Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu sắc vào nền
kinh tế khu vực và thế giới. Sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN và tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Việt Nam đã tham gia ASEM, APEC và đang tích cực đàm phán gia nhập WTO. Trong bối cảnh đó, hệ thống chính sách thương mại của nước ta đã có những thay đổi tích cực, đặc biệt là cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng các công cụ phi thuế quan. Trong khi mối quan hệ qua lại, phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh tế Việt Nam và kinh tế quốc tế ngày càng khăng khít thì nhu cầu xây dựng hệ thống chính sách thương mại và các văn bản pháp quy vừa tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước vươn lên vừa phù hợp với các nguyên tắc và quy định quốc tế là rất cấp bách.
Song song với việc xây dựng sửa đổi nhiều văn bản pháp quy liên quan đến thương mại, chúng ta đang tích cực xây dựng mới bốn pháp lệnh quan trọng liên quan đến các công cụ phi thuế quan sau:
1. Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế.
2. Pháp lệnh về Các biện pháp tự vệ trong thương mại hàng hoá với nước ngoài.
3. Pháp lệnh về Thuế chống bán phá giá.
4. Pháp lệnh về Thuế chống trợ cấp.
94 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1854 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hàng rào phi thuế quan và ảnh hưởng của nó đến thương mại quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thay thế và trả lãi tiền vay.
Yêu cầu phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước
Yêu cầu này áp dụng đối với các dự án chế biến sữa, dầu thực vật, đường mía, gỗ. sản xuất giấy, nước trái cây giải khát, thuộc da (danh mục loại trừ tạm thời chưa mở cửa cho các nhà đầu tư ASEAN theo Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN). Thực chất, một mục tiêu cơ bản của yêu cầu này là nhu cầu định hướng phát triển mộtố ngành trong nước như chăn nuôi đàn bò sữa, trồng các loại cây cung cấp nguyên liệu cho các ngành trên.
Yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc
Quyết định số 229/1998/QĐ-BKH ngày 29/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Danh mục 24 sản phẩm công nghiệp phải đảm bảo xuất khẩu ít nhất 80% do sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng, chất lượng. Quyết định này chỉ áp dụng đối với các dự án đầu tư được cấp giấy phép kể từ ngày Quyết định 229 đã nêu trên có hiệu lực, không áp dụng đỗi với các dự án đang hoạt động.
2.7. Các biện pháp quản lý hành chính
Thủ tục hành chính
Đây là một NTM có tác dụng bảo hộ khá rõ, bao gồm hình thức hàng đổi hàng, đặt cọc..
Biện pháp hàng đổi hàng khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sản xuất chủ yếu từ nguồn nguyên liệu trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua hợp đồng hàng đổi hàng, trong đó bao gồm cả một số mặt hàng nhập khẩu có điều kiện. Biện pháp này đã được duy trì nhiều năm, chủ yếu với Lào.
Biện pháp đặt cọc hạn chế việc nhập khẩu các mặt hàng mà nhà nước không khuyến khích. Các doanh nghiệp muốn nhập khẩu những mặt hàng này phải đặt cọc một số tiền nhất định mà không được hưởng lãi suất trong một khoảng thời gian nào đó.
Thủ tục hải quan
Trước đây, thủ tục hải quan, mã hàng hoá, kiểm tra hải quan, phí hải quan.. , không thống nhất, gây khó khăn cho công tác giám sát, quản lý và tiếp nhận hàng nhập khẩu. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thủ tục hải quan đã được đơn giản hoá, rõ ràng hơn, tuy nhiên vẫn gây cản trở lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là các thủ tục kiểm hoá.
Mua sắm Chính phủ
Mua sắm chính phủ chiếm một tỷ lệ đáng kể trong nhập khẩu. Việt Nam đã có quy định về đấu thầu quốc tế trong mua sắm chính phủ.
Quy tắc xuất xứ
Trong giai đoạn này, Việt Nam mới chỉ có quy định về xuất xứ ưu đãi với các thành viên AFTA mà chưa có quy định nào khác về quy tắc xuất xứ không ưu đãi. Trong khi nhiều nước sử dụng quy tắc xuất xứ như một công cụ bảo hộ hiệu quả sản xuất trong nước thì Việt Nam chưa triển khai nghiên cứu đầy đủ và tận dụng khả năng có thể áp dụng biện pháp này.
Tháng 11/1995, Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan đã ra Thông tư liên bộ số 280/BTM-TCHQ quy định về giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Thông tư này bao gồm những nguyên tắc chung về chế độ cấp và kiểm tra Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Ngoài ra, đối với từng chế độ ưu đãi cụ thể cũng có các quy định riêng về xuất xứ như Thông tư số 33/TC-TCT (năm 1996) quy định Danh mục hàng hoá và thuế suất nhập khẩu để thực hiện chương trình giảm thuế hàng nhập khẩu từ EU; Quy chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá đối với hàng xuất sang EU (mẫu A và B); Quyết định số 416/T M-ĐB năm 1996 của Bộ Thương Mại ban hành Quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN của Việt Nam (mẫu D) để hưởng các ưu đãi theo “ Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT)”.
III. ảnh hưởng của các rào cản phi thuế quan đến thương mại quốc tế
1. ảnh hưởng của các rào cản phi thuế quan đến thương mại quốc tế
Nhìn chung, việc áp dụng các NTM có nhiều mặt tích cực. Trước hết, hàng rào bảo hộ này đã tạo điều kiện cho nhiều ngành sản xuất có sức cạnh tranh kém hơn so với nước ngoài có thể tiếp tục duy trì và phát triển. Trong đó có một số sản phẩm tiếp tục tồn tại với hàng nhập khẩu trên thị trường trong nước dù năng lực cạnh tranh kém hơn. Một số khác đã nâng dần khả năng cạnh tranh nhờ nâng cao trình độ quản lý, đổi mới công nghệ.
Hơn thế nữa, các NTM còn hỗ trợ việc xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng cho mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các mục tiêu ổn định xã hội, tạo công ăn việc làm thông qua các biện pháp hỗ trợ cho một số ngành, một số địa bàn cũng được thực hiện nhờ tác động của các NTM.
Tuy nhiên, những mặt hạn chế của các NTM được áp dụng thời gian qua cũng không nhỏ. Rõ nét nhất là việc làm giảm sức cạnh tranh của nhiều ngành sản xuất trong nước do bị hạn chế khả năng tiếp cận với đầu vào nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế trong nước đắt hơn (mà chất lượng có thể không bằng), làm chi phí sản xuất tăng lên dẫn tới khả năng cạnh tranh bị giảm sút.
Mặt khác, việc bảo hộ đã khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu trong khi định hướng chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam là sản xuất hướng về xuất khẩu. Kết quả của việc áp dụng NTM để hạn chế nhập khẩu là các nguồn lực bị chuyển dịch từ các lĩnh vực sản xuất phục vụ xuất khẩu để đổ xô vào các lĩnh vực thay thế nhập khẩu được bảo hộ, gây tổn thất đáng kể cho các ngành xuất khẩu.
Hơn nữa, các NTM không tạo ra động lực khuyến khích cạnh tranh trong các ngành được bảo hộ cao, làm phát sinh thói dựa dẫm, ỷ lại vào sự hỗ trợ ưu đãi của nhà nước và ngăn cản những nỗ lực chủ động cải tiến, hợp lý hoá sản xuất, tự nâng cao khả năng cạnh tranh của nhiều ngành nội địa.
