Khóa luận Hoàn thiện hệ thống biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO

"Bảo hộ vùng xám" là một thuật ngữ mới chỉ việc bảo hộ thông qua việc tấn công vào hàng hóa nhập khẩu bằng các biện pháp có thể biện hộ là phù hợp với thông lệ và quy định của WTO. Chúng bao gồm hàng rào tiêu chuẩn kĩ thuật, tiêu chuẩn môi trường, thủ tục nhập khẩu, phân phối gây phương hại tới quan hệ thương mại thông thường để trực tiếp hay gián tiếp thay thế hàng nhập khẩu bằng các nguồn hàng khác sản xuất trong nước nhưng kém cạnh tranh hơn. Các biện pháp "bảo hộ vùng xám" có hiệu quả không khác các biện pháp bảo hộ thông thường, nhưng cách thức và biện pháp bảo hộ tinh xảo hơn, tận dụng chính những lỗ hổng trong hệ thống pháp lý của WTO. Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ thống các biện pháp bảo hộ “vùng xám” và các biện pháp khác để sử dụng trong trường hợp cần thiết như: - Xây dựng và hệ thống hoá các biện pháp kỹ thuật, môi trường, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, hệ thống quản lý chất lượng, quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm mục đích bảo họ khi cần thiết cho các ngành thực hiện tự do hoá, tránh gây ra những biến động lớn đối với các ngành kinh tế. - Xây dựng, hài hoà hoặc áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh, tiêu chuẩn lao động của các quốc gia tiên tiến đối với hàng hoá nhập khẩu; - Tăng cường đào tạo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, luật pháp, kinh nghiệm cho các cán bộ thuộc các cơ quan chức năng liên quan đến việc áp dụng các biện pháp “vùng xám”. - Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác điều tra, kiểm tra hàng hoá nhằm thực thi nghiêm túc các quy định về tiêu chuẩn, quy cách hàng hoá của các cơ quan quản lý chức năng. - Đổi mới phương thức trợ cấp xuất khẩu hiện nay theo hướng tập trung có trọng điểm. Vì thế, trợ cấp xuất khẩu hướng vào những ngành kinh tế được bảo hộ có định hướng xuất khẩu (là mục tiêu của chính sách thương mại) chứ không chỉ đơn thuần dựa trên kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp như hiện nay. - Nâng cao việc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với cơ quan thực hiện đàm phán quốc tế đảm bảo khả năng thực thi cơ chế bảo hộ vùng xám, tránh gây ra các tranh chấp có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thương mại quốc tế.

doc93 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoàn thiện hệ thống biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án, thuyết phục các nước thành viên để có gia nhập WTO đáng cho Việt Nam học tập. Từ năm 1986, Trung Quốc đã xác định việc gia nhập GATT là một mục tiêu hàng đầu nhằm hội nhập với nền kinh tế thế giới sau gần nửa thập kỷ tự cô lập. Mục tiêu này đã tác động mạnh mẽ tới sự thay đổi chính sách ngoại thương của Trung Quốc. Nhờ có chính sách mới, Trung Quốc thực sự chuyển sang một nền kinh tế hướng ngoại với những thành tựu thương mại to lớn. Tỷ trọng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 49% năm 1980 lên tới 87% năm 2000. Về giá trị tuyệt đối, nhập khẩu của Trung Quốc năm 1978 là 9,75 tỷ USD thì đến năm 1993 đã tăng gấp 10 là 91,74 tỷ USD. Năm 1996, Trung Quốc xuất khẩu 151 tỷ USD và đến năm 2001, Trung Quốc đã xuất 260 tỷ USD, chiếm khoảng 4% thị phần xuất khẩu của thế giới dự kiến đến năm 2005, con số này sẽ là 6,8%. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc tương đối ổn định ở mức khoảng 13-15%/năm và cao hơn mức tăng nhập khẩu. Từ năm 1986 đến nay, hầu như năm nào Trung Quốc cũng xuất siêu về thương mại hàng hoá (trừ năm 1993, Trung Quốc nhập siêu 12 tỷ USD). Mức xuất khẩu cũng liên tục được tăng lên từ 8,75 tỷ năm 1990 lên 12 tỷ năm 1996 và khoảng 30 tỷ năm 2001. Chính sách thương mại tự do hoá của Trung Quốc trong hơn một thập kỷ qua đã đóng góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển chung của nền kinh tế. Trung Quốc chủ động hội nhập kinh tế và áp dụng các biện pháp bảo hộ gắn liền với xuất khẩu: Trước những năm 90, Trung Quốc là một nền kinh tế đóng cửa. Từ đầu thập kỷ Trung Quốc khẳng định mục tiêu gia nhập GATT/WTO và bằng chính nỗ lực của mình, nước này dần nới lỏng các hạn chế thương mại. Cơ chế quản lý ngoại thương cũng từng bước được sửa đổi thông thoáng hơn. Trung Quốc xây dựng nhiều văn bản pháp lý cả về hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ dựa trên chuẩn mực của WTO. Ví dụ: chính sách quản lý hạn ngạch, cấp phép, điều lệ chống phá giá, áp dụng thuế đối kháng, các quy định cấp phép trong lĩnh vực dịch vụ như bảo hiểm, viễn thông, vấn đề thực thi tác quyền... đều được ra đời năm 1999 đến năm 2001, tức là ngay trước khi Trung Quốc gia nhập WTO. Ngoài biện pháp giảm thuế, Trung Quốc còn phải cắt giảm các biện pháp bảo hộ phi thuế quan nhằm đáp ứng đòi hỏi của Tổ công tác WTO. Tháng 8/1992, Trung Quốc bãi bỏ các danh mục mặt hàng thay thế nhập khẩu. Tháng 1/1994, Trung Quốc tuyên bố bỏ các biện pháp bảo hộ phi thuế quan, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu cho 283 chủng loại hàng hoá, tiếp đó đến tháng 5/1995, các biện pháp quản lý nhập khẩu cho 285 chủng loại hàng hoá khác cũng được hủy bỏ. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tiếp tục áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu nhằm bảo hộ thị trường trong nước trước sức ép cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài, như áp dụng mức hạn ngạch cho riêng từng nước, yêu cầu về giấy phép nhập khẩu, quy định về đấu thầu được áp dụng với hàng hoá có hạn ngạch và không cần hạn ngạch. Các biện pháp được thực hiện trong giai đoạn này không liên quan đến quyền tự vệ, chống bán phá giá và thuế đối kháng. Có nghĩa là ngoài việc áp dụng các biện pháp bảo hộ đó ra, Trung Quốc vẫn có quyền áp dụng thêm các biện pháp bảo hộ phòng ngừa bất trắc (theo quy định của WTO) khi thấy thị trường sản xuất nội địa bị tổn thương nghiêm trọng do việc nhập khẩu hàng hoá của nước ngoài. Về cách thức bảo hộ trong chính sách thương mại của Trung Quốc, có thể thấy được điểm quan trọng nhất của đó là vấn đề bảo hộ gắn với định hướng xuất khẩu. Trung Quốc duy trì mức thuế suất trung bình đối với các sản phẩm đã có lợi thế so sánh rõ ràng. Trung Quốc giảm trợ cấp xuất khẩu 12 tỷ Nhân dân tệ hàng năm, tuy nhiên nước này vẫn tiếp tục áp dụng chế độ quản lý về tỷ giá, tỷ giá thấp nhằm khuyến khích xuất khẩu. Như vậy, Trung Quốc đạt được mục tiêu vừa đảm bảo bảo hộ hợp lý phù hợp với quy định của WTO lại có thể thúc đẩy xuất khẩu và sản xuất trong nước phát triển. Tuy nhiên, vì mục tiêu lâu dài, Trung Quốc còn chấp nhận thực hiện nghĩa vụ cao hơn cả quy định của WTO để được ra nhập tổ chức này như cam kết không trợ cấp giống và nguyên liệu cho nông dân, cam kết mở cửa thị trường nông sản, chấp nhận để các thành viên WTO có “quyền tự vệ tạm thời” cho đến năm 2013 để hạn chế nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc ngay cả khi hàng nhập khẩu chưa gây ra bất cứ thiệt hại vật chất. Sau 15 năm kể từ khi Trung Quốc nộp đơn gia nhập GATT/WTO, nhưng chỉ hai năm cuối, những cuộc đàm phán thực chất và chủ yếu với Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Mexico,... mới diễn ra và hoàn thành thủ tục gia nhập WTO. Đây kết quả của một qúa trình nỗ lực của Trung Quốc trong việc hoàn thiện các chính sách thương mại hàng hoá nói chung và các công cụ bảo hộ phi thuế quan nói riêng. 