Khóa luận Hồ Chí Minh vận dụng phương pháp biện chứng trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam

Từ những kết luận rút ra trên đây, chúng tôi xin đề xuất một vài ý kiến như sau: Thứ nhất, do phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng có mối liên hệ chặt chẽ với tư tưởng triết học và phong cách của Người. Do đó, khi nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh cần nghiên cứu trong một chỉnh thể thống nhất với tư tưởng triết học và phong cách của Người. Có như vậy mới thấy được sự độc đáo nhưng rất bình dị của nó. Đúng như lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không làm ai choáng ngợp, mới gặp lần đầu mà ta thấy thân thiện từ lâu” [2;298]. NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 60Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng Thứ hai, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng thấm sâu trong hành động, trong suy nghĩ, trong cách ứng xử với người và việc. Vì vậy, khi nghiên cứu về phương pháp biện chứng mà Người đã vận dụng thì không chỉ nghiên cứu qua các tác phẩm mà còn phải nghiên cứu trong quá trình thực tiễn hoạt động cách mạng của Người

pdf67 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hồ Chí Minh vận dụng phương pháp biện chứng trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, ứng vạn biến””. Đây là một trong những câu nói bất hủ thể hiện một cách tổng quan nguyên tắc mà Người thực hiện trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Qua câu nói đó cho thấy, Hồ Chí Minh là người có óc linh hoạt, mềm dẻo, luôn sáng suốt, bình tĩnh ứng phó kịp thời, đúng đắn với mọi hoàn cảnh trên cơ sở nắm vững nguyên tắc hoạt động và mục tiêu chung của cách mạng. Người đã vận dụng sáng tạo các nguyên tắc lịch sử, nguyên tắc cụ thể và nguyên tắc khách quan gắn với thực tế Việt Nam để làm nguyên tắc chỉ đạo trong việc đề ra những nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp cho từng thời kỳ. Người nói: “Tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng.” [10;46]. Cái bất biến mà Hồ Chí Minh đề cập trước hết là nền độc lập thống nhất của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cuả nhân dân. Đây là giá trị cao nhất của mọi giá trị không thể đem bán mua đổi chác. Nó là mục tiêu chung của cả dân tộc mà cũng là mục tiêu cả đời của Hồ Chí Minh, Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là những điều tôi muốn, đấy là những điều tôi hiểu.” [10;30]. Vì mục đích đó mà Người hạ quyết tâm: “Dù có hy sinh đến đâu dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” [7;139 ]. Trong cuộc đọ sức với đế quốc Mỹ đầy dã tâm muốn thôn tín nước ta, biến nước ta trở lại thời kỳ đồ đá, nhưng toàn dân ta đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ mục tiêu chung cao quý, giành được độc lập. Mục tiêu đó đã vũ trang cho dân tộc một sức mạnh to lớn, quyết tâm chống giặc và thắng giặc, Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do!” [12;128]. Nhưng trên con đường đi tới mục tiêu cao quý đó là cả quá trình đấu tranh gay go, phức tạp đầy gian khổ. Nó đòi hỏi người cách mạng phải nhạy NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 43 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng bén, linh hoạt, sáng suốt, biết đấu tranh cho mục tiêu trước mắt nhưng không làm tổn hại mục tiêu lâu dài. Do đó, Hồ Chí Minh luôn uyển chuyển, linh hoạt với phương châm: biết thắng từng bước cho đúng nhưng không được lãng quên mục đích cuối cùng. Đây là một nét độc đáo của Đảng và Bác trong lĩnh vực phương pháp, biết vận dụng sáng tạo quan điểm thực tiễn, nguyên tắc lịch sử, nguyên tắc phát triển từ tuần tự đến nhảy vọt, xem xét thấu đáo mối quan hệ biện chứng giữa tính kiên định về nguyên tắc và tính linh hoạt về sách lược, giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Phương pháp này được thể hiện sinh động trong thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đặc biệt là trong phương châm: “đánh cho Mỹ cút tiến lên đánh cho ngụy nhào” của Hồ Chí Minh. Thực tế Mỹ đã cút, ngụy đã nhào, đất nước ta hoàn toàn độc lập thống nhất. Đất nước đã độc lập, để cho nhân dân được thực sự được tự do, cơm no, áo ấm, cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường đó đòi hỏi chúng ta phải có ánh sáng của lý luận khoa học. Đó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây cũng là cái bất biến cần quán triệt trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải nắm vững lập trường, quan điểm phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết các vấn đề cách mạng nảy sinh trong thực tiễn; “phải thấy cho xa, đừng thấy lợi ích trước mắt mà quên lợi ích lâu dài, đừng có thấy cây mà không thấy rừng.” [12;84]. Nắm cái “bất biến” để ứng cái “vạn biến” thật sáng tạo mà ta thấy Hồ Chí Minh là một biểu mẫu về vận dụng sáng tạo học thuyết đó, cùng với mảnh đất hiện thực Việt Nam đã giúp Bác ươm mầm cho những hạt giống phương pháp cách mạng độc đáo. Hạt giống đó đã cho Bác và dân tộc ta những vụ mùa bội thu, thắng lợi mà Bác là một nông dân giỏi, một chủ thể sáng tạo phương pháp . 2.1.3.2. Linh hoạt, mềm dẻo sử dụng sách lược tác chiến phù hợp Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, nước ta luôn đối đầu với những lực lượng lớn hơn gấp bội phần nhưng cuối cùng chúng ta vẫn giành được thắng lợi. Một câu hỏi lớn đang đặt ra cho các nhà khoa học xã hội khi nghiên cứu về Việt Nam: Tại sao một nước nhỏ bé đất không rộng, dân không đông, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu lại chiến thắng hai tên đế quốc sừng sỏ nhất lúc bấy giờ? Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mác Namara, người từng tham gia chiến tranh ở Việt Nam, từng điều khiển đội quân xâm lược của Mỹ thì luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi “Vì sao Mỹ thua Việt Nam?”. Tháng 11/1995 Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời: “ Mỹ đánh thua Việt Nam mà Mỹ không hiểu Việt Nam: lịch sử, địa lý, văn hóa, phong tục, con người nói chung, những NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 44 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng người lãnh đạo nói riêng. Chúng tôi có một nền văn hóa bền vững, một học thuyết quân sự độc đáo được thử thách trong lịch sử. Vì vậy, chúng tôi đã thắng” []. Nghe xong, Mác Namara cũng đồng tình rằng Mỹ thua Việt Nam không phải vì Mỹ không mạnh bằng Việt Nam mà là Mỹ không hiểu nổi văn hóa của Việt Nam. Vâng, đó cũng là một nguyên nhân vô hình nhưng lại thể hiện rất sinh động đầy sức sống trong hiện thực một nền văn hóa độc đáo với nội dung chủ đạo là “lòng yêu nước”. Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc.Từ xưa đến nay mỗi khi đất nước bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [10,85]. Chủ thể của nền văn hóa độc đáo ấy là những con người rất đặc biệt, rất gan dạ, dũng cảm, anh hùng, bất khuất,đầy tính sáng tạo mà Bác là một điển hình cho sự sáng tạo đó, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Chính sự kế thừa phương pháp biện chứng một cách đặc sắc đã cho phép Bác sáng tạo ra những phương pháp đánh giặc rất hiệu quả thậm chí cách đánh giặc đó chưa có tiền lệ trong lịch sử. Có nhiều người thắc mắc rằng, tại sao Pháp có súng ống tốt, phương tiện chiến tranh hiện đại như thế mà số chết và số bị thương lớn gấp mười lần quân ta. Hồ Chí Minh nói: “Thì có gì lạ đâu, ta đánh du kích, đánh địa lôi, ta thấy địch mà địch không thấy ta. Thành thử nhiều khi ta giết hàng chục hàng trăm quân địch mà bộ đội ta không có người nào bị thương.” [19;125]. Đánh du kích là lối đánh được Người kế thừa sáng tạo từ du kích Pháp, du kích Tàu, du kích Nga rồi đưa vào cách đánh du kích Việt Nam phù hợp với điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam. Thực lực của ta không cho phép ta đánh trực diện với địch mà phải đánh du kích, đánh úp, đánh lén, đánh lúc quân địch không phòng làm hao mòn dần lực lượng của địch, chuyển dần thế so sánh lực lượng theo hướng có lợi cho ta, khi đó ta mới quyết một trận sinh tử với địch trên cơ sở ta đã nắm được thực lực của chúng lúc này. Biệt tài độc đáo trong phương pháp đánh giặc của Hồ Chí Minh là sự linh hoạt, nhạy bén, đánh thẳng vào âm mưu của giặc trên cơ sở phân tích thật kỹ yếu điểm trong âm mưu đó. Có như thế thì nhất định thắng lợi. Người nói: “Muốn trị lửa phải dùng nước. Địch muốn tốc chiến tốc thắng, ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng.” [19;113]. NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 45 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng Cuộc chiến đấu của ta là cuộc chiến đấu không cân sức nên Hồ Chí Minh rất khéo léo, linh hoạt, dĩ nhu xử cương thật tài tình để ít có thể thắng nhiều, yếu có thể thắng mạnh. Người nói: “Hai cái cứng chọi nhau thì hai cái cùng vỡ. Phải một cái cứng một cái mềm thì khi chọi nhau, một cái mới còn. Pháp có xe tăng đại bác thì ta phá đường, Pháp có máy bay thì ta đào hầm, nó dùng vũ khí tối tân thì ta đánh du kích, nó trên trời thì ta dưới đất. Nó lấy vũ lực ta không sợ, nó lấy chính trị ta không mắc mưu. Nó lấy kinh tế phong tỏa thì ta lấy kinh tế đánh nó. Ta lợi hơn nó là nó không thể kéo dài được còn ta thì có thể kéo dài” [19;112,113]. Lực mình đã nhỏ mà bị động nữa là chết. Thế nên, Hồ Chí Minh luôn chỉ đạo phải giành thế chủ động, phải tìm địch mà đánh, phải luôn khuấy rối và phá hoại địch, phải cộng những thắng lợi nhỏ thành thắng lợi to. Đấy là phương châm tác chiến rất bền bỉ, hiệu quả phù hợp với đặc điểm thực lực của ta, biết địch biết ta trăm trận trăm thắng. Hồ Chí Minh không những biết thực lực của địch mà còn nhìn thấu đáo từng điểm sơ hở nhỏ nhất của địch, nhắm vào đó mà đánh thì chắc thắng. Hồ Chí Minh thật xứng đáng là vị cha đẻ của nền quân sự Việt Nam. Tài thao lược của Người, thật sự đã đạt đến cảnh giới tối cao của sự sáng tạo trong phương pháp đánh giặc. Người luôn có cái nhìn toàn diện trong tác chiến, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, lấy châu chấu đá voi. Nếu nhìn vào hiện trạng với con mắt hẹp hòi thì chẳng có cách nào cứu châu chấu từ dưới chân voi, nhưng dưới con mắt lạc quan của nhà biện chứng sáng tạo, Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuy nay châu chấu đá voi Nhưng mà voi sẽ bị lòi ruột ra”. [19;146] Thực tế đã chứng minh, voi đã bắt đầu lòi ruột mà châu chấu giờ đây trưởng thành như con hổ oai hùng. Đó là nghệ thuật của của một nền quân sự thô sơ đối đầu với một nền quân sự lớn mà Hồ Chí Minh là nghệ sĩ. 2.1.4. Phân tích và giải quyết đúng mâu thuẫn của ta và mâu thuẫn của địch, đưa cách mạng tiến lên Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều chứa đựng mâu thuẫn; giải quyết đúng mâu thuẫn cơ bản thì có sự phát triển, do đó mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển. Trong đấu tranh cách mạng, biết phân tích và giải quyết đúng mâu thuẫn sẽ từng bước đưa cách mạng phát triển tiến lên. Thấy được vai trò quan NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 46 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng trọng đó trong chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến mâu thuẫn. Người căn dặn: “Khi việc gì có mâu thuẫn tức là có vấn đề, ta phải nghiên cứu cho rõ các gốc mâu thuẫn trong vấn đề đó là gì. Phải điều tra, phải nghiên cứu các mâu thuẫn đó. Phải phân tích rõ ràng và có hệ thống, phải biết rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu thuẫn phụ, phải đề ra cách giải quyết.” [16;83]. Đó là nguyên tắc trong hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh xuất phát từ nhận thức đúng về mâu thuẫn và các nguyên tắc biện chứng được Hồ Chí Minh quán triệt một cách sáng tạo, lấy nó làm nguyên tắc chỉ đạo xem xét mọi vấn đề của cách mạng. Trong mọi thời điểm lịch sử, bao giờ Người cũng xác định rõ mâu thuẫn cơ bản nhất, nhờ vậy, Người xác định đúng kẻ thù; giải quyết đúng mối quan hệ giữa những vấn đề mang tính cấp thiết và lâu dài, giải quyết từng bước mục tiêu trước mắt để phục vụ mục tiêu lâu dài. Những vị tiền bối đầu thế kỉ XX đã phạm sai lầm nghiêm trọng trong quá trình tìm đường cứu nước do hạn chế trong tư duy, tư duy chưa mang tính biện chứng nên không xác định được đúng mâu thuẫn cơ bản lúc bấy giờ. Chẳng hạn, Phan Bội Châu chỉ thấy mâu thuẫn giữa người dân châu Á và châu Âu nên “đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau”. Hồ Chí Minh đã thấy những gì mà cụ Phan đã thấy nhưng với Người đây chưa phải là mâu thuẫn cơ bản nhất, bao trùm nhất. Sau khi bôn ba khắp các Châu lục, Người đã chứng kiến các dân tộc nô lệ cùng chịu một cảnh đau thương và Người xác định mâu thuẫn