Phát triển thương mại trên Hành lang kinh tế Việt – Trung là một trong những nội dung hợp tác quan trọng giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như khu vực tiểu vùng sông Mêkông. Đặc biệt trong bối cảnh hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, việc tạo dựng các cơ sở bền vững nhằm khai thác tối đa lợi thế của Hành lang kinh tế thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại của hai nước Việt Nam – Trung Quốc cũng như toàn khu vực là mối quan tâm cua các nước thành viên của Hiệp định về ACFTA.
Cùng với sự phát triển mạnh của quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước, quan hệ hợp tác thương mại trên Hành lang kinh tế Việt – Trung cũng phát triển nhanh và tương đối ổn định. Tuy nhiên, thương mại hai chiều vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của hai bên do vẫn còn một số tồn tại và hạn chế. Để tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác thương mại song phương trong thời gian tới, chúng ta cần phải dựa trên cơ sở hiện tại, tăng cường nghiên cứu đối với hợp tác Hành lang kinh tế Việt – Trung, làm cho hợp tác này sớm đạt được thành quả to lớn; đồng thời cần tìm ra các giải pháp nhằm phát triển ngoại thương của Việt Nam trên Hành lang kinh tế Việt - Trung. Đây chính là lý do đề tài “Hành lang kinh tế Việt – Trung và ảnh hưởng của nó tới hoạt động ngoại thương của Việt Nam” được thực hiện.
116 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hành lang kinh tế Việt Trung và ảnh hưởng của nó tới hoạt động ngoại thương của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong việc hoàn thiện hành lang pháp lý giữa hai bên, tạo điều kiện phát triển thương mại song phương. Tuy nhiên, phạm vi sản phẩm được hưởng điều kiện đảm bảo về mặt pháp lý trong xuất khẩu tại hai thỏa thuận còn rất hẹp, chỉ giới hạn là gạo và thủy sản, hơn nữa hai bên mới chỉ dừng ở việc ký các thỏa thuận chứ chưa phải là một Hiệp định toàn diện về kiểm dịch động, thực vật. Hiệp định chung kiểm dịch động thực vật đóng vai trò quan trọng không những trong việc bảo vệ vật nuôi, cây trồng khỏi dịch bệnh, mà còn giữ vai trò hết sức quan trọng trong thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc nói chung, giữa Việt Nam với hai tỉnh nói riêng. Do đó, Việt Nam cần sớm ký kết được Hiệp định hợp tác kiểm dịch động thực vật như thỏa thuận tại Biên bản kỳ họp UBHTKTTM Việt - Trung lần thứ tư.
- Việt Nam cần có chính sách biên mậu áp dụng đối với từng loại cửa khẩu để có chính sách thích ứng linh hoạt đối với những thay đổi trong chính sách của Trung Quốc và của hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây; cơ chế biên mậu cần mềm dẻo linh hoạt và mở cửa để hợp tác và phát triển; có bộ phận chuyên trách chỉ đạo về quản lý biên mậu đối với các địa phương có chung biên giới với Trung Quốc; tăng cường thiết lập môi trường thông thoáng như: mở thêm các điểm chợ biên giới, đơn giản hóa các thủ tục để thu hút các thành phần kinh tế trong cả nước tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
- Chính phủ cần điều chỉnh định mức miễn thuế nhập khẩu cho cư dân biên giới lên 1-2 triệu đồng/ngày/người. Định mức hiện tại là không quá 500.000đ/ngày/người, các tỉnh có cửa khẩu đều cho rằng định mức này quá thấp, không khuyến khích cư dân biên giới và nhân dân tham gia biên mậu. Trong khi đó, định mức của Trung Quốc là 3.000 NDT/ngày/người (tương đương 6 triệu đồng). Nếu công dân Việt Nam xuất cảnh bằng hộ chiếu thì mới được hưởng định mức miễn thuế là 300 USD (tương đương 4,7 triệu đồng), thấp hơn so với định mức miễn thuế của cư dân biên giới của phía Trung Quốc.
- Bộ Công thương nên sớm ban hành Qui chế chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong Khu kinh tế cửa khẩu.
- Một số vấn đề như thanh toán, hải quan, kiểm soát biên giới,v.v... cần được xem xét để ban hành các quy định hợp lý, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển thương mại trên Hành lang kinh tế Việt – Trung.
1.2. Đẩy mạnh hợp tác đầu tư gắn với thương mại
Những năm qua, hình thức thương mại giữa Việt Nam với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây chủ yếu là thương mại đơn thuần, chứ chưa gắn kết được với hợp tác đầu tư và kỹ thuật. Chính vì vậy, mà trị giá trao đổi hàng hoá rất bấp bênh. Khi đầu tư gắn với thương mại thì kết quả là quy mô và kim ngạch thương mại sẽ phát triển ổn định và vững chắc hơn. Cụ thể, quả tươi của Việt Nam xuất khẩu sang hai tỉnh này đã bị thối rất nhiều do không có phương tiện bảo quản tốt trong tình trạng vận chuyển dài ngày bằng đường bộ lại bị ách tắc tại cửa khẩu; hàng thủy sản đông lạnh cũng cần được bảo quản tốt.
Hàng nông, thủy sản Việt Nam có lợi thế cạnh tranh kém hơn so với hàng của Thái Lan, ngoài nguyên nhân thuế nhập khẩu thấp mà Trung Quốc dành cho Thái Lan, doanh nghiệp của nước này mang hàng đến tận tay người tiêu dùng Vân Nam và Quảng Tây bằng cách xây dựng các kho lạnh chứa hàng, các trung tâm giới thiệu và bán sản phẩm Thái Lan, các nhà máy chế biến thủy hải sản,v.v..tại hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Họ đã tăng cường hợp tác đầu tư gắn với quan hệ thương mại.
Để thúc đẩy phát triển thương mại hàng hoá và dịch vụ trên Hành lang kinh tế Việt - Trung, hai bên cần phải đẩy mạnh hợp tác đầu tư và kỹ thuật gắn với thương mại, coi đây là điều kiện tiên quyết để phát triển quan hệ hợp tác thương mại lâu dài và hiệu quả. Căn cứ vào tiềm lực của hai bên, cần lấy khoáng sản, nông nghiệp làm trọng tâm hợp tác đầu tư và kinh tế kỹ thuật. Các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam có nhiều tài nguyên khoáng sản, trong khi đó hai tỉnh này lại có thế mạnh về luyện kim, kỹ thuật luyện kim tương đối tiên tiến, ngành thủy điện phát triển. Trong nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi của phía bạn cũng rất tốt. Sự kết hợp giữa kỹ thuật và tài nguyên của hai bên sẽ cùng tạo ra một ngành sản xuất có ưu thế mới. Điều kiện tài nguyên nông nghiệp của Vân Nam và Quảng Tây cũng giống như của Việt Nam. Hai tỉnh này có thể phát huy ưu thế tương đối mạnh về kỹ thuật nông nghiệp để cung cấp cho Việt Nam kỹ thuật trồng trọt và máy móc thiết bị tương ứng. Phía Vân Nam và Quảng Tây cần khuyến khích và tạo điệu kiện cho các doanh nghiệp có thực lực đến Việt Nam đầu tư xây dựng các nhà máy khai thác và chế biến quặng (luyện kim), đấu thầu về thủy điện. Phía Việt Nam cũng cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào Vân Nam và Quảng Tây xây dựng các nhà máy chế biến hàng nông, thủy sản, sản xuất hóa mỹ phẩm, giày dép.
Nhà nước Việt Nam cần khuyến khích các doanh nghiệp sang Vân Nam và Quảng Tây đầu tư gắn với thương mại, như đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến hàng nông, thủy sản nhằm đưa nông sản, thủy sản thực phẩm của Việt Nam đến tận thị trường tiêu thụ (thành lập xí nghiệp 100% vốn hoặc liên doanh với bạn), xây dựng các nhà máy sản xuất giày dép, đồ gỗ, hóa mỹ phẩm,...
