Theo Hiệp định, các ngân hàng Hoa Kỳ sẽ được mở rộng phạm vi hoạt động, cung cấp nhiều dịch vụ, sản phẩm ngân hàng mới tại thị trường Việt Nam và các dịch vụ ngân hàng thương mại quốc tế (bảo lãnh, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bao thanh toán). Trình độ công nghệ thông tin sẽ cho phép các ngân hàng Hoa Kỳ chiếm ưu thế hơn so với các ngân hàng Việt Nam trong việc cung cấp thông tin tài chính và xử lý các dữ liệu tài chính cả các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác. Hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ phải đương đầu với những khó khăn, thách thức mới. Các hạn chế về vốn, trình độ quản lý kinh doanh, tình trạng yếu kém về tài chính, sự bất cập của hệ thống pháp luật
Việc hoàn thành thủ tục phê chuẩn làm cho Hiệp định có liệu lực kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2000 đã tác động không nhỏ tới hệ thống pháp luật nói chung cũng như pháp luật ngân hàng nói riêng, đặt ra hàng loạt các vấn đề pháp lý mới cần được quan tâm nghiên cứu, xây dựng và thực hiện. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thì ngân hàng và tài chính là một trong số các lĩnh vực bị Hiệp định tác động tới nhiều nhất. Căn cứ vào những cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính ngân hàng trong Hiệp định có thể đánh giá bước đầu những tác động của Hiệp định đối với hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam thông qua một số các vấn đề như sau:
Thứ nhất, các thoả thuận của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ sẽ làm thay đổi môi trường kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới. Do vậy, Nhà nước cần xây dựng chương trình hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng với phương châm làm lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng Việt Nam, tiến dần đến các chuẩn mực quốc tế, xem xét để có lộ trình giảm dần các hạn chế đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động trong việc xác lập một thị trường tiền tệ chung, hoạt động thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Cần nhanh chóng xây dựng các thể chế hỗ trợ thị trường để thị trường tiền tệ được hoạt động và vận hành trong thể thống nhất, tác động tương hỗ với quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, cần sớm tổ chức và triển khai công tác rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về ngân hàng để sớm có kế hoạch sửa đổi, bổ sung, xây dựng các văn bản mới cho phù hợp với các cam kết trong Hiệp định. Đây là một tác động lớn nhất, bao trùm đến hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung cũng như hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam nói riêng. Điều này đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực bởi vì so với một vài nước khác, Việt Nam có nhiều khó khăn hơn trong việc tiến hành sửa đổi luật pháp của mình. Ở Hoa Kỳ và Mêhicô, nghị viện (quốc hội) có thể ban hành một đạo luật đơn lẻ mới, trong đó sửa đổi tất cả những đạo luật hiện hành có yêu cầu phải sửa đổi để thực thi một hiệp định thương mại, ví dụ Luật thi hành Hiệp định Tự do Thương mại Bắc Mỹ ở Hoa Kỳ. Hoặc cũng có thể đưa vào luật một điều khoản quy định “Luật này thay thế bất kỳ một luật nào được ban hành trước đây mà nay không còn phù hợp”. Ngược lại, Việt Nam phải sửa đổi riêng rẽ từng đạo luật có yêu cầu phải sửa đổi để đảm bảo phù hợp với một Hiệp định thương mại.
81 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoàn thiện các dịch vụ của ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc về các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của ngân hàng thương mại còn mạng nặng tính chất hành chính, bao cấp, thiếu đồng bộ, thậm chí còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau, gây khó khăn nhất định cho hoạt động của ngân hàng.
Khả năng biến động của nền kinh tế thế giới gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại:
Năm 2001, tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động bất thuận, kinh tế các nước lớn đều suy giảm mạnh, kinh tế Mỹ đứng đầu thế giới đã bị suy thoái kéo dài từ cuối thế kỷ 20 đến nay vẫn trì trệ và còn chứa đựng nhiều bất ổn, kinh tế Nhật suy giảm nghiêm trọng làm cho các ngân hàng Nhật đã phải duy trì lãi suất bằng không (0). Chính phủ Nhật đã dùng nhiều phương sách như: cắt giảm chi tiêu ngân sách, đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài, duy trì sự giảm giá đối ngoại của đồng Yên nhằm khuyến khích xuất khẩu, song cả một năm trời dường như không thấy dấu hiệu chuyển biến. Bên cạnh đó, các nước châu á, ngoại trừ kinh tế Trung Quốc đang nóng, còn hầu hết các nước đều có khó khăn. Kinh tế khu vực đồng Euro cũng không lấy gì làm sáng sủa. Do kinh tế thế giới giảm sút nên chính sách tiền tệ của các nước, đứng đầu là Mỹ, hầu hết đều tập trung vào kích cầu và tăng đầu tư, dùng công cụ lãi suất để đẩy vốn tín dụng nhằm tăng trưởng kinh tế. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã cắt giảm lãi suất chủ đạo cho vay 11 lần, từ mức 6,5%/năm xuống còn 1,75%/năm, nhưng kinh tế Mỹ vẫn chưa hồi phục một cách chắc chắn.
Năm 2001 cũng là năm thương trường quốc tế có nhiều biến động lớn về giá cả các hàng hoá, đặc biệt là một số hàng hoá xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: cao su, cà phê, hạt điều, gạo .v.v. Điều này cũng ảnh hưởng đến kinh tế và hoạt động kinh doanh ngân hàng của nước ta. Mặc dù kinh tế trong nước năm 2001 vẫn tăng trưởng 6,8%, sản xuất công nghiệp tăng 14,5%, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 16%, thu ngân sách tăng 7,4%... nhưng nhận định tình hình biến động kinh tế thế giới trong năm 2001 có thể còn tiếp tục sang năm 2002, sẽ là những thách thức không nhỏ đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng. Năm nay, sự cạnh tranh càng quyết liệt hơn giữa các ngân hàng thương mại ở trong nước. Hiện nay đã có hiện tượng giành giật khách hàng của nhau bằng nhiều phương pháp như tiếp cận khách hàng chào lãi suất thấp, thanh toán tỷ giá hời, giảm phí và hoa hồng cho khách hàng ...