cơ bản nhất trên thế giới lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa những người bị bóc lột với những kẻ bóc lột, không phân biệt màu da, dân tộc, không phân biệt châu Á hay châu Âu; trên thế giới lúc này chỉ có hai hạng người: Hạng người bóc lột và hạng người bị bóc lột. Bọn bóc lột tìm mọi cách che giấu hoặc đánh lạc hướng để người ta không nhận ra mâu thuẫn do chúng gây ra. Người chỉ thẳng kẻ thù chính của nhân loại lúc này là kẻ điều khiển các cuộc chiến tranh phi nghĩa ở các nước thuộc địa. Do phân biệt rõ mâu thuẫn nên Hồ Chí Minh đã xác định đúng kẻ thù. Trong cuộc chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự chiến đấu của chúng tôi không nhằm đánh vào nước Pháp cũng không nhằm đánh vào những người Pháp lương thiện mà chỉ chống lại sự thống trị tàn bạo của Pháp ở Đông Dương của chủ nghĩa thực dân.” [16;85]. Từ đó, Hồ Chí Minh xác định mâu thuẫn chủ yếu lúc đó là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và phát xít Nhật. Tuy nhiên, trong những thời điểm cụ thể lại phát sinh mâu thuẫn mới, có lúc là giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, có lúc là với Nhật. NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 47 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng Hồ Chí Minh không chỉ phát hiện đúng mâu thuẫn cơ bản mà còn biết lợi dụng mâu thuẫn phục vụ cho mục tiêu cách mạng. Điều này được thể hiện đặc sắc trong giai đoạn 1945 – 1946. Tình thế cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”, chính quyền còn non trẻ phải đối phó với nhiều thứ giặc mà nguy hiểm nhất là giặc ngoại xâm. Trước bối cảnh ấy, Hồ Chí Minh đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ - Tưởng và Anh – Pháp để loại bớt kẻ thù. Đảng và Bác đã khéo léo hòa với Tưởng ở phía Bắc, đánh Pháp ở phía Nam, sau đó lại khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng mà hòa với Pháp để gạt bỏ hai mươi vạn quân Tưởng ra khỏi miền Bắc. “Hòa để tiến” là một nước cờ cao của Hồ Chủ tịch để loại dần từng kẻ thù, tập trung đối phó với kẻ thù chính, từng bước đưa cách mạng qua giờ phút hiểm nghèo bảo vệ thành công thành quả Cách mạng tháng Tám. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh cũng khéo lợi dụng mâu thuẫn trong lòng nước Mỹ để tranh thủ khả năng hợp tác giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng Mỹ, giành thắng lợi cho nhân dân Việt nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình ở Mỹ. Người chỉ rõ: “Nhân dân Mỹ đánh từ trong ra, nhân dân ta đánh từ ngoài vào. Hai bên giáp công mạnh mẽ thì đế quốc Mỹ sẽ thua, nhân dân Việt – Mỹ nhất định sẽ thắng.” [19;189]. Tuy nhiên, mâu thuẫn không chỉ trong hàng ngũ của địch mà Hồ Chí Minh còn nhìn thấu mâu thuẫn ở phía ta. Đó là những bất đồng, thù riêng hay thậm chí là lợi ích của tổ chức cũng mâu thuẫn. Trong trường hợp này, Hồ Chí Minh lưu ý rằng, phải bỏ thù riêng để trả thù chung, phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết. Chúng ta chiến đấu vì mục tiêu chung thì phải xác định rõ mâu thuẫn cơ bản của dân tộc chứ những mâu thuẫn trong nội bộ của ta thì tất nhiên phải giải quyết nhưng vị trí ưu tiên của nó không ngang với mâu thuẫn cơ bản của dân tộc. Đây là phương pháp giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn, biết so sánh lực lượng từng thời kỳ và biết đưa phong trào tiến lên thông qua những bước nhảy vọt từ thấp đến cao, từ cục bộ đến toàn bộ, đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn. 2.1.5. Xem xét vấn đề của cách mạng trong sự vận động, phát triển không ngừng Triết học mác-xít cho rằng, tất cả các sự vật, hiện tượng luôn vận đông, biến đổi không ngừng theo quy luật phủ định biện chứng. Nắm vững tinh thần quy luật này, Hồ Chí Minh luôn quán triệt nguyên tắc phát triển và nguyên tắc phủ định biện chứng trong cách xem xét giải quyết vấn đề. Theo Hồ Chí Minh, trong mỗi con người thường có cả cái xấu và cái tốt, cái cũ và cái mới NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 48 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng và chỉ có kinh qua cuộc đấu tranh gay go, gian khổ và liên tục thì cái mới nhất định thắng cái cũ. Trong cách nhìn về xã hội, Người nói rằng: “Xã hội phát triển không ngừng, tiến bộ cũng phải không ngừng. Nếu hôm nay ngừng tiến bộ, tức là ngày mai thoái bộ.” [16;93]. Chính cách tư duy khoa học như thế nên trong quá trình đấu tranh cách mạng, Người luôn lạc quan với niềm tin tất thắng dù rằng lúc nào chúng ta cũng phải đối đầu với những tên địch khổng lồ nhưng rồi cuối cùng chúng ta sẽ thắng vì cái thiện tất yếu chiến thắng cái ác; cái chính nghĩa sẽ đè bẹp cái phi nghĩa; ý chí sắt đá sẽ đè bẹp âm mưu đen tối của kẻ thù. Ý chí đó tạo thành một quyết tâm tập trung ở tiêu điểm là Hồ Chí Minh rồi lan tỏa cho toàn dân tạo nên sức mạnh kỳ diệu đánh gục mọi lực lượng phi nghĩa. Người nói: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ, chúng ta tiến lên, quyết không có lực lượng nào ngăn cản được chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.” [19;183] Kháng chiến nhất định thắng lợi nhưng kháng chiến thì khó khăn gian khổ. Chúng ta phải tin rằng, “hết cơn bỉ cực tới hồi thái lai” nên nhất định chúng ta sẽ vượt qua gian khổ để đi đến thắng lợi. Người nói: “Chúng có thể dùng máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống giặc cứu nước của dân tộc Việt Nam anh hùng. Chúng càng hung hăng thì tội của chúng càng tăng. Chiến tranh có thể kéo dài năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa; Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. [19;202]. Chính từ niềm tin tất thắng đó đã khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chống giặc vì mục tiêu cao đẹp “độc lập, tự do”. Tin vào sự chiến thắng với tầm nhìn xa, Người đã vạch ra tương lai tươi đẹp của dân tộc, điều đó thể hiện trong bức thư gửi đồng bào miền Nam năm 1960, Bác viết: “Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ, đấu tranh thì chậm nhất là mười lăm năm nữa, tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Bắc – Nam nhất định sẽ sum hiệp một nhà” [21;98]. Thực tế đã chứng minh đúng mười lăm năm sau đất nước độc lập, non sông quy về một mối. Tóm lại, những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử dân tộc đã làm nổi bật sự tài tình của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng. Một người luôn nhìn xa trông rộng, có sự hiểu biết sâu sắc về cách mạng. Trong mọi vấn đề cách mạng, Người luôn xem xét một cách biện chứng của sự phát triển; nâng nó lên thành quy luật, tác động đúng quy luật, thúc đẩy quá trình cách mạng diễn ra NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 49 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng để chóng đạt được thắng lợi. Điều này nói lên rằng, Hồ Chí Minh đã nắm vững nguyên tắc phủ định biện chứng trong xem xét đánh giá mọi vấn đề của cách mạng và thực sự nó đã phát huy hiệu quả khi cách mạng Việt Nam phát triển theo hướng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. 