1.3. Chú trọng công tác xúc tiến thương mại
Bộ Công thương cần phối hợp với Bộ Thương mại của Trung Quốc (Mofcom) trong việc định hướng nhu cầu đối với hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới thì sẽ khắc phục được nhược điểm của buôn bán biên mậu. Đồng thời, Bộ Thương mại của hai nước nên định kỳ liên lạc với nhau để thông báo kịp thời những thay đổi về chính sách thương mại của mỗi bên và cùng nhau giải quyết những tồn tại làm cản trở sự phát triển thương mại giữa trên Hành lang kinh tế Việt – Trung.
Trong buôn bán biên mậu, Trung Quốc thường thay đổi cơ chế quản lý; Vân Nam, Quảng Tây và các cửa khẩu thuộc hai tỉnh này cũng được phép vận dụng cơ chế khác nhau. Chính vì vậy, để tránh tình trạng ở vào thế bị động, bị ép cấp, ép giá gây thiệt hại cho các doanh nghiệp, các cơ quan chức năng của Chính phủ, như Bộ Thương mại, cụ thể là Viện Nghiên cứu Thương mại và Cục Xúc tiến Thương mại cần phải thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường và chính sách biên mậu của Trung Quốc để tham mưu cho Chính phủ, Bộ Thương mại và Ủy ban nhân dân các tỉnh biên giới cơ chế quản lý, đối sách cần áp dụng; thường xuyên cung cấp kịp thời thông tin về chính sách buôn bán qua biên giới và những thay đổi về chính sách, cơ chế quản lý thương mại và thủ tục hải quan của Trung Quốc nói chung, hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây nói riêng; hệ thống lại chính sách thương mại của Việt Nam và Trung Quốc in bằng hai thứ tiếng cung cấp cho doanh nghiệp để họ không bị động trong kinh doanh.
Cục xúc tiến thương mại, Bộ Công thương và Phòng thương mại & Công nghiệp Việt Nam cần phối hợp tổ chức cho các doanh nghiệp Việt Nam sang nghiên cứu thị trường, tham gia các Hội chợ Quốc tế lớn tổ chức tại Vân Nam, Quảng Tây và miền Tây, Tây Nam Trung Quốc; đồng thời phối hợp với phía bạn tổ chức các cuộc hội thảo, hội chợ, triển lãm, hội chợ vùng biên, diễn đàn doanh nghiệp tại Hà Nội, Côn Minh, Nam Ninh, đặc biệt tại hai cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu, Bằng Tường - Đồng Đăng để cho doanh nghiệp hai bên tham gia. Hai bên cần tổ chức thường xuyên hội chợ, triển lãm,... đây là cách thông tin trực tiếp, phát huy hiệu quả nhanh. Qua đó, các doanh nghiệp có thêm thông tin về thị trường, có cơ hội tốt để quảng bá và bán sản phẩm, tìm đối tác và ký kết hợp đồng.
Theo điều tra của nhóm nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu kinh tế Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp của hai bên vẫn chưa thật hiểu rõ về nhau, điều này đã hạn chế sự mở rộng hơn nữa của thương mại song phương. Do đó, cần phải xây dựng diễn đàn hợp tác doanh nghiệp hai bên, làm cầu nối cho hợp tác của họ. Hàng năm luân phiên tổ chức diễn đàn hợp tác doanh nghiệp ở Côn Minh, Nam Ninh, hoặc ở một địa phương của Việt Nam để cho các doanh nghiệp gặp gỡ, tìm hiểu lẫn nhau và đi đến hợp tác trong thương mại.
Bộ Công thương cần: (1) Triển khai nhanh và hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo hoạt động buôn bán qua biên giới; (2) Xây dựng Chương trình hỗ trợ thành lập cửa hàng (trung tâm) giới thiệu và bán sản phẩm tại Côn Minh, Nam Ninh và đưa bổ sung vào Chương trình Xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia; (3) Khẩn trương triển khai lập các chợ đầu mối rau quả xuất khẩu sang Vân Nam và Quảng Tây; (4) Chỉ đạo Cục Xúc tiến Thương mại và Trung tâm thông tin tăng cường hơn nữa công tác thông tin cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu về thị trường Vân Nam và Quảng Tây với vai trò vừa là thị trường tiêu thụ trực tiếp vừa là thị trường trung gian.
Chính quyền và ban ngành chức năng các tỉnh biên giới (sở thương mại, du lịch, hải quan, ngân hàng,...) cần chủ động và tăng cường hợp tác với chính quyền và ban ngành chức năng của hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây để tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây.
1.4. Tăng cường công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại
Để phát triển được sản xuất trong nước và làm lành mạnh hóa quan hệ thương mại trên Hành lang kinh tế Việt - Trung, hai bên cần phải có những biện pháp ngăn chặn nạn buôn lậu và gian lận thương mại. Trước mắt, cần tập trung vào các biện pháp cơ bản sau:
- Phối hợp chống buôn lậu giữa các ngành, Bộ Công thương là cơ quan chủ trì (chủ yếu là Cục Quản lý thị trường) làm đầu mối thực hiện các nội dung phối hợp gồm: Rà soát, soạn thảo các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan đến công tác tổ chức, thực hiện đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại; phối hợp trong việc trao đổi thông tin nghiệp vụ; xử lý vi phạm; phối hợp trong công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường; phối hợp để kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong nội bộ các lực lượng chức năng chống buôn lậu; định kỳ hàng quý hoặc đột xuất Bộ Thương mại tổ chức họp các cơ quan phối hợp để cùng nhau kiểm điểm rút kinh nghiệm.
- Xem xét lại hệ thống thuế và thủ tục hải quan, khắc phục những bất hợp lý và các kẽ hở trong chính sách thuế đang tạo điều kiện cho buôn lậu phát triển.
- Bộ Công thương cần tổ chức tốt hơn công tác quản lý thị trường, tổ chức thực hiện việc quản lý thị trường và thông tin qua lại giữa các đơn vị thực hiện; cần xây dựng nhiều kênh thông tin để chỉ đạo, tổ chức phối hợp giữa các chi cục đặc biệt là trên tuyến biên giới.
- Nghiêm túc thực hiện quy chế ghi nhãn hàng hoá, Nhà nước nên có biện pháp xử phạt đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước không áp dụng Qui chế ghi nhãn hàng hoá.
- Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn thương nhân cũng như cho toàn dân hiểu và làm theo pháp luật.
- Thực hiện chính sách phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động vùng biên. Xóa đói giảm nghèo và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân các tỉnh biên giới, đặc biệt các xã, các huyện giáp ranh với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây.
- Chính phủ và chính quyền các địa phương hai bên cần tăng cường quản lý hàng hoá, áp dụng các biện pháp kiểm tra chặt chẽ, ngăn chặn hàng giả và kém chất lượng tràn vào thị trường Việt Nam và hai tỉnh biên giới Trung Quốc. Hàng giả chủ yếu từ Vân Nam và Quảng Tây thông qua các cửa khẩu hoặc bằng đường tiểu ngạch vận chuyển vào Việt Nam. Hàng giả có nhiều loại, từ hàng tiêu dùng, rượu đến mũ bảo hiểm, đặc biệt là kem đánh răng P/S, dầu gội đầu Oliver, Sunsilk. Hiện tại, có hàng ngàn máy Diezel và các loại máy dùng trong nông nghiệp.
- Để hạn chế tối đa việc sử dụng “cửu vạn” và cư dân biên giới vận chuyển hàng nhập lậu, chính quyền địa phương cần phối hợp tốt với lực lượng Bộ đội biên phòng, Công an địa bàn có biện pháp quản lý chặt chẽ cư dân khu vực biên giới, tạo công ăn việc làm cho họ một cách ổn định, có nguồn thu nhập đảm bảo cuộc sống để không tiếp tay cho buôn lậu, đồng thời cũng là lực lượng tham gia bảo vệ biên giới lãnh thổ khi cần thiết.
