Ngân hàng cần có sự quan tâm giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi nhuận của mình.
Đến 31/12/2000 và quý I/2001, bằng sự nỗ lực của mình, Ngân hàng đã đưa ra những chính sách phù hợp tăng cường nguồn vốn ngoại tệ và đáp ứng đủ nhu cầu cho vay ngoại tệ ngắn hạn, với hệ số sử dụng nguồn rất cao (trên 90%).
Đến đây ta thấy, phần dư giữa huy động và cho vay ngắn hạn luôn đảm bảo ở mức cao là do sự dồi dào của nguồn nội tệ ngắn hạn. Cụ thể là hệ số sử dụng nguồn nội tệ từ 39,5% năm 98 tăng lên 51,3% năm 2000 và quý I/2001, huy động nguồn nội tệ vẫn đủ đáp ứng và còn phần dư khá lớn.
1.2. Tính cân đối trong cho vay và huy động trung - dài hạn
Bảng 22: Cân đối cho vay dài hạn và huy động dài hạn
Đơn vị: Triệu VND
Thời gian
Khoản mục
31/12/98
31/12/99
31/12/00
31/3/01
a.Huy động trung-dài hạn
557.723
663.668
1.179.599
1.369.332
b.Cho vay trung-dài hạn
144.599
137.033
149.915
160.818
c.Hệ số sử dụng nguồn(b/a x 100)
25,93%
20,65%
12,7%
11,74%
Phần dư
413.124
526.635
1.029.784
1.208.514
Biểu 4: Cân đối vốn trung-dài hạn.
Với nguồn vốn huy động trung dài hạn dồi dào, Ngân hàng luôn đáp ứng đủ nhu cầu cho vay trung dài hạn. Tuy nhiên hệ số sử dụng nguồn này còn thấp và giảm dần qua các năm, từ 25,9% năm 98 đã giảm xuống còn 12,7% trong năm 2000. Nguyên nhân là trong năm 2000 NHNo Hà nội đã tiến hành huy động kỳ phiếu dài hạn với số lượng lớn, làm vốn huy động dài hạn tăng lên nhanh chóng và trong khi số dư nợ năm 2000 tăng trưởng chậm. Việc giảm sút hệ số sử dụng nguồn đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Mặc dù lãi suất cho vay trung hạn giảm và xấp xỉ với lãi suất cho vay ngắn hạn, thời hạn cho vay cũng dài hơn nhưng dư nợ cho vay vẫn không tăng. Để tránh tình trạng ứ đọng vốn quá lớn gây tổn thất cho Ngân hàng, Ngân hàng đã phải điều chỉnh bớt nguồn vốn này qua trung tâm điều hành và được nhận mức lãi suất rất nhỏ, trong khi đó Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các tổ chức, cá nhân gửi tiền. Trước vấn đề này NHNo Hà nội cần có biện pháp giải quyết tình hình mất cân đối giữa huy động và cho vay trung dài hạn, tránh tình trạng vốn dư thừa mà không cho vay được. Thực tế trên thị trường có những NHTM vẫn thiếu vốn hoạt động, vậy NHNo Hà nội cần có chính sách hỗ trợ vốn cho các Ngân hàng này và tránh ứ đọng vốn.
Tình trạng thặng dư vốn trung dài hạn được phản ánh qua hoạt động cho vay nội-ngoại tệ dài hạn như sau:
Bảng 23: Cân đối huy động- cho vay nội ngoại tệ dài hạn
Đơn vị: Triệu VND
Thời gian
Khoản mục
31/12/98
31/12/99
31/12/00
31/3/01
a.Huy động nội tệ
b.Cho vay nội tệ
c.Hệ số sử dụng nguồn(b/a x 100)
533.960
63.795
11,9%
606.590
74.042
12,2%
1.016.878
90.199
8,9%
1.158.529
92.507
8,0%
a.Huy động ngoại tệ
b.Cho vay ngoại tệ
c.Hệ số sử dụng nguồn(b/a x 100)
23.763
80.804
340,1%
57.078
62.991
110,4%
162.721
59.616
36,6%
210.803
68.311
32,4%
Từ bảng trên ta thấy hoạt động sử dụng vốn nội ngoại tệ trung dài hạn của Ngân hàng không mấy khả quan, Ngân hàng dường như chưa thực sự mở rộng tín dụng dài hạn đối với nền kinh tế. Hệ số sử dụng nguồn nội tệ của Ngân hàng chỉ đạt 11,9% năm1998 nhưng lại giảm đi còn 8,9% trong năm 2000. Việc giảm sút hệ số sử dụng nguồn như vậy sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn dài hạn không cho vay ra được gây lãng phí do đó Ngân hàng nên tích cực đẩy mạnh công tác cho vay bằng cách chú trọng tìm kiếm những khách hàng là doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả.
Trong khi nguồn nội tệ dài hạn dư thừa thì trong hai năm 1998, 1999 nhu cầu cho vay ngoại tệ rất lớn ( hệ số sử dụng lên tới 340% năm 98 và 110,4% năm 1999) nhưng nguồn huy động của Ngân hàng lại không đủ đáp ứng, thể hiện tình trạng mất cân đối trong công tác huy động nguồn của NHNo Hà nội. Để khắc phục tình trạng thâm hụt ngoại tệ, Ngân hàng đã phát huy hết nội lực của mình nhằm huy động nguồn, kết quả là đến năm 2000 nguồn vốn ngoại tệ của Ngân hàng đã tăng lên đáng kể, ngoài khả năng đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. Với nguồn vốn ngoại tệ dồi dào này Ngân hàng nên tiếp tục mở rộng cho vay với mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Xuất nhập khẩu.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới tính cân đối
2.1.Vấn đề nợ quá hạn và ảnh hưởng của nó tới tính cân đối
Trong hoạt động kinh doanh, rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi. Đối với Ngân hàng rủi ro tín dụng là sự chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy muốn giảm rủi ro trong hoạt động tín dụng, trước hết Ngân hàng cần phòng ngừa, hạn chế khả năng xuất hiện các khoản nợ quá hạn. Nợ quá hạn là một yếu tố quyết định chất lượng tín dụng của Ngân hàng, quyết định tính cân đối trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Với NHNo Hà nội, do tính chất hoạt động kinh doanh như những NHTM khác nên rủi ro là điều khó tránh khỏi và nợ quá hạn được cán bộ nhân viên Ngân hàng rất quan tâm xử lý, tránh gây ảnh hưởng đến hoạt động cân đối vốn. Tình hình nợ quá hạn được thể hiện như sau:
Bảng 24: Tình hình nợ quá hạn.