3.2.2. Kinh nghiệm của ấn Độ Sau khi giành được độc lập, bên cạnh những thành tựu, các nhà lập chính sách của ấn Độ cũng có những sai lầm trong chính sách suốt ba thập niên 1950, 1960, 1970: đóng cửa nền kinh tế, bảo hộ những ngành kém hiệu quả, gây khó khăn cho khu vực tư nhân với hàng loạt kiểm soát cứng rắn, quy chế phức tạp, các thủ tục hnàh chính rườm rà. Tuy nhiên, nền kinh tế ấn Độ đã thực sự đạt được những bước nhảy vọt từ những năm 1980, sau một loạt chính sách cải cách kinh tế mạnh mẽ. Có thể nói, những chính sách kinh tế mang tính đột phá đó đã giúp nền kinh tế của ấn Độ nhanh chóng phát triển bắt kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới. Không những thế, ấn Độ còn có thể đáp ứng được những đòi hỏi của WTO để trở thành thành viên của tổ chức này vào năm 1995. Những thành tựu mà ấn Độ đạt được đáng để cho Việt Nam học tập nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà Việt Nam đang tiến hành đàm phán với một số nước quốc gia để được trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Những quan điểm và chính sách kinh tế đem lại thành công cho ấn Độ phải kể tới: Đổi mới quan điểm về tự do hoá thương mại Trong rất nhiều năm, kể từ khi dành được độc lập cho đến cuối thập kỷ 80, ấn Độ theo đuổi mô hình kinh tế “độc lập, tự chủ” với việc thực hiện khá triệt để chính sách “thay thế hàng nhập khẩu”. Mặc dù không hoàn toàn là một chính sách thất bại nhưng tăng trưởng kinh tế ấn Độ trong suốt những năm đó rất thấp. Từ 1970 đến 1987, hàng năm ấn Độ tăng trưởng khoảng 2,1%. Đầu năm 1990, trước bối cảnh nền kinh tế và chính trị thế giới đã có những biến động sâu sắc, ấn Độ bắt đầu nhận thấy những hạn chế nghiêm trọng của chính sách “đóng cửa”. Tỷ trọng trong xuất khẩu với thế giới giảm từ 2,53% (1947) xuống chỉ có 0,4% vào năm 1980 và tăng chút ít vào năm 1997 là 0,64%. Các ngành công nghiệp trở nên trì trệ lạc hậu và không có hiệu quả. Từ năm 1997 ấn Độ chuyển mình với một loạt những chính sách đổi mới, tái cơ cấu của nền kinh tế và mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từng bước phát triển tự do hoá thương mại. ấn Độ theo đuổi từng bước chiến lược phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu với mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững “hội nhập nền kinh tế của ấn Độ với nền kinh tế thế giới” [14,24]. Trong những năm này, tốc độ tăng trưởng kinh tế của ấn Độ đã đạt được một bước tăng trưởng quan trọng. Từ năm 1993 đến 2000, GDP tăng đạt 4,4% tức là gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng các năm trước đó. Về giá trị tuyệt đối, mức tăng trưởng GDP năm 2000 tăng 2,7 lần so với năm 1980. Đời sống nhân dân cũng được cải thiện với GDP đầu người tăng hơn gấp 2 lần. Thương mại cũng tăng nhanh chóng từ 7.6% năm 1990 lên 11,8% năm 2000 đã đạt xấp xỉ 40 tỷ USD. Những thành công ban đầu của ấn Độ đã minh chứng sự đúng đắn của tự do hoá thương mại. Báo cáo của Chính phủ ấn Độ tại WTO năm 2001 đã chỉ rõ: Tự do hóa thương mại đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của chương trình đổi mới, đã cho phép người tiêu dùng ấn Độ sự lựa chọn hợp lý và đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế[14, 24]. Một nền kinh tế đóng cửa như ấn Độ, luôn tìm mọi cách để bảo hộ cho các ngành kinh tế như trước đây đã chấp nhận xu thế khách quan của tự do hoá thương mại. Ngoài việc cắt giảm thuế quan thì ấn Độ còn giảm các biện pháp hạn chế định lượng, ấn Độ đang kiểm soát nhập khẩu đối với khoảng 32% kim ngạch nhập khẩu hay tương đương với 2714 dòng thuế với việc viện dẫn điều khoản bảo hộ để ngăn chặn nguy cơ về cán cân thanh toán. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của hội nhập, Chính phủ ấn Độ đã phải chủ động tự do hoá và loại bỏ đáng kể các hạn chế định lượng theo một kế hoạch chặt chẽ kéo dài 7 năm (Từ 1997 đến 2004). Cho đến năm 2002, ấn Độ đã bãi bỏ 1965 dòng thuế bảo hộ bằng biện pháp cấp phép. Tháng 5/1997, ấn Độ đã công khai kế hoạch chấm dứt việc thực hiện bảo hộ bằng các Hàng rào phi thuế vào năm 2006. Rõ ràng, ấn Độ đã biến những cam kết tự do hóa của WTO trở thành sự chủ động tự do hoá thương mại của bản thân nền kinh tế. Tuy vậy, ấn Độ chưa phải là một nền kinh tế hoàn toàn hướng ngoại do mức bảo hộ còn rất cao nhưng nước này đang nỗ lực tự do hoá một cách chủ động. Vận dụng các biện pháp bảo hộ phù hợp với quy tắc của WTO. Là một thành viên sáng lập của GATT và WTO, ấn Độ hiểu rất rõ những khía cạnh pháp lý của WTO và cũng khéo léo vận dụng mọi khả năng mà WTO cho phép để bảo hộ khi cần thiết. Chính phủ ấn Độ có thể cấm nhập khẩu bất cứ hàng hoá nào và thông báo chính thức đến các đối tác vì một trong những mục tiêu sau: an ninh, duy trì tiêu chuẩn về đạo đức xã hội, xây dựng một ngành công nghiệp, ngăn chặn những nguy cơ gây hại đối với sản xuất trong nước cũng như phục vụ cho mục tiêu lợi ích của xã hội. Chính sách bảo hộ theo chuẩn mực của WTO đã được thể hiện rất rõ nét trong quy định của luật pháp ấn Độ và thực tế là quốc gia này luôn viện dẫn các điều khoản của WTO để bảo hộ “một cách hợp pháp” những ngành công nghiệp của mình. ấn Độ xây dựng cơ sở pháp lý phù hợp với quy định của WTO để bảo hộ bao gồm việc hạn chế cam kết về thuế quan và thậm chí duy trì hạn chế định lượng bằng cách viện dẫn điều khoản tự vệ vì lý do cán cân thanh toán, thuế chống bán phá giá, trợ cấp. áp dụng cơ chế chống bán phá giá và đối kháng một cách hiệu quả là một trong những biện pháp bảo hộ phi thuế được ấn Độ áp dụng thành công nhất. Cơ quan điều tra phá giá thuộc Bộ Thương Mại có trách nhiệm thực hiện điều tra các vụ khiếu kiện, cơ quan Hải quan của ấn Độ chịu trách nhiệm áp đặt các biện pháp chống phá giá và thực hiện thủ tục có liên quan như việc nhận khiếu kiện. Cơ chế thực hiện biện pháp bán chống phá và chống trợ cấp của ấn Độ về căn bản là hoàn toàn phù hợp với quy định của WTO. Năm 1993, ấn Độ lần đầu tiên áp dụng thuế chống bán phá giá đối với 5 nhà sản xuất hạt nhựa PVC. Từ năm 1993 đến 1997, ấn Độ đã áp dụng 45 trường hợp áp đặt thuế chống bán phá giá bao gồm 18 nhóm hàng hoá. ấn Độ trở thành một trong những nước tích cực nhất trong việc sử dụng biện pháp chống bán phá giá để bảo hộ sản xuất trong nước. ấn Độ cũng đã hoàn chỉnh hệ thống sử dụng các biện pháp tự vệ nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trong trường hợp có thiệt hại nghiêm trọng của hàng nhập khẩu đối với sản xuất trong nước. 3.2.3. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ Hoa Kỳ là một cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới và là một trong những thành viên sáng lập của GATT (WTO ngày nay). Mặc dù có tiềm năng to lớn trong hầu hết mọi lĩnh vực sản xuất, nhưng theo quy luật về lợi thế cạnh tranh tương đối, trong những năm qua, Hoa Kỳ đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn nhằm bảo hộ cho những ngành sản xuất đã suy giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Coi nhu cầu tiêu dùng trong nước là động lực phát triển của nền kinh tế, Hoa Kỳ luôn đứng trước sức ép của việc nhập siêu và hàng hoá giá rẻ từ nước ngoài tràn vào. Hoa Kỳ đang sử dụng nhiều biện pháp bảo hộ tinh vi bằng cách viện dẫn các điều khoản tương đối còn gây tranh cãi trong WTO để trở thành vũ khí bảo hộ sắc bén. Hoa Kỳ duy trì các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật rất khắt khe như các quy định về tiếng ồn, một số bộ phận của ô tô, thiết bị điện tử, thiết bị y tế và viễn thông, thiết bị phụ tùng máy móc. Hoa Kỳ áp dụng giấy phép nhập khẩu đối với hơn nhiều loại nông sản (động vật, thực vật hoặc các sản phẩm liên quan) nhằm mục đích ngăn chặn sự xâm nhập và lan truyền dịch bệnh. Các quy định tiêu chuẩn của Hoa Kỳ tỏ ra “thái quá”, gây khó khăn cho các nước xuất khẩu. Hoa Kỳ viện dẫn lý do bảo vệ sức khoẻ và chống khủng bố sinh học để đặt ra những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm. Sự vận dụng của Hoa Kỳ chặt chẽ đến mức khó có thể coi quy định vệ sinh dịch tễ chỉ đơn thuần là quy định kỹ thuật. Nó làm phát sinh chi phí tài chính đáng kể đối với các giao dịch thương mại như việc kiểm tra và xét nghiệm hàng hoá và làm tăng thời gian dài hơn bình thường. Ví dụ: theo quy định ban hành từ 10/8/1998: thịt gà phải được nấu ở nhiệt độ từ 740C đến 800C, từ 125 đến 165 phút). Một trong những công cụ quan trọng của hệ thống bảo hộ của Hoa Kỳ là áp dụng hệ thống pháp luật về chống phá giá và các biện pháp đối kháng. Theo hệ thống này, Hoa Kỳ sẽ áp dụng các biên pháp trừng phạt thương mại hoặc đánh thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu từ các nước mà Hoa Kỳ cho là đã bán phá giá khi nhập khẩu vào nước này (như trường hợp cá ba sa nhập khẩu từ Việt Nam hay tôm nhập khẩu từ một loạt các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam). Lợi dụng vị thế của mình, Hoa Kỳ cũng đã đưa ra quy tắc xuất xứ riêng của mình (khác với những quy định của WTO về quy tắc xuất xứ) làm thay đổi điều kiện cạnh tranh và bổ sung thêm những hạn chế chống lại xuất khẩu hàng hoá rẻ tiền của các nước khác. Điều đáng chú ý nữa ở đây là, quy tắc xuất xứ của Mỹ không nhất quán và rõ ràng trong áp dụng; vì quy tắc xuất xứ của Hoa Kỳ được phát triển thông qua sự giải thích của hải quan và các vụ kiện. Theo Hiệp định dệt may ATC của WTO từ 01/01/1996 đến 01/01/2005, các nước sẽ dần dần hòa nhập toàn bộ hàng dệt may vào thực hiện GATT 1994, nghĩa là sẽ xóa bỏ chế độ hạn ngạch đối với mặt hàng này. Tuy nhiên theo tổng kết của Hiệp hội Dệt may quốc tế, đã hơn bảy năm, các nước mới chỉ hòa nhập được một số lượng hạn chế các sản phẩm hàng dệt may. Đến nay, Hoa Kỳ vẫn duy trì chế độ hạn ngạch đối với 841 mặt hàng trong tổng số 932 mặt hàng. Hoa Kỳ kí kết Hiệp định dệt may, quy định han ngạch nhằm giảm lượng nhập khẩu, tạo sức ép cho các nước phát triển (trong đó có Việt Nam). 3.2.4 Bài học Việt Nam rút ra từ kinh nghiệm của các nước Từ thực tiễn áp dụng các biện pháp phi thuế của các nước Trung Quốc, ấn Độ và Mỹ để bảo hộ sản xuất trong nước, chúng ta có thể rút ra bài học tổng quan cho Việt Nam sau đây: Thứ nhất:Việc áp dụng các biện pháp phi thuế của các quốc gia này đều tuân thủ theo những quy định của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Để gia nhập vào WTO, Trung Quốc phải thực hiện việc cắt giảm các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu thông qua hạn chế số lượng và các rào cản trái với quy định của WTO. Tuy nhiên, Trung Quốc là một nước lớn, về vị thế lẫn tầm ảnh hưởng với thương mại quốc tế đều khác hẳn Việt Nam. Việc học tập kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá trình đàm phán gia nhập WTO là cần thiết; tuy nhiên, phải áp dụng một cách linh hoạt, tránh rập khuôn. Thứ hai: Bảo hộ sản xuất trong nước dường như là nhu cầu không thể xóa bỏ với mọi quốc gia, ngay cả trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Tuy nhiên, khi tham gia vào các Tổ chức kinh tế thế giới và khu vực, các quốc gia buộc phải tuân thủ những quy định chung và áp dụng một biểu thuế quan thống nhất. Khi đó, các kinh nghiệm về áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan thích hợp trong giai đoạn mới sẽ giúp cho các quốc gia này vừa đạt được mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước vừa đạt được một số mục tiêu xã hội khác (an toàn sức khỏe, bảo vệ môi trường...) lại tránh được sự cạnh tranh không lành mạnh (kinh nghiệm của Mỹ, ấn Độ). Thứ ba: Bảo hộ được chuyển từ các biện pháp hạn chế định lượng sang các biện pháp tinh vi, mang tính kĩ thuật hơn. Ví dụ: bảo hộ thông qua sử dụng hàng rào kĩ thuật; quy định về vệ sinh dịch tễ; sử dụng luật chống bán phá giá; quy định về đóng gói, nhãn mác xuất xứ của hàng hoá... đang là xu hướng thế chung của việc bảo hộ phi thuế quan. Các biện pháp vừa được WTO thừa nhận vừa giúp nước áp dụng đạt được mục tiêu bảo hộ tốt nhất. 3.3. Các giải pháp điều chỉnh và hoàn thiện hệ Thống phi thuế quan của Việt Nam trong Tiến trình gia nhập WTO Hiện nay, để kiểm soát hoạt động ngoại thương, bên cạnh hàng rào thuế quan nước ta còn áp dụng biện pháp phi thuế quan. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp này còn nhiều điểm chưa phù hợp với nguyên tắc cơ bản của các tổ chức kinh tế thương mại khu vực mà Việt Nam là thành viên chính thức. Chính vì vậy, Nhà nước cần phải nghiên cứu xây dựng và thực hiện các biện pháp phi thuế phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng đồng thời vẫn hộ trợ hợp lý cho việc phát triển thương mại trong nước. 3.3.1. áp dụng các biện pháp bảo hộ chọn lọc Thời gian vừa qua, gần như chính sách thương mại của nước ta chủ yếu hướng tới việc bảo hộ những ngành hàng trong nước “đã có sản xuất” hay chính xác hơn là đang có thiên hướng nghiêng về chính sách phát triển kinh tế bằng cách “thay thế nhập khẩu”. Do đó, các ngành hàng của Việt Nam thường được bảo hộ không căn cứ vào lợi thế so sánh của hàng hoá đó là mà lại căn cứ vào năng lực cạnh tranh thực tế hiện tại của một sản phẩm. Trong việc chuẩn bị phương án hội nhập kinh tế quốc tế hay thực tiễn cam kết của ta trong khuôn khổ CEPT/AFTA, các cơ quan chức năng đang cố gắng phân loại khả năng cạnh tranh đối với từng nhóm ngành hàng để thực hiện việc xây dựng lộ trình cam