- Có chính sách phù hợp đối với khách du lịch đến những chợ biên giới để tránh việc bị lợi dụng vận chuyển hàng nhập lậu, đặc biệt chú ý đối với tuyến đường từ chợ Móng Cái - Quảng Ninh, chợ Tân Thanh, Đồng Đăng - Lạng Sơn vào nội địa.
- Đối với hàng tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu: Chính phủ, Bộ Thương mại, Bộ Tài nguyên Môi trường và UBND các tỉnh biên giới phối hợp xem xét, quy định chặt chẽ việc chuyển khẩu qua Việt Nam đối với những hàng “rác công nghiệp” để vừa tạo công ăn việc làm cho các doanh nghiệp nhưng phải bảo đảm các yêu cầu về vệ sinh môi trường.
- Cần sớm có cơ chế chính sách động viên, khích lệ bằng vật chất một cách hợp lệ cho các lực lượng chống buôn lậu và gian lận thương mại thông qua Quỹ chống buôn lậu (vì đã bỏ việc trích thưởng).
- Nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước. Đây là giải pháp cơ bản để giải quyết nạn hàng hoá nhập lậu, trốn thuế, không kiểm soát được. Phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trong nước sẽ hạn chế nguồn hàng nhập lậu từ nước ngoài với mục đích thu lợi nhuận cao.
- Tăng cường công tác phối hợp với các ngành chức năng trong tổ chức và quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới, quy định rõ phạm vi, thẩm quyền và trách nhiệm của từng ngành, từng lực lượng chức năng trong đấu tranh chống buôn lậu. Nâng cao năng lực nghiệp vụ cho lực lượng hải quan và tạo điều kiện về phương tiện kỹ thuật để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Áp dụng các hình thức xử lý thích hợp đối với các tổ chức và thương nhân có hành vi buôn lậu và gian lận thương mại. Bên cạnh đó cần tuyên truyền giáo dục, động viên và nâng cao ý thức trách nhiệm cho dân cư các tỉnh biên giới trong việc chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Phối hợp với các lực lượng của phía bạn trong việc chống buôn lậu và gian lận thương mại qua biên giới. Nếu không có sự phối hợp này thì hiệu quả của công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại qua biên giới đường bộ sẽ không đạt hiệu quả cao.
1.5. Các giải pháp khác
- Chính phủ cần hỗ trợ các tỉnh biên giới với Trung Quốc trong việc xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu: (1) Tài trợ vốn từ nguồn ngân sách; (2) Có các chính sách khuyến khích phát triển các khu kinh tế cửa khẩu. Hầu như các khu kinh tế cửa khẩu trên tuyến biên giới với Trung Quốc đang thiếu kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng, bị đình lại, nên rất cần sự hỗ trợ về vốn từ Chính phủ.
- Điều chỉnh cơ chế quản lý hoạt động thương mại với Vân Nam và Quảng Tây theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch. Xuất khẩu chính ngạch không những hạn chế được rủi ro từ xuất khẩu tiểu ngạch mà còn được hưởng ưu đãi về thuế từ việc thực hiện EHP. Các cơ quan chức năng của Chính phủ nên điều chỉnh cơ chế quản lý để tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí cho các doanh nghiệp trong việc lấy C/O (có thể xem xét việc chuyển địa điểm cấp C/O); tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc giám định hàng hoá, khuyến khích bà con nông dân sản xuất nông sản thực phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng và VSATTP,...); hướng dẫn và có biện pháp khuyến khích bà con nông dân sản xuất nông sản đạt tiêu chuẩn chất lượng và VSATTP.
- Công tác quản lý điều hành xuất nhập khẩu cần phải linh hoạt và có đối sách thích hợp, kịp thời với những diễn biến của thị trường hai tỉnh và thị trường Trung Quốc, và những thay đổi chính sách của phía bạn. Đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục hành chính tại cửa khẩu, thống nhất về thu lệ phí tại các cửa khẩu, tạo thuận lợi cho người và hàng hoá qua cửa khẩu công khai, minh bạch; tạo điều kiện thuận tiện cho xe vận tải hàng hoá, xe công vụ, xe doanh nghiệp qua lại một cách bình thường.
- Việt Nam đang bị động hoàn toàn trong buôn bán biên mậu với Trung Quốc. Do vậy, vấn đề cấp thiết là chúng ta cần phải xây dựng chiến lược phát triển biên mậu. Về hoạt động biên mậu, Trung Quốc có chiến lược rõ ràng, trong khi đó Việt Nam không có chiến lược, nên họ đã phát triển được kinh tế của các tỉnh biên giới, thay đổi hoàn toàn bộ mặt biên giới kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập.
- Tiếp tục nghiên cứu và đàm phán với phía Trung Quốc thống nhất thực hiện kiểm tra hải quan một lần (1 điểm dừng 1 cửa) tại các cửa khẩu biên giới Việt - Trung. Rà soát và thống nhất lại mã HS đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu để tránh tình trạng hàng xuất khẩu của Việt Nam bị gây khó dễ khi xuất khẩu do mã HS không thống nhất giữa hai bên. Có biện pháp để sớm chấm dứt việc chuyển tải hàng hoá và triển khai thực hiện việc vận chuyển thẳng hàng hoá vào nội địa của nhau giữa tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Quảng Tây.
- Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ phát triển thương mại dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ gắn với biển nhằm phát triển kinh tế biển của Việt Nam, như: dịch vụ vận tải, dịch vụ du lịch.
2. Nhóm giải pháp vi mô
2.1. Đẩy mạnh hoạt động buôn bán chính ngạch và chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh
Trong quan hệ thương mại trên Hành lang kinh tế, Việt Nam coi trọng cả xuất nhập khẩu chính ngạch và buôn bán biên giới. Xuất nhập khẩu chính ngạch có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng nhanh và ổn định của kim ngạch thương mại giữa hai bên. Hiện nay, Trung Quốc đang dần thay đổi chính sách thương mại, đặc biệt là chính sách biên mậu theo chiều hướng giảm dần và tiến tới xóa bỏ ưu đãi đối với hoạt động buôn bán biên mậu để phù hợp với các quy định của WTO. Năm 2004, Trung Quốc đã hủy bỏ ưu đãi thuế quan đối với hàng hoá biên mậu, chỉ cho phép Vân Nam được ưu đãi 50% thuế VAT đối với hàng hoá biên mậu nhập khẩu, còn Quảng Tây không còn ưu đãi về thuế quan và thuế VAT. Chính vì vậy, đẩy mạnh xuất nhập khẩu chính ngạch với hai tỉnh là thực sự cần thiết. Ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp Việt Nam nên thay đổi phương thức buôn bán, cần phải chuyển sang và phát triển hình thức buôn bán chính ngạch. Hiện tại, hầu như các doanh nghiệp chưa chuẩn bị tốt cho việc xuất khẩu theo con đường chính ngạch.
Mặc dù hiện tại, hình thức biên mậu vẫn có tác dụng đối với nhiều mặt hàng như nông, thủy sản, hàng chất lượng thấp, đặc biệt là khi Trung Quốc vẫn áp dụng chế độ ưu đãi đối với hàng Việt Nam xuất qua đường biên mậu vào Vân Nam được hưởng 50% thuế VAT, còn Chính quyền Quảng Tây cho hưởng “ưu đãi nửa vời” thì việc xuất khẩu qua đường biên mậu vẫn là điều kiện thuận lợi cho nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta. Tuy nhiên, về lâu dài hình thức biên mậu không còn thích hợp và mang lại lợi ích nữa vì chính sách của Trung Quốc giảm dần và tiến tới xóa bỏ ưu đãi biên mậu. Hiện tại họ đang thắt chặt kiểm soát về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng nông, thủy sản nhập khẩu. Khi CAFTA hoàn thành, hàng Việt Nam kém chất lượng và không đạt tiêu chuẩn VSATTP sẽ không có chỗ đứng ngay cả trên thị trường nội địa chứ chưa nói là không xuất khẩu được sang thị trường Vân Nam và Quảng Tây.
