Mỗi doanh nghiệp cần đặt lên hàng đầu mục tiêu nâng cao chất lượng hàng hóa của mình, từ đó nâng sức cạnh tranh của hàng hóa. Cùng với việc nâng cao chất lượng là việc giảm giá thành, đa dạng hóa mẫu mã, cải tiến bao bì . sao cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ. Các doanh nghiệp không thể đổ lỗi cho thiếu vốn hay thiết bị lạc hậu để biện hộ cho khả năng cạnh tranh yếu kém của hàng hóa của mình bởi vì còn rất nhiều yếu tố khác cũng tác động vào sức cạnh tranh của sản phẩm như các yếu tố vĩ mô (tỷ giá hối đoái, lãi suất, thuế khóa) và các yếu tố vi mô (quy trình sản xuất, kinh nghiệm quản lý của từng doanh nghiệp). Vì vậy trong tình hình hiện nay, do các nguồn vốn còn hạn hẹp, các doanh nghiệp cần chủ động vạch ra chiến lược cạnh tranh dài hạn cho hàng hóa của mình bằng cách tạo ra nét độc đáo cho sản phẩm dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân trong ngành cũng như hợp lý hóa quy trình sản xuất.
Trong điều kiện quốc tế hoá hiện nay, nền sản xuất nhỏ như ở Việt Nam có những điểm lợi thế tương đối là giá nhân công rẻ và có thể đầu tư thêm công nghệ để dần nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng cũng phải thấy rằng chỉ có thể làm thuê gia công và làm vệ tinh cho các công ty lớn mà thôi. Muốn vươn lên tự chủ cần phải tính đến quy mô sản xuất hợp lý, cần có vốn, nhân lực, công nghệ và thị trường là những yếu tố quan trọng nhất.
85 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1611 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hiệp định thương mại Việt - Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỏ ngay chế độ “kết toán ngoại hối” để giải phóng cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu.
1.3. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường tổng thể đúng đắn.
Cần phát triển hơn nữa mối quan hệ song phương, đa phương giữa Việt Nam với các nước thành viên để nhanh chóng được hưởng chế độ ưu đãi đầy đủ như MFN. Thực hiện tốt các chương trình xúc tiến thương mại và đầu tư.
Chủ động đưa ra những chính sách khuyến khích thương mại, đầu tư trong những ngành và sản phẩm mà Mỹ và các nước phát triển khác có lợi thế so sánh. Các chương trình này cần kết hợp với điều kiện mở cửa thị trường và thúc đẩy xuất khẩu cho hàng hoá Việt Nam.
Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Công nghiệp và các cơ quan nghiên cứu cần tổ chức một mạng lưới các cơ quan thương mại để nghiên cứu toàn diện, thu thập các thông tin nhằm giúp cho các doanh nghiệp trong nghiên cứu thâm nhập thị trường. Vì các nước phát triển như Mỹ thường có những qui định rất chặt chẽ và phức tạp về thuế, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ…
Cần xây dựng cơ sở hạ tầng về pháp lý, kỹ thuật để đảm bảo kiểm định và kiểm soát chất lượng sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Việt Nam cần có chính sách hướng dẫn và khuyến khích các doanh nghiệp từng bước hình thành hệ thống phân phối ở nước ngoài. Cần có các chính sách linh hoạt để tận dụng hệ thống kênh phân phối của các công ty đa quốc gia dưới các hình thức đại lý, nhà phân phối độc quyền sản phẩm Việt Nam.
1.4. Xây dựng các nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực thích ứng với các khu vực thị trường.
Định hướng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm, giảm hàm lượng lao động, tăng hàm lượng công nghệ và kỹ thuật, giảm tỷ lệ đầu vào nhập khẩu, tăng tỷ lệ đầu vào sản xuất nội địa trong những sản phẩm xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Không nên tiếp tục khai thác các lợi thế cạnh tranh vốn có mà ưu tiên phát triển ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm của công nghiệp khai khoáng để xuất khẩu như: các ngành công nghiệp nặng chế biến, hoá dầu, công nghiệp hoá chất, sắt thép, xi măng…
Phát triển các ngành công nghiệp nhẹ chế biến có giá trị gia tăng xuất khẩu cao, sản xuất các mặt hàng có hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao hơn như ô tô, xe máy, các thiết bị lẻ công nghiệp, các máy động lực, hàng điện tử và tin học.
Tiếp tục xuất khẩu những sản phẩm của ngành công nghiệp chỉ sơ qua chế biến nếu đưa vào chế biến có thể không mang lại hiệu quả cao trong thời gian tới như rau quả, hồ tiêu, thuỷ sản, chè…
Tăng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị gia tăng lớn, sử dụng nguyên liệu trong nước, tạo việc làm cho đội ngũ lao động có trình độ không cao và phát huy năng lực của các làng nghề truyền thống, từng bước phát triển công nghiệp nông thôn.
Ngành xuất khẩu chủ đạo vẫn là dệt may. Nhưng cần phát triển theo chiều sâu, phải phát triển ngành dệt từ gốc, bao gồm đầu tư nguồn nguyên liệu, công nghệ và kỹ thuật cao, thiết kế mẫu thời trang và vận dụng tốt hơn các công cụ marketing để thâm nhập thị trường nước ngoài. Xây dựng thương hiệu Việt Nam, định hình hình ảnh của thương hiệu đó trên thị trường Mỹ và thế giới.
1.5. Kết hợp chặt chẽ giữa xuất khẩu và bảo hộ thị trường nội địa
Để tạo điều kiện cho hàng hoá và dịch vụ Việt Nam thâm nhập thị trường nước ngoài, hạn ngạch xuất khẩu một số mặt hàng vào thị trường Việt Nam có thể được quy định cho một số đối tác của các quốc gia. Chế độ hạn ngạch hai chiều cũng có thể được vận dụng cho những đối tác có nhu cầu xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam và thị trường quốc gia đó có thể tiêu thụ hàng Việt Nam. Chế độ hoán đổi hạn ngạch (Quota Swap) cũng cần được sớm đưa vào sử dụng. Chế độ hoán đổi hạn ngạch áp dụng cho cả các hình thức thương mại đối lưu.
1.6. Phát huy đồng bộ các chính sách
Chính sách tài chính tiền tệ sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán, đưa ra những ưu đãi về thuế quan, có cơ chế điều hành lãi suất thích hợp, thúc đẩy xuất khẩu hạn chế nhập khẩu, điều tiết cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu cho phù hợp. Chính sách phát triển khoa học và công nghệ sẽ nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Góp phần tạo nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật và pháp lý phù hợp.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực sẽ góp phần điều chỉnh nguồn nhân lực từ khu vực có năng suất thấp sang khu vực có năng suất cao, góp phần chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu từ các sản phẩm dùng nhiều lao động, trình độ thấp sang sử dụng lao động có kỹ năng cao hơn.
Chính sách phát triển nông thôn sẽ thúc đẩy chuyển hướng các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu, tạo vùng nguyên liệu ổn định cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. Phát triển nông nghiệp nông thôn sẽ tạo ra thị trường rộng lớn cho nhập khẩu, cả hàng hoá tư liệu sản xuất lẫn hàng tiêu dùng.