Thách thức đặt ra từ Hiệp định thương mại Việt Mỹ:
Hiệp định giữa Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại (gọi tắt là hiệp định thương mại Việt-Mỹ) được đại diện của hai chính phủ ký ngày 13/7/2000 và được Quốc hội nước Việt Nam phê chuẩn ngày 28/11/2001. Bản hiệp định có hiệu lực vào ngày 10/12/2001 đã kết thúc giai đoạn sau 5 năm đàm phán, vừa thể hiện quan hệ hợp tác, vừa cạnh tranh, đã đánh dấu việc quá trình bình thường hoá giữa hai nước, là bước phát triển quan trọng của Việt Nam trong tiến trình từng bước hội nhập khu vực và quốc tế, chuẩn bị các điều kiện và tiền đề cần thiết để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Các cam kết của Việt Nam về lĩnh vực tài chính ngân hàng được đề cập chủ yếu tại chương III Thương Mại Dịch Vụ (cam kết chung). Các cam kết cụ thể về ngành dịch vụ tài chính ngân hàng được thể hiện tại phụ lục F và G. Ngoài những nội dung liên quan đến thương mại hàng hoá, các vấn đề về thương mại dịch vụ, trong đó có dịch vụ tài chính ngân hàng chiếm một vị trí khá quan trọng. Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng trước hết sẽ là việc thực hiện những cam kết chủ yếu về dịch vụ ngân hàng, bao gồm: cho phép các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua các hình thức pháp lý. Trong vòng 3 năm kể từ khi có hiệu lực, các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ khác (ngoài ngân hàng và công ty thuê mua tài chính) có thể cung cấp các dịch vụ tài chính tại Việt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó, hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Sau 9 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong thời gian 9 năm đó, các ngân hàng Hoa Kỳ có thể thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần vốn góp của đối tác Hoa Kỳ không dưới 30% nhưng không được vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
Như vậy, theo Hiệp định, Việt Nam sẽ phải loại bỏ dần các hạn chế đối với các ngân hàng Hoa Kỳ. Điều này có nghĩa là các ngân hàng Hoa Kỳ sẽ từng bước tham gia vào mọi lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến cũng như nguồn tài chính dồi dào của các ngân hàng Hoa Kỳ sẽ là những ưu thế cơ bản tạo ra những sức ép cạnh tranh trong ngành ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam phải đầu tư thêm vào kỹ thuật, cải tiến phương thức quản trị và hiện đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh. Trong giai đoạn đầu tiên, thách thức về cạnh tranh đối với các ngân hàng Việt Nam là đáng kể, đặc biệt đối với các ngân hàng có những nội dung, phạm vi hoạt động trung với lĩnh vực hoạt động có ưu thế của các ngân hàng Hoa Kỳ như: thanh toán quốc tế, đầu tư dự án, tài trợ thương mại và các khách hàng trọng tâm của ngân hàng Hoa Kỳ, như các doanh nghiệp lớn của nhà nước, các doanh nghiệp xuất khẩu lớn.
Không những thế, các ngân hàng Hoa Kỳ còn có khả năng lớn hơn trong việc tiếp cận với các hoạt động của Ngân hàng Trung ương trên các thị trường liên ngân hàng, thị trường ngoại hối. Việc này sẽ có những sức ép nhất định đối với hoạt động quản lý của Ngân hàng Trung ương, đặc biệt khi các thị trường này hoạt động mạnh mẽ hơn và khi các ngân hàng Hoa Kỳ được tiếp cân với nghiệp vụ tái chiết khấu tại Ngân hàng Trung ương.
Ngoài ra, có một loạt các loại hình nghiệp vụ mới chưa được thực hiện tại Việt Nam hoặc chưa có quy định điều chỉnh nhưng đã được cam kết tại Hiệp định, cho phép các tổ chức tín dụng Hoa Kỳ được thực hiện. Điều này sẽ buộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải khẩn trương nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nghiệp vụ mới, để làm cơ sở cho hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với việc cung cấp các dịch vụ này. Đây là những lĩnh vực mà các tổ chức tín dụng Hoa Kỳ sẽ có ưu thế hơn hẳn các ngân hàng Việt Nam.
Trong trường hợp các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thực hiện cả những hoạt động kinh doanh chứng khoán như quản lý quỹ đầu tư hoặc tham gia vào việc thanh toán bù trừ các tài sản tài chính, họ cũng sẽ có phạm vi hoạt động rộng hơn hẳn các ngân hàng Việt Nam hiện nay và sẽ có những ưu thế rõ rệt so với các ngân hàng trong nước trong việc đa dạng hoá hoạt động của mình. Đồng thời, việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng Hoa Kỳ sẽ phức tạp hơn hiện nay và đòi hỏi có sự phối hợp quản lý của nhiều cơ quan, chứ không chỉ Ngân hàng Nhà nước.
Bên cạnh đó, các ngân hàng Việt Nam còn gặp phải một số khó khăn khác như về mặt pháp lý: hệ thống pháp luật trong nước còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất quán, chưa thích hợp với các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, đối với các ngân hàng Việt Nam một số khái niệm, thuật ngữ cũng như dịch vụ được quy định trong hiệp định còn quá mới mẻ, xa lạ. Ngoài ra, tính cộng đồng của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn kém, thói quen hợp tác trong hoạt động chưa hình thành; chưa có những ngân hàng và tập đoàn tài chính lớn, đủ mạnh, đủ lực để hoạt động không những tại thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế.
Thêm vào những khó khăn kể trên, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng đòi hỏi được đối xử bình đẳng như các ngân hàng Hoa Kỳ.
Như vậy, có thể thấy rằng tương lai cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng sẽ không kém phần khốc liệt. Trong khi đó, nhìn nhận đánh giá về thực trạng hệ thống ngân hàng Việt Nam không phải không có những băn khoăn. Hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam rất đa dạng về loại hình, về sở hữu. Các tổ chức tín dụng tuy số lượng nhiều nhưng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như: quy mô nhỏ, số vốn điều lệ thấp, mạng lưới chi nhánh và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn kém; mức độ an toàn thấp, công nghệ trang thiết bị và hệ thống thông tin còn lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chương III
Những kiến nghị nhằm nâng cao
Năng lực cạnh tranh
của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Định hướng chung:
Trước một thực tế của xu thế toàn cầu hoá, từng quốc gia nói chung và đối với Việt Nam nói riêng, cách lựa chọn duy nhất chỉ có thể là: “Lối đi, bước đi”, lộ trình thực hiện sao cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình. Trong mọi lĩnh vực, hội nhập đều rất phức tạp. Nhưng hội nhập về hoạt động tài chính nói chung, hội nhập về hoạt động ngân hàng nói riêng có độ phức tạp, nhạy cảm cao nhất. Kinh nghiệm từ thực tiễn của các nước đi trước cho thấy: hội nhập về lĩnh vực tài chính, ngân hàng phải được tiến hành một cách thận trọng, không nóng vội được; có thể nói: Nó là khâu hội nhập gần như là cuối cùng của mọi lĩnh vực hội nhập.
Thử làm một phép so sánh đơn giản giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay với các ngân hàng thương mại ở các nước phát triển trên một số tiêu chí để thấy thực trạng của các ngân hàng thương mại Việt Nam, từ đó có giải pháp tương thích, tổng thể chuẩn bị cho các ngân hàng thương mại Việt Nam bước vào thời kỳ cạnh tranh hoàn toàn bình đẳng với các ngân hàng nước ngoài ngay tại thị trường trong nước. Những tiêu chí đó như:
- Tiềm lực tài chính mạnh (không chỉ đối với ngân hàng mẹ mà còn ở ngân hàng chi nhánh)
- Cơ chế nghiệp vụ kinh doanh đa năng theo qui luật thị trường, hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận.
- Kỹ thuật và kinh nghiệm kinh doanh lâu đời
- Công nghệ hiện đại, trình độ kinh doanh tiên tiến, sản phẩm kinh doanh đa dạng ...
Có thể khẳng định, chỉ minh dẫn một số tiêu chí trên đã thấy các ngân hàng thương mại Việt Nam thua kém xa so với các ngân hàng thương mại ở các nước phát triển.
Mặt khác, môi trường nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng như các công cụ, phương thức hoạt động, cơ chế, luật pháp chung về hoạt động kinh doanh và liên quan tới môi trường kinh doanh còn ở mức sơ khai, đang hình thành dần. Đó là thực trạng hiện nay của nền kinh tế Việt Nam mà cần phải nhìn nhận một cách đúng mức, đồng thời cũng là những khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập.