Chi phí quản lý các NTM thì cao nhưng hiệu quả quản lý lại thấp. Để quản lý các NTM đòi hỏi phải đầu tư nhân lực, chi phí khá lớn cho việc duy trì bộ máy quản lý phức tạp, nhiều khi chồng chéo giữa các cơ quan cùng được giao chức năng quản lý nhập khẩu. Tuy nhiên, lợi ích mà bộ máy thực thi chính sách bảo hộ này mang lại phần nhiều không được như dự kiến. Nhiều ngành công nghiệp trọng điểm vẫn phát triển trì trệ, kém hiệu quả, thiếu sức cạnh tranh.
2. Bảo hộ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, theo các quy định của WTO, có thể thấy rõ là tới nay hầu hết các nước không còn cơ hội để áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng nhằm mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước được nữa. Những biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu hay hạn ngạch nhập khẩu chỉ còn được áp dụng trong những trường hợp cần thiết để đảm bảo và duy trì an ninh quốc gia, giữ gìn đạo đức, văn hoá, môi trường hay trong một vài trường hợp ngoại lệ đặc biệt.
Riêng đối với ngành dệt may thì các nước còn được áp dụng hạn ngạch nhập khẩu cho đến năm 2005 theo Hiệp định về hàng dệt may của WTO.
Một biện pháp ngoại lệ mang tính chất hạn chế định lượng khác cũng được WTO thừa nhận và được áp dụng rộng rãi trên thực tế là biện pháp hạn ngạch thuế quan trong nông nghiệp. Biện pháp này đã được cả các nước phát triển, các nước đang phát triển và các nước đang chuyển đổi áp dụng để bảo hộ những lĩnh vực nông nghiệp nhạy cảm của mình. Mức hạn ngạch, thuế suất trong hạn ngạch, thuế suất ngoài hạn ngạch khác nhau tuỳ từng nước. Một thực tế chung là thuế suất ngoài hạn ngạch thường rất cao, có nhiều trường hợp trên 100%.
Các nước phát triển thường áp dụng biện pháp thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng chống trợ cấp để bảo hộ các ngành công nghiệp, đồng thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ trong nước ở mức cao để bảo hộ nông nghiệp. Trong khi đó, các nước đang phát triển và các nước đang chuyển đổi vẫn áp dụng biện pháp cấp giấy phép không tự động để bảo hộ cả nông nghiệp và công nghiệp.
Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực gia nhập WTO, chúng ta cần chú ý tới một số vấn đề trong khi sử dụng các NTM để bảo hộ sản xuất trong nước.
Thời gian bảo hộ
Sau nhiều vòng đàm phán thương mại quốc tế, trên cơ sở có đi có lại, đặc biệt là các kết quả của vòng đàm phán Uruguay với sự ra đời của WTO, các nước thành viên của WTO cũng như các nước đang đàm phán gia nhập Tổ chức này không thể tuỳ ý kéo dài thời gian bảo hộ.
Thông thường, thời gian được quyền áp dụng mỗi biện pháp bảo hộ được quy định cụ thể trong từng Hiệp định của WTO. Ví dụ thời gian áp dụng các biện pháp bảo hộ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vi phạm Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIM s) không được kéo dài quá hai năm đối với các nước phát triển và quá năm năm đối với các nước đang phát triển (kể từ năm 1995).
Các ngành được bảo hộ
Tuỳ theo tình hình kinh tế - xã hội của mình mà mỗi nước chọn ra những ngành cụ thể cần phải được bảo hộ. Xu hướng chung đối với các nước phát triển là những ngành sử dụng nhiều lao động, năng lực cạnh tranh thấp tương đối so với những ngành khác được ưu tiên bảo hộ cao nhất, chẳng hạn như ngành dệt may, nông nghiệp. Đối với các nước đang phát triển hoặc đang chuyển đổi thì các ngành được ưu tiên bảo hộ thường là những ngành công nghiệp non trẻ (ô tô, điện tử, đường) hay những ngành mà các doanh nghiệp nhà nước đang gặp khó khăn (sắt, thép, xi măng, cơ khí).
Xu hướng của việc sử dụng các NTM để bảo hộ
Xu hướng chung trong việc sử dụng các NTM để bảo hộ sản xuất trong nước là chuyển từ các biện pháp mang tính chất hạn chế định lượng trực tiếp sang các biện pháp tinh vi hơn như thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, tiêu chuẩn kĩ thuật, các quy định về nhãn mác..
Kể từ khi WTO ra đời, có thể thấy rõ một xu thế nổi bật là các biện pháp bảo hộ hoặc hạn chế thương mại mang tính đơn phương đang ngày càng bị phản đối mạnh mẽ.
Ngoài ra, ngày càng nhiều biện pháp hạn chế nhập khẩu được sử dụng gắn với yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường và lao động. Trào lưu này đang nổi lên và được các nước phát triển ủng hộ mạnh mẽ.
3. Tác động của bảo hộ đối với một số lĩnh vực sản xuất ở nước ta giai đoạn 1996-2000
Đường mía
Các NTM áp dụng trong thời kì 1996-2000 đối với sản phẩm đường mía bao gồm hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu , giá tối thiểu để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, giá mua mía tối thiểu của nông dân trồng mía và giá bán đường tối đa (giá trần).
Các NTM trên về cơ bản có tác động bảo hộ tích cực. Từ khi bắt đầu triển khai Chương trình mía đường năm 1995 cho tới cuối năm 1999, cả nước đã có tổng số 44 nhà máy đường đi vào hoạt động, trong đó có 5 nhà máy được mở rộng công suất và đầu tư chiều sâu. Tổng công suất đạt 78.200 tấn/ngày, tăng gấp 8 lần so với năm 1994.
Tính đến năm 1999, tổng số vốn xây dựng các nhà máy đường là 725 triệu USD, bằng 82% tổng số vốn xây lắp dự kiến cho Chương trình 1 triệu tấn đường vào năm 2000.
Theo tính toán của Chương trình mía đường, cho tới năm 2000 sẽ có khoảng 19 dự án tiếp tục được đưa vào hoạt động, đưa tổng công suất của cả nước đạt 93.600 tấn/ngày. Với sản lượng này, nếu đủ mía cho các nhà máy hoạt động, thì sản lượng mía cây đưa vào ép đạt 10-11 triệu tấn, do đó sản lượng đường hoàn toàn có thể đạt 1 triệu tấn vào năm 2000.
Đến nay, nhờ các NTM, ngành mía đường Việt Nam đã hình thành và phát triển, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và bước đầu đã xuất khẩu (năm 2000 xuất khẩu khoảng 100 ngàn tấn). Việt Nam đã có chương trình cải tạo giống mía, nâng cao năng suất, giảm giá nguyên liệu, nâng cao sức cạnh tranh của đường mía.
Ngoài ra, ngành mía đường còn có ảnh hưởng rất lớn tới hàng vạn nông dân trồng mía và đã thu hút được lượng vốn đầu tư khá lớn. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu tiềm năng phát triển ngành mía đường trong tương lai và các NTM thích hợp nhằm bảo hộ có hiệu quả những cơ sở sản xuất có hiệu quả nhất. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, có phải tính đến khả năng không áp dụng hình thức bảo hộ quá cao để có thể bảo hộ cả những cơ sở sản xuất yếu kém.
Rau quả chế biến
Để hỗ trợ ngành công nghiệp rau quả chế biến, Việt Nam duy trì một số hình thức trợ cấp cho một số mặt hàng như dứa, nước ép hoa quả, rau hộp..
Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu rau quả chế biến của Việt Nam được hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng (Quyết định số 178/1998/QĐ-TTg ngày 21/3/1998).