Đơn vị: Triệu VND
Thời gian
Khoản mục
31/12/1998
31/12/1999
31/12/2000
31/3/2001
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1.NQH<180 ngày
37.457
47,7
4.777
10,4
18.114
78,7
15.218
92,9
- DN quốc doanh
27.847
3.467
17.118
13.696
- DN ngoài QD
9.610
1.310
1.006
1.522
2.NQH 180-360 ngày
7.149
9,1
16.681
36,5
358
1,5
486
3
- DN quốc doanh
2.744
3.324
89
97
- DN ngoài QD
4.405
13.357
269
389
3.NQH>360 ngày
33.853
43,2
24.300
50,1
4.541
19,8
672
4,1
- DN quốc doanh
14.886
8.846
1.135
113
- DN ngoài QD
18.967
15.454
3.406
559
Tổng nợ quá hạn
78.459
8,17
45.758
4,78
23.013
1,77
16.376
1,16
Tổng dư nợ
959.749
957.299
1.296.566
1.409.405
Qua bảng tổng hợp trên ta thấy tổng dư nợ quá hạn năm 98 là 78.459 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 8,2% tổng nguồn cho vay. Trong đó nợ quá hạn <180 ngày chiếm 47,7% tổng nợ quá hạn. Đến năm 99 khoản nợ này đã được giải toả xuống còn 10,4%.
Khoản nợ quá hạn từ 43,2% năm 98 đã tăng lên 50,1% năm 99 chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng nợ quá hạn và do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gây ra. Trong đó nguyên nhân chủ yếu là khách hàng chiếm dụng vốn, không chịu trả nợ Ngân hàng là 21.198 Triệu đồng, còn lại do khách hàng kinh doanh thua lỗ, phá sản 11.000 triệu đồng, khách hàng cố ý lừa đảo 566 triệu đồng và các nguyên nhân khác.
Bằng các nghiệp vụ NHNo Hà nội đã thu hồi được một số nợ tồn đọng, kết quả là đến cuối năm 2000, nợ khó đòi đã giảm xuống đáng kể cả về số tuyệt đối và số tương đối. Cụ thể giảm xuống 18,9% tổng nợ quá hạn và tiếp tục giảm xuống trong quý I/2001 còn 4,1%.
Tỷ lệ nợ quá hạn <180 ngày của khu vực quốc doanh khá lớn, tăng lên từ 78,7% năm 2000 lên 92,9% quý I/2001. Mặc dù là DNNN nhưng Ngân hàng không nên chủ quan, cần có biện pháp giảm bớt khoản nợ này.
Nhìn chung tình hình xử lý nợ quá hạn của NHNo Hà nội trong những năm vừa qua thực hiện rất tốt, kết quả là đến 31/12/2000 tổng nợ quá hạn của Ngân hàng giảm xuống còn 1,77% tổng dư nợ. Theo quy định thì tỷ lệ này chấp nhận được và số nợ quá hạn này không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, thể hiện chất lượng tín dụng của NHNo Hà nội rất tốt, cụ thể là công tác cho vay của Ngân hàng có hiệu quả, với khoản tín dụng mà Ngân hàng cấp ra cho khách hàng luôn thu hồi được cả vốn và lãi đúng thời hạn. Góp phần đảm bảo an toàn vốn kinh doanh, đảm bảo hiệu quả của việc sử dụng vốn vay trong cho vay của Ngân hàng. Với số nợ quá hạn này, Ngân hàng đã thực hiện được yêu cầu cân đối vốn của mình.
2.2. Chính sách lãi suất và ảnh hưởng của nó tới tính cân đối
Năm 2000, dưới tác động của quan hệ cung cầu, nhiều Ngân hàng nhất là các Ngân hàng nước ngoài tăng lãi suất tiền gửi lên rất cao, các Ngân hàng trong nước lại hạ lãi suất cho vay nhằm thu hút khách hàng. Theo xu hướng đó, NHNo Hà nội cũng phải nâng lãi suất huy động vốn và hạ lãi suất cho vay, nhằm thu hút lượng vốn và kích thích sản xuất trong nền kinh tế, đảm bảo tính cân đối giữa huy động và sử dụng nguồn của Ngân hàng, mà vẫn đạt hiệu quả khá hơi năm trước về lãi suất. Cụ thể là NHNo Hà nội quy định lãi suất kinh doanh nội tệ đầu ra là 0,63%/tháng và 0,44%/tháng đối với lãi suất đầu vào. Chênh lệch lãi suất nội tệ toàn thành phố đạt 0,19%, tăng 0,14% so với năm 1999. Bằng sự chỉ đạo linh hoạt này, Ngân hàng có thể điều chỉnh được khối lượng nguồn vốn huy động và khối lượng sử dụng một cách chủ động theo mục đích.
Tóm lại, chính sách lãi suất và ảnh hưởng của nó đến tính cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn là những vấn đề rất quan trọng, rất cần thiết phải tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng theo nguyên tắc duy trì lãi suất dương và thực hiện lãi suất mang tính cạnh tranh.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
I. NHỮNG TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC CÂN ĐỐI VỐN GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TẠI NHNO&PTNT HÀ NỘI
Qua quá trình nghiên cứu về tính cân đối giữa huy động và sử dụng nguồn vốn tại NHNo Hà nội, em nhận thấy ban lãnh đạo Ngân hàng đã chú trọng thực hiện công tác cân đối vốn và đã đạt được kết quả khả quan, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Tuy nhiên, còn nhiều vướng mắc tồn tại ảnh hưởng tới công tác này đặt ra cho cán bộ Ngân hàng cần có phương hướng giải quyết trong thời gian tới.
NHNo Hà nội chưa tận dụng hết khả năng huy động vốn.
Qua thực tế trên địa bàn ta thấy NHNo Hà nội hoàn toàn có thể huy động thêm được nữa để làm cơ sở cho việc tăng cường mở rộng thị trường, tăng cường cạnh tranh và có thể điều chuyển được nhiều hơn nữa cho các chi nhánh của NHNo Việt nam đang bị thiếu vốn. Hiện tại các công cụ của NHNo Hà nội chưa đa dạng, huy động vốn trung dài hạn còn kém, mới chỉ có kỳ phiếu 12,13 tháng mà chưa có công cụ huy động dài hơn, có đảm bảo hơn để tận dụng huy động vốn được nhiều hơn.
Trong năm qua nguồn vốn của NHNo Hà nội tăng trưởng nhanh nhưng không vững chắc, ngay cả kỳ phiếu vì nguồn vốn huy động tập trung vào một số khách hàng lớn như Quỹ hỗ trợ, Kho bạc, Các tổ chức tín dụng... với tỷ trọng khá cao (trên 60%). Khi các khách hàng này rút vốn thì nguồn vốn của Ngân hàng sẽ hẫng hụt rất lớn.
Hoạt động cho vay của Ngân hàng chưa tương xứng với sự mở rộng nhanh chóng của nguồn vốn huy động.