Tuy nhiên, không thể đặt vấn đề giải quyết mọi việc còn bất cập ngay trong một thời gian ngắn mà phải chờ đủ các điều kiện mới có thể đổi mới toàn diện để đi vào hội nhập được. Điều đặt ra trước mắt là phải làm dần từng bước, những gì có thể làm được nhanh, làm được trước thì khẩn trương thực hiện, không chờ đợi có đủ các điều kiện mới làm. Chẳng hạn, hiện nay các văn bản pháp qui cao nhất điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng là Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Hai luật này đã góp phần có hiệu quả tạo ra môi trường pháp lý cho các tổ chức tín dụng thực hiện việc kinh doanh. Tuy nhiên, đến nay cũng bộc lộ nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, với xu thế hội nhập, cần được sớm nghiên cứu tháo gỡ trước để tạo cho các văn bản hướng dẫn khác, hoặc các văn bản pháp qui có liên quan khác có lối tháo gỡ. Thậm chí, khi xây dựng văn bản mới như nghị định, quyết định vẫn phải dựa vào căn cứ hai luật đó, mặc dù biết rằng có nội dung không còn phù hợp. Do đó, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần phải chỉnh sửa hai Luật trên và các văn bản dưới luật có liên quan đến nội dung, phạm vi, cấp phép hoạt động, quyền hạn và trách nhiệm của các ngân hàng nước ngoài; xây dựng và hoàn thiện các cơ chế về thương mại điện tử, thanh toán điện tử trong phạm vi nền kinh tế nói chung và đối với ngân hàng nói riêng; xây dựng và sớm đưa các công cụ giấy tờ có giá vào thương trường hoạt động, cơ chế tổ chức thanh toán bù trừ các tài sản tài chính (giấy tờ có giá) trong phạm vi toàn quốc cũng như giữa các tổ chức tài chính tiền tệ để các ngân hàng nội địa có điều kiện thực nghiệm cơ chế mới, chuẩn bị cho bước hội nhập theo lộ trình cam kết; mạnh dạn và kiên quyết xây dựng cơ chế mở rộng quyền và tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng thương mại nội địa và triển khai trong thực tế để có điều kiện cọ xát, trưởng thành; xây dựng cơ chế về tăng vố tự có, tăng vốn tích luỹ, tăng cường đầu tư kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại cho các ngân hàng có đủ sức cạnh tranh tự do, bình đẳng trên thương trường. Ngoài ra, các văn bản, luật pháp có liên quan khác như Luật đầu tư, Luật đất đai, Luật phá sản, Luật xử phạt vi phạm pháp luật... cũng cần hoàn thiện theo yêu cầu mới.
Đối với các ngân hàng thương mại cũng vậy. Kinh tế thị trường tất yếu đòi hỏi mỗi ngân hàng thương mại cần có chính sách, chiến lược và phương pháp kinh doanh riêng cho mình trong từng thời gian sao cho có hiệu quả và chất lượng cao. Do đó, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải cải tiến phương pháp kinh doanh, tác phong công nghiệp hoá, nâng cao chất lượng phục vụ, dịch vụ kinh doanh, đảm bảo nhanh, chính xác, giá cả hời chứ không thể duy trì phong cách cửa quyền hoặc chờ đợi cái phao cơ chế của Nhà nước cứu trợ.
Một thời gian ngắn nữa, các ngân hàng thương mại đều phải hội nhập kinh doanh với các ngân hàng quốc tế và khu vực. Vậy thì không có lý do gì mà không tự mình vươn lên nắm thời cơ và vận hành tốt ngay từ bây giờ, chuẩn bị cả kỹ năng tay nghề và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ trẻ của mình có đủ trình độ quản lý tốt, điều hành giỏi. Cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại thường biểu hiện trong các lĩnh vực: tăng giảm lãi suất một cách linh hoạt, áp dụng phương thức kinh doanh dịch vụ tổng hợp sao cho có lãi; không tính lãi từ đơn thầu tín dụng hay khâu thanh toán thẻ và kinh doanh ngoại tệ. Vấn đề là kết hợp toàn diện các khâu trong kinh doanh nhưng biểu hiện rõ nét vẫn là điều hành lãi suất, tỷ giá, phí và chi phí hoa hồng, mở rộng dịch vụ thu hút khách hàng. Muốn cạnh tranh cao phải ứng dụng công nghệ tiên tiến để cung cấp cho khách hàng các sản phẩm mới, giá thành thấp và thái độ phục vụ tận tình, chu đáo, tin cậy. Cạnh tranh là quyết liệt, cạnh tranh bảo đảm sinh tồn và phát triển ngân hàng trong môi trường kinh tế thực sự. Song để đảm bảo cạnh tranh đúng ý nghĩa động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội còn đòi hỏi Nhà nước, luật pháp của nhà nước quy định các hành lang pháp lý hoàn toàn bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại trong kinh doanh, không tách rời sự quản lý của nhà nước, Ngân hàng Nhà nước với các chính sách kinh tế vĩ mô.
Kiến nghị chung đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước:
Về phía Chính phủ : Rà soát, chỉnh sửa và xây dựng mới các cơ chế liên quan đến hoạt động của các ngân hàng thương mại, bao gồm:
Thứ nhất, Nhà nước cần ban hành và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh và phát triển nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại:
Sửa đổi Pháp lệnh Kế toán Thống kê. Bổ sung những quy định mới về lập chứng từ kế toán, hạch toán, ghi sổ phù hợp với những dịch vụ tài chính được thực hiện bằng công nghệ quản lý, thanh toán qua hệ thống vi tính - điện toán theo chuẩn mực quốc tế; đặc biệt là các chứng từ của ngân hàng điện tử, chữ ký điện tử.
Cần quy định rõ bằng pháp luật đối với các chứng từ, hoá đơn thanh toán dịch vụ ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước quản lý và ban hành mẫu biểu thống nhất, không dùng hoá đơn mua bán hàng hoá thông thường do Bộ tài chính phát hành như các doanh nghiệp khác.
Ban hành chế độ khấu hao nhanh các trang thiết bị thuộc hệ thống ngân hàng.
Pháp luật công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, quy định mức độ mã khoá được đăng ký và sử dụng cho các thành phần tham gia hoạt động thương mại điện tử; đồng thời công nhận giá trị chứng cứ của văn bản điện tử ở các hợp đồng thương mại, hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, chào hàng, chấp nhận và xác nhận mua hàng.
Thứ hai, cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các ngân hàng thương mại hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế đất nước.
Chính phủ cần cho phép các ngân hàng thương mại được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước như các doanh nghiệp khác (trong đầu tư hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ để phát triển các dịch vụ ngân hàng quan trọng và thiết yếu). Ngoài việc dùng vốn tự có để đầu tư, cho phép các ngân hàng thương mại vay vốn dài hạn như các doanh nghiệp khác.
Tăng vốn điều lệ và cấp vốn cho ngân hàng thương mại đầu tư công nghệ hiện đại.