Cho tới năm 1999, diện tích trồng rau của nước ta khoảng 320.000 ha với sản lượng 4,3 triệu tấn, năng suất trung bình là 11-13 tấn/ha/năm. Diện tích cây ăn quả là 370.000 ha với sản lượng 3,2 triệu tấn và năng suất trung bình là 8-15 tấn/ha/năm. Diện tích, năng suất và sản lượng rau quả đều tăng lên hàng năm.
Khả năng cạnh tranh của rau quả chế biến Việt Nam nhìn chung yếu hơn các nước khác. Hàng rào kĩ thuật, vệ sinh, kiểm dịch thực vật đã góp phần hạn chế nhập khẩu ồ ạt mặt hàng rau quả chế biến từ các nước khác. Việc đưa ra các tiêu chuẩn vệ sinh vừa đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và sức khoẻ người tiêu dùng, đồng thời lại vừa không vi phạm quy định của WTO.
Tổng công ty rau quả Việt Nam (VEGETEXCO) là doanh nghiệp nhà nước có 14 công ty chế biến rau quả với tổng công suất từ 600 tấn/năm đến 10.000 tấn/năm. Trong năm 2000, công ty đã sản xuất được 11.000 tấn rau quả chế biến . Giá trị xuất khẩu rau quả đạt 10-12 triệu USD, chiếm khoảng 7-8% kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam.
Ngoài ra, có 22 doanh nghiệp nhà nước ở các tỉnh có tham gia vào chế biến rau quả. Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp này dao động từ 500-10.000 tấn/năm. Tuy nhiên, cơ cấu của phân ngành chế biến rau quả dường như đang biến đổi với vai trò chủ đạo của VEGETEXCO giảm dần trong khi những doanh nghiệp cấp tỉnh và doanh nghiệp tư nhân đang mở rộng quy mô và thị trường.
Sắt thép
Trong giai đoạn 1996-2001, tác động bảo hộ của các NTM đối với ngành sắt thép là khá rõ nét, bao gồm các biện pháp như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu, giá tối thiểu để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, phụ thu nhập khẩu và giá bán tối đa trong nước (giá trần). Các biện pháp này đã mang lại một số kết quả sau đây :
- Đầu tư vào ngành thép tăng nhanh : Hiện nay có 13 công ty liên doanh với nước ngoài sản xuất thép với vốn đầu tư khoảng 299 triệu USD. Sản lượng sản xuất có tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 25%/năm với năng lực sản xuất thép ở Việt Nam lên tới 1,8 triệu tấn/năm. Hàng năm sản xuất 1,3-1,5 triệu tấn thép xây dựng (năm 2000 nhu cầu tiêu dùng trong nước khoảng 2,5 triệu tấn).
- Thị tại thị trường nội địa của sản phẩm trong nước tăng nhanh giúp thép trong nước phấn đấu tăng khả năng cạnh tranh với thép nhập khẩu trên thị trường nội địa, nhất là trong việc giành giật thị trường tiêu thụ.
- Đẩy nhanh sự ra đời của hàng loạt các cơ sở sản xuất, cán, kéo thép thủ công, một mặt đáp ứng các nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thép chất lượng thấp, giá cả phù hợp với khả năng thanh toán của dân cư, mặt khác tranh thủ thời cơ kiếm lợi nhuận do chính mâu thuẫn giữa bảo hộ bằng các NTM củng cố sản xuất trong nước và khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản xuất trong nước.
- Nhiều doanh nghiệp thực sự trông chờ lợi nhuận có được từ sự bảo hộ của các NTM, nhất là các doanh nghiệp sản xuất lạc hậu, chậm nghiên cứu, cải tiến hạ giá thành sản phẩm. Giá thành thép xây dựng trung bình do Việt Nam sản xuất khoảng 300 USD/tấn, khá cao so với giá thế giới. Chẳng hạn như thép nhập giá CIF từ các nước SNG khoảng 290 USD/tấn, từ các nước ASEAN khoảng 275 USD/tấn. Đối với các doanh nghiệp có giá thành thấp so với bình quân chung (chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) thì đây chính là cơ hội thuận lợi để giành và chiếm lĩnh thị trường, thu lợi nhuận siêu ngạch.
Xi măng
Tác động bảo hộ của các NTM đối với ngành sản xuất xi măng cũng rất đáng ghi nhận, bao gồm các công cụ như hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu, giá tối thiểu để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu.
- Thứ nhất, đầu tư vào ngành sản xuất xi măng khá lớn với công nghệ ngày càng hiện đại. Công suất sản xuất xi măng đã đạt tới 12,7 triệu tấn/năm. Có 8 dự án liên doanh với nước ngoài trong đó có 3 dự án đã đi vào sản xuất với công suất thiết kế 3,8 triệu tấn/năm. Các doanh nghiệp do Trung ương quản lý được trang bị công nghệ sản xuất khá hiện đại của các nước Đan Mạch, Nhật Bản, Đức, Pháp. Chất lượng xi măng tốt nhưng giá thành cao, bình quân khoảng 58 USD/tấn (trong khi đó giá CIF Việt Nam của xi măng nhập khẩu cùng chất lượng khoảng 45 USD/tấn). Các doanh nghiệp địa phương chủ yếu có công nghệ sản xuất lạc hậu (theo kiểu lò đứng), chất lượng xi măng kém hơn so với các doanh nghiệp Trung ương sản xuất, nhưng giá thành thấp hơn khoảng 2 USD/tấn.
- Sản lượng xi măng tăng nhanh: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 13,4%, sản lượng tăng từ 6,1 triệu tấn năm 1996 lên 12,7 triệu tấn năm 2000. Một mặt đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác, do đầu tư nhiều, cung lớn hơn cầu nên từ năm 1998 xuất hiện tình trạng ứ đọng xi măng.
- Cải tạo, chuyển đổi các dây chuyền sản xuất theo phương pháp ướt bằng phương pháp khô hiện đại, loại bỏ dần các cơ sở xi măng lò đứng có công suất dưới 2 vạn tấn/năm.
- Chất lượng chưa cao: Mặc dù chất lượng đã đạt xấp xỉ các nước trong khu vực như Thái Lan và Indonexia, nhưng so với tiêu chuẩn quốc tế thì chất lượng xi măng sản xuất tại Việt Nam còn thấp, kể cả tại các liên doanh.
- Giá bán lẻ khá cao so với giá thế giới: Giá bán lẻ xi măng năm 1999 tương đương khoảng 73,8 USD/tấn, trong khi đó xi măng nhập khẩu là 45 USD/tấn và giá tại Singapore là 38,8 USD/tấn, tại Hàn Quốc là 29,2 USD/tấn, tại Thái Lan 46 USD/tấn.
Ô tô
Các NTM áp dụng cho ô tô trong thời kì 1996-2000 bao gồm cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu linh kiện lắp ráp đồng bộ, yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá, giá tối thiểu để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, hàng đổi hàng và mua sắm chính phủ.
Tác động bảo hộ của các NTM đến ngành sản xuất, lắp ráp ô tô nổi lên một số nét chính như sau:
- Đầu tư vào ngành ô tô tăng mạnh: Chính phủ có mục tiêu phát triển công nghiệp ô tô trong nước nên yêu cầu các nhà đầu tư phải cam kết thực hiện chương trình nội địa hoá. Trong vòng 8 năm (1991-1998) đã có 14 dự án sản xuất, lắp ráp ô tô ở Việt Nam với tổng vốn đầu tư trên 700 triệu USD, vốn cố định 400 triệu USD, trong đó 11 liên doanh đã đi vào hoạt động. Nếu hoạt động hết công suất thì các liên doanh sẽ cho ra đời 200.000 xe/năm, với tổng số 28 kiểu xe, cao hơn rất nhiều so với dự báo về nhu cầu xe ô tô của Việt Nam.