kết tự do hoá theo hướng những mặt hàng có khả năng cạnh tranh thì mức cam kết tự do hoá thấp và ngược lại, những mặt hàng không có khả năng cạnh tranh thì mức cam kết tự do hoá cao. Cách thức tiếp cận bảo hộ như vậy không hợp lý và đơn giản hoá quá trình hội nhập vì nó không tạo cơ sở cần thiết để phát huy năng lực cạnh tranh của những ngành hàng có lợi thế nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Vì vậy, chính sách bảo hộ có chọn lọc được điều chỉnh theo phương hướng như sau: Đối với những ngành hàng không có lợi thế so sánh: nước ta cần từng bước xoá bỏ bảo hộ hoặc chỉ duy trì với mức bảo hộ thấp. Việc tiếp tục bảo hộ sẽ đánh mất những chi phí cơ hội lớn cho tổng thể nền kinh tế, không những thế, việc tiếp tục bảo hộ có thể sẽ gây ra phí tổn cho tương lai. Mặc dầu vậy, lợi thế so sánh không phải là bất biến, việc duy trì hay từ bỏ bảo hộ đối với một ngành hàng là hết sức thận trọng và cần những phân tích sâu sắc về khả năng phát triển của ngành kinh tế và ở một phương diện nào đó cần tính đến các mục tiêu có tính xã hội. Sự xuất hiện của lợi thế so sánh đối với một ngành có thể cần phải được nuôi dưỡng trong những điều kiện nhất định và có sự can thiệp nhất định của biện pháp bảo hộ. Vì thế, khi thực thi tự do hóa thì cũng cần có cơ chế để quay trở lại bảo hộ khi các điều kiện khác cho phép. Các quy định của các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực đều cho phép khả năng đó. Đối với những ngành đang tồn tại nhờ chính sách bảo hộ và hỗ trợ của Nhà nước thì thời gian tiến hành tự do hoá phải đủ dài để những ngành đó có điều kiện cơ cấu lại, đầu tư công nghệ hoặc chuyển đổi mục tiêu kinh doanh, đào tạo lại lao động. Đối với những ngành không có lợi thế so sánh và không có khả năng sản xuất hiệu quả thì không cần thiết phải duy trì bất cứ sự bảo hộ nào vì điều đó chỉ gây ra lãng phí chung về nguồn lực cho đất nước. Nhà nước có thể can thiệp bằng biện pháp thuế quan hoặc phi thuế quan để định hướng tiêu dùng trong nước nhưng không vì mục tiêu bảo hộ. Đối với những ngành mà lợi thế cạnh tranh không rõ nét cần được xem là ưu tiên quan trọng nhất trong chính sách với mục tiêu tập trung sự hỗ trợ của Nhà nước bằng việc đảm bảo cho mặt hàng đó có cơ hội khai thác một thị phần cần thiết để mở rộng kinh doanh và tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Điều này đặt ra yêu cầu phân bổ lại các nguồn của Nhà nước trong vấn đề bảo hộ. Ví dụ, hiện nay, nước ta tập trung nguồn lực phát triển các ngành xuất khẩu “chủ yếu” có lợi thế so sánh tương đối rõ nét như gạo, cà phê, hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản, v.v… Theo cách thức tiếp cận này thì chính sách sẽ được điều chỉnh theo hướng tập trung bảo hộ đối với những ngành có lợi thế so sánh không rõ nét vì những ngành này là tương lai xuất khẩu của Việt Nam như sản phẩm nhựa, nông sản chế biến, máy tính, điện tử. Các doanh nghiệp này rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các ngành để xác lập vị thế của mình trong phân công lao động quốc tế. Đối với những ngành mà khả năng cạnh tranh đã được khẳng định do khai thác được lợi thế so sánh cũng cần được xem xét tiếp tục duy trì bảo hộ ở mức thấp. Vấn đề là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay có thị trường ngoài nước không ổn định. Trong trường hợp đó, bảo hộ ở mức trung bình có thể dành một thị phần nhất định trong nước, có ý nghĩa bảo đảm sự ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như khai thác lợi thế nhờ quy mô. So với những mặt hàng có lợi thế không rõ ràng thì mức độ bảo hộ hay hỗ trợ trong nước đối với nhóm này phải thấp hơn vì những mặt hàng có lợi thế rõ ràng ít nhất đã xác lập được vị thế của mình trong thương mại quốc tế. Điều quan trọng là Nhà nước phải lựa chọn tiêu thức nào để định hướng xuất khẩu trong chính sách. Một chính sách thương mại không tránh khỏi yếu tố chủ quan. Nhưng tính chủ quan đó sẽ dần dần được loại trừ bởi chính sự đào thải và chọn lọc của kinh tế thị trường. Lý do là nội dung của chính sách thương mại là bảo hộ và tạo cơ hội đối với những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu và cạnh tranh trên thị trường quốc tế mà đồng thời còn tạo cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp trong các mặt hàng khác cũng phát huy được khả năng của mình trong một môi trường lành mạnh và thuận lợi. Trong trường hợp một hàng hoá không phát triển được hay không thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì sớm muộn hàng hoá đó sẽ không thể tiếp tục nằm trong đối tượng được bảo hộ. Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước là phải thường xuyên đánh giá và xem xét lại những nguyên nhân kể cả việc xác định lại tiềm năng của mặt hàng hoặc lĩnh vực đó cũng như cơ chế hỗ trợ và điều kiện đối với một sản phẩm chưa phát triển theo định hướng mục tiêu chính sách. Cơ quan Nhà nước sẽ đứng trước hai lựa chọn: Tiếp tục bảo hộ nhưng sẽ phải hoàn chỉnh cơ chế hỗ trợ, điều kiện thực hiện bảo hộ hoặc không tiếp tục bảo hộ và sẽ cắt giảm theo đúng lộ trình định sẵn. 3.3.2. Điều chỉnh việc áp dụng các công cụ bảo hộ phi thuế cho phù hợp với quy định của WTO Để trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cũng phải cam kết cắt giảm hàng rào phi thuế quan của mình. Những cam kết và lộ trình thực hiện cam kết cắt giảm các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ nền kinh tế, một mặt phải xuất phát từ việc đáp ứng yêu cầu của WTO, nhưng cũng phải biết tận dụng ngay những quy định của WTO về những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và những nước có nền kinh tế chuyển đổi, những trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng các biện pháp tự vệ để bảo hộ một cách hợp lý thị trường và sản xuất trong nước của mình. Mặt khác, các cam kết và lộ trình thực hiện cam kết dỡ bỏ các biện pháp bảo hộ phi thuế quan phải phối hợp chặt chẽ với các cam kết và lộ trình cắt giảm thuế quan, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, với khả năng cạnh tranh của từng loại sản phẩm, với mức độ chuẩn bị cho hội nhập, để đảm bảo hội nhập thành công, có hiệu quả, giảm bớt rủi ro, đem lại lợi ích lớn nhất cho đất nước. Phương hướng điều chỉnh cụ thể đối với từng biện pháp phi thuế quan, khóa luận xin kiến nghị thêm một số biện pháp định hướng sau: a. Các biện pháp quản lý định lượng (Bao gồm các biện pháp cấm xuất nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu). Về các biện pháp cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu Do theo nguyên tắc chung, WTO không yêu cầu loại bỏ hoàn toàn các biện pháp cấm kinh doanh, cấm nhập khẩu, nhưng đòi hỏi phải công khai hóa những quy định này và các biện pháp cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu phải biện minh được tính hợp lý của nó. Vì thế, trước mắt, Việt Nam cần rà soát lại, có thể giảm bớt danh mục các hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu của mình, song vẫn giữ lại những sản phẩm cần thiết phải quản lý xuất nhập khẩu bằng biện pháp này nếu có thể biện minh được. Với những sản phẩm không cần thiết hoặc không thể biện minh được nên chuyển sang bảo hộ bằng các biện pháp khác. Ví dụ như: - Thứ nhất: Giữ lại trong danh mục các mặt hàng cấm xuất, nhập khẩu những hàng hóa sau: + Vũ khí đạn dược, vật liệu nổ, trang thiết bị quân sự. Điều này phù hợp và có thể lý giải được tính hợp lý vì chúng đều là những sản phẩm có liên quan đến an ninh quốc gia. + Các loại ma tuý, hóa chất độc. Điều này phù hợp vì mặt hàng này liên quan đến sức khoẻ của con người. + Pháo các loại, sản phẩm văn hóa đồi truỵ, đồ chơi trẻ em có ảnh hưởng xấu tới giáo dục nhân cách và trật tự an toàn xã hội. Điều này cũng phù hợp vì có thể biện minh được tính hợp lý vì việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu những mặt hàng này nhằm mục đích bảo vệ con người và môi sinh, bảo vệc đạo đức xã hội, truyền thống văn hóa. + Các loại máy mã chuyên dụng và các chương trình phần mềm mật mã sử dụng trong phạm vi bảo vệ bí mật Nhà nước -Điều này phù hợp vì đây là những sản phẩm có liên quan đến an ninh quốc gia. - Thứ hai: Một số mặt hàng có thể cần phải đưa ra khỏi danh sách những mặt hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu như: + Thuốc lá điếu, xì gà, và các dạng thuốc lá thành phẩm khác - việc cấm nhập khẩu những mặt hàng này không phù hợp với quy định của WTO và chúng ta cũng không thể đưa ra những biện minh hợp lý cho việc bảo hộ chúng, vì vậy nên chuyển sang quản lý bằng hạn ngạch thuế quan theo mức tiếp cận thị trường tối thiểu. + Hàng tiêu dùng đã qua sử dụng (hàng dệt may, giầy dép, quần áo); Hàng điện lạnh, hàng điện tử, hàng điện gia dụng, hàng trang trí nội thất, hàng gia dụng bằng gốm, sành sứ, thuỷ tinh, kim loại, nhựa cao su, chất dẻo và chất liệu khác; Vật tư, phương tiện đã qua sử dụng (máy, khung săm, lốp, phụ tùng động cơ, đã qua sử dụng của ôtô, máy kéo và xe hai bánh, ba bánh gắn máy, động cơ đốt trong đã qua sử dụng, xe đạp đã qua sử dụng, ô tô cứu thương đã qua sử dụng...). Việc cấm nhập khẩu những mặt hàng này không phù hợp với nguyên tắc của WTO và chúng ta không biện minh được. Vì vậy, có thể chuyển sang quản lý nhập khẩu bằng biện pháp cấp phép không tự động, hoặc đặt ra các tiêu chuẩn về kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường... để hạn chế nhập khẩu. - Thứ ba: Một số mặt hàng khác trong danh mục các hàng hóa cấm nhập khẩu có thể chuyển sang danh mục nhập khẩu có điều kiện, tức theo các quy định riêng của Chính phủ, như vậy sẽ phù hợp với các yêu cầu của WTO hơn, chẳng hạn như : sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm amphibole, phương tiện vận tải hay lái nghịch, các phương tiện chuyên dùng hoạt động trong phạm vi hẹp... Danh mục những hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, xuất nhập khẩu có điều kiện đều phải công bố công khai, rộng rãi cho các đối tượng biết trước hàng năm và có thể công bố một cách ổn định cho nhiều năm. Về hạn ngạch xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu WTO chủ trương loại bỏ hạn chế số lượng xuất khẩu, nhập khẩu bằng hạn ngạch, tuy nhiên, nếu vì những lý do cụ thể hợp lý vào đó cần phải áp dụng hạn ngạch để hạn chế số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu thì phải công bố công khai rõ ràng về số lượng, về điều kiện được phân bổ hạn ngạch, không được phân biệt đối xử. Những nước xin gia nhập WTO phải cam kết và đưa ra lộ trình loại bỏ việc sử dụng hạn ngạch. ở Việt Nam, về danh nghĩa, chúng ta đã bãi bỏ chế độ hạn ngạch nhập khẩu từ năm 1994. Tuy nhiên đối với những mặt hàng có liên quan tới cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân và một số hàng tiêu dùng Việt Nam vẫn có những quy định về số lượng hoặc giá trị được nhập khẩu hàng năm. Về thực chất đây là các “ hạn ngạch mềm” và việc sử dụng những hạn chế định lượng này là điều trái với các quy định của WTO. Vì vậy, Việt Nam cần rà soát lại, hạn chế và loại bỏ việc sử dụng các biện pháp quản lý nhập khẩu loại này. Tuy nhiên vì trong những trường hợp đặc biệt, WTO vẫn cho phép các nước được sử dụng những biện pháp hạn chế nhập khẩu (trong đó có hạn nghạch), cho nên Việt Nam nên sớm ban hành những văn bản pháp quy về các biện pháp tình huống như tự vệ, hạn chế nhập khẩu để bảo vệ cán cân thanh toán, bảo vệ an ninh lương thực,... phù hợp với chuẩn mực của WTO, để có thể tái lập chế độ hạn nghạch khi cần thiết. Riêng đối với lĩnh vực hàng nông sản, một lĩnh vực nhạy cảm mà nhiều nước, kể cả những nước công nghiệp phát triển luôn tìm mọi biện pháp để bảo hộ, Việt Nam cần phải có những biện pháp bảo hộ thích hợp của mình. ở lĩnh vực này, chúng ta nên áp dụng chế độ hạn ngạch thuế quan đối với một số sản phẩm như: rau quả, thuỷ sản, ngô hạt, ngô xay, đậu tương, lạc dưa, dầu thực vật, muối ăn, gạo, sữa và sản phẩm từ sữa, thịt bò, thịt lợn, thịt gà,... Nếu thấy cần thiết ta có thể áp dụng ngay các biện pháp hạn ngạch nhập khẩu đối với những sản phẩm nông nghiệp trên, trước khi đàm phán với WTO, sau đó sẽ cam kết giảm dần theo yêu cầu của WTO. Đối với hoạt động xuất khẩu, hiện nay Việt Nam đang duy trì chế độ hạn ngạch xuất khẩu cho hàng dệt may. Đây là mức hạn ngạch do phía nước ngoài đặt ra cho Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam cần cải tiến chế độ phân bổ hạn ngạch theo hướng tổ chức đấu thầu công khai, minh bạch hơn nữa, cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi phần kinh tế tham gia một cách bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử. .Về cấp phép xuất nhập khẩu WTO yêu cầu các nước chủ động xoá bỏ dần những quy định về giấy phép xuất nhập khẩu gây trở ngại cho hoạt động thương mại, nhưng không phản đối việc cấp phép xuất nhập khẩu vì mục đích theo dõi, thống kê của Nhà nước và những trường hợp thật cần thiết phải quản lý xuất nhập khẩu bằng giấy phép (ví dụ như với những mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện). Tuy nhiên WTO yêu cầu, nếu vì điều kiện cụ thể nào đó phải áp dụng hình thức cấp phép xuất nhập khẩu thì phải công bố rõ ràng mọi quy định, điều kiện cho việc cấp phép xuất nhập khẩu đó cam kết thực hiện một cách công bằng, không phân biệt đối xử không gây cản trở cho thương mại có tính bảo hộ bất hợp lý cho sản xuất trong nước. Trong quá trình đổi mới, mở cửa nền kinh tế những quy định về cấp phép xuất nhập khẩu đã có nhiều cải tiến, nhiều loại giấy phép đã được bãi bỏ. Đáp ứng yêu cầu của WTO. Việt Nam sẽ tiếp tục xem xét cải tiến chế độ cấp giấy phép của mình theo hướng rà soát, xoá bỏ những giấy phép không cần thiết, công bố công khai những loại giấy phép còn duy trì, đơn giản hoá, thủ tục cấp phép. Trong lĩnh vực này có thể đưa ra những điều chỉnh như sau: - Có thể chuyển giấy phép xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thành giấy phép tự động. - Đối với những mặt hàng trong danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện nên duy trì chế độ giấy phép không tự động. - Rà soát, giảm thiểu danh mục hàng hoá quản lý chuyên ngành. Loại nào cần quản lý “chỉ tiêu kỹ thuật”, loại nào cần quản lý “chỉ tiêu vệ sinh”, thì công bố công khai chỉ tiêu kỹ thuật, chỉ tiêu vệ sinh... để hải quan căn cứ vào đó thi hành, không cần cấp phép. Giấy phép chuyên ngành chỉ nên duy trì với những hàng hoá không có thể công bố tiêu chuẩn rõ ràng (ví dụ như sách báo, tạp chí, sản phẩm nghe nhìn...) hoặc cần quản lý mục đích sử dụng (ví dụ như thiết bị truyền phát sóng vô tuyến, máy in.v.v..). - Một số loại giấy phép nên chuyển sang giấy phép tự động như giấy phép nhập khẩu hàng hội chợ triển lãm, hàng thuê mua, thuê vận hành... b. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời (bao gồm trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá hàng hóa và tự vệ trong thương mại) Để đáp ứng yêu cầu của WTO, bên cạnh việc tiếp tục duy trì các hình thức trợ cấp không ảnh hưởng tới thương mại (như trợ cấp nghiên cứu giống mới, phương pháp sản xuất mới, xóa đói giảm nghèo, khắc phục thiên tai,...) thì những hình thức hỗ trợ cho xuất khẩu (như trợ giá, hỗ trợ lãi suất, thưởng thức xuất khẩu,...) cần phải từng bước loại bỏ, có thể thay vào đó là những hình thức trợ cấp khác phù hợp với các quy định của WTO. Ví dụ việc hỗ trợ cho xuất khẩu vẫn có thể thực hiện được thông qua hình thức tín dụng xuất khẩu hay các hình thức hỗ trợ khác mà thế giới thừa nhận và được nhiều nước trên thế giới thực hiện. Chẳng hạn như, muốn hỗ trợ cho mặt hàng xuất khẩu nào thì lấy từ Quỹ bảo đảm sản xuất được hình thành từ nguồn thu chênh lệch giá của chính mặt hàng đó, chứ không phải lấy từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu do ngân sách Nhà nước cấp, vì nếu như vậy sẽ bị WTO và các thành viên của Tổ chức này phản đối. Trong vấn đề này, Việt Nam cần phải phát huy mạnh mẽ vai trò của các Hiệp hội ngành hàng, nhất là trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước cần cho phép và khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ hỗ trợ, Quỹ phòng ngừa rủi ro cho ngành hàng của mình, nhất là những ngành hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn (như gạo, cà phê, cao su, chè, thuỷ hải sản....) Những hỗ trợ từ các Quỹ của Hiệp hội cho các thành viên khi giá cả thị trường biến động thất thường mà nguồn thu của Quỹ là do các thành viên đóng góp tự nguyện, hoặc từ các khoản tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong ngoài nước theo đúng quy định của Nhà nước hay từ các khoản thu nhập chính đáng của Hiệp hội tạo ra thì không vi phạm các quy định của WTO. Để thực hiện quyền tự vệ trong thương mại, ngày 24-5-2002, Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về quyền tự vệ trong thương mại hàng hóa. Đây là một bước tích cực để chuẩn bị cho quá trình hội nhập. Các ngành sản xuất kinh doanh trong nước có thêm một công cụ bảo hộ để ngăn chặn, hạn chế những diễn biến bất thường do hàng hóa nhập khẩu của nước ngoài gây ra dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước. Việc ban hành Pháp lệnh này sẽ làm môi trường pháp lý cho hoạt động thương mại được rõ ràng ổn định hơn. Vấn đề hiện nay là chúng ta phải sớm ban hành những văn bản pháp quy để hướng dẫn, tổ chức thực hiện pháp lệnh này. Tuy nhiên trong Pháp lệnh về quyền tự vệ trong thương mại hàng hóa mà Việt Nam ban hành chưa có nội dung nào đề cập tới vấn đề chống bán phá giá. Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có một điều khoản rất chung chung trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nói về thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá. Để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước những hàng nhập khẩu bán phá giá, chúng ta cần khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy về chống bán phá giá (có thể là Luật hoặc Pháp lệnh) nhằm thực hiện các mục tiêu sau: - Thứ nhất: Để đảm bảo duy trì sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng trên thị trường. - Thứ hai: Ngăn chặn một công ty hoặc một ngành sản xuất nước ngoài dùng hành động bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường nước ta, nhằm bảo vệ cho các ngành sản xuất công nghiệp trong nước. - Thứ ba: Là công cụ để chống lại tình trạng Chính phủ hoặc các Hiệp hội nước ngoài trợ cấp cho hàng hóa xuất khẩu của họ, dẫn đến hành động bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa của Việt Nam. - Thứ tư: Là công cụ để áp dụng biện pháp trả đũa đối với những quốc gia, vùng, lãnh thổ nào áp dụng biện pháp bán phá giá mang tổ chức kỳ thị, phân biệt đối xử đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Việc ban hành Luật chống bán phá giá của Việt Nam nếu được ban hành phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời phải phù hợp với Hiệp định chống bán phá giá theo khuôn khổ của WTO. Trong quá trình xây dựng Luật, cần chú ý đến yếu tố nền kinh tế đang phát triển ở nước ta, việc xây dựng các quy định phải phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Bên cạnh đó để đối phó với việc hàng nhập khẩu bán phá giá vào thị trường Việt Nam, chúng ta cũng cần nhanh chóng thành lập và phát triển các tập đoàn kinh tế trong các ngành nghề khác nhau. Nguyên nhân là do, khi đã tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế, các đối thủ cạnh tranh với hàng Việt Nam đều là những đối thủ khổng lồ, là những tập đoàn quốc gia và xuyên quốc gia giàu nguồn lực tài chính. Chỉ khi Việt Nam hình thành những tập đoàn kinh tế với quy mô và năng lực tài chính đủ mạnh, với cơ sở vật chất, kỹ thuật vững chắc thì mới có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ bên ngoài. c. Quy định về giá tính thuế hải quan Theo Hiệp định xác định giá trị hải quan (ACV) của WTO, giá trị tính thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu chịu thuế là căn cứ vào giá trị giao dịch, chỉ một số ít trường hợp không xác định được giá trị giao dịch thì mới áp dụng cách tính khác. Gia nhập WTO, Việt Nam phải tuân thủ Hiệp định xác định giá trị hải quan của WTO, tức là phải xây dựng kế hoạch lộ trình để từng bước loại bỏ biện pháp xác định giá trị hải quan dựa trên quy định giá tối thiểu đang được áp dụng hiện nay, xây dựng các văn bản pháp quy hướng dẫn các nguyên tắc xác định giá trị hải quan theo ACV. Thời gian đầu có thể áp dụng bảng giá tối thiểu trên diện hẹp, rồi từng bước loại bỏ dần bảng giá tối thiểu trong thời gian ân hạn theo quy định của WTO, và mở rộng dần đối tượng áp dụng các nguyên tắc xác định giá trị hải quan theo hiệp định ACV. Tuy nhiên, đây là một Hiệp định có tính kỹ thuật cao nên nó đòi hỏi một sự chuẩn bị kỹ lưỡng để tránh các tác động ngược chiều như