Gắn chính sách sản phẩm trong xuất khẩu với chính sách phát triển các ngành công nghiệp trên cơ sở dự báo dung lượng thị trường các nước trong khu vực và thị trường thế giới.
1.7. Xây dựng một mặt bằng pháp lý cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng chế độ đối xử quốc gia.
Xoá bỏ dần những hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài. Điều chỉnh những quy định về lĩnh vực đầu tư có điều kiện tại Nghị định 24/2000-NĐ/CP, ngày 30/07/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng xoá bỏ các hạn chế về hình thức đầu tư, trước hết đối với các dự án sản xuất chế tạo hoặc có tỷ lệ xuất khẩu cao; chuyển sang thực hiện các biện pháp ưu đãi, khuyến khích về tài chính thay cho các biện pháp hành chính áp đặt đối với việc xuất khẩu, nội địa hoá, tăng nguồn nguyên liệu trong nước.
Tăng cường tính minh bạch và có thể dự đoán trước của luật pháp, chính sách. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức, quản lý doanh nghiệp, nhằm phát huy các hình thức đầu tư nước ngoài, khai thông các kênh huy động vốn như cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cho phép các tập đoàn có nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam được áp dụng mô hình công ty mẹ - con, thành lập quỹ đầu tư để điều hành chung và hỗ trợ dự án của họ, ban hành chính sách quy định về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ nhập khẩu và phân phối trong nước để định hướng thu hút FDI vào lĩnh vực này.
Xoá bỏ dần những hạn chế về vốn góp và huy động vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như cho phép được góp vốn bằng VND có nguồn gốc hợp pháp, loại bỏ yêu cầu về tỷ lệ góp vốn pháp định. Tiến tới loại bỏ quy định về nguyên tắc nhất trí trong hoạt động của doanh nghiệp liên doanh và bỏ quy định bắt buộc Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc thứ nhất của doanh nghiệp liên doanh phải là người Việt Nam.
Từng bước thống nhất các quy định về ưu đãi đầu tư và chi phí hoạt động giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư và bảo đảm công nhận thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Giải quyết dứt điểm những vướng mắc của nhà đầu tư nước ngoài liên quan đến việc sử dụng đất đai, quản lý ngoại hối, tuyển dụng lao động, chuyển giao công nghệ... không phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tiếp tục điều chỉnh giá, phí hàng hoá và dịch vụ để nhanh chóng tiến tới cơ bản áp dụng giá phí thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.8 Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Hoàn chỉnh quy trình ban hành các văn bản pháp quy nhằm ngăn chặn việc ban hành các văn bản trái quy định chung hoặc thực hiện không nghiêm các quyết định của Chính phủ về đầu tư nước ngoài, rà soát, bãi bỏ các loại giấy phép con và những quy định không cần thiết.
Công khai hoá các quy trình giải quyết thủ tục hành chính, trách nhiệm xử lý của các cơ quan quản lý Nhà nước, ngăn chặn xử lý nghiêm khắc các hiện tượng cửa quyền, sách nhiễu của công chức Nhà nước. Chấm dứt tình trạng kiểm tra tuỳ tiện, hình sự hoá các quan hệ kinh tế, áp dụng các chế tài đối với doanh nghiệp vi phạm pháp luật.
Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và UBND các tỉnh trong việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động XNK và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.9 Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thống nhất quản lý đội ngũ cán bộ Việt Nam làm tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua cơ chế tuyển chọn, đào tạo, giới thiệu vào làm việc. Có cơ chế chính sách thu hút đội ngũ cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở lại phục vụ trong doanh nghiệp Nhà nước.
Đổi mới bổ sung chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý tại các trường đại học, cao đẳng phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cho phép thành lập các trường đào tạo công nhân bên cạnh các khu công nghiệp để kịp thời đáp ứng nhu cầu về công nhân kỹ thuật của các doanh nghiệp.
Sớm ban hành các văn bản quy định hướng dẫn hoạt động của các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.10. Đầu tư thích đáng cho việc phát triển cơ sở hạ tầng.
Nhà nước phải thực sự đảm bảo cơ sở hạ tầng đến chân hàng rào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thực hiện việc điều tiết, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài bằng tăng cường phát triển hạ tầng cơ sở. Có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cở sở hạ tầng. Tạo điều kiện giảm chi phí thuê đất và phí hạ tầng cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
1.11. Chính sách về thị trường
Đẩy mạnh đàm phán thương mại song phương và đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp nhằm mở cửa thị trường mới, để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán, để lới lỏng các hàng rào phi thuế quan; tăng cường mạnh mẽ công tác thông tin về các thị trường từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo chiều hướng cung cầu hàng hoá và dịch vụ... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát, tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu; tăng cường các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, nhất là đầu tư trong các khâu hoàn thiện nông sản, thực phẩm... nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, trưng bày, triển lãm... áp dụng các biện pháp thưởng, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp mở rộng mặt hàng xuất khẩu, tìm kiếm thị trường mới.
Ban hành các văn bản luật mới phù hợp với tình hình thực tế như Luật về tối huệ quốc (MFN) và Luật đối sử quốc gia (NT), Luật cạnh tranh và chống độc quyền, Luật chống bán phá giá và chống trợ cấp, Luật phòng vệ khẩn cấp, Luật chống chuyển giá - một chính sách rất quan trọng đối với việc thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia.
Nên khuyến khích các thành phần kinh tế: Nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất hàng mỹ nghệ, trồng lúa, cà phê, rau quả... hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước và các quy định hiện hành.
1.12. Cải cách hệ thống ngân hàng
Để đáp ứng yêu cầu vốn của các doanh nghiệp để chuyển dịch cơ cấu sản xuất linh hoạt, đáp ứng yêu cầu thị trường ở quy mô lớn hơn. Hợp tác với các ngân hàng Mỹ trong quan hệ vay vốn ngoại tệ, điều tra khách hàng Mỹ, xác nhận L/C, thanh toán quốc tế. Cần hiện đại hoá ngành Ngân hàng, từng bước nâng dần tỷ lệ tín dụng so với GDP nên bằng các nước trong khu vực (tỷ lệ của Việt Nam khoảng hơn 32%, các nước khoảng 50%). Hạ thấp chỉ tiêu về chi phí nghiệp vụ trên tài sản "có" xuống ngang bằng với bình quân khu vực (tỷ lệ này của ngân hàng Thương mại Việt Nam khoảng 9%, các nước trong khu vực 2,5-3%). Tiếp đến là hình thành các thị trường chứng khoán để đáp ứng nhu cầu thu hút vốn trong và ngoài nước; tận dụng các nguồn tài trợ thương mại, nguồn vốn vay của các ngân hàng nước ngoài để cho các doanh nghiệp vay kinh doanh sản xuất và xuất khẩu. Và cuối cùng là lành mạnh hoá hệ thống tài chính tiền tệ, cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém, tăng cường tiềm lực tài chính, khả năng cạnh tranh và sức đề kháng của ngân hàng trước những biến động của thị trường trong nước và quốc tế.
1.13. Tăng cường quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại.
Bộ Thương mại và một số bộ ngành có liên quan cần thành lập các nhóm nghiên cứu thị trường Mỹ, tập trung vào các vấn đề như môi trường pháp luật, hàng hoá, kinh doanh, giá cả, phương thức tiếp cận thị trường Mỹ để giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam .
Để vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả, mà còn phải thông thạo hệ thống pháp luật Mỹ, nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu cũng như hạn ngạch của Mỹ. Mỹ có một hệ thống pháp luật về thương mại vô cùng rắc rối và phức tạp. Bộ luật Thương mại (Uniform Commerical Code) được coi như xương sống của hệ thống pháp luật về thương mại. Vì vậy, các doanh nghiệp rất cần những thông tin hỗ trợ này từ phía Nhà nước, đặc biệt các doanh nghiệp chưa xuất khẩu sang thị trường Mỹ lần nào và chuẩn bị thâm nhập thị trường này.
Hoạt động xúc tiến thương mại nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu trên cơ sở giảm chi phí về thời gian và tiền của cho các doanh nghiệp, cụ thể gồm các giải pháp sau:
Đưa vào Website những thông tin có giá trị thương mại để quảng cáo cho các doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Tập hợp các nhu cầu xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam, đảm bảo hàng hoá nhập khẩu là công nghệ tiên tiến và mang lại hiệu quả cao cho phát triển kinh tế đất nước.
Tổ chức hội chợ triển lãm theo nhu cầu của các doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ muốn thâm nhập thị trường của nhau và chuẩn bị các phương án làm ăn lâu dài sau khi có Quy chế Tối huệ quốc.
Tổ chức mạng lưới du lịch Việt Nam - Mỹ một cách có hiệu quả, phục vụ tốt các nhu cầu của giới kinh doanh và du khách, trong đó tổ chức các chuyến đi khảo sát thị trường cho các doanh nghiệp.
Thành lập Quỹ xúc tiến thương mại do Nhà nước và doanh nghiệp cùng đóng góp. Quỹ này lập tài khoản riêng không nằm trong ngân sách của Bộ tài chính, chuyên dùng cho mục đích xúc tiến thương mại.
Để thúc đẩy xuất khẩu, ngoài các biện pháp và chính sách chung, đối với thị trường Mỹ cần lập hệ thống các trung tâm thương mại tại một số thành phố lớn như NewYork, Los Angeles, San Francisco, Chicago...tạo cầu nối và giảm chi phí giao dịch cho các công ty Việt Nam. Các trung tâm này có thể do Nhà nước ta bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt kiều, hoặc kết hợp giữa một số doanh nghiệp mạnh trong nước sang mở các phòng trưng bày, giao dịch giới thiệu và ký hợp đồng.
Để hoạt động xúc tiến thương mại gặt hái được thành công, Việt Nam cần tăng cường khả năng tiếp cận với các thông tin thương mại. Chính những thông tin thương mại này cho phép một chuyên gia có thể chuyển một tiềm năng xuất khẩu thành một hoạt động giao dịch kinh doanh thực sự. Đó là thiết lập các mối quan hệ trong kinh doanh, thông tin về các kênh phân phối, hiểu biết về bản chất của cạnh tranh trong nước và nước ngoài và cuối cùng là sở thích của người tiêu dùng.
Về vai trò của Đại diện thương mại ở nước ngoài, họ là phương tiện quan trọng tạo điều kiện cho các cơ sở xuất khẩu tiếp cận với những thông tin thương mại. Việt Nam cần tập trung tìm cách tăng cường hệ thống đó. Việc bố trí đội ngũ tuỳ viên thương mại là một hình thức đầu tư tốn kém nhưng không thể không có và chúng ta cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho việc thiết lập các Ban Đại diện thương mại của mình ở nước ngoài.
1.14. Xác định mặt hàng có lợi thế so sánh, nâng cao khả năng cạnh tranh, xúc tiến thương mại và xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn
Xác định các mặt hàng có lợi thế so sánh để quy hoạch và ưu tiên sản xuất đi kèm với kinh doanh dịch vụ, xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Chú trọng xuất khẩu những mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của thị trường Mỹ.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ và thế giới. Thông qua trang thiết bị và hoàn thiện quản lý để nâng cao chất lượng, giảm giá thành và đa dạng hoá mẫu mốt.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại thông qua việc thiết lập hệ thống các trung tâm thương mại tại các thành phố lớn như New York, Los Angeles, Boston... nhằm tạo cầu nối giảm chi phí giao dịch cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước, tăng kim ngạch xuất khẩu. Trung tâm này do Nhà nước đứng ra bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt kiều tổ chức.
Hai công việc phải làm là:1) Thương vụ sẽ phối hợp với các công ty trong nước tiếp tục hỗ trợ các cuộc toạ đàm hội thảo, phổ biến các chính sách luật lệ thương mại của Mỹ, khảo sát thị trường và tổ chức trưng bày giới thiệu hàng hoá của Việt Nam; 2) Lập hồ sơ về các công ty xuất nhập khẩu của Việt Nam và Mỹ. Mở Website giới thiệu quảng cáo hàng Việt Nam trên mạng Internet. Các doanh nghiệp cần giới thiệu đầy đủ về mặt hàng, gửi cataloge, hàng mẫu cho thương vụ và làm việc cụ thể với thương vụ.
Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, mở rộng sản xuất và xuất khẩu sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị hiếu khách hàng kiều bào ta ở Mỹ. Bên cạnh mặt hàng truyền thống (như dệt thổ cẩm, đồ đồng đúc, chạm khắc..) cần đẩy mạnh xuất khẩu các đồ hộp, thực phẩm phù hợp với khẩu vị người Việt Nam định cư ở Mỹ.
2. Các giải pháp tăng cường xuất khẩu các ngành hàng chủ lực.
Thực tiễn xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong những năm qua cho thấy một số nhóm, mặt hàng đạt kim ngạch khá và tăng đều qua các năm do các doanh nghiệp của ta đã thiết lập được hệ thống các kênh phân phối tương đối ổn định trên thị trường Mỹ và vẫn đảm bảo được nguồn lực để tổ chức sản xuất với chi phí thấp nhằm tận dụng lợi thế so sánh của mình. Để hưởng lợi trực tiếp từ Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, chúng ta cần tổ chức tốt các ngành hàng sau đây là các ngành hàng có triển vọng tốt để thâm nhập thị trường Mỹ: Dệt may, Giày dép, Thuỷ sản, Sành sứ, Mây tre đan, Đồ gỗ và đồ nội thất, Rau quả chế biến, Chè, Hàng cơ khí và kim khí, Gạo, cao su, cà phê, Hàng thêu ren, Đá ốp lát,...
2.1 Đối với hàng dệt may:
Làm ăn với doanh nghiệp Mỹ đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải tiếp cận với phương thức sản xuất và xuất khẩu FOB. Vì lẽ, hàng dệt may bị ràng buộc bởi điều kiện xuất xứ và tỷ lệ nội địa hoá trên sản phẩm khi xuất khẩu vào thị trường này. Vì vậy, trong thời gian tới, ngành dệt may cần tích cực tìm kiếm thị trường bán hàng thành phẩm FOB và đặc biệt lưu ý đến các hàng hoá với chất lượng bình dân, giá rẻ. Đây sẽ là cơ hội xâm nhập vào thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, ngành dệt may Việt Nam cũng phải chịu sức ép của tiến trình hội nhập kinh tế. Đến năm 2004, thị trường EU bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho các nước WTO. Vào năm 2006, theo lộ trình của AFTA, chúng ta sẽ xoá bỏ hàng rào thuế quan nhập khẩu. Riêng thị trường Mỹ, sẽ ấn định hạn ngạch dệt may trong thời gian sớm nhất.