Cho phép Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ tài chính thành lập “Quỹ hiện đại hoá ngân hàng” để tập trung nguồn tài chính đầu tư cho việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Các nguồn hình thành Quỹ có thể một phần do ngân sách Nhà nước bố trí riêng, một phần từ kinh phí có nguồn gốc ngân sách như: kinh phí hiện đại hoá và phát triển công nghệ tin học; kinh phí đào tạo trong và ngoài nước; một phần trích từ lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng thương mại; một phần từ phát hành trái phiếu trung và dài hạn có khả năng chuyển đổi và cấp trở lại cho hiện đại hoá.
Thứ ba, hoàn thiện môi trường kinh tế, tạo môi trường đầu tư thông thoáng:
Tiếp tục sắp xếp, đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chỉ giữ lại những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, mà các thành phần kinh tế khác chưa đủ năng lực, hoặc không thể đảm đương được. Tăng cường việc giải toả vốn bị đóng băng trong các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả; rút vốn đầu tư ra khỏi doanh nghiệp không thuộc các lĩnh vực xương sống của nền kinh tế. Thông qua tiến hành chuyển dịch sở hữu, xã hội hoá tài sản cũng là biện pháp tạo vốn quan trọng cho Nhà nước. Bằng cách này, Nhà nước vừa trút bỏ gánh nặng trợ cấp; vừa giải phóng vốn khỏi những hoạt động, những khu vực có hiệu quả kinh tế thấp, để đầu tư vào những dự án có khả năng sinh lời và hiệu quả hơn đối với nền kinh tế. Cùng với việc cổ phần hoá, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của khối doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện công tác kiểm tra kiểm toán theo các tiêu chuẩn quốc tế để có các thông tin công khai, minh bạch về tình hình tài hính các doanh nghiệp, giúp ngân hàng có thông tin chính xác để có các quyết định đầu tư đúng đắn và giúp Nhà nước có những căn cứ tin cậy để nghiên cứu hoạch định chủ trương, chính sách.
Thứ tư, cần có những chính sách đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển bưu chính viễn thông và Internet, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện đa dạng hoá dịch vụ:
Quy định trả lương cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp Nhà nước thông qua tài khoản của họ ở ngân hàng hay ban hành những bộ luật đảm bảo quyền lợi của người dân khi họ gửi và mở tài khoản tại ngân hàng. Trước mắt, sớm có Nghị định về thanh toán qua ngân hàng để thay thế nghị định số 91/CP ngày 25/11/1993 về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt đã quá lạc hậu. Đồng thời, Chính phủ cần cho phép Ngân hàng Nhà nước thay đổi mệnh giá đồng tiền phát hành, phát hành thêm tiền kim khí để có thể sử dụng được qua các máy tự động (khi sử dụng các máy tự động, khách hàng muốn nạp tiển vào tài khoản qua máy thì tiền phải in lại để máy có thể nhận dạng được) .v.v. nhằm đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, nhất là trong dân cư.
Sự phát triển của Bưu chính viễn thông, của Internet là tiền đề, là cơ sở để ngân hàng thương mại hiện đại hoá công nghệ và phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại. Nhưng hiện nay, các ngân hàng thương mại đang phải thuê bao đường truyền dẫn với mức phí quá cao, lại chưa thật nhanh, chuẩn xác và an toàn; trong khi vốn pháp định và nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các ngân hàng còn nhỏ, nên các ngân hàng thương mại rất khó khăn trong việc hiện đại hoá công nghệ mới và phát triển thêm dịch vụ. Mặt khác, phí thuê bao và sử dụng Internet của Việt Nam hiện nay còn quá đắt, không khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân sử dụng Internet. Tình trạng này khiến cho thương mại điện tử và dịch vụ ngân hàng qua mạng của các ngân hàng thương mại Việt Nam trở nên khó khăn. Do vậy, phát triển bưu chính viễn thông và Internet không chỉ là vấn đề của riêng ngành Bưu chính viễn thông mà còn là một nội dung quan trọng cần được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước.
Thứ năm, đề nghị Nhà nước cho triển khai việc thành lập ngân hàng chính sách là các ngân hàng chuyên phục vụ cho các chính sách kinh tế xã hội của chính phủ, không nhằm mục đích kinh doanh.
Các khoản cho vay phi thương mại tại các ngân hàng thương mại như: cho vay sinh viên, cho vay các hộ nghèo, cho vay trồng rừng, cho vay làm nhà trên cọc, khắc phục hậu quả bão lụt, cho vay các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ .v.v. cần được chuyển sang ngân hàng chính sách, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại phát triển các nghiệp vụ kinh doanh theo nguyên tắc thị trường.
Đối với Ngân hàng Nhà nước:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần bổ sung, hoàn thiện các chính sách, cơ chế thúc đẩy phát triển nghiệp vụ ngân hàng:
Trên cơ sở các luật của Nhà nước như Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng,.. cần nhanh chóng xây dựng hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống các văn bản hướng dẫn dưới luật về hoạt động ngân hàng để các ngân hàng thương mại thực hiện. Các văn bản hướng dẫn vừa không trái luật, vừa tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại hoạt động trong điều kiện cụ thể của nước ta và xu thế hội nhập quốc tế.
Sửa đổi và hoàn thiện cơ chế thanh toán để đáp ứng yêu cầu đổi mới các cơ chế nghiệp vụ khác. Nghiên cứu tạo môi trường cho phép sử dụng các phương thức thanh toán hiện đại.
Ban hành cơ chế phát hành và sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng .v.v. nhằm giúp các ngân hàng thương mại nhanh chóng triển khai các dịch vụ thanh toán thẻ có hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước cần thành lập Hiệp hội thẻ Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước như một Tổ chức quản lý, một Trung tâm thanh toán giữa các ngân hàng.
Ban hành những cơ chế về quản lý dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện phát triển hệ thống dịch vụ của các ngân hàng thương mại. Giao quyền cho các ngân hàng thương mại quyết định các loại dịch vụ cần thu phí, mức thu phí của từng loại dịch vụ theo nguyên tắc thương mại. Ngân hàng Nhà nước không nên ban hành biểu phí dịch vụ làm mất tính cạnh tranh.
Thứ hai, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, hoàn thiện kỹ thuật công nghệ và cơ chế quản lý các Trung tâm thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước cần đi trước trong thực hiện hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Tập trung đầu tiên, mạnh mẽ vào công tác thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao chất lượng các phương tiện và công cụ thanh toán.
Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các ngân hàng thương mại tự đầu tư, hợp tác liên kết và vay vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước cần thiết lập các Trung tâm thanh toán bù trừ theo khu vực và quốc gia; đồng thời hiện đại hoá công nghệ thanh toán tiến tới thực hiện thanh toán bù trừ tự động.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường mở, đa dạng các công cụ, chứng chỉ có giá giao dịch tại thị trường mở như: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu công trình… tạo cho thị trường này hoạt động sôi động hơn, trở thành hậu thuẫn vững chức cho việc đảm bảo thanh khoản và là cơ sở để phát triển nghiẹp vụ tín dụng, chiết khấu thương phiếu và đầu tư của các ngân hàng thương mại.
Thứ tư, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của thị trường tiền tệ để các ngân hàng thương mại có thị trường phát triển nghiệp vụ đầu tư và tiếp ứng vốn khi cần thiết.