2.2. Giá trị của phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng trong giai đoạn hiện nay Cuộc đấu tranh gian khổ của dân tộc ta đã khép lại, lịch sử đã sang trang, nước ta đã thực sự là một nước độc lập tự do và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình hình mới và nhiệm vụ cũng mới. Toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được hai nhiệm vụ đó, chúng ta cần có những cách thức biện pháp, bước đi như thế nào cho nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm thời gian; sớm đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nếu thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã chứng minh tính đúng đắn của học thuyết Mác-Lênin mà đặc biệt là phương pháp mà Hồ Chí Minh vận dụng thì trong giai đoạn hiện nay nó vẫn có sức sống mạnh mẽ. Với tư cách là công cụ của tư duy lý luận, nó sẽ giúp quá trình nhận thức, từ đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn bằng những biện pháp, cách làm sáng tạo đạt hiệu quả cao trong công việc. Nó là đuốc soi đường để chúng ta không phải “mò mẫm” trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Khi nói về “cách đi” trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cũng đã nêu rõ: “Chúng ta phải xây dựng một xã hội mới hoàn toàn xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ từ hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi những quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có áp bức bóc lột. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Chúng ta phải dần tập thể hóa nông nghiệp. Chúng ta phải tiến hành cải tạo Xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải biến một nước dốt nát thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc.” [2,64]. Với Hồ Chí Minh, đi lên chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lâu dài, phức tạp, khó khăn, do vậy chúng ta phải tiến hành dần dần, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không được nóng vội. Bởi vì, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, từ điểm xuất phát rất thấp, chứ không phải đi từ một nước tư bản phát triển cao như C.Mác và Ph.Ănghen NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 50 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng dự báo. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất, chủ yếu nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta là phải chiến thắng lạc hậu, nghèo nàn, sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Sau năm 1975, đất nước độc lập thống nhất, nước ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng phạm sai lầm vì nhận thức không đúng, một bộ phận đảng viên lúc bấy giờ chưa vận dụng được phương pháp biện chứng trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, do vậy xem xét vấn đề thiếu tính khách quan, rập khuôn máy móc; không xuất phát từ thực tế khách quan của đất nước nên đã gặp thất bại. Bắt đầu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng chủ trương đổi mới toàn diện đất nước với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, nghiêm khắc kiểm điểm và đã tìm ra sai lầm cụ thể trong phương pháp thực hành là: - Xem xét sự vật không tuân thủ nguyên tắc khách quan nên mắc bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội muốn đưa quan hệ sản xuất đi trước một bước trong khi lực lượng sản xuất không phù hợp. - Do không xuất phát từ thực tế khách quan nên rơi vào chủ nghĩa giáo điều kinh nghiệm, rập khuôn mô hình của Liên Xô và Trung Quốc. - Kéo dài nền kinh tế bao cấp quá lâu. - Do yếu kém về lý luận nên ngộ nhận kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa, kinh tế bao cấp với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Phát hiện sai lầm, kịp thời sửa chữa đổi mới và nâng cao tư duy lý luận, đổi mới toàn diện nên sau hai mươi năm nước ta từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, đạt được những thành tựu đáng kể. Để đạt được những thành tựu đó có nhiều nguyên nhân, trong đó chúng ta thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm thực tiễn, nắm vững lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin; bám sát thực tiễn, đổi mới toàn diện nhưng có trọng tâm trọng điểm, biết xác định nhiệm vụ trước mắt trong từng thời điểm lịch sử cụ thể và nhiệm vụ chiến lược lâu dài. Đổi mới phát triển trên tinh thần phủ định có kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm của cách mạng trong những năm qua. Chính nhờ đi sâu, bám sát thực tiễn cách mạng Việt Nam mà Đảng ta đã vạch ra những nhiệm vụ, phương hướng phấn đấu phù hợp, đất nước có những chuyển biến tích cực và trên thực tế đã thu được thành tựu to lớn sau hai mươi năm đổi mới. Nhưng, chúng ta biết rằng, thực tiễn luôn vận động, NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 51 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng biến đổi, luôn đặt ra những vấn đề mới, có cả thời cơ nhưng cũng đầy thách thức. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một thời đại có nhiều biến đổi sâu sắc và nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử. Sự phát triển siêu tốc của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xã hội hoá và quốc tế hoá lực lượng sản xuất, đang tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với quá trình toàn cầu hoá, nhân loại đang từng bước quá độ từ thời đại kinh tế công nghiệp sang thời đại “kinh tế tri thức” và “nền văn minh trí tuệ”. Trên thế giới, bên cạnh xu thế chủ đạo hoà bình, hợp tác, phát triển thì cuộc đấu tranh dân tộc, giai cấp, xung đột sắc tộc, khủng bố, chạy đua vũ trang...tất cả những điều đó là bối cảnh về thực tế thế giới mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Vấn đề quan trọng là làm sao để hạn chế sự ảnh hưởng đó trong khi thực tế cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được nêu ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X là những khuyết điểm, yếu kém tồn tại sau hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, cụ thể là: - Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau hai mươi năm đổi mới nhưng do điểm xuất phát thấp, sự nghiệp đổi mới được bắt đầu khi nước ta đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều năm, cộng thêm những yếu kém, khuyết điểm chủ quan, đến nay nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển, kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. - Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị còn nhiều yếu kém. - Trong lĩnh vực lý luận hiện chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là những mặt tồn tại cần có giải pháp khoa học, hợp thực tế để giải quyết. Muốn có các giải pháp thì tư duy của người lãnh đạo phải thật sự khoa học, nắm vững phương pháp biện chứng mác-xít, vận dụng sáng tạo phương pháp luận của Hồ Chí Minh trong việc đề ra nhiệm vụ, giải pháp và phương hướng phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân. Mặt khác, hiện nay tình hình thế giới diễn ra rất phức tạp, các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn hết sức gay gắt. Nhiều vấn đề mới, bức xúc trên thế giới lan rộng trên phạm vi toàn thế giới, đặc biệt là quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều thời cơ cho các nước đang phát triển nhưng cũng đầy nguy cơ, thách thức. Đó cũng là thực tế khó khăn NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 52 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng đang đặt ra cho toàn dân tộc ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định, hiện nay, chúng ta phải đối diện với bốn nguy cơ lớn: - Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực. - Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận đảng viên, gắn với tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. - Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội. - Âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Thực tế đó đòi hỏi Đảng ta phải thật sự bình tĩnh, bản lĩnh trên cơ sở nắm vững phương pháp biện chứng trong nhận thức để phân tích đúng tình hình xem xét đúng thế và lực của ta hiện nay, tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn. Từ việc xác định thực tế đó, Đảng ta đã đề ra mục tiêu, phương hướng tổng quát của năm 2006 – 2010 trên cơ sở tập trung trí tuệ của cả dân tộc là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, chủ động và hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội, sớm đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [24;76]. Để thực hiện được mục tiêu, phương hướng đã đề ra trong những năm tới, đưa cách mạng phát triển tiến lên thì đòi hỏi Đảng ta phải xác định đúng các mâu thuẫn cơ bản trong quá trình thực hiện mục tiêu đó để đề ra những giải pháp giải quyết mâu thuẫn phù hợp góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đề ra, đưa cách mạng nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã chỉ ra bốn mâu thuẫn lớn: Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tình trạng kinh tế xã hội kém phát triển với yêu cầu xây dựng một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ hai, mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước ta theo mục tiêu đó. NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 53 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng Thứ ba, mâu thuẫn giữa khuynh hướng chủ nghĩa xã hội và tư bản chủ nghĩa. Thứ tư, mâu thuẫn giữa nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn có tính chất bức xúc ở nước ta hiện nay. Nó biểu hiện thành các mâu thuẫn sau: Thứ nhất, mâu thuẫn giữa toàn cầu hóa kinh tế nhanh chóng của nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực tạo nên tương quan so sánh và sự cạnh tranh gay gắt với trạng thái và sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Thứ hai, mâu thuẫn giữa trình độ lực lượng sản xuất thấp kém với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, giữa lượng sản xuất lạc hậu với việc xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Thứ ba, mâu thuẫn giữa mục tiêu hiện đại hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hiện trạng cơ sở vật chất nguồn nhân lực yếu kém. Thứ tư, mâu thuẫn giữa đời sống văn hóa còn nhiều lạc hậu so với yêu cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Giải quyết được những mâu thuẫn này sẽ tạo điều kiện thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đề ra, đưa nước ta tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở xác định những mâu thuẫn đã nêu, Đảng ta đã đề ra những giải pháp: - Phát huy nội lực là chính, đồng thời ra sức tranh thủ những yếu tố thuận lợi của quốc tế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; từng bước đi vào nền kinh tế tri thức. - Hoàn thiện cơ chế kinh tế để tiếp tục giải phóng sức sản xuất đang còn tiềm ẩn trong nhân dân, trong các thành phần kinh tế, ở các vùng kinh tế. - Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. - Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, sự tha hóa của một bộ phận Đảng viên. - Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, chủ quyền quốc gia trong sự hội nhập đó. NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 54 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng Một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là phải đấu tranh chống mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội. Để làm điều này đòi hỏi Đảng ta phải thật sự bình tĩnh, bản lĩnh nắm vững công cụ tư duy của các nhà kinh điển mác-xít và Hồ Chí Minh để nhận thức đúng những âm mưu đen tối của kẻ thù, nhận dạng các quan điểm sai trái thù địch. Có như vậy, chúng ta mới có thể bảo vệ và xây dựng thành công Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tình thế bất lợi cho ta là chủ nghĩa tư bản đang thắng thế trên trường quốc tế trong khi chủ nghĩa xã hội đang gặp nhiều khó khăn. Chủ nghĩa tư bản luôn có ý đồ tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa xã hội hoặc lôi kéo những nước này đi