Trước thách thức đó, ngành dệt may Việt Nam cần tập trung giải quyết 4 vấn đề lớn sau: Một là, xây dựng chương trình đầu tư phát triển cho toàn ngành từ nay đến năm 2010; trong đó tập trung đầu tư cho ngành dệt dưới dạng các cụm công nghiệp nhằm tạo ra nguồn nguyên phụ liệu chất lượng cao cung cấp cho ngành may xuất khẩu. Hai là, kết hợp chương trình đầu tư chiều sâu đối với các doanh nghiệp hiện có với chương trình cổ phần hoá, sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may nhằm từng bước hình thành doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ chuyên sâu, phù hợp với trình độ quản lý hiện nay. Ba là, đối với ngành may, do đặc thù vốn đầu tư thấp, công nghệ và lao động không quá phức tạp nên có thể phát triển rộng khắp đến tận các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở củng cố 4 trung tâm làm hàng xuất khẩu chất lượng cao, đó là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Bốn là, đổi mới hệ thống quản lý, phương pháp làm việc nhằm nâng cao hiệu quả các cuộc làm việc với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là doanh nhân Mỹ trên cơ sở đúng thời hạn giao hàng và ổn định số lượng, chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó là chiến lược dài hạn tăng cường khả năng xuất khẩu các loại bông, sợi hoá học, vải, nguyên phụ liệu trong nước; nâng cao năng lực cũng như quy mô sản xuất của các xí nghiệp may và chất lượng thiết kế mẫu mã, khả năng bán hàng theo phương thức FOB, tham gia hội chợ triển lãm, liên kết mạng lưới bạn hàng trong việc cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh những cố gắng nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành dệt may, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ các chính sách về vốn đầu tư, ưu đãi thuế, khuyến khích sản xuất mặt hàng mới.
2.2 Đối với hàng giày dép
Thị trường Mỹ rất coi trọng các tiêu chuẩn về kỹ thuật đòi hỏi chất lượng rất cao. Hàng hoá phải được phía Mỹ kiểm tra rồi mới chấp nhận cho nhập. Việc ký kết Hiệp định thương mại vừa qua, Nhà nước chỉ mới tạo ra hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, tạo thuận lợi trong quá trình trao đổi thương mại, còn bản thân các doanh nghiệp phải tự lo liệu hết các khâu từ việc tìm đối tác, tìm nhu cầu sản phẩm trên thị trường tới việc thoả thuận giá cả, làm hàng mẫu...Hiện nay, đã có nhiều doanh nghiệp tìm được đối tác và bắt đầu sản xuất hàng mẫu. Một số ít doanh nghiệp da giày có sản phẩm giày xuất khẩu sang thị trường Mỹ hoặc qua đối tác trung gian xuất khẩu sang Mỹ sẽ có điều kiện mở rộng, đẩy mạnh sản xuất và tăng kim ngạch xuất khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có điều kiện xuất khẩu số lượng lớn sang Mỹ sẽ giãn bớt ở thị trường EU và trước mắt tạo điều kiện cho số đông các doanh nghiệp của ta duy trì và phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp giày Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị và nâng cao trình độ quản lý, kỹ thuật để tiếp cận và mở rộng thị trường vào Mỹ.
Hiện nay, ngành Da giày Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn, đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu giày; trong đó đáng chú ý là Trung Quốc. Trình độ kỹ thuật, quản lý sản xuất chưa cao, chi phí lớn làm cho giá thành cao, điều này rất bất lợi khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Phần lớn các doanh nghiệp của ta còn phụ thuộc vào đối tác gia công nên việc thâm nhập thị trường Mỹ chưa chủ động. Đối với số đông các doanh nghiệp, việc hiểu biết các quy định, các luật trong thương trường Mỹ còn ít. Nếu các doanh nghiệp ngành Da giày không nhanh chóng có kế hoạch đầu tư chiều sâu cải tiến mẫu mã, xây dựng công nghệ khuôn đúc cho riêng mình thì e rằng khó có thể thâm nhập được vào thị trường Mỹ khó tính nhưng nhiều triển vọng về lâu dài này.
Vì vậy, về lâu dài, đối với sản xuất trong nước cần đẩy mạnh việc chuyển dần từ nhận gia công sang chủ động mua nguyên liệu trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu. Nhà nước cần đầu tư xây dựng một số Khu Công nghiệp liên hoàn về ngành thực phẩm và da giày để hỗ trợ nhau và tạo nên hiệu quả kinh tế tối ưu, bao gồm: nhà máy giết mổ, chế biến thức ăn sẵn, chế biến đồ hộp, thuộc da, chế biến sản phẩm da và thiết kế mẫu mốt. Liên doanh với các đối tác nước ngoài nhưng yêu cầu họ phải từng bước chuyển giao công nghệ...
Tổng công ty Da giày Việt Nam đã thành lập và hoạt động được một thời gian; bởi vậy, cần đúc rút những kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và đề ra phương hướng đầu tư phù hợp trong thời gian tới.
Tổng công ty Da giày đã và đang đầu tư xây dựng mới từ 2 đến 3 nhà máy sản xuất mũ giày phục vụ sản xuất giày xuất khẩu. Các trường hợp đầu tư mở rộng trong ngành giày nên được hưởng ưu đãi (theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước như đối với đầu tư xây dựng cơ sở mới).
Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để đầu tư thì không bắt buộc phải có vốn tự có tương đương 30% khoản vay. Đề nghị hạ mức này xuống 10% hoặc bãi bỏ hoàn toàn điều kiện này. Ngân hàng sẽ tự thẩm định dự án đầu tư và cho vay dựa trên những tính toán về hiệu quả đầu tư.