Về tổ chức triển khai, thực hiện:
Cần tổ chức thành các bộ phận chuyên trách trong từng lĩnh vực, từng loại hình công việc theo chương trình thực hiện để rà soát, soạn thảo cơ chế, tổ chức hội thảo lấy ý kiến, nghiệm thu, đưa vào thực nghiệm; từ triển khai thí điểm đến mở rộng dần, nhất là đối với những vấn đề liên quan đến chính sách mới và công nghệ mới. Đồng thời phải thực hiện việc giám sát, đôn đốc kiểm tra nghiêm túc việc thực hiện.
Kiến nghị đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam:
Hoạch định và lựa chọn chiến lược phát triển dịch vụ phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi ngân hàng:
Việc mở rộng, phát triển hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng không thể coi là vấn đề ngắn hạn, nhất thời, vì nó trước hết là mục tiêu phát triển xã hội lâu dài; hơn nữa dịch vụ ngân hàng, nhất là những dịch vụ hiện đại đòi hỏi lượng đầu tư ban đầu rất lớn. Vì vậy, mỗi ngân hàng thương mại phải dựa vào lợi thế và khả năng của mình để hoạch định chiến lược phát triển dịch vụ một cách thích hợp, chính xác. Trên cơ sở đó, xác định hướng đầu tư, mức đầu tư và lựa chọn công nghệ cho hợp lý.
Đặc biệt, các ngân hàng thương mại ở nước ta nên tiến hành đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện các dịch vụ theo phương châm: khai thác triệt để ưu thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng, của từng chi nhánh trong từng vùng, từng địa phương. Trước hết là hoàn thiện phát triển các nghiệp vụ, dịch vụ hiện có; đồng thời triển khai thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ mà xã hội, nền kinh tế đang cần và ngân hàng mình có điều kiện thực hiện ngay. Tiếp đến là mở ra những nghiệp vụ, dịch vụ mang tính định hướng thị trường, sau khi đã đầu tư đổi mới, cải tiến kỹ thuật công nghệ.
Cấu trúc lại bộ máy tổ chức:
Các ngân hàng thương mại cần có những đổi mới cơ bản về tổ chức và bộ máy hoạt động theo mô hình của ngân hàng thương mại hiện đại, phù hợp với tính chất kinh doanh tinh gọn để thích ứng nhanh với môi trường kinh doanh trong cơ chế thị trường, đủ điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế.
Đối tượng khách hàng của ngân hàng thương mại kinh doanh đa năng không chỉ là những doanh nghiệp Nhà nước và dân doanh; mà phải mở rộng đến mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Từng đối tượng khách hàng có những yêu cầu mang tính đặc thù riêng; do vậy, các ngân hàng phải cấu trúc theo hướng hình thành một hệ thống phân phối dịch vụ bán lẻ, vừa đảm bảo khả năng cung ứng dịch vụ một cách tiện lợi cho từng đối tượng, vừa đảm bảo khả năng quản lý một cách thông suốt.
Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới và hoàn thiện kỹ thuật công nghệ ngân hàng, phục vụ mục tiêu tự động hoá dịch vụ ngân hàng.
Kỹ thuật công nghệ ngân hàng sẽ hỗ trợ đắc lực cho các ngân hàng thương mại trong việc nâng cao chất lượng các dịch vụ kinh doanh; từ đó tạo ra sức cạnh tranh cao trong nền kinh tế thị trường; đồng thời kỹ thuật công nghệ ngân hàng hiện đại còn tạo điều kiện cho các ngân hàng thực hiện đa dạng hoá dịch vụ.
Triển khai thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ mới:
Các ngân hàng thương mại cần triển khai thực hiện các dịch vụ mới phù hợp với điều kiện, khả năng của mình và nhu cầu của nền kinh tế, chẳng hạn như thu thập các kiến thực về thị trường, lập các dự báo giúp khách hàng hiểu các xu hướng về tiêu dùng, về các thách thức, rủi ro... tại các thị trường mà khách hàng có thị phần hoặc chuẩn bị ký kết các đơn hàng. Thực hiện phương châm trực tiếp hoặc gián tiếp giúp khách hàng của ngân hàng thành đạt cũng là nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong kinh doanh. Điều đó có nghĩa là ngân hàng cần tích cực nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, cải tiến và tiếp thị sản phẩm nhằm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mở ra các sản phẩm mới thị trường mới, thoả mãn và nâng cao nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể đặt hàng nghiên cứu với các chuyên gia, các tổ chức chuyên môn về những vấn đề cần thiết nhằm giúp các ngân hàng thương mại trong việc hoàn thiện hoá dịch vụ cũng như đa dạng hoá thị trường. Các nghiên cứu cần giúp ngân hàng thương mại trả lời được các câu hỏi cần thiết để có được quyết định phù hợp. Chẳng hạn, để có quyết định về một thị trường mới hay một dịch vụ mới cần phải hiểu rõ được những vấn đề như: Sẽ thu được lợi gì qua dịch vụ mới đó hay thị trường mới đó; dịch vụ mới hay thị trường mới đó có phù hợp với mục đích khác đã xác định của ngân hàng thương mại mình hay không; nếu triển khai thì sẽ đặt ra những yêu cầu lớn gì về tiềm lực then chốt của ngân hàng thương mại ở các mặt: quản trị, điều hành, nhân viên, khả năng kinh doanh, tài chính ... và những yêu cầu này sẽ được đáp ứng như thế nào? Lợi nhuận dự kiến có đáng giá với những chi phí phải trả? Lựa chọn những phương pháp nào sẽ được sử dụng lúc khởi đầu .v.v. Trong cuộc chạy đua nhằm mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng cần phải cân nhắc tính toán về chi phí và hiệu quả của việc hợp tác trong đầu tư để giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
Tăng cường công tác thị trường, quảng cáo và marketing:
Đây là các biện pháp thu hút khách hàng để mở rộng và phát triển nghiệp vụ ngân hàng. Các ngân hàng có thể đẩy mạnh tiếp thị, quảng cáo, triển khai ứng dụng marketing để phát triển dịch vụ, đổi mới phong cách giao tiếp, phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình và nhanh chóng; thực hiện đúng khẩu hiệu “Khách hàng là Thượng đế”.
Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng
Các ngân hàng thương mại cần nhanh chóng tạo được một đội ngũ cán bộ giỏi cả chuyên môn, ngoại ngữ, đặc biệt là tin học để có thể tư vấn và thực hiện mọi yêu cầu của khách hàng về nghiệp vụ ngân hàng. Dĩ nhiên đội ngũ cán bộ này phải có những phẩm chất tốt như năng nổ, nhiệt tình, luôn học tập để không ngừng đổi mới kiến thức và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp ngang tầm tiêu chuẩn quốc tế. Để làm được điều đó, ngân hàng cần xây dựng lại mô hình tổ chức, tiêu chuẩn hoá cán bộ nhân viên theo hướng đáp ứng nhanh chóng, chính xác nhu cầu thị trường, nhấn mạnh khả năng thu thập, xử lý và khai thác thông tin. Xây dựng quy trình ra quyết định sao cho vừa khoa học vừa nhanh chóng để nắm bắt thời cơ kịp thời.
Tóm lại, tham gia cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi mỗi ngân hàng thương mại phải có chính sách và phương pháp kinh doanh riêng của mình phù hợp trong từng thời gian sao cho hiệu quả. Cần tiến hành xây dựng hệ tiêu chuẩn đánh giá an toàn kinh doanh nhằm mở rộng hoạt động vào khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực này rộng lớn, kinh doanh năng động, có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh mạo hiểm .v.v. nhưng cũng đưa lại nhiều lợi ích cho xã hội và nền kinh tế, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng khi mở rộng kinh doanh vào đây.