Doanh nghiệp xuất khẩu của ta sang thị trường Vân Nam và Quảng Tây ít biết về luật lệ, chính sách của phía Trung Quốc và dễ dàng bị đối tác gây sức ép, nhất là với các chủng loại mặt hàng mang tính thời vụ như rau quả, hải sản tươi, hiệu quả tính được bằng ngày, giờ. Kết quả là các hoạt động diễn ra manh mún, nhỏ lẻ, hoàn toàn bị động và phụ thuộc vào các đầu mối nhập khẩu của phía bạn, xuất khẩu chủ yếu theo đườg biên mậu.
Các doanh nghiệp cần hạn chế thói quen xuất khẩu theo đường biên mậu, chuyển qua xuất khẩu chính ngạch. Nếu không, khi các chính sách ưu đãi biên mậu bị bãi bỏ, hoặc khi thuế các mặt hàng hạ xuống 0% thì cạnh tranh không phải bằng các ưu đãi thuế mà bằng chất lượng, hệ thống đại lý phân phối, nhưng đây lại là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Hiện tại, buôn bán biên mậu vẫn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp Việt Nam do vẫn được hưởng ưu đãi, nhưng hình thức buôn bán này rất bấp bênh (vì không có hợp đồng) và mang lại rủi ro cho doanh nghiệp. Xuất khẩu tiểu ngạch, các doanh nghiệp của ta thường ở vào tình thế rất bất lợi, đặc biệt đối với mặt hàng mùa vụ như rau quả, điển hình là dưa hấu. Các doanh nghiệp thường bị phía đối tác ép cấp, ép giá. Nhiều trường hợp giá thấp cũng phải bán để thu hồi vốn, có những trường hợp giá thấp tới mức không thể bán được, doanh nghiệp đành phải đổ đi cả xe hàng tại cửa khẩu và chịu lỗ. Buôn bán tiểu ngạch được chăng hay chớ, năm thì xuất khẩu dưa hấu có lãi, thậm chí có năm được lãi cao, nhưng có năm thì thiệt hại lớn như 2004, dưa hấu bị thối đổ đi một khối lượng lớn tại cửa khẩu Lạng Sơn không xuất khẩu được sang Quảng Tây do Đảo Hải Nam được mùa, nhu cầu nhập khẩu dưa hấu của Quảng Tây ở mức thấp. Trong khi đó, cung của phía Việt Nam lại quá lớn nên bị ép cấp ép giá, doanh nghiệp bị thua lỗ nặng. Chất lượng dưa hấu xuất khẩu tiểu ngạch không cao nên dẫn tới giá thấp. Quả to, quả bé, loại 1, loại 2, loại 3 lẫn lộn. Ngay cả phân loại sản phẩm các doanh nghiệp của ta cũng không làm, mà cứ bán đổ đồng. Còn thương nhân Quảng Tây mua hàng tại biên giới, sau đó họ làm nhiệm vụ phân loại dưa và chuyển vào nội địa để tiêu thụ. Nếu xuất khẩu chính ngạch, các doanh nghiệp của ta phải làm và làm tốt công tác phân loại hàng trước khi xuất khẩu vì bán hàng theo hợp đồng có điều khoản quy định rõ về chất lượng của hàng hoá.
Chính sách xuất nhập khẩu và chính sách biên mậu của Trung Quốc đang thay đổi nhanh do thực hiện các cam kết trong WTO. Do đó, các doanh nghiệp phải cập nhật thông tin thường xuyên về thị trường hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây nói riêng, thị trường Trung Quốc nói chung để chủ động trong hoạt động trao đổi hàng hoá, tránh sự thua thiệt như xuất khẩu quả tươi. Trong thực tế các doanh nghiệp mới chú trọng tới lợi ích nhỏ trước mắt mà chưa nghĩ tới việc chuẩn bị để buôn bán chính ngạch lâu dài.
Để chuẩn bị tốt cho hoạt động thương mại chính ngạch trên Hành lang kinh tế, ngay từ bây giờ các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm được những quy định của Trung Quốc trong buôn bán chính ngạch, lập văn phòng đại diện tại Vân Nam và Quảng Tây, và đưa ra chương trình tiếp cận hiệu quả bằng cách tham gia các Hội chợ triển lãm, hay mở đại lý tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở đó, nghiên cứu và nắm chắc tình hình thị trường, những thay đổi trong chính sách thương mại và tìm các kênh phân phối, các đối tác tin cậy để đẩy mạnh hoạt động trao đổi hàng hoá chính ngạch. Hơn nữa các doanh nghiệp phải chú trọng tới tiêu chuẩn chất lượng và VSATTP, phải làm tốt công tác phân loại hàng trước khi xuất khẩu. Như vậy, khi không còn được hưởng chính sách ưu đãi biên mậu, các doanh nghiệp của ta vẫn có thể cạnh tranh với các đối tác khác bằng chất lượng, hệ thống đại lý phân phối.
Để bắt đầu con đường buôn bán chính ngạch, các doanh nghiệp cần nhanh chóng triển khai việc: (1) Cập nhật hệ thống văn bản pháp luật thương mại của Trung Quốc, các chính sách thương mại của hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây đối với Việt Nam; (2) Tìm hiểu nhu cầu thị hiếu tiêu dùng và đặc điểm thị trường; (3) Thiết lập các văn phòng đại diện; (4) Tiến hành các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm hướng tới xây dựng hệ thống đại lý phân phối và tìm kiếm đối tác; (5) Chuẩn bị nguồn hàng đáp ứng nhu cầu thị hiếu của thị trường, đạt tiêu chuẩn chất lượng và VSATTP, phải tìm nguồn cung cấp hàng lớn và tương đối ổn định.
Một số doanh nghiệp Việt Nam đã thành công trong buôn bán chính ngạch với thị trường Vân Nam và Quảng Tây, phải kể đến Thanh long Hoàng hậu, dép Bitis, kẹo dừa Bến Tre,v.v... . Điều này cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển buôn bán chính ngạch hiệu quả trên thị trường hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Tuy vậy, để làm ăn lâu dài trên hai thị trường này, các doanh nghiệp cần phải đoàn kết chặt chẽ hơn: “chúng ta không thể làm đơn lẻ mãi, mà phải có cộng đồng, có tập thể mới có thể đứng vững trên thị trường miền Tây, Tây Nam Trung Quốc và cạnh tranh được với đối thủ chính là Thái Lan trên thị trường này”.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự thay đổi theo hướng tích cực trong tư duy, không nên có thái độ ỷ lại chờ đợi sự hỗ trợ của các cơ quan chủ quản. Doanh nghiệp nên chủ động tìm hiểu nhu cầu thị hiếu, hệ thống pháp luật, tiếp cận, thâm nhập thị trường để tránh tình trạng bị động trong quan hệ trao đổi hàng hoá như với Vân Nam và Quảng Tây hiện nay. Cho đến thời điểm này, Chính sách thương mại của hai bên điều chỉnh hoạt động trao đổi hàng hoá nhìn chung là thông thoáng. Các phòng làm thủ tục thông quan cho hàng hoá của hai bên làm cả thứ 7 và chủ nhật, có thể đến 11 giờ đêm. Các cơ quan chức năng của hai bên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hàng hoá trao đổi, hiện tại vẫn còn tiếp tục cải cách các thủ tục rườm rà. Do đó, vấn đề ở đây là doanh nghiệp. Bản thân các doanh nghiệp phải thay đổi, phải tự tìm ra phương thức buôn bán thích hợp và hiệu quả nhất trong tiến trình hình thành ACFTA. Chỉ có xuất nhập khẩu chính ngạch là đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
2.2. Đa dạng hóa các phương thức hoạt động thương mại
Để đẩy mạnh hoạt động trao đổi thương mại với các doanh nghiệp Vân Nam và Quảng Tây, các doanh nghiệp Việt Nam không nên chỉ giới hạn ở hai phương thức hoạt động thương mại chính là xuất nhập khẩu chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch, mà cần phải mở rộng và đa dạng hóa các phương thức thương mại:
- Nên mở rộng và phát triển các hình thức xuất khẩu dịch vụ như du lịch, vận tải biển, dịch vụ giao nhận hàng quá cảnh và các loại hình dịch vụ khác. Với ưu thế về vị trí địa lý, chúng ta có lợi thế để phát triển thương mại dịch vụ trong hợp tác thương mại với Vân Nam và Quảng Tây. Các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành của Việt Nam không nên chỉ dừng lại ở hoạt động trao đổi khách du lịch với phía bạn mà cần đầu tư vào phát triển các khu du lịch và mở rộng các loại hình du lịch để thu hút du khách từ Vân Nam và Quảng Tây nói riêng, Trung Quốc nói chung sang Việt Nam.