hụt thu ngân sách đột ngột, gian lận thương mại lớn, dẫn đến xáo trộn về thị trường, ảnh hưởng xấu đến một số ngành sản xuất trong nước. Để việc thực hiện Hiệp định có hiệu quả, nhất là trong điều kiện chúng ta đang tiến hành đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng các chính sách, văn bản pháp quy liên quan đến thực hiện hiệp định. Luật thuế xuất nhập khẩu phải được sửa đổi cho phù hợp với các quy định của ACV, đồng thời cần nhanh chóng ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Hải quan và nghiên cứu một số quy định trong lĩnh vực hải quan như quy chế kiểm tra sau thông quan, quy chế quản lý hải quan đối với địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu, quy chế dành cho hàng hóa chuyển tiếp, công tác kiểm hoá để sửa đổi bổ sung những điểm bất hợp lý, những điểm mới chưa có trong luật Hải quan. 3.3.3. áp dụng biện pháp bảo hộ phi thuế quan phù hợp với thông lệ quốc tế "Bảo hộ vùng xám" là một thuật ngữ mới chỉ việc bảo hộ thông qua việc tấn công vào hàng hóa nhập khẩu bằng các biện pháp có thể biện hộ là phù hợp với thông lệ và quy định của WTO. Chúng bao gồm hàng rào tiêu chuẩn kĩ thuật, tiêu chuẩn môi trường, thủ tục nhập khẩu, phân phối gây phương hại tới quan hệ thương mại thông thường để trực tiếp hay gián tiếp thay thế hàng nhập khẩu bằng các nguồn hàng khác sản xuất trong nước nhưng kém cạnh tranh hơn. Các biện pháp "bảo hộ vùng xám" có hiệu quả không khác các biện pháp bảo hộ thông thường, nhưng cách thức và biện pháp bảo hộ tinh xảo hơn, tận dụng chính những lỗ hổng trong hệ thống pháp lý của WTO. Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ thống các biện pháp bảo hộ “vùng xám” và các biện pháp khác để sử dụng trong trường hợp cần thiết như: - Xây dựng và hệ thống hoá các biện pháp kỹ thuật, môi trường, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, hệ thống quản lý chất lượng, quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm mục đích bảo họ khi cần thiết cho các ngành thực hiện tự do hoá, tránh gây ra những biến động lớn đối với các ngành kinh tế. - Xây dựng, hài hoà hoặc áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh, tiêu chuẩn lao động của các quốc gia tiên tiến đối với hàng hoá nhập khẩu; - Tăng cường đào tạo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, luật pháp, kinh nghiệm cho các cán bộ thuộc các cơ quan chức năng liên quan đến việc áp dụng các biện pháp “vùng xám”. - Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác điều tra, kiểm tra hàng hoá nhằm thực thi nghiêm túc các quy định về tiêu chuẩn, quy cách hàng hoá của các cơ quan quản lý chức năng. - Đổi mới phương thức trợ cấp xuất khẩu hiện nay theo hướng tập trung có trọng điểm. Vì thế, trợ cấp xuất khẩu hướng vào những ngành kinh tế được bảo hộ có định hướng xuất khẩu (là mục tiêu của chính sách thương mại) chứ không chỉ đơn thuần dựa trên kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp như hiện nay. - Nâng cao việc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với cơ quan thực hiện đàm phán quốc tế đảm bảo khả năng thực thi cơ chế bảo hộ vùng xám, tránh gây ra các tranh chấp có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thương mại quốc tế. 3.3.4. Hoàn thiện hệ thống các quy định liên quan tới các bảo hộ phi thuế Trong những năm qua, Luật Thương mại ban hành năm 1997 và các quy định văn bản pháp luật của Chính phủ ban hành đã phát huy tác dụng tích cực hỗ trợ cho nền kinh tế trong nước, thúc đẩy phát triển thương mại của Việt Nam. Tuy nhiên, trước những thay đổi căn bản của điều kiện thương mại hiện nay, đặc biệt với tốc độ tự do hoá thương mại, thì việc sửa đổi bổ sung hệ thống luật pháp để tạo cơ sở pháp lý cho các BPPT mới càng trở nên cần thiết. Hệ thống Luật thương mại cần được bổ sung sửa đổi theo các định hướng sau: Tạo ra một cơ chế cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trong hoạt động thương mại và trong nền kinh tế. Tạo ra các cơ sở pháp lý cho các bảo hộ phi thuế mới có thể sẽ áp dụng ở Việt Nam như: biện pháp chống bán phá giá và thuế đối kháng, biện pháp tự vệ, thuế thời vụ, xác định trị giá Hải quan theo quy định mới của WTO. Góp phần thúc đẩy, bảo vệ sản xuất trong nước nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa, thực hiện chiến lược “hướng về xuất khẩu”. Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt động xuất nhập khẩu. 3.3.5. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý thực thi các chính sách bảo hộ phi thuế quan ở Việt Nam Trước hết, đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách bảo hộ, bởi mỗi một quyết định đề ra sẽ có tác động to lớn tới các ngành sản xuất trong nước và theo chi phí cơ hội thì các biện pháp bảo hộ này sẽ gây thiệt hại và lãng phí cho xã hội. Bởi vậy, nếu một chính sách bảo hộ đề ra là sai lầm thì thiệt hại sẽ còn được nhân lên gấp bội. Ngoài ra, để thực thi được chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế đòi hỏi người hoạch định chính sách phải có kinh nghiệm và sự am hiểu rộng, nếu không sẽ rất khó khăn cho Việt Nam trong giai đoạn muốn hội nhập vào các tổ chức kinh tế lớn như WTO, khi mà vị thế của chúng ta về kinh tế và chính trị còn thấp. Các cán bộ cấp cao này phải là người có kiến thức sâu rộng, có kĩ năng đàm phán, thuyết phục. Với các cán bộ thực thi như cán bộ Hải quan, các Bộ ngành phụ trách về phân bổ hạn ngạch, trợ cấp thì phải được tiến hành đào tạo và nâng cao đạo đức, trách nhiệm và phải có kĩ năng xử lý trước mọi tình huống và đạo đức nghề nghiệp để phòng tránh tác động xấu của hạn chế nhập khẩu là buôn lậu, gian lận thương mại. Mục lục Trang Danh mục chữ viết tắt 1 Danh mục bảng số liệu 4 Phần I: Mở đầu 5 Phần II: Nội Dung Chương 1: Khái quát về hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế 7 1.1 Khái niệm và sự cần thiết của hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế 7 1.1.1 Khái niệm và phân loại hàng rào phi thuế quan 7 1.1.2. Sự cần thiết của bảo hộ phi thuế quan trong xu thế toàn cầu hoá 9 1.1.3. Mục đích của bảo hộ phí thuế quan 12 1.1.4. Ưu điểm, nhược điểm của hàng rào phi thuế quan 13 1.2. Quy định của WTO về hàng rào phi thuế quan 16 1.2.1. WTO và tầm quan trọng của WTO với tự do hóa thương mại thế giới 16 1.2.2. Quy định về sử dụng Hạn ngạch 17 1.2.3. Quy định về sử dụng giấy phép nhập khẩu 19 1.2.4. Quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng 22 1.2.5. Quy định về các biện pháp chống bán phá giá và tự vệ 25 1.2.6. Một số biện pháp phi thuế quan khác 26 Chương 2: Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam trong tiến trình hội nhập 28 2.1. Quá trình áp dụng biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam từ năm 1986 tới nay 28 2.1.1. Giai đoạn 1986-1990 29 2.1.2. Giai đoạn 1991-1995 31 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1996 tới nay 33 2.2. Hệ thống biện pháp phi thuế quan của Việt Nam hiện nay 35 2.2.1. Mục tiêu của việc áp dụng hệ thống biện pháp bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam trong điều kiện hội nhập 35 2.2.2. Các biện pháp bảo hộ phi thuế quan cụ thể 39 2.3. Tác động của việc bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế tới các ngành kinh tế Việt Nam 47 2.3.1. Ngành mía đường 47 2.3.2. Ngành thép 48 2.3.3. Ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy 52 2.4. Đánh giá việc sử dụng công cụ bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam trong thời gian qua 53 2.4.1. Những thành công 53 2.4.2. Những hạn chế 54 2.4.3. Những điểm chưa phù hợp trong các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam so với các quy định của WTO 54 Chương 3. Giải pháp hoàn thiện hệ thống các biện pháp bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO 64 3.1. Cơ sở xây dựng giải pháp 64 3.1.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế ở Việt Nam trong thời gian tới 64 3.1.2. Cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 67 3.1.3. Quan điểm và nguyên tắc sử dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế 68 3.2. Kinh nghiệm sử dụng hàng rào phi thuế quan của một số quốc gia 70 3.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 70 3.2.2. Kinh nghiệm của ấn Độ 72 3.2.3. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ 75 3.2.4 Bài học Việt Nam rút ra từ kinh nghiệm của các nước 77 3.3. Các giải pháp điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống phi thuế quan của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO 77 3.3.1. áp dụng các biện pháp bảo hộ chọn lọc 78 3.3.2. Điều chỉnh việc áp dụng các công cụ bảo hộ phi thuế cho phù hợp với quy định của WTO 80 3.3. 3. áp dụng biện pháp bảo hộ phi thuế quan phù hợp với thông lệ quốc tế 87 3.3.4. Hoàn thiện hệ thống các quy định liên quan tới các biệp pháp bảo hộ phi thuế 88 3.3.5. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý thực thi các chính sách bảo hộ phi thuế quan ở Việt Nam 88 Phần III: Kết luận Kết luận 89 Tài liệu tham khảo 91 Kết luận Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng, các NTM đã và đang được sử dụng như một xu thế tất yếu để bảo hộ các ngành sản xuất mới và có tiềm năng phát triển. Hơn nữa, nền kinh tế xã hội của bất kỳ quốc gia nào cũng có thể bị thiệt hại, khi hàng hoá được trợ cấp hay bị bán phá giá nhập khẩu ồ ạt vào thị trường trong nước. Trong những tình huống như vậy, việc áp dụng các NTM nhằm ổn định tình hình kinh tế là rất cần thiết. Thuế quan là một công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất được WTO thừa nhận, nhưng hiện nay các NTM lại đang được áp dụng ngày càng phổ biến trên thế giới. Bởi vì, bảo hộ phi thuế quan thực sự phát huy được tính nhanh nhạy và hiệu quả trong việc bảo đảm an toàn cho những ngành sản xuất non trẻ và nền kinh tế trước những biến động không ngừng của thị trường thế giới. Điều này đã được minh chứng rõ nét qua việc ngày càng có nhiều biện pháp phi thuế quan mới, được các quốc gia ‘sáng tạo’ thêm, liên quan đến tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn lao động hay công nghệ biến đổi gen, v.v… Qua đó có thể thấy rằng tương lai các NTM sẽ luôn tồn tại cùng với thương mại quốc tế. Việc sử dụng các NTM thật sự có nhiều nét ưu việt, song ở mỗi quốc gia, khi xây dựng và sử dụng biện pháp này trong chính sách thương mại của nước mình, cũng cần phải thận trọng. Sự lạm dụng các NTM sẽ không chỉ gây khó khăn cho công tác quản lý mà còn gây ra nhưng tác động tiêu cực cho nền kinh tế quốc gia đó, chẳng hạn như triệt tiêu yếu tố cạnh tranh hoặc kích thích buôn lậu,v.v... Với tính chất một nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi, thời gian qua, Việt Nam đã sử dụng nhiều biện pháp phi thuế quan nhằm mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước, trước các ưu thế đối với ngành sản xuất tương đồng của các quốc gia khác. Nhìn chung, việc áp dung NTMs cũng phần nào thu được những kết quả nhất định. Trước hết, việc sử dụng công cụ bảo hộ phi thuế này đã tạo điều kiện cho nhiều ngành sản xuất có sức cạnh tranh kém hơn so với nước ngoài có thể tiếp tục duy trì và phát triển. Trong đó, có một số sản phẩm tiếp tục tồn tại với hàng nhập khẩu trên thị trường trong nước dù năng lực cạnh tranh kém hơn. Một số khác đã nâng dần khả năng cạnh tranh nhờ nâng cao trình độ quản lý, đổi mới công nghệ. Hơn nữa các NTM còn hỗ trợ việc xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng cho mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các mục tiêu ổn định xã hội, tạo thêm công ăn việc làm cũng đã được thực hiện nhờ tác động của các NTM. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà các NTM mang lại thì vẫn tồn tại một số hạn chế. Đầu tiên phải kể tới sự suy giảm năng lực cạnh tranh của một số ngành sản xuất trong nước do bị hạn chế khả năng tiếp cận với nguyên liệu nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế trong nước đắt hơn mà chất lượng có thể không bằng, làm chi phí sản xuất tăng lên dẫn tới khả năng cạnh tranh bị giảm sút. Mặt khác, việc áp dụng các biện pháp bảo hộ đã kích thích sản xuất để thay thế nhập khẩu trong khi đó định hướng chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam là sản xuất hướng về xuất khẩu. Kết quả của việc sử dụng các NTM để hạn chế nhập khẩu đã làm các nguồn lực bị chuyển dịch từ sản xuất phục vụ xuất khẩu sang các lĩnh vực hoặc ngành sản xuất thay thế nhập khẩu được nhà nước bảo hộ, gây tổn thất đáng kể cho các ngành xuất khẩu. Hơn nữa, các NTM không tạo ra động lực khuyến khích cạnh tranh trong các ngành được bảo hộ cao, làm phát sinh thói dựa dẫm, ỷ lại vào sự hỗ trợ ưu đãi của nhà nước và ngăn cản những nỗ lực chủ động cải tiến, hợp lý hoá sản xuất, tự nâng cao khả năng cạnh tranh của nhiều ngành nội địa. Một hạn chế khác của việc sử dụng các NTM đó là chi phí quản lý cao nhưng hiệu quả quản lý lại thấp. Để quản lý các NTM đòi hỏi phải đầu tư nhân lực, chi phí lớn cho việc duy trì bộ máy quản lý phức tạp, nhiều khi còn chồng chéo giữ các cơ quan cùng được giao chức năng quản lý nhập khẩu. Tuy nhiên, lợi ích mà bộ máy thực thi chính sách bảo hộ mang lại phần nhiều không được như ý định ban đầu. Nhiều ngành công nghiệp trọng điểm vẫn phát triển trì trệ, kém hiệu quả, thiếu sức cạnh tranh. Vậy, để có thể phát huy tối đã lợi ích của hàng rào bảo hộ phi thuế cũng như hạn chế tới mức thấp nhất những nhược điểm của nó, Nhà nước ta cần phải nghiên cứu và xây dụng một hệ thống các NTM khoa học, đồng bộ không tràn lan, chồng chéo để vừa đảm bảo mục tiêu bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước nhưng vẫn đáp ứng được những chính sách tự do hoá thương mại theo yêu cầu của WTO khi gia nhập tổ chức này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29432.doc
Tài liệu liên quan