- Khả năng cạnh tranh thấp: Nhiều NTM được áp dụng để bảo hộ ngành này nhưng vẫn không thay đổi được tình thế. Nhu cầu ô tô của Việt Nam trong những năm tới tăng chậm, các nhà máy lắp ráp ô tô không thể khai thác hết công suất nên giá thành ô tô sản xuất trong nước không thể cạnh tranh được với ô tô nhập khẩu . Nhưng ngay cả khi các nhà máy phát huy hết công suất thì điều đó cũng không thể đảo ngược do hiệu quả sản xuất của công nghiệp ô tô phụ thuộc vào quy mô (economic scale).
Xe máy
Các NTM áp dụng trong ngành công nghiệp xe máy bao gồm cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu, nhập khẩu theo phương thức đổi hàng, giá tối thiểu để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu và yêu cầu nội địa hoá.
Tác động bảo hộ của các NTM trong giai đoạn thể hiện rõ rệt nhất qua mức đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe máy tăng khá nhanh. Đầu năm 1999 tại Việt Nam có 6 liên doanh lắp ráp xe máy với vốn đầu tư 320 triệu USD và năng lực sản xuất thiết kế là 900.000 xe/năm. Riêng hai hãng Honda và Suzuki đã có các nhà máy liên doanh trị giá khoảng 110 triệu USD với công suất 150.000 xe/năm. Ngoài ra có 79 dây chuyền lắp ráp dưới dạng CKD 15 loại xe máy khác nhau với tổng số vốn khoảng 45 tỷ đồng.
Nhờ quyết định cấm nhập khẩu xe máy nguyên chiếc và chính sách thuế nhập khẩu linh kiện lắp ráp ưu đãi gắn với tỷ lệ nội địa hoá, hiện có hơn 20 nhà sản xuất linh kiện xe gắn máy có vốn đầu tư lên tới 200 triệu USD.
Chương III
Định hướng áp dụng các biện pháp phi thuế quan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
I. Các quan điểm chung khi áp dụng các biện pháp phi thuế
1. áp dụng có chọn lọc
Có nhiều yếu tố ràng buộc khả năng áp dụng các NTM trên nhằm mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước về quy mô và thời gian.
Bảo hộ thực chất là chuyển sự phân bổ nguồn lực. Đây là nhân tố đáng lưu ý nhất của việc bảo hộ. Ví dụ: Chính phủ áp dụng biện pháp hạn ngạch đối với việc nhập khẩu đường tinh luyện nhằm bảo hộ nông dân trồng mía và các nhà sản xuất đường. Khi đó, các yếu tố đầu vào như lao động, đất đai, phân bón, thuốc trừ sâu.. sẽ được đầu tư nhiều hơn vào trồng mía thay vì trồng các loại cây khác. Đồng thời vốn sẽ được đầu tư nhiều hơn vào công nghiệp sản xuất đường từ mía. Đầu tư vào các ngành công nghiệp khác sẽ bị hạn chế vì các yếu tố sản xuất có hạn. Mặt khác, do có sự bảo hộ ngành mía đường, giá đường trong nước sẽ cao hơn giá đường trên thị trường thế giới, làm giảm sức cạnh tranh của các ngành sử dụng nhiều đường như bánh kẹo, nước giải khát xuất khẩu. Do đó, cần phải lựa chọn ra những ngành đáng được bảo hộ để đem lại hiệu quả cao nhất trong tương lai.
Để bảo hộ đòi hỏi chi phí từ phía ngân sách nhà nước. Thực chất của bảo hộ là đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư và làm thiệt hại cho những người tiêu dùng trong nước. Trong trường hợp hàng hoá của các ngành được bảo hộ được xuất khẩu thì có thể nói rằng người tiêu dùng nước ngoài đã được hưởng lợi từ những khoản hỗ trợ trong nước đem lại. Nhiều khi các biện pháp bảo hộ đòi hỏi phải sử dụng ngân sách nhà nước vốn đã rất eo hẹp hoặc bỏ qua các khoản thu nhẽ ra ngân sách nhà nước được hưởng. Nhiều NTM như trợ cấp xuất khẩu, xoá nợ, miễn nộp thuế vốn thuộc nhóm này. Vì vậy, nên cố gắng tránh sử dụng các biện pháp bảo hộ đòi hỏi chi phí từ ngân sách nhà nước hoặc làm giảm nguồn thu ngân sách.
Với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, việc áp dụng các NTM để bảo hộ nên gắn với đàm phán hội nhập. Bảo hộ sản xuất trong nước bằng việc sử dụng các NTM đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của WTO là chỉ được sử dụng biện pháp thuế quan để bảo hộ. Do vậy, mức độ bảo hộ và thời gian duy trì bảo hộ dần dần sẽ giảm đi khi đàm phán gia nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế.
Việc bảo hộ sản xuất trong nước chỉ thực sự mang lại hiệu quả nếu không làm giảm khả năng cạnh tranh. Đây là nguyên tắc có ý nghĩa nhất. Về dài hạn, bảo hộ nhằm nâng cao dần khả năng cạnh tranh của ngành sản xuất trong nước trước các đối thủ nước ngoài. Nếu sau khi loại bỏ các NTM mà ngành được bảo hộ suy giảm dần khả năng cạnh tranh, thậm chí đứng trước nguy cơ phá sản, cần hay buộc nhà nước phải tiếp tục bảo hộ thì có thể nói rằng quyết định ngành như vậy để bảo hộ là chưa xác đáng.
Việc chọn lĩnh vực bảo hộ phải gắn với định hướng xuất khẩu trong chính sách phát triển kinh tế vĩ mô. Những lĩnh vực có tiềm năng xuất khẩu trong tương lai cần được ưu tiên áp dụng các NTM để bảo hộ. Chỉ trong những tình thế hết sức cấp bách mới tiến hành bảo hộ các lĩnh vực sản xuất hàng thay thế nhập khẩu.
2. áp dụng có lộ trình
Một nguyên tắc quan trọng của WTO là chỉ chấp nhận bảo hộ sản
xuất trong nước bằng thuế quan, vì biện pháp bảo hộ này rõ ràng, dễ dự đoán và thuận tiện khi tiến hành đàm phán mở cửa thị trường.
Tuy nhiên, WTO cũng như các tổ chức thương mại khu vực khác đều đưa ra những ngoại lệ cho phép các thành viên có thể duy trì các NTM nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, đạo đức xã hội và môi trường. Ngoài ra, các tổ chức này cũng có những quy định mang tính linh hoạt cho các thành viên trong việc loại bỏ các NTM không phù hợp. Các thành viên đang phát triển được phép duy trì các NTM với mục tiêu bảo hộ trong một thời gian quá độ nhất định. Khoảng thời gian này dài hay ngắn phụ thuộc vào từng NTM cũng như khả năng đàm phán của Việt Nam. Những NTM vi phạm nhiều nhất sẽ thu hút sự chú ý cao của các đối tác thương mại. Do đó, Việt Nam cần thực hiện nghiêm túc các lộ trình cắt giảm và loại bỏ các biện pháp như vậy.
3. áp dụng trên cơ sở phối hợp đồng bộ các cam kết quốc tế
Mục tiêu chính trong các thoả thuận thương mại khu vực (RTA-Regional Trade Agreement) là thúc đẩy tiến trình thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại. Do đó, các thoả thuận này đều có nền tảng chung là các nguyên tắc của WTO.