Thời gian gần đây, vốn huy động của NHNo Hà nội tăng nhanh trong khi hoạt động cho vay còn hạn chế, chưa tương xứng với nguồn đáp ứng. Mặc dù doanh số cho vay ngắn hạn của Ngân hàng đã khá cao nhưng tín dụng trung dài hạn chưa thực sự mở rộng, dẫn đến chênh lệch giữa dư nợ huy động vốn với số dư có hoạt động tín dụng tương đối lớn, gây ra trạng thái thặng dư vốn dài hạn cả về nội tệ và ngoại tệ. Kết quả là hiệu quả sử dụng nguồn chưa cao. Do vậy về lâu dài Ngân hàng cần có biện pháp khắc phục tình trạng này bằng cách đẩy mạnh việc cho vay trung-dài hạn.
Ngân hàng chưa thực sự triển khai chính sách khách hàng, chính sách thông tin quảng cáo, tiếp thị một cách có hiệu quả.
Mặc dù Ngân hàng đã phân loại được nhóm khách hàng nhưng chưa có biện pháp và kế hoạch triển khai tốt để thoả mãn nhu cầu từng nhóm khách hàng nên chưa thu hút được số lượng lớn khách hàng tiềm năng.
Ngân hàng chưa thực sự tuyên truyền cho nhân dân trên địa bàn hiểu biết về các hoạt động, đến các chính sách của Ngân hàng nên chưa tạo niềm tin, sự hiểu biết của người dân vào Ngân hàng.
Hoạt động tiếp thị trong công tác huy động vốn không được tổ chức và thực hiện có bài bản. Tác phong làm việc của nhân viên Ngân hàng chưa thực sự văn minh, khoa học bởi họ chưa nhận thức được đầy đủ rằng trong hoạt động Ngân hàng họ chính là hình ảnh của Ngân hàng, họ đang làm Marketing ngân hàng mà không biết.
NHNo Hà nội chưa có các nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng.
Ngân hàng chưa có các nghiệp vụ chiết khấu các công cụ do Ngân hàng phát hành nên chưa đảm bảo tính lỏng, tính thị trường cho những món tiền dài hạn mà người dân đã gửi vào Ngân hàng thông qua việc mua các công cụ dài hạn. Nếu Ngân hàng triển khai được nghiệp vụ này thì người dân sẽ thấy yên tâm hơn khi mua chúng, cảm thấy ít bị thiệt thòi hơn trong trường hợp rút ra trước hạn (lãi suất bằng lãi suất không kỳ hạn) hoặc khi cầm cố các chứng chỉ đó để đi vay.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG TÍNH CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN
1. Về phía Nhà nước và các cơ quan pháp luật
Nhà nước và các cơ quan pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những điều kiện và môi trường về mặt kinh tế, pháp luật, chính trị, xã hội... Những điều kiện này càng ổn định, thuận lợi bao nhiêu thì hoạt động tín dụng càng có hiệu quả bấy nhiêu, chất lượng hoạt động tín dụng càng được đảm bảo bấy nhiêu.
Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt nam cần phối hợp cùng các cơ quan chức năng thực thi đúng đắn, có hiệu lực các điều luật của Luật Ngân hàng, nâng cao hiệu lực pháp lý của Luật Ngân hàng. Có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, cải cách hệ thống Ngân hàng-tài chính, tránh lặp lại sai lầm của các nước trong khu vực. Để hệ thống này hoạt động có hiệu quả hơn, đúng với vai trò là “bà đỡ” là “mạch máu” của nền kinh tế. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện tiến trình CNH-HĐH đất nước, tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng để làm cơ sở cho việc khuyến khích các nguồn đầu tư vào trong nước, xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, thu được nhiều ngoại tệ mạnh để có thể nhập máy móc hiện đại...
Nhà nước cần tạo lập môi trường tâm lý xã hội thuận lợi như: hạn chế nhập những mặt hàng tiêu dùng xa xỉ , nếu nhập phải đánh thuế thật cao. Đồng thời khuyến khích nhân dân dùng hàng nội để đẩy mạnh tiêu dùng sản phẩm trong nước, tạo điều kiện kích thích doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng để đầu tư mở rộng sản xuất, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Việc xây dựng môi trường thuận lợi phải biết dựa vào sức mạnh của thông tin. Phải sử dụng triệt để toàn bộ hệ thống thông tin có sẵn làm nhiệm vụ tuyên truyền, triển khai thực hiện các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về tiết kiệm và đầu tư. Tuyên truyền cho dân chúng không những chỉ biết tiết kiệm mà còn phải biết đầu tư. Ngân hàng Nhà nước là đơn vị chỉ đạo cao nhất về việc xây dựng cũng như thực hiện những đường lối, chính sách liên quan đến lĩnh vực tài chính-tiền tệ. Do đó cần chủ động xây dựng kế hoạch tuyên truyền cho người dân hiểu là gửi tiết kiệm vào Ngân hàng là một loại hình đầu tư gián tiếp vừa ích nước, vừa lợi nhà.
Có thể tuyên truyền qua nhiều cách như : phổ biến chính sách mới về Ngân hàng có liên quan thiết thực đến người dân, giải đáp thắc mắc, phát động đưa tin những địa phương có phong trào gửi tiền tiết kiệm mạnh... để cho người dân quen với các hoạt động Ngân hàng, quen với việc gửi tiết kiệm. Hoặc tuyên truyền gần như quảng cáo với những khẩu hiệu ngắn gọn xúc tích có tác động trực tiếp đến người xem. Ví dụ: “Hãy để cho đồng tiền của bạn sinh sôi. Gửi tiết kiệm là cách an toàn nhất. Hãy đến với các NTTM”.
2. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam
NHNo&PTNT Việt nam là trung tâm điều hành của NHNo Hà nội và các Ngân hàng khác cùng hệ thống trên cơ sở trợ giúp, tư vấn, điều chuyển vốn giữa các chi nhánh trong và ngoài Hà nội.
Trong quá trình hoạt động, ngoài việc huy động chỉ để phục vụ kinh doanh, đầu tư. Ngân hàng nông nghiệp Hà nội còn huy động một lượng vốn lớn để điều chuyển về trung tâm NHNo Việt nam, từ đó điều chuyển cho các chi nhánh khác bị thiếu vốn. Tuy nhiên có lúc Ngân hàng huy động vốn không đủ đáp ứng nhu cầu cho vay của mình. Do thiếu vốn Ngân hàng phải nhận tiền điều hoà từ Ngân hàng trung tâm và phải trả phí cho khoản vay này. Các hoạt động điều hoà vốn và lãi suất áp dụng cho từng loại thường có sự chênh lệch, Ngân hàng phải trả lãi vay cao hơn nhận lãi tiền gửi. Thêm vào đó là các chi phí về thiết bị, quản lý...Do vậy, NHNo Việt nam cần có sự quan tâm nghiên cứu và tạo điều kiện cho các chi nhánh bằng cách đưa ra mức lãi suất điều chuyển vốn một cách hợp lý, vừa đảm bảo có lợi cho Ngân hàng điều chuyển vừa đảm bảo kinh doanh có hiệu quả cho các Ngân hàng được điều chuyển vốn. Để khuyến khích Ngân hàng Nông nghiệp Hà nội tận dụng khai thác triệt để và có hiệu quả các nguồn vốn.
Bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh, NHNo Việt nam cũng nên tạo thêm sự độc lập tương đối cho NHNo Hà nội, để Ngân hàng tự vạch ra cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể hơn, dài hạn hơn. Từ đó lên kế hoạch chuyên môn hoá đến từng phòng ban. Theo xu hướng hiện nay, kể cả các tập đoàn lớn, Công ty đa quốc gia cũng đã áp dụng hình thức này và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Bởi trung tâm điều hành có một cách nhìn bao quát hơn, tổng thể hơn nhưng lại thiếu đi một cái nhìn chi tiết, những cái quan sát cụ thể mà chỉ có Ngân hàng hoạt động trên địa bàn mới nắm được. Và nếu như quá phụ thuộc vào cấp trên những kiến nghị của cấp dưới để tiến hành giải quyết những vấn đề cấp bách hiện tại, chiến lược cạnh tranh khách hàng trong một dự án nào đó chẳng hạn, đến được tay trung tâm cũng phải mất một thời gian mới có tín hiệu trở lại, đôi khi những tín hiệu đó đã quá muộn để có thể làm được gì nữa. Tất nhiên vẫn trên cơ sở sự định hướng mang tầm chiến lược của trung tâm điều hành cấp trên như là nền tảng, chỗ dựa vững chắc.
Ngoài ra NHNo Việt nam nên nghiên cứu và thành lập phòng kỹ thuật công nghệ và kinh tế. Bởi thực trạng hiện nay nhiều lĩnh vực ngành nghề mà cán bộ tín dụng khi cho vay không biết gì về mặt kỹ thuật, công nghệ của chúng. Do đó khi có phòng này họ có thể tham khảo và nhờ các chuyên gia giúp đỡ để kiểm tra tính đúng đắn của các luận chứng kinh tế-kỹ thuật, các dây truyền máy móc thiết bị, công đoạn và quy trình sản xuất. Có như vậy Ngân hàng mới khắc phục được những thông tin không cân xứng, góp phần quyết định cho công tác thẩm định. Mặt khác, việc thành lập phòng này còn có nhiệm vụ nghiên cứu công nghệ kỹ thuật nhằm mục tiêu hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng cho toàn hệ thống.
Hiện nay, trong kinh doanh các khoản nợ quá hạn phát sinh nhiều kèm theo những tài sản thế chấp, cầm cố cũng tăng lên, gây khó khăn cho công tác bảo đảm. Do không có kiến thức chuyên môn về mặt hàng đó nên Ngân hàng không thể bán hết tài sản để thu hồi nợ. Vì vậy NHNo&PTNT Trung ương nên thành lập phòng kinh doanh bán đấu giá các loại tài sản thế chấp, cầm cố giúp giải phóng ngay vốn tồn đọng cho các chi nhánh. Có một phòng chuyên môn hoá như vậy giúp các chi nhánh hạn chế được rủi ro, giảm bớt được các chi phí bảo quản thanh lý góp phần khai thông nguồn vốn.
3. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
3.1. Trên cơ sở yêu cầu sử dụng vốn, Ngân hàng xác định qui mô, cơ cấu nguồn vốn cho phù hợp, đảm bảo tính cân đối với hoạt động sử dụng vốn
Công tác huy động vốn là hết sức quan trọng với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, sản phẩm của nó là tiền đề cho công tác sử dụng vốn. Theo định hướng phát triển công tác sử dụng vốn như trên, hoạt động huy động vốn cũng cần có sự điều chỉnh thích hợp. Cụ thể là:
Ngân hàng phải coi trọng nguồn vốn sao cho có hiệu qủa, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội đề ra, chính sách huy động vốn phải phù hợp với khả năng phát triển của nền kinh tế, với tập quán tiêu dùng và tiết kiệm của nhân dân địa phương.
-Trong quá trình huy động vốn, cần chú ý tăng cường huy động vốn vốn trung-dài hạn cho đầu tư phát triển, đó là một đòi hỏi rất lớn trong quá trình CNH-HĐH. Ngân hàng cần nghiên cứu và chuẩn bị cho ra đời các loại kỳ phiếu, trái phiếu có kỳ hạn dài khác nhau từ 1năm đến 5 năm, với mệnh giá từ 500.000 đồng, 1 triệu đồng, 20 triệu đồng, 30 triệu đồng... có thể trả lãi trước ở năm đầu và có khả năng chuyển nhượng dễ dàng.
-Ngân hàng nên gắn việc huy động tiền gửi với việc cho vay nhu cầu sản xuất tiêu dùng. Ai gửi nhiều tiền dài hạn thì cũng được vay dài hạn để xây dựng, mua sắm nhà ở...
-Ngân hàng có thể tăng tiện ích trong lĩnh vực thanh toán, mở rộng khối lượng tài khoản cá nhân góp phần giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, thúc đẩy thanh toán qua Ngân hàng.
-Từng bước nâng cao tỷ trọng của nguồn tự huy động trong tổng nguồn vốn, trong đó tập trung huy động vốn của các tổ chức kinh tế và dân cư. Ngân hàng có thể áp dụng hình thức tiết kiệm có lãi kèm theo quay số mở thưởng định kỳ. Biện pháp tâm lý này sẽ kích thích dân cư gửi tiền vì mong muốn có thưởng.
-Đa dạng hoá nguồn vốn thông qua việc đưa ra nhiều hình thức huy động và qua nhiều kênh khác nhau. Đi đôi với giải pháp tạo vốn trực tiếp, còn có những giải pháp khác liên quan đến kỹ thuật nghiệp vụ của bản thân Ngân hàng để mở rộng nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu thị trường. Đó là tăng tốc độ luân chuyển vốn và thực hiện tốt công tác thu nợ, tránh để tình trạng nợ quá hạn kéo dài.
-Ngoài ra, Ngân hàng cũng cần chú trọng tới việc thực hiện chính sách khách hàng trên cơ sở đa dạng hoá khách hàng, củng cố khách hàng truyền thống, mở rộng có chọn lọc khách hàng mới, đổi mới phong cách phục vụ của cán bộ nhân viên Ngân hàng.
-Ngân hàng cần thường xuyên nắm thông tin kịp thời về hình thức huy động, lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng khác cũng như mức trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước để đưa ra được các mức lãi suất linh hoạt, cạnh tranh. Các giải pháp này tuy không phải là những giải pháp trực tiếp song nó lại có tác động khá lớn đến khả năng huy động vốn của Ngân hàng. Vì thế, Ngân hàng cần phải chú ý thực hiện.