Những kiến nghị cụ thể về hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng Việt Nam trước tác động của hiệp định thương mại Việt-Mỹ
Các cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính ngân hàng theo Hiệp định thương mại Việt-Mỹ:
Các cam kết về hình thức pháp lý của tổ chức tín dụng Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam:
Theo mục V!B ii của phụ lục G, các ngành cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua các hình thức pháp lý sau:
Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ
Ngân hàng liên doanh Việt Nam-Hoa Kỳ
Công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ
Các tổ chức tín dụng Hoa Kỳ được cung cấp tại Việt Nam thông qua các hình thức pháp lý trên đây được Việt Nam cam kết đối xử quốc gia không hạn chế với những quy định ràng buộc về cấp phép và vốn như sau:
Để thành lập và hoạt động tại Việt Nam, chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ, ngân hàng con của Hoa Kỳ và ngân hàng liên doanh Việt Nam-Hoa Kỳ phải nộp đơn xin giấy phép.
Điều kiện để thành lập chi nhánh ngân hàng Việt Nam-Hoa Kỳ tại Việt Nam là:
Vốn do ngân hàng mẹ cấp tối thiểu là 15 triệu USD
Ngân hàng mẹ có văn bản bảo đảm chịu mọi trách nhiệm và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.
Điều kiện để thành lập ngân hàng Liên doanh Việt Nam-Hoa Kỳ hay ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ; vốn tối thiểu là 10 USD.
Các đơn vị tài chính ngân hàng 100% vốn Hoa Kỳ không được nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất. Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các đơn vị tài chính ngân hàng 100% vốn đầu tư Hoa Kỳ chỉ được nhận tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Điều kiện thành lập công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ và công ty thuê mua tài chính Việt Nam-Hoa Kỳ:
Các chủ đầu tư phải kinh doanh 3 năm liên tục có lãi.
Vốn điều lệ tối thiểu đơn vị được thành lập là 5 triệu USD.
Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực,Việt Nam dành đối xử quốc gia đầy đủ đối với quyền tiếp cận ngân hàng Trung ương trong các hoạt động tái chiết khấu, swap, forward.
Các cam kết về các loại hình dịch vụ ngân hàng và tài chính mà các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ (bao gồm các tổ chức tín dụng) được hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Cũng theo mục ii. VI.B của phụ lục G, các loại hình dịch vụ ngân hàng và tài chính mà các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được phép hoạt động kinh doanh tại Việt Nam bao gồm:
Nhận tiền gửi và các khoản tiền từ công chúng.
Cho vay các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu dùng, tín dụng thế chấp, bao tiêu và các giao dịch thương mại khác.
Thuê mua tài chính.
Tất cả các giao dịch thanh toán và chuyển tiền bao gồm các thẻ tín dụng, ghi nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng
Bảo lãnh và cam kết
Môi giới tiền tệ
Quản lý tài sản, như quản lý tiền mặt, quản lý danh mục đầu tư, mọi hình thức trông coi quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ trông coi bảo quản, lưu trữ và uỷ thác.
Các dịch vụ thanh toán và quyết toán đối với các tài sản chính bao gồm các chứng khoán, các sản phẩm tài chính phát sinh và các công cụ thanh toán khác.
Cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính và các phần mềm của các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính khác.
Tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác liên quan đến các hoạt động tại các mục (a) đến (k) kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, tư vấn và nghiên cứu đầu tư, tư vấn về thụ đắc và về chiến lược và cơ cấu công ty.
Buôn bán cho tài khoản của mình hay cho tài khoản của khách hàng tại Sở giao dịch chứng khoán, trên thị trường chứng khoán không chính thức OTC hay trên các thị trường khác, những sản phẩm sau:
Các sản phẩm của thị trường tiền tệ (bao gổm séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi)
Ngoại hối.
Các sản phẩm tài chính phát sinh bao gồm, nhưng không hạn chế ở, các hợp đồng giao dịch kỳ hạn (futures) và quyền lựa chọn (options).
Các sản phẩm dựa trên tỷ giá hối đoái và lãi suất bao gồm các sản phẩm như khoán vụ (swaps), các hợp đồng tỷ giá (forward)
Các chứng khoán có thể chuyển nhượng
Các công ty có thể thanh toán và tài sản tài chính khác, kể cả vàng nén.
Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả bảo lãnh và chào bán như đại lý (theo cách công khai hoặc theo thoả thuận riêng) và cung cấp các dịch vụ liên quan đến việc phát hành đó.
Cam kết về lộ trình thực hiện các dịch vụ ngân hàng và tài chính cho phía Hoa Kỳ được hoạt động tại Việt Nam:
Theo thoả thuận chi tiết tại phụ lục G mục ii phần B, cam kết về lộ trình thực hiện các dịch vụ ngân hàng và tài chính cho phía Hoa Kỳ được hoạt động tại Việt Nam được thể hiện như sau:
Trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp lý duy nhất thông qua đó các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ khác (ngoài ngân hàng và công ty thuê mua tài chính) có thể cung cấp các dịch vụ tài chính tại Việt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó, hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
Sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong thời gian 9 năm đó các ngân hàng Hoa Kỳ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam trong đó phần góp vốn của đối tác Hoa Kỳ không thấp hơn 30 % nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
Việt Nam có thể hạn chế, trên cơ sở đối xử quốc gia, việc tham gia cổ phần của các ngân hàng Hoa Kỳ tại các ngân hàng quốc doanh được cổ phần hoá như mức tham gia cổ phần của các ngân hàng Việt Nam.
Trong vòng 8 năm đầu, kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các pháp nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh (sau thời gian đó các hạn chế này sẽ được bãi bỏ).
Trong vòng 10 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh (sau thời gian đó các hạn chế naỳ sẽ được bãi bỏ).
Trong thời gian hạn bảo lưu, không có năm nào tỷ lệ huy động tiền Đồng của hai kênh trên đây của chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ vượt mức đối xử quốc gia.
Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ không được đặt các máy rút tiền tự động tại các điểm ngoài văn phòng của họ cho tới khi các ngân hàng Việt Nam được phép làm như vậy. Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ không được lập các điểm giao dịch phụ thuộc.
Nhận xét:
Các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định về các hình thức pháp lý của tổ chức tín dụng Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam là đầy đủ và không bị hạn chế, cả ở loại hình ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Cam kết này tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng Hoa Kỳ được tham gia và cung ứng đầy đủ các dịch vụ ngân hàng tài chính tại Việt Nam.
Các điều kiện thành lập công ty thuê mua liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ và 100% vốn Hoa Kỳ là rất đơn giản, sẽ tạo ra các thuận lợi cho loại hình tổ chức tín dụng này – vốn là một thế mạnh của Hoa Kỳ – có mặt đông đảo tại Việt Nam.
Các cam kết của Việt Nam về các loại hình dịch vụ ngân hàng và tài chính mà các tổ chức tín dụng Hoa Kỳ được cung cấp tại Việt Nam là rất phong phú và đa dạng, chứa đựng hầu hết các dịch vụ của một ngân hàng hiện đại, trong đó có một số dịch vụ chỉ mới được thực hiện ở Việt Nam (như nghiệp vụ swap, forward) hoặc chưa từng được thực hiện ở Việt Nam (như nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, uỷ thác, cung cấp và xử lý dữ liệu tài chính và các phần mềm của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác). Cam kết này mặc nhiên tạo ra ưu thế cạnh tranh cho phía Hoa Kỳ.