- Phát triển mạnh hình thức hợp tác khai thác và chế biến quặng xuất khẩu sang hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, hợp tác trong sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu các sản phẩm thu được. Chúng ta không nên đẩy mạnh xuất khẩu quặng thô sang phía bạn như trước đây vì hiệu quả thu được rất thấp, không những thế còn làm cạn kiệt nguồn tài nguyên.
- Để tăng hiệu quả của hoạt động thương mại, các doanh nghiệp nên chuyển dần từ buôn bán thuần túy sang hợp tác liên doanh, sản xuất, lắp ráp, tiêu thụ hàng hoá tại thị trường hai bên và xuất khẩu sang các thị trường khác như liên doanh sản xuất đồ điện gia đình, thức ăn gia súc, giày dép, thực phẩm, dược phẩm,...
- Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Vân Nam và Quảng Tây để thành lập các liên doanh chế biến hàng nông lâm hải sản tại thị trường của họ để tận dụng được nguồn nhân công rẻ, bán được hàng hoá với giá cao, tránh được hàng rào thuế quan, lại có thể tận dụng được ưu thế về tài nguyên, đưa hàng đến tận thị trường tiêu thụ và tiếp cận được với hệ thống phân phối trên thị trường hai tỉnh nói riêng và miền Tây Trung Quốc nói chung. Phát triển hình thức này sẽ tăng dần tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Vân Nam và Quảng Tây, và có thể mở rộng xuất khẩu sang các khu vực thị trường khác ở Trung Quốc và sang các nước ASEAN.
- Các doanh nghiệp nên thành lập các công ty con, hoặc mở văn phòng đại diện ở các khu vực cửa khẩu quốc tế (cửa khẩu quốc tế thị xã Lào Cai,... đồng thời cần sớm chuẩn bị các điều kiện để hoạt động ở các khu kinh tế cửa khẩu để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao dịch, mua bán hàng hoá.
- Sử dụng các phương thức mua bán và thanh toán linh hoạt, phù hợp với đối tượng và tính chất mặt hàng xuất nhập khẩu để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Cùng với việc phát triển các mặt hàng mà thị trường Vân Nam, Quảng Tây và miền Tây Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu lớn, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động liên kết với các doanh nghiệp phía bạn để ký hợp đồng xuất nhập khẩu dài hạn, xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu ổn định.
- Tận dụng mọi cơ hội để tham gia các hội chợ, triển lãm để giới thiệu mặt hàng của mình, khai thác nguồn hàng của nước bạn và phát triển phương thức xuất khẩu tại chỗ.
2.3. Tạo ra cơ cấu hàng xuất khẩu phù hợp, nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm
Sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam tại thị trường Vân Nam và Quảng Tây so với chính hàng hoá cùng loại của họ và các nước khác còn yếu. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ bán những cái gì mình có, chứ chưa điều chính cơ cấu sản xuất và xuất khẩu phát huy được lợi thế so sánh của ta và phù hợp với nhu cầu nhập khẩu của thị trường Vân Nam, Quảng Tây và miền Tây Trung Quốc.
Hàng nông sản Việt Nam có chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm thấp so với các đối thủ cạnh tranh khác (Thái Lan, Mianma). Chính vì vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này, ngoài việc tạo ra một cơ cấu hàng xuất khẩu phù hợp, còn phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa bằng cách nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hàng thủy sản của ta xuất sang thị trường Vân Nam và Quảng Tây phong phú: hàng tươi, sống và khô. Để đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng này sang thị trường hai tỉnh, doanh nghiệp cần phải làm tốt công tác chế biến và bảo quản để bảo đảm hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng sang Vân Nam, Quảng Tây và miền Tây Trung Quốc không chỉ đáp ứng nhu cầu của khu vực thị trường này mà còn phải chú trọng tới những loại hàng đang được hưởng ưu đãi trong EHP và hiện đang có khả năng cạnh tranh.
Tạo ra một cơ cấu hàng xuất khẩu phù hợp với thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam, sản xuất ra những mặt hàng mới để tăng xuất khẩu. Đáp ứng các yêu cầu về kiểm dịch, vệ sinh, cải tiến bao bì để có thể thâm nhập vững chắc và tăng ổn định vào thị trường hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây.
Thủy hải sản là nhóm hàng rất được ưa chuộng và có nhu cầu nhập khẩu cao tại hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, và khu vực miền Tây Trung Quốc. Đây là khu vực không có biển. Hiện tại, trong nhóm hàng thủy hải sản, cá da trơn là mặt hàng mà ta có thế mạnh xuất khẩu và bạn cũng có nhu cầu.
2.4. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ trong trao đổi giữa hai bên
Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu thực hiện giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng nông, thủy sản theo EHP từ 1/1/2004. Đến nay, Việt Nam đã giảm hơn 400 dòng thuế, còn Trung Quốc giảm trên 500 dòng thuế. Như vậy, tại thời điểm này, hàng của hai nước đã có cơ hội thuận lợi để thâm nhập vào thị trường của nhau. Mặc dù hiện tại hàng Việt Nam xuất khẩu sang Vân Nam và Quảng Tây có ưu đãi hơn về thuế, nhưng mức thuế nhập khẩu áp dụng đối với hàng Việt Nam cao hơn nhiều so với hàng của Thái Lan. Nhìn chung, hàng nông thủy sản của các nước ASEAN xuất khẩu vào Trung Quốc đều được hưởng ưu đãi về thuế. Chính vì vậy, cạnh tranh giữa các nước ASEAN trên thị trường Trung Quốc sẽ gay gắt. Để chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc nói chung, thị trường hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam nên thực hiện các biện pháp sau:
- Không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của thị trường Vân Nam và Quảng Tây.
- Đầu tư đổi mới thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp cần có chính sách đầu tư đủ mạnh, có tính đột phá để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, cải tiến mẫu mã, chủng loại sản phẩm đặc biệt là nâng cao chất lượng hàng hoá để hàng Việt Nam có thể cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường Vân Nam và Quảng Tây.
- Nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh, điều hành và quản lý doanh nghiệp của giám đốc.
- Đối với hàng hoá, cần chú trọng đến bao bì, nhãn mác, áp dụng hệ thống mã vạch phổ cập đối với hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Vân Nam và Quảng Tây để thuận lợi trong khâu bán lẻ tại các siêu thị, hạ giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh với hàng nội địa của họ, nghiên cứu xây dựng chiến lược mặt hàng thích hợp với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây trong từng giai đoạn cụ thể.