Hiện nay, ở Việt nam, nghiệp vụ thị trường mở đã hình thành và đi vào hoạt động. Việc xuất hiện thị trường mở là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta, thúc đẩy huy động tốt hơn những nguồn vốn nhàn rỗi to lớn và đang tiềm ẩn trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn phát triển Ngân hàng cần cần nhanh chóng tham gia vào thị trường này. Đây là nơi để các NHTM tìm kiếm nguồn vốn bổ sung cho việc thiếu hụt tạm thời khả năng thanh khoản của mình.
Khi Ngân hàng thiếu hụt tạm thời khả năng thanh toán, không có khả năng vay từ các NHTM khác, Ngân hàng có thể đem bán lại hoặc vay có thế chấp các giấy tờ có giá của mình cho Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng cũng có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu để thu hút những nguồn vốn khá lớn và ổn định lâu dài, với chi phí huy động thấp.
Trường hợp có nguồn vốn dư thừa, Ngân hàng có thể giảm bớt nợ nần bằng cách mua lại trái phiếu chưa đến hạn trên thị trường mở. Nếu đây là vốn ngắn hạn, Ngân hàng có thể mua giấy tờ có giá do Ngân hàng Trung ương bán ra. Đó là một hành động đầu tư với một khoản lợi nhuận chắc chắn.
3.2. Ngân hàng cần xây dựng chiến lược sử dụng vốn hợp lý trên cơ sở đa dạng hóa loại hình đầu tư kinh doanh và dịch vụ Ngân hàng
Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng cần tiếp tục phát huy theo hướng nâng cao mức tăng trưởng và chất lượng tín dụng. Đồng thời mở rộng sang các lĩnh vực kinh doanh khác nhằm phân tán rủi ro cũng như đảm bảo thoả mãn mọi yêu cầu của khách hàng.
Muốn vậy, Ngân hàng cần phải giữ được vị trí độc lập của mình khi tiến hành cho vay, cần phân tích đầy đủ, chính xác về tính khả thi của dự án. Ngân hàng cũng cần chủ động tìm kiếm khách hàng, sẵn sàng đầu tư vốn và hỗ trợ lãi suất cho các dự án đầu tư phát triển có hiệu quả, cho vay bằng nguồn tự huy động của Ngân hàng.
Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực cho vay trung-dài hạn, mở rộng có chọn lọc đối tượng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, Ngân hàng cũng cần xây dựng các tiêu chuẩn định mức vốn vay cho các doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho vay an toàn, tiếp tục hoàn thiện quy chế tín dụng.
Song song với việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng, Ngân hàng cần nhanh chóng triển khai các nghiệp vụ có khác. Ngân hàng cần thực hiện tốt công tác thanh toán trong nước và quốc tế, bởi đây là hoạt động có ít rủi ro song mang lại thu nhập ngày càng lớn cho Ngân hàng, thông qua việc nâng cao chất lượng các hình thức thanh toán hiện có nhằm phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện và an toàn.
Ngoài ra, Ngân hàng cần tiếp tục nâng cao chất lượng các loại dịch vụ đã có như dịch vụ chuyển tiền mặt, dịch vụ bảo lãnh, mua bán ngoại tệ. Đồng thời mạnh dạn thực hiện các dịch vụ mới như dịch vụ cho thuê két, làm đại lý thanh toán...
3.3. Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và đẩy mạnh giải quyết những vấn đề còn tồn tại nhằm nâng cao tính cân đối giữa công tác huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn trong thời gian tới
Công tác cân đối vốn là một nghiệp vụ tổng hợp có liên quan đến cả hoạt động huy động nguồn và sử dụng vốn. Do đó, để có thể nâng cao tính cân đối ở Ngân hàng thì ngoài những giải pháp chung như đã trình bày ở trên, Ngân hàng nông nghiệp Hà nội cũng cần phải tiến hành các biện pháp cụ thể sau:
Trước tiên, Ngân hàng cần giành sự đầu tư thích đáng vào việc nghiên cứu những thành công đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, để có những định hướng thích hợp cho giai đoạn sắp tới vừa mang tính kế thừa vừa có khả năng thích ứng trong điều kiện mới. Trong đó, tính cân đối tương đối vững chắc giữa hoạt động huy động nguồn và sử dụng vốn trong giai đoạn vừa qua là kết quả nổi bật nhất.
Bên cạnh việc tích cực phát huy những kết quả đã đạt được, một vấn đề khác cũng hết sức quan trọng mà Ngân hàng cần quan tâm-đó là tìm ra những tồn tại và đưa ra các hướng giải quyết những vấn đề đó. Bởi vì nó sẽ góp phần điều chỉnh lại các hoạt động kinh doanh cho hợp lý hơn, nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Thứ nhất, đối với hạn chế là hoạt động cho vay dài hạn nội tệ chưa tương xứng với sự mở rộng nhanh chóng của vốn dài hạn, chênh lệch giữa dư nợ vốn dài hạn với dư nợ tín dụng dài hạn tạo ra tình trạng thặng dư khá lớn, do đó Ngân hàng cần đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung dài hạn qua những giải pháp sau đây:
-Mở rộng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trên cơ sở chọn lựa kỹ khách hàng, phân tích chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng. Trong đó chú trọng tìm kiếm những khách hàng là những doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả để cho vay đầu tư khép kín đồng bộ cả vốn trung-dài hạn và vốn ngắn hạn.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng cần phải hoàn thiện các thủ tục cho vay với khách hàng. Ngân hàng cần phải thống nhất mẫu biểu và thực hiện một cách nhanh chóng các thủ tục này, một số thủ tục chi nhánh có thể làm thay khách hàng vì Ngân hàng thực hiện sẽ nhanh hơn, đỡ tốn kém hơn. Ngân hàng cần dành thời gian vào công tác giám sát thực tế vì đây mới là hoạt động mang tính chất quyết định đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Ngân hàng cần có một thái độ phục vụ văn minh, kể cả những hành động nhỏ như : giải thích mềm mỏng, đơn giản, dễ hiểu giúp cho khách hàng hiểu rõ về các dịch vụ hiện tại chi nhánh đang cung ứng, về quyền lợi và trách nhiệm của khách hàng khi ký kết các hợp đồng tín dụng.
Ngân hàng cần mở rộng hình thức cho vay thế chấp và cho vay cầm cố. Trong thời gian trước mắt, Ngân hàng chưa có điều kiện xây dựng nhà kho bảo quản tài sản cầm cố, Ngân hàng có thể khắc phục bằng cách ký hợp đồng với một số đơn vị nhận bảo quản, trông coi tài sản cầm cố có tín nhiệm.