Theo cam kết của Việt Nam, các tổ chức tín dụng Hoa Kỳ nói chung được sử dụng một số dịch vụ mà đối với Việt Nam, pháp luật quy định các ngân hàng thương mại Việt Nam phải thành lập công ty riêng, độc lập để hoạt động thì phía Hoa Kỳ chỉ cần đáp ứng khái niệm (và tiêu chuẩn) “nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ” là có thể được thực hiện (như một số nghiệp vụ của Công ty chứng khoán là nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư, quản lý Quỹ đầu tư .v.v.). Cam kết này tạo ra trên thực tế nhiều quyền và khả năng cung cấp các dịch vụ này cho phía Hoa Kỳ.
Các cam kết của Việt Nam về lộ trình thực hiện trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng tài chính không phải là dài (từ 3 năm đến 10 năm) và không phải giống nhau ở các lĩnh vực hoạt động đã đặt ra yêu cầu khẩn trương đối với các tổ chức tín dụng Việt Nam phải tranh thủ để chuẩn bị đón nhận áp lực cạnh tranh trong tương lai không xa.
Các hạn chế về nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam theo lộ trình ngày càng được nới lỏng cho thấy các phân biệt về phạm vi hoạt động ngày càng bị xoá bỏ và tạo ra một sân chơi chung thống nhất, do vậy, mức độ cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng Việt Nam với các tổ chức tín dụng Hoa Kỳ (và các tổ chức tín dụng nước ngoài khác) ngày càng tăng lên nhanh chóng.
Theo thoả thuận, một số khái niệm pháp lý của Hiệp định (như khái niệm “pháp nhân”, “ngân hàng con 100% vốn nước ngoài”, “máy rút tiền tự động – ATM”v.v.) không tương thích với pháp luật hiện hành của Việt Nam. Thực tế này đặt ra yêu cầu giải thích, hiểu và áp dụng cho các đối tượng thực hiện, cả các cơ quan công quyền lẫn các doanh nghiệp, cá nhân.
Tác động của Hiệp định đối với hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam và kiến nghị:
Theo Hiệp định, các ngân hàng Hoa Kỳ sẽ được mở rộng phạm vi hoạt động, cung cấp nhiều dịch vụ, sản phẩm ngân hàng mới tại thị trường Việt Nam và các dịch vụ ngân hàng thương mại quốc tế (bảo lãnh, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bao thanh toán). Trình độ công nghệ thông tin sẽ cho phép các ngân hàng Hoa Kỳ chiếm ưu thế hơn so với các ngân hàng Việt Nam trong việc cung cấp thông tin tài chính và xử lý các dữ liệu tài chính cả các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác. Hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ phải đương đầu với những khó khăn, thách thức mới. Các hạn chế về vốn, trình độ quản lý kinh doanh, tình trạng yếu kém về tài chính, sự bất cập của hệ thống pháp luật
Việc hoàn thành thủ tục phê chuẩn làm cho Hiệp định có liệu lực kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2000 đã tác động không nhỏ tới hệ thống pháp luật nói chung cũng như pháp luật ngân hàng nói riêng, đặt ra hàng loạt các vấn đề pháp lý mới cần được quan tâm nghiên cứu, xây dựng và thực hiện. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thì ngân hàng và tài chính là một trong số các lĩnh vực bị Hiệp định tác động tới nhiều nhất. Căn cứ vào những cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính ngân hàng trong Hiệp định có thể đánh giá bước đầu những tác động của Hiệp định đối với hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam thông qua một số các vấn đề như sau:
Thứ nhất, các thoả thuận của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ sẽ làm thay đổi môi trường kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới. Do vậy, Nhà nước cần xây dựng chương trình hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng với phương châm làm lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng Việt Nam, tiến dần đến các chuẩn mực quốc tế, xem xét để có lộ trình giảm dần các hạn chế đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động trong việc xác lập một thị trường tiền tệ chung, hoạt động thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Cần nhanh chóng xây dựng các thể chế hỗ trợ thị trường để thị trường tiền tệ được hoạt động và vận hành trong thể thống nhất, tác động tương hỗ với quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, cần sớm tổ chức và triển khai công tác rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về ngân hàng để sớm có kế hoạch sửa đổi, bổ sung, xây dựng các văn bản mới cho phù hợp với các cam kết trong Hiệp định. Đây là một tác động lớn nhất, bao trùm đến hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung cũng như hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam nói riêng. Điều này đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực bởi vì so với một vài nước khác, Việt Nam có nhiều khó khăn hơn trong việc tiến hành sửa đổi luật pháp của mình. ở Hoa Kỳ và Mêhicô, nghị viện (quốc hội) có thể ban hành một đạo luật đơn lẻ mới, trong đó sửa đổi tất cả những đạo luật hiện hành có yêu cầu phải sửa đổi để thực thi một hiệp định thương mại, ví dụ Luật thi hành Hiệp định Tự do Thương mại Bắc Mỹ ở Hoa Kỳ. Hoặc cũng có thể đưa vào luật một điều khoản quy định “Luật này thay thế bất kỳ một luật nào được ban hành trước đây mà nay không còn phù hợp”. Ngược lại, Việt Nam phải sửa đổi riêng rẽ từng đạo luật có yêu cầu phải sửa đổi để đảm bảo phù hợp với một Hiệp định thương mại.
Thứ ba, xây dựng, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với những cam kết trong Hiệp định đối với những chế định pháp luật chưa phù hợp hoặc pháp luật Việt Nam chưa quy định. Hiện đang có nhiều qui định hạn chế về tổ chức và hoạt động đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài, như điều kiện về giấy phép hoạt động, thời gian hoạt động, vốn hoạt động, số lượng các chi nhánh nước ngoài, loại hình tổ chức hoạt động, số các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động kinh doanh .v.v. Trong thời gian tới, căn cứ vào các cam kết theo lộ trình đã thoả thuận, Việt Nam cần nới lỏng và huỷ bỏ dần các hạn chế nói trên đề phù hợp với Hiệp định cũng như các thông lệ quốc tế mà Việt Nam đang chủ trương tích cực hội nhập. Cần tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung và xây dựng các văn bản pháp luật phù hợp với các cam kết trong Hiệp định, trước hết bao gồm các cam kết liên quan đến hoạt động của tổ chức tín dụng Hoa Kỳ tại Việt Nam và việc sử dụng dịch vụ ngân hàng của công dân Việt Nam tại Hoa Kỳ. Đối với những vấn đề mà pháp luật Việt Nam chưa qui định, cần nhanh chóng xây dựng mới một số chế định mới như chế độ đối xử tối huệ quốc, chế độ đối xử quốc gia làm cơ sở cho việc áp dụng các chế độ này trong lĩnh vực ngân hàng tài chính theo hiệp định. Mặt khác, các vấn đề liên quan đến dịch vụ ngân hàng và tài chính (như thanh toán, tín dụng, công khai tài chính, kiểm toán bắt buộc ...) mà chưa được pháp luật qui định cụ thể cũng phải sớm được xây dựng.