- Đối với dịch vụ, lợi thế của Việt Nam trong trao đổi thương mại với hai tỉnh này là các loại hình dịch vụ như vận tải, thông tin, điện, kho vận, cầu cảng,v.v... . Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần tập trung khai thác lợi thế này để phát triển các loại hình dịch vụ thích hợp, như các dịch vụ quá cảnh của hàng hoá xuất nhập khẩu giữa các nước ASEAN và Trung Quốc thông qua cảng Hải Phòng. Trên cơ sở đầu tư của Nhà nước cho các công trình hạ tầng cơ sở, các doanh nghiệp cần có những biện pháp để khai thác hiệu quả các công trình này, đồng thời phối hợp với Nhà nước tiếp tục hoàn thiện kết cấu hạ tầng, mở rộng quy mô khai thác dịch vụ.
2.5. Xây dựng kênh phân phối cho hàng xuất khẩu
Một điều đặc biệt lưu ý trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây Trung Quốc là bên cạnh nhiều doanh nghiệp làm ăn đứng đắn có tiềm lực, có uy tín, còn có không ít những công ty, xí nghiệp giả mạo, lừa lọc đang hoạt động. Nếu không cảnh giác, các doanh nghiệp của ta dễ bị lừa gạt và sẽ không tránh khỏi tổn thất. Các doanh nghiệp nước ta nên giao dịch trực tiếp với các công ty, tập đoàn có uy tín (lựa chọn các doanh nghiệp trong Danh sách doanh nghiệp do Thương vụ Trung Quốc, Sở Thương mại tỉnh Vân Nam và Sở Thương mại tỉnh Quảng Tây giới thiệu) để trao đổi hàng hoá hoặc hợp tác đầu tư. Hạn chế giao dịch qua thương nhân môi giới hoặc mua hàng trôi nổi, vì dễ bị lừa mua phải hàng chất lượng kém, hoặc bán hàng xong không thu được tiền. Trước khi ký hợp đồng với khách hàng chưa quen biết nên thông qua các hội xúc tiến mậu dịch của các sở thương mại, Cục Quản lý Hành chính Công thương hoặc Cơ quan chuyên trách của Chính phủ Trung ương hay địa phương của Trung Quốc để thẩm tra thực lực. Thông qua những bạn hàng lớn và đáng tin cậy thiết lập các kênh phân phối trên thị trường hai tỉnh nói riêng, thị trường miền Tây và Trung Quốc nói chung.
Một cách khác có thể có hiệu quả trực tiếp, nhưng cần phải có một khoản kinh phí đáng kể để thực hiện. Đó là đưa hàng đến tận tay người tiêu dùng bằng cách lập văn phòng đại diện tại thị trường hai tỉnh để nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của khách hàng, đặc điểm và hệ thống pháp luật của thị trường, giới thiệu sản phẩm và tìm đối tác; hoặc lập hệ thống đại lý phân phối. Cách này chỉ phù hợp với những công ty lớn và có tiềm lực về tài chính. Còn đối với các công ty vừa và nhỏ thì có thể thông qua Cục Xúc tiến Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và tham gia các hội chợ, triển lãm để giới thiệu sản phẩm và tìm đối tác.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng có thể tiếp cận mạnh mẽ vào các đầu mối cung cấp, chế biến lớn, hệ thống hoặc mạng lưới phân phối các sản phẩm nông sản, thủy hải sản của Vân Nam và Quảng Tây. Chủ động thiết lập mạng lưới tiêu thụ hàng ổn định, lâu dài tại Côn Minh và Nam Ninh, cần tính tới khả năng lập cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm của Việt Nam tại hai thành phố trên.
2.6. Đổi mới nhận thức và liên kết lại để tạo lợi thế cạnh tranh tổng lực
Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc cứ hoạt động đơn lẻ như hiện nay thì chỉ dừng ở thị trường biên giới, khó có thể tiến sâu vào thị trường nội địa, không những thế còn bị ép cấp, ép giá và xuất khẩu thu được hiệu quả thấp. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp nước ta cần phải đôỉ mới nhận thức, liên kết, đồng tâm hiệp lực để tạo lợi thế cạnh tranh tổng lực trên thị trường hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây.
Để ACFTA thực sự có ý nghĩa, doanh nghiệp xuất khẩu nước ta cần chủ động đổi mới bắt đầu từ nhận thức về cung cách kinh doanh từ sản xuất theo định hướng thị trường, làm tốt công tác phân loại sản phẩm, nâng cấp hệ thống bảo quản, tiếp thị và quảng bá thương hiệu. Doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm rõ để đáp ứng những quy định của Trung Quốc về kiểm dịch, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế cấp phép, thủ tục thanh toán, bảo hiểm.
Một yêu cầu không thể thiếu đối với doanh nghiệp là phải làm quen với cơ chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ của ACFTA để đủ tiêu chuẩn hưởng các ưu đãi của khu vực mậu dịch tự do này. Hiện nay, các phòng cấp giấy phép của Bộ thương mại đang thực hiện việc cấp Form D rộng rãi.
Trong điều kiện các doanh nghiệp kinh doanh trên Hành lang kinh tế phần lớn là các hộ gia đình nông dân, doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì việc đáp ứng các yêu cầu như trên, thậm chí chỉ là tiếp cận các thông tin chính sách mới, xem ra đã là rất khó khăn. Do đó, mối liên kết hợp tác dài hạn giữa nông dân với các hiệp hội, sự phối hợp của chính quyền địa phương và sự tham gia sâu hơn của các doanh nghiệp lớn là cực kỳ quan trọng. Bản thân doanh nghiệp cũng cần chủ động phối hợp với cơ quan Nhà nước như địa phương, trung ương để kịp thời phản ánh những khúc mắc trong cơ chế nhập khẩu của phía họ nhằm tìm cách thương thảo cùng tháo gỡ, tạo thuận lợi cho hàng xuất khẩu của nước ta.
Bên cạnh việc đổi mới nhận thức, doanh nghiệp Việt Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ để giành lại sự công bằng trên thương trường tránh tình trạng bị gánh chịu những rủi ro thua thiệt do bị ép cấp, ép giá. Chúng ta không thể làm ăn đơn lẻ mãi mà phải có cộng đồng, có tập thể mới có thể đứng vững trên thị trường Vân Nam và Quảng Tây, và có thể cạnh tranh được với đối thủ chính là Thái Lan trên thị trường này.
Để có thể liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu, nhất là nhóm hàng nông sản thực phẩm (nhóm hàng chủ yếu xuất theo đường biên mậu và thường bị doanh nghiệp phía bạn ép cấp, ép giá), chúng ta nên thành lập một ủy ban tăng cường cạnh tranh quốc gia và phát huy sức mạnh của các Hiệp hội. Nhiệm vụ chính của ủy ban là liên kết các doanh nghiệp lại thống nhất trong kinh doanh xuất nhập khẩu.
KẾT LUẬN
Phát triển thương mại trên Hành lang kinh tế Việt – Trung là một trong những nội dung hợp tác quan trọng giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như khu vực tiểu vùng sông Mêkông. Đặc biệt trong bối cảnh hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, việc tạo dựng các cơ sở bền vững nhằm khai thác tối đa lợi thế của Hành lang kinh tế thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại của hai nước Việt Nam – Trung Quốc cũng như toàn khu vực là mối quan tâm cua các nước thành viên của Hiệp định về ACFTA.
Cùng với sự phát triển mạnh của quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước, quan hệ hợp tác thương mại trên Hành lang kinh tế Việt – Trung cũng phát triển nhanh và tương đối ổn định. Tuy nhiên, thương mại hai chiều vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của hai bên do vẫn còn một số tồn tại và hạn chế. Để tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác thương mại song phương trong thời gian tới, chúng ta cần phải dựa trên cơ sở hiện tại, tăng cường nghiên cứu đối với hợp tác Hành lang kinh tế Việt – Trung, làm cho hợp tác này sớm đạt được thành quả to lớn; đồng thời cần tìm ra các giải pháp nhằm phát triển ngoại thương của Việt Nam trên Hành lang kinh tế Việt - Trung. Đây chính là lý do đề tài “Hành lang kinh tế Việt – Trung và ảnh hưởng của nó tới hoạt động ngoại thương của Việt Nam” được thực hiện.