Ngân hàng cần mở rộng hình thức cho vay thế chấp và cho vay cầm cố. Trong thời gian trước mắt, Ngân hàng chưa có điều kiện xây dựng nhà kho bảo quản tài sản cầm cố, Ngân hàng có thể khắc phục bằng cách ký hợp đồng với một số đơn vị nhân bảo quản, trông coi tài sản cầm cố có tín nhiệm.
-Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Trong những năm gần đây, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình. Với đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm quốc dân, kinh tế tư nhân đã khẳng định vai trò của mình đối với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, cần thiết phải đầu tư cho doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đầu tư cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn vì : Những doanh nghiệp này thích nghi với cơ chế thị trường nhanh hơn những doanh nghiệp của Nhà nước với quy mô lớn. Nếu những quyết định trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước bị rằng buộc bởi các quyết định hành chính, nên thường chậm chạp . Trong khi quyết định của doanh nghiệp tư nhân diễn ra rất nhanh, nhạy hơn theo tín hiệu của thị trường. Đây là một yếu tố rất quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, những doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức mạo hiểm thấp hơn, tận dụng được nhiều lao động tốt hơn và tiết kiệm khâu trung gian trong quản lý nên giá thành sản phẩm hạ hơn và chất lượng cao hơn.
Hiện nay, đối với NHNo Hà nội việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hạn chế. Trong khi nguồn vốn của Ngân hàng rất dồi dào, hệ số sử dụng nguồn vốn thấp thì phải chăng Ngân hàng đã quá thận trọng đối với thành phần kinh tế này, chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc thẩm định các dự án của các doanh nghiệp.
Như vậy, trong thời gian tới Ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện quy trình cho vay ngoài quốc doanh. Ngân hàng cần thực hiện chính sách: “Dù doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hay tư nhân nếu làm ăn có chữ tín thì sẽ vay được vốn Ngân hàng”. Trên thương trường thất bại là bình thường, thành công mới là không bình thường . Chính vì vậy Ngân hàng nên nhìn nhận cho đúng sự thất bại của doanh nghiệp, tuỳ theo tổn thất và uy tín của doanh nghiệp mà Ngân hàng mạnh dạn cho vay. Coi thuận lợi và khó khăn của bạn hàng cũng là thuận lợi và khó khăn của Ngân hàng, phải cùng bạn hàng bàn bạc tìm các biện pháp tích cực để cùng hỗ trợ nhau phát triển.
Ngoài ra, Ngân hàng cần làm tốt chính sách khách hàng; phân loại, chọn lọc khách hàng. Áp dụng các chính sách ưu đãi như lãi suất, ưu tiên cho vay, ưu tiên trong cung cấp dịch vụ Ngân hàng...
Đối với những doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm kinh doanh, Ngân hàng nên cử cán bộ Ngân hàng cùng tham gia để tư vấn, tìm giải pháp xây dựng dự án có tính khả thi cao để sẵn sàng tiếp nhận được vốn Ngân hàng. Ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các nhà đầu tư ngay từ khi tìm tòi xây dựng dự án, nhằm đảm bảo cho vay nhanh, an toàn, hiệu quả.
Trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng cần chấp hành nghiêm chỉnh thể lệ tín dụng, tăng cường kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay để tránh tình trạng xuất hiện những món vay có rủi ro. Đối với các doanh nghiệp có nợ quá hạn cần phối hợp với doanh nghiệp tìm biện pháp tháo gỡ. Phải linh hoạt, mạnh dạn quyết đoán trong việc sử lý nghiệp vụ, không trông chờ vào cấp trên
Thường xuyên cải tiến lề lối, đổi mới phong cách giao dịch, trang bị phương tiện thông tin nhanh nhạy để nắm chắc tình hình thị trường tiền tệ, thị trường giá cả, tiến hành xử lý kịp thời những tình huống đặt ra trong kinh doanh, không để lỡ thời cơ.
Đi đôi với những giải pháp trên, Ngân hàng cần đẩy nhanh vòng quay của vốn ngắn hạn để phục vụ được nhiều khách hàng, đẩy mạnh công tác thu nợ để có nguồn cho vay tiếp.
Như vậy, với việc thực hiện khẩn trương các giải pháp trên đây, đồng thời vẫn tiếp tục mở rộng công tác huy động vốn từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế, chắc chắn trong giai đoạn tới sẽ nâng cao hơn hiệu suất sử dụng vốn dài hạn nội tệ, đảm bảo vững chắc tính cân đối giữa huy động nguồn cho vay dài hạn nội tệ nâng cao năng lực của Ngân hàng.
Thứ hai, như trong chương II đã phân tích, tính cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn ngoại tệ ngắn và trung-dài hạn từ năm 2000 trở lại đây đã có tình trạng thặng dư vốn, hoạt động cho vay cũng không sử dụng hết nguồn vốn huy động. Để khắc phục, Ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vì đây là các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng ngoại tệ thường xuyên, đồng thời từ đó có thể tranh thủ huy động nguồn ngoại tệ nhàn rỗi từ các tổ chức kinh tế này.
Thứ ba, đối với công tác đảm bảo vốn thanh toán, trong thời gian tới Ngân hàng cần tập trung khai thác các nguồn tiền gửi có tính ổn định, lâu dài. Cụ thể là:
-Với khách hàng truyền thống, cần tiến hành phân loại khách hàng để có chính sách khách hàng hấp dẫn: qua lãi suất, dịch vụ Ngân hàng kèm theo... Từ đó thu hút khách hàng tập trung tiền gửi hoạt động tại Ngân hàng.
-Với khách hàng mới, chú trọng các khách hàng có nguồn tiền gửi ổn định, có tiềm năng gửi tiền trong tương lai cũng như nhu cầu của họ để có kế hoạch tiếp cận.
-Với nguồn huy động từ dân cư, cần đẩy mạnh quảng cáo, thông tin trên truyền hình, báo chí để mọi người biết được những lợi ích cụ thể sẽ nhận được nếu gửi tiền tại Ngân hàng. Đồng thời tăng cường áp dụng công nghệ mới bảo đảm việc gửi tiền, rút tiền của khách hàng được nhanh chóng, an toàn và thuận tiện. Bên cạnh việc đưa ra nhiều hình thức huy động với lãi suất linh hoạt, Ngân hàng có thể thực hiện chiết khấu hay mua lại các chứng từ có giá đối với những người có nhu cầu rút trước hạn. Từ đó, dân chúng sẽ yên tâm gửi tiền lâu dài tại Ngân hàng.
Ngân hàng cũng cần tiếp tục giữ mối quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng trong và ngoài hệ thống, bởi vì vốn vay các tổ chức tín dụng sẽ góp phần giải quyết các nhu cầu vốn cấp bách của Ngân hàng.