2.3 Đối với hàng thuỷ sản
Theo các chuyên gia, để có thể trụ vững ở thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ hải sản Việt Nam sẽ phải không ngừng nâng cao chất lượng bởi hệ thống kiểm soát chất lượng của Mỹ rất ngặt nghèo, sự cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại nhập từ nước khác là vô cùng quyết liệt. Về chất lượng, theo quy định của Mỹ, tất cả các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài vào Mỹ, đặc biệt là các mặt hàng thực phẩm chế biến, trong đó có hàng thuỷ sản, đều phải qua khâu kiểm tra chất lượng rất chặt chẽ của Cơ quan Kiểm soát chất lượng thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA). Mặt khác, riêng đối với mặt hàng thuỷ sản, Mỹ chỉ áp dụng tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát HACCP (chương trình kiểm soát vệ sinh an toàn chất lượng của riêng nước này), chứ không chấp nhận bất cứ một tiêu chuẩn nào khác, kể cả tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng được coi là rất khắt khe của Liên minh Châu âu (EU). Chính vì vậy, hiện chỉ có 25 doanh nghiệp Việt Nam xây dựng được tiêu chuẩn chế biến thủy, hải sản theo chương trình HACCP có thể xuất sang thị trường Mỹ, trong khi đó có rất nhiều doanh nghiệp khác mặc dù đã được EU đưa vào danh sách nhóm 1 (được xuất trực tiếp sản phẩm thuỷ hải sản sang toàn bộ 15 nước EU mà không cần kiểm tra), nhưng vẫn không được thị trường này chấp nhận. Ngay cả khi đặt chân vào thị trường Mỹ, hàng Việt Nam vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với rất nhiều sản phẩm của các nước khác như Thái Lan và các nước AESAN khác cùng có mặt trên thị trường này. Theo một số doanh nghiệp đã và đang có mặt trên thị trường Mỹ, nếu xét về chất lượng, hàng thuỷ, hải sản của Việt Nam hoàn toàn không thua kém so với các nước khác, song do phải chịu thuế suất đầu vào cao (20- 40%), nên giá thành bị đội lên quá cao, khiến sức cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm đáng kể. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải xây dựng cho được tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát chất lượng theo chương trình HACCP. Nhưng đó mới là “ tiêu chuẩn đầu vào”. Điều quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu đầy đủ các thông tin về thị trường cũng như thị hiếu của khách hàng Mỹ, trên cơ sở đó xuất những mặt hàng vừa có lợi thế so sánh cao so với các nước khác, vừa được người tiêu dùng chấp nhận để duy trì khả năng cạnh tranh của mình.
Bộ Thuỷ sản và các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội chế biến thuỷ sản đã xác định rõ là để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản, trước hết phải nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời phải tăng cường xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường.
Ngành thuỷ sản đã sớm đi đầu trong việc xây dựng và áp dụng các hệ thống mới về quản lý chất lượng sản phẩm như để từng bước thay thế các phương thức kiểm soát chất lượng truyền thống. Từ năm 1991, thuỷ sản Việt Nam đã tiếp cận với hệ quản lý chất lượng của Mỹ đối với hàng thuỷ sản và coi đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang các thị trường lớn và khó tính như Mỹ, EU. Cụ thể, Bộ thuỷ sản đã có quy định là từ ngày 1/1/2000, tất cả các cơ sở chế biến thuỷ sản trong nước bắt buộc phải áp dụng các tiêu chuẩn này.
Ngoài các mặt hàng truyền thống như đã nêu trên, khả năng xuất khẩu phần mềm máy tính hay những phần mềm cho thương mại điện tử cũng là mặt hàng có nhiều triển vọng mà ta với Mỹ có những tương đồng phù hợp lợi ích cả hai bên. Nhà nước cần có các biện pháp mạnh mẽ khuyến khích các công ty Việt Nam sang Mỹ tiếp cận thị trường trong lĩnh vực này. Thị phần của thương mại điện tử ở Mỹ đang trên đà tăng trưởng mạnh và trong một số năm tới có thể lên đến hàng ngàn tỷ USD mỗi năm.
2.4 Hàng cà phê
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với những vùng cà phê có năng suất hiệu quả kém. Các biện pháp này sẽ góp phần ổn định nguồn cung qua đó ổn định thị trường và giúp cà phê phục hồi. Đồng thời đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ thoả đáng về tài chính, tín dụng, kỹ thuật, thuỷ lợi... đối với công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa một số diện tích cà phê sang các cây trồng khác theo quy hoạch trên địa bàn Tây Nguyên. Giảm diện tích cà phê vối tăng diện tích cà phê chè.
Đề nghị Nhà nước xem xét tiếp tục cho phép thực hiện những biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất như miễn giảm thuế sử dụng đất, giảm thuế nhập khẩu phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, tiếp tục chính sách thưởng theo kim ngạch xuất khẩu.
Về chất lượng, chú trọng từ khâu giống cho tới quy trình chăm sóc, thu hái và chế biến, bảo quản để nâng cao chất lượng cà phê, qua đó nâng giá trị xuất khẩu trên một đơn vị khối lượng
Về sản phẩm, đa dạng hoá các sản phẩm cà phê xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng cà phê chế biến sâu (cà phê hoà tan, rang xay...). Đối với cà phê nhân, cần tăng cường xuất khẩu các loại cà phê không có hạt đen, cà phê chế biến ướt, cà phê hữu cơ để tăng giá trị xuất khẩu.
Tăng cường hỗ trợ trong việc cung cấp các thông tin về kỹ thuật và thị trường cho người trồng cà phê: mức cung cầu, tình hình sản xuất, xuất khẩu, thông tin về giá cả trên thế giới. Đổi mới công tác bao bì, mẫu mã, tránh tình trạng cà phê Việt Nam không có nhãn mác nhằm bảo vệ thương hiệu của cà phê Việt Nam.
Xây dựng quỹ bảo hiểm cho sản xuất và xuất khẩu cà phê do Hiệp hội ngành hàng phụ trách. Đây là vấn đề mà các nhà kinh tế, các nhà quản lý đã đặt vấn đề từ lâu song chưa được quan tâm đúng mức. Những năm được mùa, giá cà phê cao, xuất khẩu có hiệu quả cao, cần phải trích nộp quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm đó sẽ hỗ trợ những năm mất mùa hoặc giá cà phê xuống quá thấp, sản xuất và xuất khẩu không có hiệu quả.
Củng cố và tăng cường hoạt động của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam để đủ sức tham mưu cho Nhà nưóc, các địa phương, người sản xuất và xuất khẩu trong các lĩnh vực từ sản xuất, chế biến đến xuất khẩu, khắc phục tình trạng tranh mua, tranh xuất vô tổ chức dẫn đến bị ép cấp, dìm giá... Quản lý chặt chẽ các đầu mối xuất khẩu. Khuyến khích các nhà xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp chuyên doanh cà phê tham gia xuất khẩu. Hiệp hội cần có sự can thiệp để thống nhất giá bán, không cho phép bất cứ nhà xuất khẩu nào tự phá giá, gây thiệt hại cho toàn ngành.
2.5 Chè
Hoàn thiện quy hoạch tổng thể vùng chè. Trong đó có những vùng chè đặc sản xuất khẩu như chè Thái Nguyên, Nghĩa Lộ, Lâm Đồng, Hà Giang. Quy hoạch vùng chè xuất khẩu phải gắn với nhu cầu thị trường để sản xuất theo nhu cầu thị trường. Đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Trồng mới và cải tạo vườn chè cũ. Nâng cấp hiện đại hoá các nhà máy chế biến chè theo tiêu chuẩn quốc tế. Bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách đối với người trồng chè. Tìm kiếm thị trường và bạn hàng mới.
2.6 Rau quả
Đề nghị Nhà nước có chính sách thưởng theo kim ngạch đối với xuất khẩu rau quả nói chung. Sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ thực thi, thị trường Mỹ mở ra khả năng mới cho việc xuất khẩu hoa quả hộp, dứa đông lạnh. Bước đầu ngoài việc thưởng theo kim ngạch, để nghị Nhà nước xem xét cho các doanh nghiệp xuất khẩu được vay ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất.
Nghiên cứu hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu chuyên canh, đầu tư cho thu hoạch, sau thu hoạch và chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mặt hàng...