Thứ tư, tham gia một số các điều ước quốc tế về thương mại theo nghĩa rộng (bao gồm thương mại hàng hoá, sở hữu trí tuệ, đầu tư, đặc biệt là thương mại dịch vụ phần về lĩnh vực ngân hàng tài chính). Theo Hiệp định, lĩnh vực dịch vụ ngân hàng tài chính đã được Việt Nam chấp nhận hầu hết các lĩnh vực nghiệp vụ ngân hàng theo chuẩn mực của WTO với cam kết khá cởi mở. Việc tham gia một số điều ước quốc tế về thương mại dịch vụ sẽ tạo tiền đề, điểu kiện thuận lợi để Việt Nam tiến tới gia nhập WTO và thực hiện “luật chơi chung” của các tổ chức tài chính, thương mại quốc tế.
Thứ năm, áp dụng án lệ, tập quán quốc tế thông qua việc thừa nhận, công nhận về mặt pháp lý các quy tắc, tập quán quốc tế được áp dụng rộng rãi và phổ biến trong hoạt động ngân hàng. Các thoả thuận trong Hiệp định về việc áp dụng chế độ đối xử quốc gia cũng đồng thời đặt ra khả năng áp dụng các án lệ, quy tắc và tập quán quốc tế được áp dụng rộng rãi và phổ biến trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt trong giao dịch tín dụng chứng từ. Nhiều nước trên thế giới đã có văn bản pháp luật qui định về giao dịch chứng từ (Documentary Credit) trên cơ sở UCP 500 (chẳng hạn Hoa Kỳ, Colombia chấp nhận UCP là một bộ phận của hệ thống pháp luật nước mình, Hy lạp cũng có những điều khoản quy chế hoá giao dịch tín dụng chứng từ trong Luật Thương mại 1995, hay LB Nga quy định vấn đề này tại Bộ Luật Dân sự 1996 ...). Thực tiễn này rất có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam trong việc quy định cho phép áp dụng các tập quán quốc tế nói chung điều chỉnh các quan hệ được áp dụng các quy tắc và tập quán quốc tế trong hoạt động ngân hàng.
Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện chế định công khai văn bản pháp luật, thông tin tín dụng ngân hàng. Các thoả thuận tại chương VI của Hiệp định về tính minh bạch, công khai và quyền khiếu kiện đòi hỏi việc ban hành một văn bản pháp luật phải theo đúng một trình tự rõ ràng theo đó các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp và các cá nhân có điều kiện làm quen với văn bản pháp luật đó trước khi chúng có hiệu lực. Quy định này chỉ ra một yêu cầu rất nghiêm ngặt: theo Hiệp định, chỉ có các văn bản pháp luật được công bố công khai, minh bạch, rộng rãi và dễ tiếp cận đối với các cơ quan Nhà nước và các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động thương mại mới có giá trị bắt buộc thi hành. Điều này cũng có nghĩa là, các văn bản pháp luật của Việt Nam, dù đã có hiệu lực theo qui định, nhưng nếu chưa hoặc không được công bố thì sẽ không có giá trị thi hành đối với Hoa Kỳ.
Thứ bảy, xây dựng khuôn khổ pháp lý của quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại, nhằm làm lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng, tăng cường năng lực tài chính và quản trị kinh doanh cho các ngân hàng thương mại, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế trong bối cảnh quốc tế hoá hoạt động tài chính ngân hàng hiện nay. Liên quan đến vấn đề này, các giải pháp tích cực để xử lý nợ tồn đọng, hoàn thiện chế định về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, việc tăng vốn điều lệ của ngân hàng thương mại, áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế, việc tăng cường các hoạt động thanh tra và giám sát ngân hàng thương mại thuộc số các yêu cầu cần sớm được quan tâm và giải quyết thông qua việc xây dựng các thiết chế pháp lý tương ứng.
Thứ tám, do Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được xây dựng trên nguyên tắc và chuẩn mực của WTO nên việc ký kết và thực hiện Hiệp định này sẽ tạo ra các điều kiện, tiền đề để Việt Nam tham gia WTO (dự kiến đến 2004). Điều này đặt ra yêu cầu cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp một kế hoạch, lộ trình cam kết mở cửa dịch vụ ngân hàng tài chính với những nới lỏng và tiến tới xoá bỏ dần các hạn chế đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam về số lượng các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng, tổng giá trị các giao dịch ngân hàng và tài sản sản, về việc cho phép đưa ra các dịch vụ ngân hàng mới ở nước mình, vấn đề mua lại doanh nghiệp, cung cấp thông tin.
Lời kết
Các dịch vụ tài chính ngân hàng luôn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Sự phát triển của các dịch vụ này tạo điều kiện cần thiết để các hoạt động kinh tế khác phát triển, đồng thời nó cũng phản ánh trình độ phát triển chung của toàn xã hội. Với ý nghĩa thực tiễn đó và trong bối cảnh hội nhập, chuyển biến sôi động hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang đứng trước yêu cầu đổi mới toàn diện và phức tạp. Để thực sự đổi mới và nâng cao được chất lượng hoạt động phù hợp với các tiêu chí quốc tế, nhiệm vụ cấp bách đặt ra trước mắt cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam là phải tự hoàn thiện các dịch vụ của mình thông qua việc triển khai một hệ thống các dịch vụ với quy mô và hình thức phong phú, đa dạng.
Tuy nhiên, phát triển rộng rãi các dịch vụ để tự hoàn thiện không có nghĩa là dàn trải đều nguồn lực của ngân hàng vào tất cả các loại nghiệp vụ, mà vẫn phải xác định loại nghiệp vụ chiến lược của ngân hàng có hiệu quả nhất, ưu thế nhất, bên cạnh việc phát triển các nghiệp vụ khác để đáp ứng nhu cầu thị trường. Cách thức mở rộng, phát triển các nghiệp vụ ra sao cho phù hợp với điều kiện riêng có của ngân hàng mình để đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất lại là một bài toán khó cần tìm lời giải tối ưu đối với các nhà lãnh đạo ngân hàng thương mại.
Đổi mới đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều những thủ thách buộc các ngân hàng phải tìm lối riêng cho mình để vượt qua một cách tốt nhất. Các ngân hàng Việt Nam phải hiểu rõ năng lực hiện tại của mình và đặt mình vào bối cảnh cạnh tranh chung của toàn ngành và toàn bộ nền kinh tế thì mới có thể xác định đúng được những thế mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như những nguy cơ trước mắt. Trong tương lai hội nhập không xa, một hệ thống dịch vụ hiện đại, hoàn chỉnh sẽ chính là cơ sở tạo nên uy tín và chỗ đứng vững chắc cho mỗi ngân hàng thương mại./.
Tài liệu tham khảo
Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học ngành Ngân hàng 1999-2000, Nhà xuất bản Thống kê Hà nội - 2000.
Đại từ điển Kinh tế thị trường - viện Nghiên cứu tri thức Bách Khoa - 1998.
Giáo trình Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ (Tập I), Trường ĐH Ngoại Thương-NXB Giáo dục,1999
Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng - Học viện Ngân hàng - NXB Thống kê 2000.
Báo cáo thường niên của ngân hàng IndoVina năm 2001.
Tạp chí Thị trườngTài chính Tiền tệ 15/7/2002.
Tạp chí ngân hàng số 5, 6,7, 9, 10/2002.
Tạp chí VietComBank 8/2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoa luan .doc