3.4. Về tình hình nợ quá hạn
Để đảm bảo được tính cân đối của mình, Ngân hàng cũng cần phải hết sức quan tâm đến tình hình nợ quá hạn. Nguyên nhân gây ra nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng có rất nhiều, rất đa dạng. Nhiệm vụ của Ngân hàng xác định rõ nguyên nhân là do chủ quan hay khách quan, nguyên nhân từ phía khách hàng hay do bản thân Ngân hàng để có biện pháp xử lý thích hợp.
Trường hợp phát sinh nợ quá hạn Ngân hàng cần cố gắng xử lý dần nợ cũ, hạn chế nợ quá hạn mới để đảm bảo chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng.
Đối với khách hàng vay vốn, Ngân hàng cần tuyên truyền phổ biến nghiệp vụ để họ thực hiện tốt các nguyên tắc, chế độ, sử dụng đồng vốn có hiệu qủa, đảm bảo trả nợ cho Ngân hàng.
Ngân hàng cần nâng cao trình độ của cán bộ Ngân hàng, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối chiếu tài khoản cho vay của khách hàng với Ngân hàng, nhất là các khoản tín dụng thông qua các tổ tín chấp vay vốn. Hạn chế đến mức tối đa nhất rủi ro trong kinh doanh tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo cân đối vốn.
3.5. Về chính sách lãi suất
Để tăng cường tính cân đối của Ngân hàng trong huy động và sử dụng nguồn vốn, chính sách lãi suất cần phải được Ngân hàng quan tâm đặc biệt. Sự chênh lệch về lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay đã tạo nên nguồn thu nhập của Ngân hàng và nó cũng phản ánh trình độ phát triển của Ngân hàng. Nếu lãi suất huy động cao thì tất yếu lãi suất cho vay sẽ cao và ngược lại. Vì vậy, Ngân hàng phải áp dụng một cách linh hoạt các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi theo kịp sự biến động của thị trường để có thể huy động được nguồn vốn chi phí thấp nhất.
Ngân hàng cần có cơ chế sử dụng lãi suất linh hoạt như “cầu nối” giữa sản phẩm Ngân hàng và khách hàng, lãi suất phải có khoảng cách phù hợp giữa giá mua vào và giá bán ra, tạo điều kiện cho khách hàng chấp nhận được. Việc vận dụng lãi suất linh hoạt, hấp dẫn, thực dương còn phải tính đến lạm phát và nhằm khuyến khích người gửi tiền vào Ngân hàng.
Đối với các doanh nghiệp vấn đề lãi suất bao giờ cũng là chủ đề được quan tâm. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, khi thu hút vốn của các Công ty Tư nhân, ngoài việc đưa ra mức lãi suất ưu đãi, Ngân hàng cần có thái độ sao cho các công ty này cảm thấy phấn khởi là không bị phân biệt đối xử giữa quốc doanh và cổ phần. Trong khi cơ chế lãi suất bao gồm cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay vẫn đảm bảo lợi ích của Ngân hàng và khách hàng. Từ đó tạo và duy trì mối quan hệ gắn bó với các doanh nghiệp.
Đối với các cá nhân khi gửi tiền dài hạn cũng cần có mức lãi suất hợp lý tuỳ theo thời gian gửi tiền. Có thể xây dựng theo hai cách: từ 2 đến 5 năm ấn định mức lãi suất 2 năm, 3 năm, 4 năm, 5 năm. Trên 5 năm ấn định mức lãi suất luỹ tiến thời gian hoặc cứ 5 năm 1 mức. Gửi tiền trong thời gian dài có thể có những ảnh hưởng của chính sách tiền tệ, lạm phát, thiểu phát... Ngân hàng cần xác định thời điểm trả lãi hàng năm theo những mức lãi suất cụ thể cho từng khoản vay với các kỳ hạn khác nhau, phù hợp với mặt bằng lãi suất thời kỳ đó để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền.
Cuộc sống hàng ngày phát sinh nhiều vấn đề cần phải chi trả, trong khi các khoản tiền gửi của khách hàng đến cuối kỳ hạn mới được thanh toán. Ngân hàng có thể thực hiện trả lãi theo chu kỳ 3 tháng, 6 tháng trả lãi một lần. Biện pháp này đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người gửi đồng thời cũng khuyến khích được người gửi tiền với kỳ hạn dài hơn.
Khi có nhu cầu cần huy động một lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các công trình trọng điểm. Ngân hàng có thẻ nâng mức lãi suất tiền gửi cao hơn lúc bình thường và trả lãi trước cho người gửi tiền.
Khi người gửi tiền trung dài hạn có nhu cầu rút ra trước thời hạn, Ngân hàng có thể áp dụng mức trả lãi ở mức thấp hơn một mức của thời gian thực tế họ gửi. Ví dụ: Một người gửi tiền vào Ngân hàng với thời hạn 5 năm. Được 4 năm họ cần rút khoản tiền đó thì Ngân hàng trả lãi cho họ ở mức lãi suất tiền gửi 3 năm.
Rõ ràng là khi nguồn huy động có lãi suất hợp lý mang tính cạnh tranh thì công tác sử dụng nguồn sẽ được thúc đẩy hơn. Từ đó dẫn đến tính cân đối sẽ có điều kiện cải thiện. Trong trường hợp nguồn huy động có số dư lớn, Ngân hàng có thể điều chỉnh hạ thấp lãi suất đầu ra để kích thích nhu cầu đầu tư của khách hàng. Hoặc trong điều kiện nhu cầu tín dụng của khách hàng với Ngân hàng lớn, để đảm bảo tính cân đối, Ngân hàng có thể đi vay của các tổ chức tín dụng khác với lãi suất cao hơn.
Nhìn chung, để có thể tăng cường tính cân đối tại Ngân hàng từ hoạt động quản lý lãi suất thì NHNo Hà nội cần phải có những nỗ lực trong công tác nghiên cứu, thống kê tình hình lãi suất đối với các tài sản có và tài sản nợ của mình về; tình hình lãi suất trên thị trường, chủ trương đổi mới lãi suất của Thống đốc. Từ đó có thể đề ra mức lãi suất cho từng đối tượng một cách hợp lý.
3.6. Những vấn đề khác có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và công tác cân đối vốn nói riêng
3.6.1. Về kỹ thuật nghiệp vụ của công tác cân đối
Từ khi đi vào hoạt động kinh doanh theo cơ chế của một NHTM, Ban lãnh đạo Ngân hàng đã rất chú trọng đến các công tác cân đối vốn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, nhờ đó NHNo Hà nội đã từng bước nâng cao tính tự chủ trong cả công tác huy động nguồn lẫn hoạt động cho vay.