Tóm lại để thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang Mỹ và thị trường thế giới từ nay đến năm 2010 cần phải chú trọng theo hướng:
- Nhanh chóng quy hoạch chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng nông sản và khả năng cạnh tranh trong việc xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm.
- Đối với những nông sản xuất khẩu chủ yếu có tính cạnh tranh quốc tế gay gắt (lúa gạo, cà phê) phải tính đến diện tích cho phù hợp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để hạ giá thành, nâng cao chất lượng hàng hoá.
- Đối với cây trồng có thị trường xuất khẩu với giá cả như hiện nay, người sản xuất vẫn có lãi hoặc chấp nhận được như cao su, tiêu, điều, chè..., cần giữ vững hoặc phát triển thêm ở vùng có điều kiện.
Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ khuyến khích mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế tham gia tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản.
2.7 Hàng gốm, sứ
Kinh doanh hàng gốm, sứ đang là một trong những ngành nghề mang lại mức lợi nhuận khá hấp dẫn trên thị trường Mỹ, nếu trừ đi tất cả các chi phí: giá hàng mua, chi phí thuê tầu, chi phí vận chuyển đường bộ (trucking - 150USD/100Km), chi phí giao nhận, thuếu nhập khẩu, thuê kho (3,5USD/square feet/năm hay 37,5USD/m2/năm),... thì lợi nhuận mang lại bình quân cho 1 lô hàng 2 containers 40 feet dao động trong khoảng 150% - 180% (gấp 1,5 đến 1,8 lần). Để giảm thiểu chi phí công nhân, các nhà phân phối cấp 2, cấp 3 ở Mỹ (nhất là người Châu á) thương tự thực hiện các công việc như: sắp xếp hàng hóa vào kho bằng xe nâng hàng, đến khâu giao hàng bán lẻ cho khách.
Những vấn đề mà các doanh nghiệp gốm sứ Việt Nam cần lưu ý khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ là:
- Phải chú ý toàn bộ hàng hoá xuất khẩu vào thị trường Mỹ đều phải được cấp chứng thư phun trùng của nước xuất khẩu(Furmingation Certificate).
- Chất liệu chèn lót hàng hoá phỉa phù hợp với quy định của từng tiểu bang vào từng thời điểm cụ thể, điều này các doanh nghiệp Việt Nam thường mắc phải do chủ quan của những lần giao hàng trước.
- Phải tuân thủ theo đúng những quy cách đã được ký kết trong hợp đồng (có sai số cho phép ± 3%), không được viện vào lý do hàng làm bằng tay mà sai số chênh lệch quá xa so với quy định trong hợp đồng thương mại.
- Đóng dấu đầy đủ các ký hiệu trên hàng gốm mà nhà nhập khẩu đã quy định.
- Lấy chứng nhận xuất xứ (CO), phải thể hiện đầy đủ số lượng, chủng loại hàng hoá và phải phù hợp với lô hàng thực tế, điều này rất quan trọng đến việc tính thuế nhập khẩu và thời gian thông quan khi hàng đến cảng.
- Tính toán việc đóng container sao cho hiệu quả nhất cho nhà nhập khẩu, tránh trường hợp để container rỗng quá vì chi phí vận chuyển rất cao, thường chiếm đeesn 30% giá trị lô hàng.
- Phải thông báo trước cho nhà nhập khẩu trọng lượng thực tế của lô hàng. Việc này rất quan trọng trong việc bốc dỡ và nhất là vận chuyển đường bộ qua các tiểu bang có nhiều chiếc cầu quy định trọng tải nghiêm ngặt.
- Mẫu mã: cần phải tìm hiểu thị trường, tiếp cận hơn nữa văn hoá Mỹ, liên tục đưa ra những mẫu mã mới phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của khách hàng.
- Sản phẩm phân biệt: phải tìm ra cho mình những dòng sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc thù văn hoá Việt Nam, đa số các sản phẩm gốm sứ của chúng ta hiện nay đều ít nhiều mang dáng dấp của gốm sứ Trung Quốc, từ những đường nét hoa văn đến những hình tượng, sự tích, thậm chí những câu đối bằng tiếng Trung mà ngay chính nhà sản xuất cũng không hiểu được hết ý nghĩa của những nội dung này.
- Nên thành lập ngay một Hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu hàng gốm sứ sang Mỹ để các doanh nghiệp thống nhất giá bán trên cơ sở cập nhật thường xuyên giá của các nước có tiềm năng sản xuất gốm sứ như: Trung Quốc, Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Phillippines,...
- Không ngừng cải cách học hỏi các mô hình quản trị tiên tiến, phấn đấu đạt tiêu chuẩn ISO và các tiêu chuẩn quốc tế khác, để tạo được lòng tin nơi khách hàng và tạo điều kiện dễ dàng hơn nữa trong việc xuất khẩu hàng hoá vào thị trường các nước.
Mạnh dạn đầu tư khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất saản lượng hàng gốm sứ và đầu tư hơn nữa cho chi phí nghiên cứu phát triển công nghệ.
3. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Trong quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Mỹ, Nhà nước chỉ có tác dụng tạo ra một khuôn khổ pháp lý ổn định và môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp. Việc tận dụng và phát huy được những lợi thế của mình hay không là phụ thuộc vào các doanh nghiệp. Sau đây là các giải pháp đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu:
3.1. Giải pháp về vốn.
Thành lập các tập đoàn công ty lớn hoặc liên kết các công ty có quy mô nhỏ để sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng chủ lực trên quy mô sản xuất lớn, có khả năng cạnh tranh cao, tạo ra nguồn cung cấp hàng hoá xuất khẩu ổn định và lâu dài, đápp ứng được nhu cầu đặt hàng nhanh với số lượng lớn của các đối tác Mỹ.
Thực tiễn cho thấy đối với mặt hàng dệt may, Mỹ không đặt đơn hàng lẻ. Một đơn hàng của Mỹ có thể lên tới cả triệu sản phẩm mà thời gian cung ứng hàng lại rất nhanh. Do vậy, cần đưa năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ngành may lên cao và cần liên kết lại nhằm đủ sức thực hiện một đơn hàng.
Quy mô sản xuất của ta hiện nay còn quá nhỏ để có thể cạnh tranh vì sản xuất còn phân tán theo vùng và sản xuất thủ công là chính nên giá thành còn cao, chất lượng chưa đồng đều và sức cạnh tranh kém. Để khắc phục nhược điểm này, chúng ta cần tổ chức lại sản xuất ở quy mô hợp lý, kết hợp sử dụng lao động lành nghề và giản đơn, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, đưa hệ thống sản xuất của ta vào định hướng xuất khẩu các loại hàng hoá mà các đối tác nước ngoài cần chứ không phải dựa vào những gì mình có, cố gắng tận dụng phát huy những lợi thế so sánh của mình để tăng khả năng xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Để có quy mô sản xuất lớn hai yếu tố chính là vốn và thị trường. Vì vậy việc thu hút vốn là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh nhưng nếu thiếu thị trường thì cũng không thể tăng quy mô sản xuất.