theo con đường tư bản. Họ cho rằng, đi vào chủ nghĩa xã hội là đi theo vết xe đổ của Liên Xô; đi lên chủ nghĩa xã hội là không tưởng, viễn vong hay giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là cản trở sự phát triển, là lạc điệu trong tiến trình phát triển của thế giới,Trước những giọng điệu đó, nếu không đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh đã vận dụng để xem xét, cân nhắc thì chúng ta sẽ dễ bị dao động, mất phương hướng. Những thành tựu mà dân tộc ta đạt được qua hai mươi năm đổi mới là một cơ sở cho niềm tin, sự lạc quan vào sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đang gặp khó khăn, chủ nghĩa tư bản đang thắng thế thì việc gieo niềm tin đó không phải là chuyện dễ dàng. Điều này đòi hỏi mỗi chúng ta mà trước hết là Đảng phải thật sự thấm nhuần phương pháp biện chứng của các nhà kinh điển mác-xít và thấy được ý nghĩa, vai trò phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh đã vận dụng để xem xét, giải quyết vấn đề một cách khoa học, để từ đó hoạch định cách làm, bước đi phù hợp đúng quy luật, tạo niềm tin và sự lạc quan cho dân tộc. Một vấn đề đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay là một bộ phận cán bộ, đảng viên bị tha hoá về lối sống đạo đức, quan liêu, tham nhũng, hủ hoá. Đây là vấn đề thời sự nhức nhối được Đảng ta liệt vào danh sách một trong bốn nguy cơ và là “quốc nạn” trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã quan tâm và nhận ra. Theo Người, Đảng phải chấn chỉnh về tư cách, đạo đức, tác phong của cán bộ, đảng viên. Điều này được Bác trình bày trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947). Đến nay, vấn đề này vẫn là vấn đề còn nguyên giá trị. Trong tác phẩm, Người nêu lên NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 55 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng nguyên nhân của tệ nạn nói trên đồng thời đưa ra một số giải pháp để khắc phục. Theo Hồ Chí Minh, sự tha hoá về đạo đức, lối sống, phong cách làm việc dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, hủ hoá của một bộ phận cán bộ đảng viên. Căn bệnh đó, suy cho cùng là xuất phát từ căn bệnh nguy hiểm, bệnh “hẹp hòi”. Bệnh này xuất phát từ cách xem xét và giải quyết vấn đề một cách phiến diện, chỉ biết lợi ích cá nhân không biết đến lợi ích tập thể, chỉ thất lợi ích địa phương mà không thấy lợi ích toàn cục. Đây là phương pháp nhận thức siêu hình, trái khoa học. Nó phá hoại sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nó là nguyên nhân của thứ chủ nghĩa cá nhân – chướng ngại vật trên con đường phát triển chung của cả dân tộc; vì vậy, phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Để khắc phục căn bệnh này, chúng ta phải rèn phương pháp tư tưởng, phương pháp công tác theo tinh thần phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh đã vận dụng, xem đó là nguyên tắc tiên quyết nhất trong mọi suy nghĩ và hành động. Phải có đầy đủ quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể để xem xét vấn đề một cách bao quát, đúng đắn. Phải đứng trên quan điểm phát triển mà chú trọng phê bình và tự phê bình, xem đây là quy luật phát triển của cá nhân đảng viên và tổ chức Đảng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức chiến đấu trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Mặt khác, để hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì không thể không nhắc đến lĩnh vực an ninh quốc phòng. Đến đây, phương pháp của Hồ Chí Minh lại tiếp tục toả sáng nhất là trong lĩnh vực quân sự. Trước kia, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra các phương pháp đánh giặc rất độc đáo, hiệu quả thì nay nó lại được vận dụng một cách sáng tạo trong nền quân sự Việt Nam hiện đại. Hồ Chí Minh đã từng thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, mỗi người là một chiến sĩ trên chiến trường chính cả chiến trường phụ để chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập, tự do. Ngày nay, Đảng ta chủ trương xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, mỗi người dân là một chiến sĩ phòng vệ, nhìn thấu và ngăn chặn kịp thời mọi âm mưu đen tối của kẻ thù để bảo vệ vững chắc nền độc lập ấy trong điều kiện tình hình an ninh thé giới rất phức tạp, kẻ thù luôn chống phá ta với mọi hình thức ngày càng tinh vi và hiện đại hơn trước. Vì vậy, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra những quan điểm chỉ đạo trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia như sau: NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 56 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng - Thứ nhất, bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị. - Thứ hai, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược. Gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội với nhiệm vụ an ninh quốc phòng, đối ngoại, khắc phục kịp thời sơ hở không để kẻ thù lợi dụng. - Thứ ba, giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ đối ngoại. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ đối ngoại với nhiệm vụ an ninh quốc phòng; đa dạng hoá theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “vừa hợp tác vừa đấu tranh”. - Thứ tư, trong quá trình đấu tranh chống các thế lực thù địch phải chủ động tiến công và tích cực phòng ngừa không để bị động. Chủ động vô hiệu hoá các hoạt động của địch ngay từ nơi xuất phát, trung tâm, sào huyệt của chúng. - Thứ năm, trong xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia phải giữ vững nguyên tắc đồng thời có sách lược mềm dẻo, linh hoạt, khôn khéo, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Ta thấy, trong quan điểm chỉ đạo, Đảng ta luôn tuân thủ và quán triệt các nguyên tắc trong phương pháp biện chứng có kế thừa sự sáng tạo của Hồ Chí Minh để đề ra quan điểm đúng đắn trên cơ sở xem xét tình hình quốc tế khách quan, toàn diện, căn cứ đặc điểm dân tộc và tiềm lực quân sự của đất nước trong thời điểm hiện tại. Điều đó cũng nói lên rằng, sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực phương pháp không chỉ có giá trị trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mà nó còn có sức sống mãnh liệt trong quá trình cả nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nó thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho Đảng ta trong quá trình nâng cao tư duy