Phòng nguồn vốn kinh doanh phân công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi cán bộ, trên cơ sở đó đảm bảo nắm vững thông tin về mức dư nợ tài khoản tiền gửi tại NHTM. Tại NHNo Hà nội và các Ngân hàng cùng hệ thống tiến hành bám sát biến động dư nợ tài khoản tiền gửi khách hàng (đặc biệt là tiền gửi không kỳ hạn vì nó ảnh hưởng đến cho vay ngắn hạn). Từ đó giúp cho Ban lãnh đạo Ngân hàng nắm được mọi thông tin một cách kịp thời để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời.
Tuy nhiên, cán bộ phòng nguồn vốn-kinh doanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong khi tiến hành thực hiện công tác cân đối vốn, bởi vì đây vẫn là một nghiệp vụ còn mới mẻ không chỉ đối với NHNo Hà nội mà còn với hầu hết các NHTM ở Việt nam. Vì thế, việc phân tích số liệu, việc đưa ra các chỉ tiêu đánh giá còn nhiều hạn chế, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.
Do đó, Ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu các kỹ thuật nghiệp vụ của công tác này ở các nước, kết hợp với kinh nghiệm đã có và điều kiện thực tế ở Việt nam để có thể đưa ra các căn cứ, phân tích, dự đoán một cách khoa học hơn và hoàn thiện hơn.
Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên chú trọng việc phân tích tổng hợp tình hình cân đối vốn trong thời kỳ, từ đó rút ra xu thế biến động chung, tìm ra được những nhân tố ảnh hưởng có tính chất chu kỳ hay chỉ là nhất thời. Qua đó, Ngân hàng có thể đưa ra được các giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả công tác cân đối vốn.
Bên cạnh việc cần cử các cán bộ trẻ , có trình độ đi học tập để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, Ngân hàng cũng nên tuyển dụng một đội ngũ các chuyên gia kinh tế nhằm đưa ra các dự đoán về các chỉ số kinh tế, tỷ giá hối đoái và lãi suất.
3.6.2. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công nghệ Ngân hàng
Công nghệ luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong công tác thanh toán của Ngân hàng. Trong lĩnh vực thanh toán nếu tốc độ thanh toán nhanh sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ chu chuyển vốn, vật tư, hàng hoá, dịch vụ, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng một cách an toàn, thuận tiện và nhanh chóng. Vì thế, Ngân hàng cần đẩy nhanh việc nối mạng giữa Hội sở với các chi nhánh trực thuộc, tạo điều kiện cho việc thực hiện phương thức khách hàng gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi.
Ngân hàng cần nhanh chóng thiết lập hệ thống thanh toán tự động, chuẩn bị từng bước tham gia hoà nhập hệ thống truyền thông quốc tế để phục vụ thanh toán quốc tế nhanh chóng.
3.6.3. Ngân hàng cần thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ
Để tạo được niềm tin với khách hàng, Ngân hàng cần phải có chữ “tín”. Muốn vậy Ngân hàng cần giải quyết một số công việc sau:
- Ngân hàng phối hợp với các Công ty bảo hiểm xúc tiến nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi nói riêng, bảo hiểm vốn của người đầu tư nói chung. Làm được việc này là tạo ra độ an toàn cao cho người gửi tiền.
- Mở rộng mạng lưới Ngân hàng tới các trung tâm dân cư, trung tâm buôn bán, những vùng xa trụ sở của Ngân hàng. Ngoài việc nhận tiền gửi dưới mọi hình thức, sẽ kiêm luôn thanh toán và giấy nhận nợ và cho vay.
- Ngân hàng cần tăng cường công tác Marketing tức là phải hướng tới nhu cầu của khách hàng, đưa việc cung ứng vốn phù hợp và có chất lượng cao, giá thành phải chăng, việc phân phối vốn thoả đáng.
- Chính sách quảng cáo cũng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Thông qua quảng cáo người dân sẽ biết thông tin một cách chi tiết về Ngân hàng mà không cần phải đến trực tiếp. Thế nhưng, quảng cáo về Ngân hàng còn rất hiếm, chủ yếu trên các báo, tạp chí của ngành. Những người dân bình thường không phải ai cũng đọc do đó hiểu biết của họ đến ngành còn ít. Ngân hàng cần tiến hành việc quảng cáo một cách thường xuyên, liên tục trên một số phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài, báo chí với khẩu hiệu “Mọi khách hàng đều là bạn đồng hành của Ngân hàng” và tập trung vào những vấn đề chính: lãi suất hấp dẫn, những tiện ích mà Ngân hàng mang lại, bí mật khách hàng, những lợi ích vật chất...
3.6.4. Mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng
Để thắng thế trong cạnh tranh, Ngân hàng cần nắm bắt được nhu cầu thị trường thông qua hoạt động cung ứng các dịch vụ của mình.
Dịch vụ tư vấn: Ngân hàng cần mở rộng tư vấn cho khách hàng về gửi tiền, tư vấn đầu tư, tư vấn trong việc mua bán tài sản của khách hàng... giúp khách hàng lựa chọ loại hình kinh doanh thích hợp.
Dịch vụ bảo hiểm: Đây là một dịch vụ bảo hiểm nhằm bù đắp rủi ro mất giá đồng tiền của khách hàng được Ngân hàng thực hiện không vì mục đích thu lời, mà để tránh rủi ro mất giá đồng tiền cho khách hàng.
Dịch vụ Ngân hàng bán lẻ: Công nghệ thông tin phát triển không ngừng và mang lại rất nhiều tiện ích. Giúp Ngân hàng có thể tiếp cận và áp dụng các loại hình dịch vụ mới như: dịch vụ Ngân hàng qua điện thoại, dịch vụ trên mạng Internet...Qua hoạt động của các loại hình này Ngân hàng có thể mở rộng hoạt động kinh doanh của mình .
Dịch vụ chuyển tiền nhanh: Đây là một dịch vụ đem lại thu nhập cho Ngân hàng đồng thời tăng thêm uy tín của Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng cần chú trọng hơn đối với loại hình dịch vụ này thông qua việc chuyển tiền nhanh trong và ngoài nước.
3.6.5. Về công tác cán bộ
Ngân hàng cần đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu của từng cán bộ. Trên cơ sở đó bố trí đúng người đúng việc, phát huy tối đa năng lực của từng cán bộ. Công tác quản trị điều hành cần được coi là khâu then chốt trong thành công của mọi hoạt động. Vì vậy, cần bảo đảm quản trị, điều hành năng động, nhanh nhạy, kiên quyết trên cơ sở bám sát chiến lược của ngành.
KẾT LUẬN
Việc đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đòi hỏi phải có sự thực hiện nhiều biện pháp một cách đa dạng và đồng bộ. Các biện pháp đó được bắt đầu từ công tác nghiên cứu, khái quát hoá của người quản lý đến các nghiệp vụ cụ thể ở phòng tín dụng. Từ sự nỗ lực của mỗi nhân viên đến sự quản lý, điều hành, đổi mới cán bộ của cả một tập thể Ngân hàng...
Giải pháp về tính cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 82.DOC