Trung bình một công ty quy mô vừa ở Mỹ có doanh số khoảng 100 triệu USD . Các công ty dưới mức này thường liệt vào dạng nhỏ. Các công ty siêu quốc gia cũng đang trên đường hội nhập và đang có xu thế sáp nhập để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, về vốn cần phát huy nội lực là chính, đồng thời có thể dựa vào nguồn vốn của các ngân hàng trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính, các nguồn viện trợ, các khoản vay ngắn, trung và dài hạn, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc tiếp cận vốn trên thị trường chứng khoán. Kinh doanh càng phát triển sẽ tích luỹ được nhiều vốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Về thị trường, các doanh nghiệp phải dựa một phần lớn vào hệ thống toàn cầu mới giải quyết được trên cơ sở hội nhập tiểu khu vực, khu vực, châu lục, liên châu lục và toàn cầu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên cơ sở giá thành hạ, chất lượng cao thì mới có khả năng mở rộng, giữ vững và phát triển thị trường.
3.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa.
Mỗi doanh nghiệp cần đặt lên hàng đầu mục tiêu nâng cao chất lượng hàng hóa của mình, từ đó nâng sức cạnh tranh của hàng hóa. Cùng với việc nâng cao chất lượng là việc giảm giá thành, đa dạng hóa mẫu mã, cải tiến bao bì ... sao cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ. Các doanh nghiệp không thể đổ lỗi cho thiếu vốn hay thiết bị lạc hậu để biện hộ cho khả năng cạnh tranh yếu kém của hàng hóa của mình bởi vì còn rất nhiều yếu tố khác cũng tác động vào sức cạnh tranh của sản phẩm như các yếu tố vĩ mô (tỷ giá hối đoái, lãi suất, thuế khóa) và các yếu tố vi mô (quy trình sản xuất, kinh nghiệm quản lý của từng doanh nghiệp). Vì vậy trong tình hình hiện nay, do các nguồn vốn còn hạn hẹp, các doanh nghiệp cần chủ động vạch ra chiến lược cạnh tranh dài hạn cho hàng hóa của mình bằng cách tạo ra nét độc đáo cho sản phẩm dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân trong ngành cũng như hợp lý hóa quy trình sản xuất.
Trong điều kiện quốc tế hoá hiện nay, nền sản xuất nhỏ như ở Việt Nam có những điểm lợi thế tương đối là giá nhân công rẻ và có thể đầu tư thêm công nghệ để dần nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng cũng phải thấy rằng chỉ có thể làm thuê gia công và làm vệ tinh cho các công ty lớn mà thôi. Muốn vươn lên tự chủ cần phải tính đến quy mô sản xuất hợp lý, cần có vốn, nhân lực, công nghệ và thị trường là những yếu tố quan trọng nhất.
3.3. Chủ động thực hiện tốt công tác thị trường, thông tin, tiếp thị.
Các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông tin, trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua Hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt được nhu cầu của thị trường, bám sát và tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất kinh doanh, chủ động tìm bạn hàng, thị trường, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ giá, trợ cấp.
Các doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt thông tin qua Thương vụ Việt Nam tại nước sở tại hoặc Cục Xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương mại hoặc nối mạng Internet để từ đó có thể tìm được những bạn hàng tin cậy, nắm bắt được tương đối chính xác nhu cầu thị trường đối với hàng hóa của mình cũng như khả năng cung cấp của thị trường đó, giá cả, chất lượng cho những mặt hàng mà doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu để phục vụ sản xuất và kinh doanh trong nước.
Trước khi ra quyết định xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, một bước quan trọng không thể bỏ qua là phải nghiên cứu kỹ thị trường và đánh giá nghiêm túc thực lực của doanh nghiệp, sức cạnh tranh của sản phẩm, khả năng tiếp thị và tiềm lực tài chính. Việc lựa chọn đúng hình thức xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng có chỗ đứng trên thị trường đầy tiềm năng này. Để vào được thị trường Mỹ các doanh nghiệp có thể xuất khẩu gián tiếp qua đại lý. Khi đã quyết định xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, phương án tối ưu là phải vạch ra được chiến lược để thực hiện xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp sẽ giúp cho doanh nghiệp kiểm soát được toàn bộ quá trình xuất khẩu, thiết lập được quan hệ trực tiếp với mạng lưới tiêu thụ và người tiêu dùng.
Tổng kết kinh nghiệm của các công ty nước ngoài cho thấy, con đường tiến tới chinh phục thị trường Mỹ là phải biết sử dụng các đại diện bán hàng, đại lý, nhà phân phối và nhà bán lẻ. Đây là một nhu cầu bức xúc nhưng rất khó khăn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải làm dần, từng bước tìm hiểu. Mặt khác, bản thân các nhà nhập khẩu, nhà phân phối cũng sẽ tìm đến các doanh nghiệp Việt Nam để đặt hàng. Họ sẽ đưa ra các yêu cầu (thường là chất lượng, khối lượng hàng và thời gian giao hàng…) còn phương thức tiếp cận thị trường không đáng lo lắm vì tiềm lực tài chính của họ khá dồi dào. Các doanh nghiệp cùng ngành hàng ở Việt Nam nên liên kết với nhau để có thể đáp ứng được những đơn hàng quy mô lớn, thời gian giao hàng nhanh. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thận trọng khi quyết định bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng bởi tại Mỹ việc bán hàng trực tiếp này kèm theo trách nhiệm rất lớn đối với người tiêu dùng.
3.4. Nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ của các doanh nghiệp Việt Nam.
Qua thực tế thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế Việt Nam, có thể thấy rõ năng lực quản lý cũng như trình độ chuyên môn của các cán bộ, người lao động tại các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Nội dung hợp tác với Mỹ bao gồm các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và nhiều lĩnh vực khác về kinh tế cũng như khoa học công nghệ khá đa dạng. Trong khi đó trình độ cán bộ của ta còn hạn chế cả về kiến thức, kinh nghiệm và ngoại ngữ. Để đáp ứng được nhu cầu phục vụ cho mục tiêu trên, cần quan tâm thích đáng đến công tác đào tạo cán bộ, cụ thể là tập trung vào 4 lĩnh vực sau:
- Đào tạo nâng cao trình độ cán bộ có đủ năng lực hoạch định và thực hiện chính sách.
- Đào tạo cán bộ có trình độ đàm phán quốc tế.
- Đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn cán bộ nắm bắt được kịp thời các Hiệp ước quốc tế, các kết quả đàm phán trên bàn hội nghị, hiểu và vận dụng được những Hiệp ước và kết quả đàm phán đó vào thực tiễn sản xuất và kinh doanh quốc tế. Để kinh doanh được với Mỹ, các doanh nghiệp cần hiểu và vận dụng được các luật lệ, chính sách thương mại của Mỹ.
- Đào tạo về ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh để cán bộ có đủ trình độ giao dịch quốc tế.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải thường xuyên đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề để có thể sử dụng công nghệ hiện đại, sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, giá cả cạnh tranh trên thị trường Mỹ.