Trong quá trình xây dựng và áp dụng các NTM nhằm mục tiêu bảo hộ cần phải xem xét đầy đủ các cam kết tại các thoả thuận quốc tế và những tác động của chúng. Ví dụ, với những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ ASEAN và thuộc diện tự do hoá theo CEPT thì việc duy trì các NTM bảo hộ ở mức cao trong khuôn khổ WTO sẽ ít có ý nghĩa. Hoặc nếu như đã tham gia vào các chương trình thuận lợi hóa, đơn giản hoá thủ tục hải quan trong APEC thì cũng không cần thiết phải tạo ra các thủ tục hải quan phức tạp để hạn chế nhập khẩu .
4. Cố gắng áp dụng nhiều NTM mới
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu sắc, các NTM đã và đang được áp dụng với mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước bắt buộc phải phù hợp với các cam kết thương mại quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Vì vậy, các biện pháp này dần dần sẽ bị loại bỏ sau một thời gian nhất định. Để tiếp tục duy trì được sự bảo hộ thì việc tìm kiếm các biện pháp mới tinh vi hơn là rất cần thiết. Trên thực tê, người ta luôn tìm được các biện pháp né tránh được những cam kết do chính họ ký kết.
Các NTM mới được tạo ra không vi phạm các cam kết quốc tế, không mang tính phân biệt đối xử rõ ràng và phải dựa trên các tiêu chí cụ thể và khách quan.
5. Nhất quán và rõ ràng
Việc áp dụng các NTM một cách nhất quán và rõ ràng đem lại nhiều lợi ích cơ bản. Trước hết, môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh được ổn định, minh bạch và không phân biệt đối xử. Điều đó làm tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư sẽ có được những tín hiệu rõ ràng về môi trường đầu tư dài hạn. Họ có thể quyết định đầu tư vào những ngành được bảo hộ cao để hưởng những thuận lợi, ưu đãi ngắn hạn được tạo ra từ những biện pháp này, hay lựa chọn đầu tư vào những ngành không được bảo hộ nếu họ có sức cạnh tranh cao. Không những thế, áp dụng các NTM một cách nhất quán và rõ ràng còn phù hợp với thông lệ quốc tế, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
II. Những cam kết quốc tế liên quan đến các biện pháp phi thuế
Thực hiện chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, những năm qua, hệ thống các NTM đã được điều chỉnh ngày càng phù hợp hơn với các tiêu chuẩn quốc tế, theo hướng ngày càng tự do hoá. Những chuyển biến này sẽ còn tiếp tục được thực hiện do chúng ta nhận thức được những lợi ích cơ bản của tiến trình tự do hoá thương mại. Các cam kết quốc tế giữa Chính phủ và các Tổ chức khu vực và quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực rỡ bỏ các hàng rào phi thuế là biểu hiện cụ thể của chủ trương này.
1. Cam kết trong CEPT/AFTA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) được thành lập năm 1967 với 5 thành viên ban đầu là Indonexia, Malayxia, Singapor, Philippin và Thái Lan với mục đích thúc đẩy hợp tác và phát triển kinh tế trong khu vực. Việt Nam là thành viên thứ 7 của ASEAN, gia nhập vào năm 1995.
Cùng với sự hình thành của ASEAN, Khu vực mậu dịch tự do các quốc gia Đông Nam á (AFTA) ra đời vào năm 1992 với 3 mục tiêu chính : Thứ nhất là thúc đẩy khu vực Đông Nam á trở thành một trung tâm của thương mại quốc tế, thứ hai là biến khu vực thành đối trọng với hai trung tâm thương mại lớn trên thế giới là Cộng đồng Châu Âu (EU) và Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mĩ. Mục tiêu thứ ba là thúc đẩy khu vực thành trung tâm sản xuất quốc tế và thu hút ngày càng nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài từ những nền kinh tế phát triển.
Cột mốc đánh dấu hợp tác của các thành viên ASEAN là chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) với mục đích duy nhất là xoá bỏ rào chắn thương mại giữa các nước thành viên. Chương trình này bao gồm thoả thuận của các nước thành viên về các lĩnh vực thương mại như hài hoà biểu thuế, bãi bỏ các rào cản phi thuế, xác định trị giá tính thuế hải quan, bãi bỏ hạn chế trong giao dịch ngoại hối và xóa bỏ các rào cản đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong khuôn khổ CEPT, Việt Nam đưa vào danh mục trên 4800 dòng thuế. Trong số trên, 74% số dòng thuế của Việt Nam thuộc danh mục cắt giảm thuế ngay (IL)(thuế được cắt giảm xuống dưới 5% vào năm 2003). Ngoài ra, 21% số dòng thuế thuộc danh mục loại trừ tạm thời (TEL). Mặt hàng thuộc những dòng thuế này được cam kết chuyển sang IL và áp dụng thuế dưới 5% vào 2006.
Theo cam kết phi thuế quan của Việt Nam trong AFTA, Việt Nam phải loại bỏ hoàn toàn các biện pháp hạn chế định lượng, trừ các sản phẩm thuộc danh mục loại trừ chung (GE) và Danh mục loại trừ đặc biệt (SE) kể từ tháng 1/2003. Ngoài ra, đến tháng 1/2006, Việt Nam phải loại bỏ tất cả các hàng rào phi thuế khác.
2. Cam kết với quỹ Miyazawa
Một trong những cam kết nhằm đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại ở Việt Nam là chương trình tài chính Miyazawa được Chính phủ Việt Nam kí với Chính phủ Nhật Bản tháng 9/1999. Trong chương trình tài chính Miyazawa, Việt Nam cam kết thuế hoá các hàng rào phi thuế cho 19 nhóm mặt hàng, chủ yếu là các nhóm mặt hàng công nghiệp.
Các nhóm mặt hàng được cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế và thuế hoá là: Gạch ốp lát,;xút lỏng; hàng tiêu dùng bằng sành sứ, thuỷ tinh; bao bì nhựa thành phẩm; chất hoá dẻo DOP; đồ sứ vệ sinh; quạt điện; xe đạp; phân bón; rượu; giấy; ô tô; xe máy và linh kiện đồng bộ; một số chủng loại thép; xi măng, clinker; kính xây dựng; dầu thực vật; đường.
Nhìn chung, lộ trình xoá bỏ các hạn chế số lượng đối với hàng nhập khẩu được cam kết với Quỹ Miyazawa tương đối dài. Đa số các mặt hàng cam kết có thời hạn xoá bỏ hạn chế định lượng sau 2004. Đặc biệt, cam kết xoá bỏ hạn chế số lượng nhập khẩu với sản phẩm đường là năm 2010, với xăng dầu và một số chủng loại sắt thép là 2007.
3. Cam kết với IMF/WORLDBANK
Trong khuôn khổ chương trình giảm nghèo và hỗ trợ tăng trưởng (PRGF) của IMF và tín dụng điều chỉnh cơ cấu giai đoạn II (SAC II) của WB, IMF/WB đề nghị Chính phủ Việt Nam chấp thuận và công bố Chương trình cải cách thương mại toàn diện cho ba năm 2001-2003. Mục tiêu của chương trình là nhằm xoá bỏ các hàng rào phi thuế (hạn chế định lượng và đầu mối nhập khẩu) và thuế hoá các hàng rào phi thuế này trên cơ sở các cam kết của Việt Nam trong AFTA và trong khuôn khổ đa phương.