lý luận, bản lĩnh chính trị để chỉ đạo thực tiễn một cách sáng suốt, đúng đắn, nhằm rút ngắn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng là phương pháp đúng đắn nhất, cần thiết nhất, quan trọng nhất cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, không nên xem nó là “chìa khoá vạn năng” để trả lời mọi câu hỏi của hiện thực mà chỉ xem nó như là một trong những phương pháp hiệu quả để tìm ra lời giải đáp cho hiện thực sinh động đang vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 57 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng KẾT LUẬN Hồ Chí Minh, cái tên bất tử trong trái tim nhân loại, cả cuộc đời và sự nghiệp của Người trải qua bao nhiêu gian khổ, hy sinh chỉ vì độc lập, tự do cho dân tộc và sự tiến bộ của nhân loại. Thế giới biết đến Người như là một danh nhân văn hoá thế giới, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, nhà tư tưởng, nhà văn hoá lớn, nhà hoạt động chính trị nổi tiếng và là nhà quân sự lỗi lạc. Người là kiến trúc sư hàng đầu đã xây nền, đắp móng cho con đường phát triển của cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành sứ mệnh đó, Người đã vận dụng một cách sáng tạo phương pháp biện chứng trong điều kiện lịch sử - cụ thể ở Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Điều này được chứng minh hùng hồn qua những thắng lợi rực rỡ trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Qua nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh trong đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam, tôi xin nêu ra một vài kết luận sau: Thứ nhất, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng là một chỉnh thể thống nhất với tư tưởng triết học và phong cách của Người. Phương pháp là điều kiện để thực hiện tư tưởng triết học và biểu hiện ra ở phong cách. Phương pháp của Người bắt nguồn từ phương pháp biện chứng mác-xít nhưng được nảy mầm trên mảnh đất hiện thực Việt Nam; xuất phát từ thực tế Việt Nam mà giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó đóng vai trò là phương pháp luận chung chỉ đạo Hồ Chí Minh trong nhận thức và hành động trên tất cả các lĩnh vực. Tuy không để lại một tác phẩm nào nói về phương pháp biện chứng nhưng trong phương pháp nhận thức xem xét vấn đề và hành động cách mạng ta có thể tìm thấy ở tinh thần biện chứng sáng tạo, do vậy nó mang một sắc thái độc đáo riêng. Thứ hai, nguyên tắc bao trùm trong việc vận dụng phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam là luôn xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy đó làm tiêu chuẩn trong quá trình chỉ đạo, hoạch định đường lối, chiến lược, cách làm, bước đi và phương pháp cách mạng. Với Hồ Chí Minh, bất cứ việc gì to hay nhỏ cũng xuất phát từ yêu cầu thực tế thiết thực, có ích, không phù phiếm, khoa trương hình thức. Phải bám sát thực tiễn, nhận thức và hành động phải đạt tới chỗ thấy cho hết, nhìn cho thấu; thà biết ít nhưng chính xác, tỉ mỉ, cụ thể, sâu sắc tận bản chất của vấn đề. Thực tiễn là NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 58 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng điểm xuất phát cũng là nơi trở về của nhận thức. Thực tiễn đó phải được phân tích bởi lý luận khoa học, bởi vậy Người nói: “Thực hành sinh hiểu biết, hiểu biết sinh lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành” [2,34]. Thứ ba, sự độc đáo trong việc vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh là sự linh hoạt đối phó với mọi tình huống cụ thể để đấu tranh cho mục tiêu cuối cùng, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Đó là sự quán triệt nguyên tắc khách quan, nguyên tắc lịch sử, nguyên tắc cụ thể,... trong mọi hoạt động cách mạng của Người. Người rất linh hoạt trong việc đề ra biện pháp, bước đi, cách làm; thiên biến vạn hoá cho phù hợp với mọi tình thế đang thay đổi khó lường nhưng phải trung thành với nguyên tắc, lập trường, quan điểm. Đó là bản lĩnh của một nhà hoạt động cách mạng đầy mưu lược, sáng suốt, tài ba trong tiến trình cách mạng đầy phức tạp, lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Thứ tư, với Hồ Chí Minh, cách mạng muốn nắm chắc phần thắng thì mọi vấn đề của cách mạng phải được xem xét một cách toàn diện, đánh giặc bằng tất cả lực lượng, mọi hình thức, mọi phương tiện và trên tất cả các lĩnh vực. Do đó, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng còn thể hiện ra ở phương pháp tập hợp lực lượng, dựa chắc vào khối đại đoàn kết toàn dân với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, đồng thời tranh thủ tất cả các điều kiện làm đòn bẩy cho thắng lợi của cách mạng. Đây là tư tưởng về phương pháp “đúng quy luật, thuận lòng dân và hợp thời đại”. Thứ năm, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ không chỉ là lý luận khoa học quân sự mà còn là nghệ thuật tác chiến. Nghệ thuật đó thể hiện là sự tinh xảo trong xem xét thế và lực, đoán đúng và kịp thời nắm bắt thời cơ, lấy đà thực hiện bước nhảy để đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Binh pháp Tôn Tử có nói rằng, “Biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng”. Trong cuộc chiến không cân sức với những tên đế quốc sừng sỏ, nếu không biết dụng thế tăng lực, tranh thủ thời cơ thì phần thắng rất “èo uột” vì quy luật đấu tranh là “mạnh được, yếu thua”. Thế nên, Hồ Chí Minh rất chú trọng làm biến đổi tương quan so sánh lực lượng, biết thắng từng bước cho đúng, đồng thời dụng thế làm tăng lực lên nhiều lần và biết chọn thời cơ phát động khởi nghĩa thì nhất định thắng lợi. Đó là nghệ thuật của nền quân sự thô sơ đối phó với nền quân sự hiện đại. NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 59 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng Thứ sáu, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng thể hiện trong đấu tranh cách mạng là nghệ thuật phân tích và giải quyết đúng mâu thuẫn. Với Hồ Chí Minh, trong khi xem xét mọi vấn đề của cách mạng thì nguyên tắc không thể không tuân thủ là phải tìm ra mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng. Xác định đúng mâu thuẫn cơ bản của cách mạng, giải quyết nó một cách đúng đắn thì sự nghiệp cách mạng sẽ phát triển tiến lên. Thứ bảy, Hồ Chí Minh luôn quán triệt nguyên tắc phát triển trong đấu tranh cách mạng được thể hiện ra như là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng, tin