Tóm lại, để thực hiện tốt Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, các doanh nghiệp cần xúc tiến nghiên cứu để thâm nhập thị trường Mỹ, tìm hiểu đối tác, nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, cơ chế chính sách và luật pháp quốc tế; cần chủ động để đổi mới công nghệ, mẫu mã nâng cao chất lượng hàng hoá, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt, cần xúc tiến khẩn trương việc đào tạo, bồi dưỡng trình độ tay nghề cho công nhân, cán bộ quản lý, kể cả giám đốc để nâng cao trình độ tiếp nhận công nghệ mới, nâng cao năng lực quản lý hiểu biết các chuẩn mực thông lệ quốc tế, chính sách thương mại thế giới và chính sách thương mại Mỹ trong cuộc làm ăn mới trên một thị trường mới. Sự chuẩn bị kỹ càng là điều kiện tốt để các doanh nghiệp nước ta chủ động hội nhập đón nhận những cơ hội và thách thức mới khi ký kết làm ăn với Mỹ.
3.5. Vận dụng mô hình quản lý sản xuất kinh doanh tiến bộ để giảm chi phí sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
Từ những năm đầu đổi mới đến nay, mô hình quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều thay đổi phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Tuy nhiên, để giảm chi phí trong sản xuất kinh doanh và thực sự chuyển hướng sang thúc đẩy xuất khẩu cần phải áp dụng các mô hình tiến bộ hơn. Đối với một số doanh nghiệp chủ chốt của nền kinh tế nên từng bước chuyển sang mô hình quản lý kinh doanh công ty mẹ- con. Cùng với đổi mới mô hình sự phân quyền quản lý sản xuất kinh doanh cũng nên thay đổi theo hướng giao nhiều quyền lợi cho các đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh, cấp quản lý càng cao quyền quyết định càng giảm.
3.6. Củng cố các mối quan hệ với các bạn hàng.
Xây dựng các mối quan hệ làm ăn lâu dài với bạn hàng là sống còn đối với doanh nghiệp. Duy trì các mối quan hệ truyền thống. Thiết lập các mối quan hệ với bạn hàng mới. Quan hệ với bạn hàng phải trên cơ sở hiểu biết, chấp nhận lâu dài vì lợi ích của cả hai bên. Khắc phục tình trạng làm theo từng hợp đồng, từng thương vụ như lâu nay các doanh nghiệp vẫn làm.
3.7. Đa dạng hoá các phương thức giao dịch kinh doanh xuất khẩu.
Trước hết, các loại sản phẩm nông nghiệp là nguyên liệu của ngành công nghiệp chế biến như cao su, cà phê nên tham gia các thị trường đấu giá khu vực, EU và Mỹ để đẩy mạnh xuất khẩu. Các doanh nghiệp nên cố gắng tham gia các cuộc đấu thầu cung ứng gạo. Tham gia đấu thầu để cung ứng các loại hàng hoá, xây lắp các công trình, hoặc thực hiện các hoạt động thầu phụ công nghiệp cũng góp phần mở rộng khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Nên đẩy mạnh phương thức thương mại đối lưu (Counter Trade) với các doanh nghiệp Mỹ cũng như ở những nước có nhu cầu sản phẩm Việt Nam để nhập khẩu được nguyên liệu cho sản xuất trong nước với giá cả hợp lý. Cần chú trọng đến phương thức hàng đổi hàng đúng theo phương thức cân bằng để tránh các hiện tượng gian lận thương mại. Những mặt hàng gia công quốc tế hiệu quả thấp và đóng góp không nhiều cho tăng trưởng kinh tế như dệt may, da giầy thì từng bước chuyển sang xuất khẩu trực tiếp khi có điều kiện. Để có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định và nhập khẩu được thiết bị công nghệ cho sản xuất nội địa, phương thức mua đối ứng cần phải được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng triệt để trong những trường hợp có thể. Để mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng thêm các bạn hàng cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam làm quen với những phương thức kinh doanh mới, cần sớm thành lập các sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam để mua bán một số hàng hoá đang cần thị trường tiêu thụ và tìm kiếm khách hàng.
3.8. Cần quan tâm đến việc đăng ký sở hữu công nghiệp tại Mỹ.
Mỹ quy định về sở hữu công nghiệp, bản quyền tác giả rất phức tạp. Tại Mỹ cũng có những công ty làm ăn không đứng đắn đánh cắp thương hiệu để thu lợi cá nhân. Hoặc họ thấy thương hiệu đang ăn khách ở Việt Nam hoặc các nước khác nhưng chưa đăng ký tại Mỹ liền đứng ra đăng ký sở hữu tại Mỹ với mục đích buộc các doanh nghiệp có nhãn hiệu đó phải mua lại nếu muốn xuất khẩu vào Mỹ.
3.9. Các doanh nghiệp nên chú trọng thích đáng đến công nghệ thông tin.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào ngày nay cũng đều sử dụng máy tính. Nhưng không phải tất cả đều sử dụng internet, email, và ứng dụng thương mại điện tử. Truyền file, truyền dữ liệu, đàm thoại trực tiếp bằng hình ảnh qua mạng hiệu quả gần như gặp mặt trực tiếp, giúp có nhận biết sâu hơn về đối tác so với chỉ nghe giọng nói qua điện thoại. Qua mạng, doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện để tiếp cận nghiên cứu thị trường qua việc xử lý nhiều nguồn thông tin khác nhau, giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển và giảm phí giao dịch, dần dần hướng tới thương mại điện tử, bán hàng qua mạng ...
Kết luận
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là một trong các điểm mốc căn bản trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Hiệp định sẽ đem lại cho Việt Nam thêm 1% tăng trưởng GDP/năm. Đây là điều có ý nghĩa trong điều kiện kinh tế thế giới đang chững lại. Hiệp định có hiệu lực đã mở ra triển vọng lớn cho kinh tế Việt Nam, nhưng thực hiện nó không phải là con đường thông suốt. Giai đoạn đầu thực hiện Hiệp định là cầu nối quan trọng giữa Việt Nam và thế giới. Lúc này Việt Nam đang ở trong thời kỳ củng cố và mở rộng các thị trường ở khu vực Đông Nam A, phải cạnh tranh ráo riết với Trung quốc khi nước này vừa ra nhập WTO, nên việc hướng vào Hoa kỳ rất có ý nghĩa. Để thực hiện tốt Hiệp định, Việt Nam phải mở rộng mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ, thu hút mạnh đầu tư và công nghệ từ thị trường này. Đối với Việt Nam, trong số những lĩnh vực được lợi nhiều nhất nhờ những điều kiện thương mại dễ dàng hơn, có công nghiệp dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm… là những ngành mà trước đó vẫn phải chịu mức thuế cao tới 60% khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Đây là những ngành vốn chịu thiệt thòi so với nhiều nước láng giềng của Việt Nam mặc dù có chất lượng sản phẩm cao. Ngành Công nghiệp dầu khí và khai thác thuỷ, hải sản là những ngành quan trọng đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, sẽ có cơ hội mở rộng nhanh thị trường của mình ở Hoa Kỳ.
Có thể hoàn toàn tin tưởng rằng với những thành tựu đã đạt được của hơn một thập kỷ đổi mới, với nền kinh tế đang có dấu hiệu phát triển tốt, với những quyết tâm cao độ và đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt của Đảng và Chính phủ Việt Nam, chúng ta sẽ vận dụng đầy đủ các cơ hội mà Hiệp định thương mại Việt-Mỹ mang lại nhằm thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước theo như chiến lược đã đề ra.