Nội dung chủ yếu của Chương trình cải cách thương mại 2001-2003 là xây dựng và áp dụng lộ trình xoá bỏ hàng rào phi thuế và thuế hoá chúng với lộ trình nhanh hơn lộ trình trong Chương trình tài chính Miyazawa đã cam kết với Chính phủ Nhật Bản. Ngoại trừ hai nhóm mặt hàng xăng dầu và đường không đưa vào danh sách cam kết trong chương trình này, 17 nhóm mặt hàng cam kết của Chương trình là những nhóm mặt hàng đã cam kết với Quỹ Miyazawa.
Đầu năm 2000, Việt Nam đã thuế hoá và bãi bỏ hạn chế định lượng nhập khẩu cho 7 nhóm mặt hàng trong danh sách 17 mặt hàng đã cam kết gồm có: xút lỏng, hàng tiêu dùng bằng sành sứ và thuỷ tinh, bao bì nhựa thành phẩm, hoá chất dẻo DOP, đồ sứ vệ sinh, quạt điện, xe đạp. Giữa năm 2001, hạn chế định lượng và đầu mối nhập khẩu được xoá bỏ với hai mặt hàng phân bón và rượu. Theo cam kết, Việt Nam sẽ bãi bỏ QRs trên cơ sở đa phương và thay thế bằng thuế quan cho 6 nhóm sản phẩm (xi măng, clinker; một số chủng loại thép; gạch ốp lát; dầu thực vật; kính xây dựng; giấy) trước đầu năm 2003.
4. Cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kì
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kì ( BTA) được kí ngày 13/7/2000 tại Washington và chính thức có hiệu lực từ 11/12/2001. Khác với nhiều Hiệp định song phương mà Việt Nam đã kí kết, BTA được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn của WTO với các cam kết và lộ trình thực hiện cụ thể. Do đó, việc kí kết BTA đựơc đánh giá như nền móng cho nền kinh tế Việt Nam hôị nhập vào nền kinh tế thế giới , mở ra khả năng cho Việt Nam sớm gia nhập WTO.
Theo khuôn khổ của BTA, Việt Nam đã có những cam kết toàn diện trong lĩnh vực giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ dần hạn chế số lượng và tự do hoá quyền kinh doanh nhằm mục đích tăng cường hội nhập.
Một trong những nét nổi bật trong cam kết tiếp cận thị trường là quy định về quyền thành lập doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Theo Hiệp định, tất cả các công ty Việt Nam và dần dần là các cá nhân và công ty Hoa Kì sẽ được phép tự do kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng không bị hạn chế trong các phụ lục B, C, D của Hiệp định. Quyề góp vốn với đối tác Việt Nam của bên Hoa Kì sẽ tăng dần theo thời gian. Sau 7 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, phía Hoa kì được phép thành lập công ty 100% vốn Hoa Kì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tất cả các mặt hàng (trừ các mặt hàng hạn chế trong phụ lục B, C, D).
BTA cũng quy định rõ thời hạn xóa bỏ các hạn chế về quyền kinh doanh nhập khẩu và quyền phân phối. Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, quyền kinh doanh nhập khẩu và quyền phân phối được bãi bỏ cho khoảng 42 mặt hàng nông sản và 213 mặt hàng công nghiệp. Tương tự như vậy, 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, quyền xuất khẩu cũng sẽ được bãi bỏ cho 49 sản phẩm.
Gần như tất cả các hàng rào xuất nhập khẩu phi thuế quan không phù hợp với quy định của WTO sẽ được xoá bỏ. Thời hạn xoá bỏ các hạn chế định lượng cho nông sản nhập khẩu là từ 3-5 năm và cho đường là 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Ngoài ra, hạn chế định lượng cho hầu hết các sản phẩm công nghiệp nhập khẩu cũng sẽ được xoá bỏ trong vòng từ 3-7 năm.
Bên cạnh đó, các quy định liên quan đến trị giá tính thuế hải quan, tự vệ, các tiêu chuẩn kĩ thuật và các biện pháp kiểm dịch động thực vật cũng được xây dựng trên tinh thần của các tiêu chuẩn WTO nhằm hạn chế việc tạo ra và áp dụng các trở ngại không cần thiết cho thương mại quốc tế.
5. Dự kiến cam kết với WTO
Việt Nam đã nộp đơn gia nhập WTO (tổ chức hiện có 144 nước thành viên trên thế giới) từ năm 1995. Từ đó đến nay, Việt Nam đã tổ chức 4 phiên họp nhằm minh bạch hoá chính sách thương mại. Tại thời điểm hiện tại, Việt Nam đang tiến hành bước tiếp theo trong quá trình đàm phán gia nhập WTO- đàm phán tiếp cận thị trường thông qua đàm phán song phương với các nước thành viên của WTO.
a/ Các biện pháp chung
Xác định trị giá tính thuế hải quan: Thực hiện đầy đủ Hiệp định xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO vào năm 2003 theo hai giai đoạn: giai đoạn 1 đến năm 2002 với mục tiêu chính là áp dụng về cơ bản Hiệp định với một số bảo lưu, giai đoạn 2 hoàn thiện năng lực, loại bỏ dần các bảo lưu và hoàn toàn thực hiện Hiệp định vào trước năm 2004.
Các biện pháp quản lý giá: Giảm dần việc quản lý giá theo hướng không mở rộng diện kiểm soát giá và giá cả sẽ dần dần do thị trường quyết định. Việt Nam sẽ loại bỏ cơ chế 2 giá và việc kiểm soát giá trái với quy định của WTO vào năm 2005.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs): Loại bỏ các biện pháp trái với Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại (TRIM s) tại thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, cụ thể là
(i) Yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá
(ii) Yêu cầu tự cân đối ngoại tệ
Quy tắc xuất xứ: Ban hành luật về quy tắc xuất xứ không ưu đãi tuân thủ Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO trước năm 2004. Cố gắng vận dụng các quy tắc xuất xứ không ưu đãi trong các trường hợp cụ thể nhằm đạt các mục tiêu thương mại.
Các biện pháp bảo vệ tạm thời: Tuân thủ các Hiệp định về tự vệ, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng, Hiệp định về chống bán phá giá của WTO từ 2004, có tính đến các đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển đang trong thời kì chuyển đổi, có thu nhập thấp.
Hàng rào kĩ thuật và kiểm dịch động thực vật: Thực hiện Hiệp định của WTO về các hàng rào kĩ thuật đối với thương mại và Hiệp định về kiểm dịch động thực vật trên cơ sở khoa học và không phân biệt đối xử. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh cụ thể cố gắng áp dụng các biện pháp thích hợp để tạo ra hàng rào bảo hộ sản xuất.
b/ Các biện pháp áp dụng đối với mặt hàng cụ thể
Ngoài các nhóm biện pháp chung kể trên, Việt Nam có thể đàm phán để được duy trì một số NTM và loại bỏ dần các biện pháp khác theo yêu cầu của WTO.
Các biện pháp có thể được đưa ra đàm phán bao gồm: Cấm nhập khẩu, nhập khẩu có điều kiện, giấy phép, hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan, biện pháp tự vệ, quyền kinh doanh và hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
III. Đề xuất các NTM để bảo hộ sản xuất trong nước
Trong bối cảnh Việt Nam đang xin gia nhập WTO, việc sử dụng các NTM cổ điển như cấm nhập khẩu, hạn ngạch hay doanh nghiệp đầu mối để bảo hộ sản xuất trong nước sẽ ngày càng khó khăn. Vì vậy, nghiên cứu các NTM mới để có thể tiếp tục bảo hộ một số ngành sản xuất theo đúng những mục tiêu phát triển dài hạn của đất nước là rất cần thiết. Khi xây dựng và áp dụng các NTM, nguyên tắc chung là không trái với các quy định của WTO.
1. Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch động thực vật
Theo các Hiệp định của WTO về các hàng rào kĩ thuật đối với thương mại (Agreement on Technical Barriers to Trade - TBT) về vệ sinh kiểm dịch động thực vật (Agreement on Sanitary and Phytosannitary Measures - SPS), các nước được phép sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kĩ thuật, các biện pháp vệ sinh kiểm dịch thích hợp hoặc cần thiết để bảo vệ sức khoẻ, đời sống của con người, động thực vật, bảo vệ môi trường và quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, các biện pháp đó không được áp dụng nhằm tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hay hạn chế vô lý đối với thương mại quốc tế.
Trên thực tế, Việt Nam nên có chính sách đồng bộ hơn về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như cần nâng cao hơn nữa khả năng vận dụng linh hoạt các quy định của Hiệp định TBT nhằm phục vụ tốt các mục tiêu phát triển nói chung và thương mại nói riêng. Cụ thể, Việt Nam có thể bảo vệ sản xuất trong nước thông qua hạn chế nhập khẩu nếu biết khéo léo vận dụng tiêu chí “thích hợp” hoặc “cần thiết” của Hiệp định TBT.
Tương tự việc sử dụng TBT, vận dụng tốt các biện pháp SPS trong thương mại cũng là một phương thức hợp pháp và hiệu quả để bảo vệ sản xuất nông nghiệp nói riêng cũng như sức khoẻ con người, động thực vật và môi trường nói chung. Muốn như vậy, Việt Nam cần xây dựng hợp lý danh mục chi tiết các mặt hàng phải kiểm tra SPS bắt buộc.
2. Các biện pháp chống bán phá giá
Hiện tại Việt Nam chưa áp dụng các biện pháp chống bán phá giá nhằm đối phó với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào thị trường trong nước. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng và áp dụng thuế chống bán phá giá nhằm chống lại cạnh tranh không lành mạnh từ bên ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm duy trì môi trường thương mại, đầu tư công bằng.
Tại thời điểm hiện nay, Việt Nam đang xây dựng Pháp lệnh về chống bán phá giá phù hợp với các nguyên tắc và quy định của WTO.
3. Tự vệ
Biện pháp tự vệ là một công cụ được WTO thừa nhận để hạn chế định lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng. Trên thực tế, Việt Nam đã áp dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ một số ngành trong nước nhằm tránh tổn thương do hàng nhập khẩu gia tăng lớn về số lượng.
4. Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Một trong các công cụ được WTO cho phép các nước thành viên duy trì là các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước thành viên khác. Các hình thức trợ cấp trong Hiệp định SCM chủ yếu liên quan đến các sản phẩm công nghiệp.
Trợ cấp cho các ngành công nghiệp nội địa có thể dưới hình thức trợ cấp trực tiếp hoặc trợ cấp gián tiếp. Có thể kể đến các hình thức trợ cấp trực tiếp như trợ giúp tài chính, cho vay ưu đãi của Chính phủ.. Trợ cấp gián tiếp có thể thực hiện thông qua hỗ trợ các ngành cung cấp đầu vào hay đảm bảo đầu ra cho sản phẩm.
Mặc dù các quy định về trợ cấp tại Hiệp định SCM và Hiệp định Nông nghiệp của WTO khá chi tiết nhưng một số hình thức trợ cấp vẫn còn chưa chịu sự điều chỉnh cụ thể bởi các quy tắc quốc tế thống nhất. Có thể kể ra ở đây là các hình thức trợ cấp liên quan tới tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm xuất khẩu. Chính vì thế mà nhiều nước vẫn đang tiếp tục áp dụng những hình thức trợ cấp này nhằm tránh né các cam kết về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu.
Một điểm đáng lưu ý là WTO thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển hợp pháp và quan trọng của các thành viên đang phát triển. Dưới giác độ pháp lý, Việt Nam có thể được hưởng những đãi ngộ đặc biệt và khác biệt về trợ cấp dành cho nước đang phát triển khi trở thành thành viên của WTO.
Do đó, Việt Nam có thể nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác để sử dụng hiệu quả các biện pháp trợ cấp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, các biện pháp trợ cấp mang tính phổ biến và ít bóp méo thương mại như hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, nâng cấp máy móc thiết bị đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, hỗ trợ về hạ tầng nông nghiệp vv.. được WTO cho phép áp dụng mà không bị hành động đối kháng cần được tích cực vận dụng vì có thể có tác dụng gián tiếp hỗ trợ sản xuất nội địa, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh.
5. Thuế thời vụ
Thuế thời vụ là hình thức áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau cho cùng một sản phẩm tuỳ thuộc vào thời gian chịu thuế của sản phẩm. Ví dụ, ở Việt Nam, vụ mùa cam bắt đầu từ đầu tháng 8 đến cuối tháng 11. Vào chính mùa cam (tù tháng 8 đến tháng 11), cam thu hoạch trong nước nhiều, Việt Nam áp dụng mức thuế suất nhập khẩu cho cam là 20%. Ngoài thời gian này, nhu cầu tiêu thụ trong nước vẫn lớn trong khi sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu, Việt Nam quy định thuế xuất nhập khẩu với cam là 0%.
Theo Hiệp định nông nghiệp, phải thuế hoá tất cả các NTM cho sản phẩm nông nghiệp. Do đó, áp dụng thuế thời vụ vừa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định vừa tăng tính linh hoạt cuả công cụ thuế cho mặt hàng chịu thuế thời vụ.
6. Hạn ngạch thuế quan
Một công cụ phổ biến khác được dùng để hạn chế lượng hàng hoá nhập khẩu là hạn ngạch thuế quan. Đây là cơ chế cho phép duy trì mức thuế suất thấp đối với lượng hàng nhập khẩu nằm trong phạnm vi hạn ngạch và mức thuế suất cao hơn đối với lượng hàng nhập khẩu vượt quá hạn ngạch. Thực tiễn áp dụng trên thế giới cho thấy hạn ngạch thuế quan là một đặc trưng của thương mại nông sản.
Việc sử dụng hạn ngạch thuế quan gắn với hai khái niệm tiếp cận hiện tại và tiếp cận tối thiểu. Sau xoá bỏ các hàng rào phi thuế và chuyển chức năng bảo hộ sang thuế quan (thuế hoá các biện pháp phi thuế) đối với một nông sản cụ thể, các nước thành viên WTO phải cam kết mở cửa thị trường ở mức tiếp cận thị trường hiện tại cho sản phẩm đó. Mức này ít nhất phải tương đương với lượng nhập khẩu trung bình của giai đoạn cơ sở 1986-1989 tại mức thuế trước khi thuế hoá. Riêng với các nước gia nhập sau giai đoạn cơ sở có thể là ba năm gần nhất tuỳ theo thời gian đàm phán.
Đối với sản phẩm đã được thuế hoá nhưng vì một lý do nào đó trước đấy chưa có nhập khẩu thì áp dụng mức tiếp cận tối thiểu. Trong trường hợp này, sản phẩm đó được nhập khẩu với khối lượng ít nhất là 3% lượng tiêu dùng nội địa. Sau một thời gian nhất định (5 năm), mức tiếp cận thị trường sẽ mở rộng lên 5%. Hiện tại Việt Nam chưa áp dụng biện pháp này song đang xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc áp dụng trong tương lai.