Đề tài đã đóng góp nhất định vào việc cung cấp thông tin về tiềm năng và thế mạnh của các tỉnh thành trên Hành lang kinh tế Việt – Trung; đánh giá thực trạng quan hệ thương mại và đưa ra những ảnh hưởng của tuyến Hành lang kinh tế này đối với hoạt động ngoại thương của Việt Nam; từ đó đề xuất một số giải pháp để các cơ quan quản lý, doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động quản lý và kinh doanh sao cho mang lại hiệu quả kinh tế cao trong hợp tác thương mại trên Hành lang kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Ngoại giao (2001), Hợp tác kinh tế trên hành lang Đông – Tây, NXB Khoa học xó hội, Hà Nội.
Bộ Thương mại (2001), Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu 2001-2010.
Bộ Thương mại (2003), Quy hoạch phát triển thương mại tại các vùng cửa khẩu biên giới phía Bắc Việt Nam đến năm 2010.
Bộ Thương Mại (2004), Tác động của việc thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc đối với kinh tế – thương mại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
Nguyễn Vũ Hoàng (2003), Các liên kết kinh tế thương mại quốc tế, NXB Thanh niờn, Hà Nội.
Trần Khánh (2006), Tác động của môi trường địa chính trị Đông Nam Á đến quan hệ ASEAN – Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 76.
Vũ Khoan (2005), Đổi mới về đối ngoại, Tạp chí Cộng Sản.
Kỷ yếu hội thảo khoa học (2005), Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hợp tác cùng nhau phát triển hướng tới tương lai, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
TS. Nguyễn Văn Lịch (2005), Phát triển thương mại trên Hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
TS. Nguyễn Văn Lịch (2005), Quan hệ thương mại Việt Nam - Quảng Tây thực trạng, triển vọng v à giải pháp phát triển, Viện nghiên cứu thương mại.
LiWei (2004), Tiến trỡnh Khu vực thương mại tự do Trung Quốc – ASEAN và những liên hệ về Khu vực thương mại tự do Đông Á, Viện Nghiên cứu thương mại quốc tế và hợp tác kinh tế Trung Quốc.
TS Trần Quế (2006), Vấn đề hiện thực hóa dự án hợp tác phát triển “hai hành lang, một vành đai” Trung Quốc – Việt Nam, Bài tham luận tại hội thảo Hợp tác hai Hành lang một vành đai kinh tế.
PGS.TS Đỗ Tiến Sâm (2006), Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, nhỡn lại 15 năm và triển vọng, NXB Thống k ờ.
Cổ Tiểu Tùng (2005), Ý tưởng về “Xây dựng hai hành lang và một vành đai kinh tế, Tạp chí Thương mại số 36.
Tạp chớ Nghiờn cứu Kinh tế Chõu Á- Thỏi Bỡnh Dương các số năm 1999 – 2006.
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc các số năm 1999 – 2006.
Thông tư liên tịch Bộ Thương mại - Bộ Tài Chính - Bộ Giao thông Vận tải - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Bộ Y tế - Bộ Thủy sản- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 05/2004/TTLT-BTM-BTC-BGTVT-BNN&PTNT-BYT-BTS-NHNN ngày 17 tháng 8 năm 2004 hướng dẫn thực hiện quyết định số 252/2003/QĐ-TTG ngày 24 tháng 11 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ.
Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc, ngày 4 tháng 12 năm 2001.
Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (11/2002), Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
Trung tõm nghiờn cứu Trung Quốc (2001), Buụn bỏn qua biờn giới Việt – Trung: Lịch sử - Hiện trạng – Triển Vọng, NXB Khoa học xó hội, Hà Nội.
Vụ Kinh tế tổng hợp (3/2002), Đẩy mạnh hợp tác chương trình đa biên phát triển lưu vực sông Mêkông, Đề tài cấp vụ của Bộ Ngoại giao.
PGS.TS Đinh Ngọc Vượng (2006), Xây dựng khung pháp luật cho “hai hành lang, một vành đai”, Bài tham luận tại hội thảo Hợp tác Hai hành lang một vành đai kinh tế.
PHỤ LỤC 1
DANH MỤC CÁC MẶT HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU CHỦ YẾU
GIỮA VIỆT NAM VỚI TỈNH VÂN NAM THỜI KỲ 2003 - 2005
Bảng 1: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
sang tỉnh Vân Nam năm 2003
STT
Mặt hàng
Trị giá
(Triệu USD)
1
Cao su và sản phẩm cao su
8,23
2
Quặng Crôm và tinh quặng Crôm
5,62
3
Quặng kẽm và tinh quặng kẽm
3,53
4
Quặng sắt chưa tôi và tinh quặng sắt
3,07
5
Hạt điều bóc vỏ
1,18
6
Sợi đàn hồi
1,05
7
Quặng đồng và tinh quặng đồng
0,76
8
Nước dầu cọ
0,69
9
Sắn lát khô
0,66
10
Hợp kim kẽm
0,59
11
Gỗ phi cây lá nhọn
0,34
12
Keo thực vật
0,32
13
Quặng chì và tinh quặng chì
0,29
14
Mực đông lạnh, khô
0,22
15
Quả khô (Vải khô, long nhãn)
0,22
Nguồn: Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc.
Bảng 2: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
sang tỉnh Vân Nam năm 2004
STT
Mặt hàng
Trị giá (Triệu USD)
1
Các loại quặng sắt thô hoặc tinh
13,870
2
Các sản phẩm cao su chưa lưu hoá
12,420
3
Các loại quặng crôm thô hoặc tinh (Cr)
4,370
4
Các loại quặng kẽm thô hoặc tinh (Zn)
3,450
5
Gạo tẻ đã xay xát
2,740
6
Cao su thiên nhiên phân loại kỹ thuật (TSNR)
2,710
7
Các loại quặng đồng thô hoặc tinh (Cu)
1,870
8
Dầu cọ dạng lỏng
0,940
9
Các loại quặng chì thô hoặc tinh (Pb)
0,600
10
Găng tay chế tạo từ cao su đã lưu hoá
0,600
11
Sắn lát khô
0,430
12
Hợp kim kẽm chưa luyện
0,300
13
Hạt điều bóc vỏ
0,290
14
Đá vân đã và chưa xẻ thành tấm
0,028
15
Quặng mangan thô hoặc tinh (Mg)
0,023
Nguồn: Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc.
Bảng 3: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam
từ tỉnh Vân Nam năm 2005
STT
Mặt hàng
Trị giá (Triệu USD)
1
Phân đạm
23,67
2
Lá thuốc lá sấy
11,53
3
Thóc giống các loại
9,07
4
Thép bán thành phẩm
5,96
5
Máy nâng kiểu đứng
5,60
6
Than cốc các loại
7,75
7
Phi hợp kim thiếc
4,84
8
Phốt pho vàng và trắng
4,73
9
Phốt phát nattri
4,71
10
Phi hợp kim kẽm
4,65
11
Natri Sunfuric
4,07
12
Phốt phát canxi
4,04
13
Amoni nitrát
2,70
14
Quả tươi (Cam, quýt,...)
2,36
16
Thép cuộn dạng cây
1,95
Nguồn: Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc.
Bảng 4: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam
từ tỉnh Vân Nam năm 2003
STT
Mặt hàng
Trị giá
(Triệu USD)
1
Than cốc các loại
12,840
2
Phi hợp kim Altimol chưa luyện cán
10,920
3
Lá thuốc lá các loại (đã tước cọng, chưa tước cọng)
7,320
4
Các loại thóc giống
4,410
5
Thạch cao sống; thạch cao dạng cứng
1,870
6
Khoai tây tươi hoặc đông lạnh, trừ các loại giống
1,590
7
Quả tươi (Cam, quýt,...)
1,540
8
Sulfuric acid armonium (H2SO4NH4)
0,790
9
Cà fê chưa ngâm tẩm và rang xay
0,071
10
Ca2 So4
0,053
11
Natri sulfuric
0,047
12
Canxi đã qua xử lý acid sulfuric
0,045
13
Rau đông lạnh
0,044
14
Phân Urê
0,036
Nguồn: Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc.