vào con đường phát triển của cách mạng. Dù cuộc chiến tranh có gian khổ, chịu nhiều hy sinh, không cân sức nhưng nhất định chúng ta sẽ thắng lợi vì chúng ta chiến đấu cho sự chính nghĩa. Đồng thời không có một trở lực nào có thể ngăn chúng ta tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Bác nói: “Không có lực lượng nào ngăn được mặt trời mọc. Không có lực lượng gì ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên cũng không có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa xã hội phát triển” [2;21]. Niềm tin đó tạo nên sự lạc quan, bình tĩnh dù trong hoàn cảnh nào đi nữa. Đó là bí quyết của nhà cầm binh giỏi, một chủ thể nắm vững quy luật phát triển, nắm vững phương pháp nhận thức và hành động. Thứ tám, trong giai đoạn hiện nay, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng có một ý nghĩa, giá trị to lớn trong nhận thức và hành động cách mạng. Tuy nhiên, nó không phải là chìa khoá vạn năng để mở được tất cả các câu hỏi, cũng như câu trả lời của hiện thực đất nước mà nó là phương pháp tối ưu nhất, hiệu quả nhất để tìm ra câu trả lời xác đáng cho hiện thực sinh động của đời sống xã hội. Từ những kết luận rút ra trên đây, chúng tôi xin đề xuất một vài ý kiến như sau: Thứ nhất, do phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng có mối liên hệ chặt chẽ với tư tưởng triết học và phong cách của Người. Do đó, khi nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh cần nghiên cứu trong một chỉnh thể thống nhất với tư tưởng triết học và phong cách của Người. Có như vậy mới thấy được sự độc đáo nhưng rất bình dị của nó. Đúng như lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không làm ai choáng ngợp, mới gặp lần đầu mà ta thấy thân thiện từ lâu” [2;298]. NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 60 Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim Hồng Thứ hai, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng thấm sâu trong hành động, trong suy nghĩ, trong cách ứng xử với người và việc. Vì vậy, khi nghiên cứu về phương pháp biện chứng mà Người đã vận dụng thì không chỉ nghiên cứu qua các tác phẩm mà còn phải nghiên cứu trong quá trình thực tiễn hoạt động cách mạng của Người. Thứ ba, việc nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành một yêu cầu bức xúc, cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Nó còn là yêu cầu cơ bản, lâu dài, có tầm chiến lược quan trọng đối với việc xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, để làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà đặc biệt trong đó có vấn đề phương pháp cách mạng thật sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng trong công cuộc đẩy mạnh đổi mới toàn diện đất nước, chúng tôi nghĩ rằng, hiện nay, ngoài việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta cần học tập ở Người phương pháp nhận thức và hành động cách mạng. Do vậy, việc cán bộ, đảng viên phải thường xuyên theo học tập lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, rèn luyện phong cách làm việc khoa học theo gương Bác Hồ vĩ đại, nhạy bén linh hoạt với mọi biến đổi của đời sống hàng ngày là việc làm quan trọng và thường xuyên. Hơn nữa, trong tình hình hiện nay, chúng ta nên tổ chức lồng ghép nội dung giáo dục chính trị tư tưởng trong học sinh các trường trung học phổ thông với mức độ vừa phải để các em học sinh có thể tiếp thu và nâng cao nhận thức của mình, từ đó làm theo tấm gương đạo đức của Người. Song song đó, các đoàn thể, tổ chức khác ở địa phương, đặc biệt là cấp xã cũng nên thường xuyên mở các buổi sinh hoạt, nói chuyện về Hồ Chí Minh để qua đó tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đạo đức, tấm gương của Hồ Chí Minh sâu rộng trong nhân dân. Thứ tư, tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh rất rộng, bao quát trên nhiều lĩnh vực. Trong khuôn khổ đề tài này, tôi chỉ tìm hiểu trong lĩnh vực đấu tranh cách mạng. Các tác giả khác có thể nghiên cứu các lĩnh vực khác và nếu có điều kiện tôi cũng sẽ quay lại tiếp tục nghiên cứu vấn đề này sâu hơn. NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 61 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] A.P.Sep-tu-lin - Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, 1997. [2] Hoàng Chí Bảo - Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị Quốc gia Hà Nội, 2002. [3] Ngô Thành Dương - Một số khía cạnh về phép biện chứng duy vật, Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, 1986. [4] Lê Duẩn - Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Tiền Phong, 1970. [5] Nguyễn Đức Đạt - Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2005. [6] Võ Nguyên Giáp - Một số vấn đề về nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Công an nhân dân, 2004. [7] Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. [8] Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (hệ lý luận chính trị cao cấp), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. [9] Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. [10] Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. [11] Lê Mậu Hãn - Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003. [12] Trần Viết Hoàn, Lê Kim Dung - 105 lời nói của Bác Hồ, Khu di tích Phủ Chủ Tịch, 1995. [13] Đặng Xuân Kỳ - Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, 2002. [14] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. [15] Đinh Cảnh Nhạc – Tạp chí triết học số ra ngày 5/7/2006. [16] Lê Hữu Nghĩa - Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội, 2000. [17] V.I.Lê-nin - Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1974. [18] Nguyễn Ái Quốc - Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb Sự Thật, Hà Nội,1975. [19] Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004. [20] Song Thành - Một số vấn đề về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997. [21] Trần Dân Tiên - Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Trẻ, 2007. [22] Triết học Mác-Lênin (chương trình cao cấp), Nxb Sách giáo khoa Mác- Lênin, 1981. [23] Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1975. [24] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Lý luận chính trị, 2002. Các trang web i. ii. iii. iv. v.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1248.pdf