7. Tự vệ đặc biệt
Biện pháp tự vệ đặc biệt được quy định trong điều V của Hiệp định Nông nghiệp. Theo đó, nếu một nông sản của một nước đã được thuế hoá và bảo lưu được điều khoản tụ vệ đặc biệt mà không cần tiến hành bất kì một điều tra nào chứng tỏ ngành sản xuất trong nước bị tổn thương hoặc đe doạ bị tổn thương. Việt Nam trong tương lai có được áp dụng tự vệ đặc biệt hay không hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả đàm phán gia nhập WTO.
8. Chống buôn lậu
Do sự bảo hộ ngày càng chắc chắn của hệ thống các biện pháp thuế quan và phi thuế quan của nhà nước, một hệ quả có thể nhìn thấy trước mắt là tệ nạn buôn lậu ngày càng gia tăng với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Bởi vậy, đi song song với việc phát triển hàng rào bảo hộ, chúng ta cần phải có các biện pháp tích cực trong việc phòng và chống buôn lậu thật hiệu quả.
9. Các biện pháp liên quan đến môi trường
Vấn đề bảo vệ môi trường đang và sẽ là một chủ đề nổi bật liên quan
đến nhiều lĩnh vực của quan hệ quốc tế, trong đó có thương mại. Mỗi một quốc gia đều có chính sách riêng liên quan tới bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy việc sử dụng các biện pháp liên quan đến môi trường như một NTB sẽ là xu hướng mới trong thương mại quốc tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam nên nghiên cứu để có thể khai thác tốt NTB này khi cần bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời có thể đưa ra căn cứ xác đáng bác bỏ những biện pháp viện lý do để bảo vệ môi trường để hạn chế hàng nhập khẩu của Việt Nam.
Một thực tế không thể phủ nhận được là ngày càng có nhiều biện pháp phi thuế quan mới ra đời thì tính phức tạp của việc áp dụng và quản lý các biện pháp phi thuế quan ngày càng trở nên khó khăn hơn. Thực tế đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam là cần có một định hướng đúng đắn cho sự áp dụng và quản lý đó. Trên đây là một số định hướng cơ bản có tính tham khảo, góp phần vào việc quản lý nhà nước về thương mại quốc tế ngày càng có hiệu quả hơn.
Phụ lục
Tình hình ban hành các văn bản pháp quy
áp dụng NTM gần đây
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu sắc vào nền
kinh tế khu vực và thế giới. Sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN và tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Việt Nam đã tham gia ASEM, APEC và đang tích cực đàm phán gia nhập WTO. Trong bối cảnh đó, hệ thống chính sách thương mại của nước ta đã có những thay đổi tích cực, đặc biệt là cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng các công cụ phi thuế quan. Trong khi mối quan hệ qua lại, phụ thuộc lẫn nhau giữa kinh tế Việt Nam và kinh tế quốc tế ngày càng khăng khít thì nhu cầu xây dựng hệ thống chính sách thương mại và các văn bản pháp quy vừa tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước vươn lên vừa phù hợp với các nguyên tắc và quy định quốc tế là rất cấp bách.
Song song với việc xây dựng sửa đổi nhiều văn bản pháp quy liên quan đến thương mại, chúng ta đang tích cực xây dựng mới bốn pháp lệnh quan trọng liên quan đến các công cụ phi thuế quan sau:
1. Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế.
2. Pháp lệnh về Các biện pháp tự vệ trong thương mại hàng hoá với nước ngoài.
3. Pháp lệnh về Thuế chống bán phá giá.
4. Pháp lệnh về Thuế chống trợ cấp.
Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế được xây dựng nhằm thống nhất quản lý chính sách thương mại về đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT) trong thương mại quốc tế. Đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia là những nguyên tắc cơ bản nhất trong thương mại quốc tế ngày nay. Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam chưa có quy định pháp lý đầy đủ và chặt chẽ nào điều chỉnh việc áp dụng hai loại đối xử này trong quan hệ thương mại quốc tế. Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia ra đời sẽ điều chỉnh phạm vi, nguyên tắc và điều kiện áp dụng đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ.
Nếu như đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi trong thương mại quốc tế thì việc áp dụng các biện pháp tự vệ lại chỉ đơn thuần là quyền lợi, là công cụ bảo hộ hợp pháp sản xuất trong nước. Nói cách khác, biện pháp tự vệ là công cụ để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước nhằm ngăn ngừa, hạn chế các tác động bất lợi do việc tăng nhanh nhập khẩu một mặt hàng nhập khẩu gây ra. Thực tiễn thương mại quốc tế cho thấy các biện pháp tự vệ là một trong những công cụ hiệu quả được nhiều nước áp dụng nhằm giúp các nhà sản xuất trong nước có điều kiện từng bước thích ứng với môi trường cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp tự vệ cũng cần tuân thủ những nguyên tắc, thủ tục và trình tự chung đã được quốc tế thừa nhận, đặc biệt là các quy định của WTO. Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ trong thương mại hàng hoá với nước ngoài đã được soạn thảo theo hướng này. Các quy định của Pháp lệnh điều chỉnh các biện pháp tự vệ, điều kiện và thủ tục áp dụng các biện pháp tự vệ đối với việc nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam. Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định hoạt động quản lý nhà nước về áp dụng các biện pháp tự vệ.
Cũng với mục tiêu hoàn thiện hệ thống công cụ quản lý thương mại đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập, Chính phủ đã phê duyệt xây dựng Pháp lệnh về thuế chống trợ cấp và thuế chống bán phá giá.
Trợ cấp là việc nhà nước hỗ trợ tài chính cho một đối tượng hoặc một nhóm đối tượng nhất định dưới nhiều hình thức khác nhau. Mục đích chính của trợ cấp là hỗ trợ sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp, trợ cấp bóp méo môi trường cạnh tranh lành mạnh, gây thiệt hại cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự của nước khác. Chính vì vậy, để bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp trong nước, các Chính phủ có thể đánh thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp. Mức thuế chống trợ cấp sẽ triệt tiêu những ảnh hưởng bất lợi do trợ cấp của nước xuất khẩu gây ra, bù đắp những thiệt hại mà ngành sản xuất trong nước phải gánh chịu.
Khác với trợ cấp, bán phá giá là trường hợp một mặt hàng được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với giá thấp hơn giá bán mặt hàng đó trong điều kiện thương mại thông thường ở thị trường nước xuất khẩu. Khi đó, thuế chống bán phá giá được áp dụng bằng một khoản thuế bổ sung đánh vào mặt hàng nhập khẩu khi mặt hàng này bị phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Tương tự như thuế chống trợ cấp, thuế chống bán phá giá nhằm triệt tiêu những ảnh hưởng bất lợi do việc bán phá giá gây ra, bù đắp những thiệt hại mà ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong nước phải gánh chịu.
Hiện nay, dự thảo Pháp lệnh về thuế chống bán phá và Pháp lệnh về thuế chống trợ cấp bắt đầu được xây dựng nhằm quy định các điều kiện, thủ tục và các vấn đề liên quan đến việc đánh thuế chống trợ cấp và thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp hoặc bán phá giá vào thị trường Việt Nam. Ngoài các quy định chung và quy định về thủ tục điều tra, áp dụng thuế chống trợ cấp và thuế chống bán phá giá, các Pháp lệnh sẽ quy định về tổ chức bộ máy thực hiện việc áp dụng các công cụ trên.
Tính đến tháng 1/2002, với vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Thương mại đã phối hợp với các cơ quan hữu quan thuộc Chính phủ hoàn chỉnh dự thảo Pháp lệnh về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế và Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ trong thương mại hàng hoá với nước ngoài trình Chính phủ. Theo dự kiến, hai Pháp lệnh này sẽ được Quốc hội xem xét thông qua trong năm 2002 hoặc 2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19458.doc