PHỤ LỤC 2
CÁC MẶT HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU CHỦ YẾU GIỮA
VIỆT NAM VỚI TỈNH QUẢNG TÂY THỜI KỲ 2003 - 2005
Bảng 1: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
sang tỉnh Quảng Tây năm 2003
STT
Tên hàng
Trị giá (Triệu USD)
1
Tỏi củ khô
4,02
2
Quả tươi (Vải, thanh long, xoài, chôm chôm)
2,65
3
Nhân hạt điều đã qua chế biến
1,62
4
Tẩy bút chì E-50-9 mới 100%
0,97
5
Quặng kẽm
0,45
6
Quặng sắt
0,38
7
Tinh quặng sunfua
0,24
8
Thùng tuốt lúa
0,21
9
Kén chui không thích hợp để ươm tơ
0,13
10
Mỹ phẩm các loại, nước hoa, dầu gội
0,13
11
Phế liệu tơ tằm
0,12
Nguồn: Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc.
Bảng 2: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
sang tỉnh Quảng Tây năm 2004
STT
Tên hàng
Trị giá (triệu USD)
1
Quặng Mangan (Mn > 40%)
36,00
2
Quả tươi (Nhãn, thanh long)
7,87
3
Quạt thông gió đường kính cánh 12 inch
3,54
4
Đĩa DVD đã có nội dung
3,15
5
Tinh quặng sunfua chì PbS: 45% Min
3,06
6
Tỏi củ khô
2,73
7
Quặng cromite
4,36
8
Phụ tùng xe máy các loại
0,15
9
Đồ chơi trẻ em các loại
0,13
10
Hành củ khô
0,10
11
Quặng kẽm ô xít
0,09
Nguồn: Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc.
Bảng 3: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
sang tỉnh Quảng Tây năm 2005
STT
Tên hàng
Trị giá (triệu USD)
1
Quặng kẽm ôxit
20,07
2
Quả tươi, khô (nhãn, vải, thanh long, xoài…)
17,34
3
Quạt thông gió bằng nhựa
8,52
4
Máy khoan các loại
7,03
5
Thùng tuốt lúa các loại
3,49
6
Tinh quặng
3,45
7
Lạc nhân
2,13
8
Bánh đậu xanh
1,68
9
Dầu dừa thô
0,75
10
Dỗu gội các loại
0,42
11
Hành củ khô
0,34
Nguồn: Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc.
Bảng 4: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam
từ tỉnh Quảng Tây năm 2003
STT
Tên hàng
Trị giá (triệu USD)
1
Thức ăn nuôi cá
8,01
2
Phân urê
7,52
3
Tỏi củ khô
6,75
4
Gạch các loại
6,24
5
Quả tươi (Táo, lê)
9,66
6
Nguyên liệu thuốc bắc các loại
3,34
7
Hành củ khô
2,91
8
Thép các loại
2,49
9
Máy khoan các loại
2,32
10
Thuốc trừ sâu
2,01
11
Bản kẽm in phủ sáng
1,81
12
Nam châm các loại
1,66
13
Bộ linh kiện lắp ráp máy bơm nước
1,65
14
Máy móc thiết bị sản xuất đĩa compact
1,45
15
Máy khoan các loại
1,44
Nguồn: Thống kê của Sở TMDL tỉnh Lạng Sơn; Ngân hàng Dữ liệu Quảng Tây - Lạng Sơn.
Bảng 5: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam
từ tỉnh Quảng Tây năm 2004
STT
Tên hàng
Trị giá (triệu USD)
1
Gạch chịu lửa
256,47
2
Chồi giống dứa cyen
151,53
3
Đầu răng dùng cho lưỡi cưa xẻ đá
117,09
4
Lưỡi cắt gạch, đá, bê tông
130,87
5
Bộ chế hòa khí xe gắn máy
27,85
6
Lọ thủy tinh
19,90
7
Lê quả tươi
2,73
8
Đồ chơi trẻ em các loại
2,11
9
Hóa chất công nghiệp
2,02
10
Nam châm các loại
1,75
11
Bộ linh kiện máy bơm nước
1,41
12
Nắp chụp công tơ điện bằng thủy tinh
1,39
13
Đường ray xe lửa
1,27
14
Máy móc thiết bị sản xuất đĩa compact
1,09
15
Máy khoan các loại
1,02
Nguồn: Thống kê của Sở TMDL tỉnh Lạng Sơn; Ngân hàng Dữ liệu Quảng Tây - Lạng Sơn.
Bảng 6: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam
từ tỉnh Quảng Tây năm 2005
STT
Tên hàng
Trị giá (triệu USD)
1
Máy khoan các loại
3,96
2
Nguyên liệu thuốc bắc
2,78
3
Đầu máy xe lửa diezel
2,56
4
Lê quả tươi
2,32
5
Hạt giống các loại
2,07
6
Bản in kẽm các lớp
1,98
7
Hóa chất
1,76
8
Máy lu các loại
1,55
9
Máy móc thiết bị đồng bộ sản xuất đĩa compact
1,52
10
Nam châm vĩnh cửu các loại
1,39
11
Máy tạo vân giấy
1,37
12
Bộ linh kiện lắp ráp máy bơm nước
1,32
13
Đường ray xe lửa
1,28
14
Bình chữa cháy các loại
1,21
15
Chồi giống chứa cyen các loại
0,98
Nguồn: Thống kê của Sở TMDL tỉnh Lạng Sơn; Ngân hàng Dữ liệu Quảng Tây - Lạng Sơn.
PHỤ LỤC 3
CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM SẼ ĐƯỢC THỰC HIỆN KHÔNG MUỘN HƠN NGÀY 1/1/2004 NHƯ SAU:
(1) Trung Quốc và ASEAN-6:
Nhóm mặt hàng
Không muộn hơn ngày 1/1/2004
Không muộn hơn ngày 1/1/2005
Không muộn hơn ngày 1/1/2006
1
10%
5%
0%
2
5%
0%
0%
3
0%
0%
0%
(2) Các nước thành viên ASEAN mới:
Nhóm mặt hàng 1
Nước
Không muộn hơn ngày 1/1/2004
Không muộn hơn ngày 1/1/2005
Không muộn hơn ngày 1/1/2006
Không muộn hơn ngày 1/1/2007
Không muộn hơn ngày 1/1/2008
Không muộn hơn ngày 1/1/2009
Không muộn hơn ngày 1/1/2010
Việt Nam
20%
15%
10%
5%
0%
0%
0%
Lào và Mianma
-
-
20%
14%
8%
0%
0%
Cam-pu-chia
-
-
20%
15%
10%
5%
0%
Nhóm mặt hàng 2
Nước
Không muộn hơn ngày 1/1/2004
Không muộn hơn ngày 1/1/2005
Không muộn hơn ngày 1/1/2006
Không muộn hơn ngày 1/1/2007
Không muộn hơn ngày 1/1/2008
Không muộn hơn ngày 1/1/2009
Không muộn hơn ngày 1/1/2010
Việt Nam
10%
10%
5%
5%
0%
0%
0%
Lào và Mianma
-
-
10%
10%
5%
0%
0%
Cam-pu-chia
-
-
10%
10%
5%
5%
0%
Nhóm mặt hàng 3
Nước
Không muộn hơn ngày 1/1/2004
Không muộn hơn ngày 1/1/2005
Không muộn hơn ngày 1/1/2006
Không muộn hơn ngày 1/1/2007
Không muộn hơn ngày 1/1/2008
Không muộn hơn ngày 1/1/2009
Không muộn hơn ngày 1/1/2010
Việt Nam
5%
5%
0-5%
0-5%
0%
0%
0%
Lào và Mianma
-
-
5%
5%
0-5%
0%
0%
Cam-pu-chia
-
-
5%
5%
0-5%
0-5%
0%
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVKT074.doc