LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
NHỮNG vẤn ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN 2
CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG 2
1. Khái niệm về cổ phần và chào bán cổ phần ra công chúng 2
1.1. Khái niệm và phân loại cổ phần 2
1.1.1. Khái niệm 2
1.1.2. Phân loại cổ phần 4
1.2. Chào bán cổ phần ra công chúng 7
1.2.1. Định nghĩa chào bán cổ phần ra công chúng 7
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng 7
1.2.3. Hình thức chào bán cổ phần ra công chúng 8
1.2.4. Ý nghĩa của chào bán cổ phần ra công chúng 10
1.2.5. Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng 11
1.2.6. Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng với nền kinh tế 12
2. Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng 13
2.1. Các văn bản pháp luật quy định về chào bán cổ phần ra công chúng 13
2.2. Nội dung pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng 15
2.2.1. Chủ thể của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng 15
2.2.2. Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng 17
2.2.3. Thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng 18
2.3. Vai trò của pháp luật với hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng 19
CHƯƠNG II 21
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN 21
RA CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM 21
1. Chủ thể chào bán cổ phần ra công chúng 21
1.1. Công ty cổ phần 21
1.2. Công ty nhà nước cổ phần hóa 22
2. Điều kiện về chào bán cổ phần ra công chúng 23
2.1. Điều kiện về chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng 23
2.1.1. Công ty cổ phần 23
2.1.2. Công ty nhà nước cổ phần hóa 25
2.2. Điều kiện về chào bán thêm cổ phần ra công chúng 25
2.3. Điều kiện về chào bán cổ phần ra nước ngoài 27
3. Thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng 28
3.1. Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng 28
3.1.1. Bản cáo bạch 28
3.1.2. Báo cáo tài chính 30
3.2 Phân phối cổ phần ra công chúng 32
3.3. Đình chỉ, hủy bỏ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng 34
4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng 35
4.1. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức phát hành 35
4.1.1. Quyền của tổ chức phát hành 35
4.1.2. Nghĩa vụ của tổ chức phát hành 37
4.2. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư 39
4.2.1. Quyền của nhà đầu tư 39
4.2.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư 40
4.3. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu có) 41
4.3.1. Quyền của tổ chức bảo lãnh 41
4.3.2. Nghĩa vụ của tổ chức bảo lãnh 42
5. Quản lý Nhà nước về hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng 42
5.1. Chính phủ 42
5.2. Bộ tài chính 43
5.3. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước 44
5.4. Trung tâm giao dịch chứng khoán 45
CHƯƠNG III 46
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 46
VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG 46
1. Căn cứ kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng 46
1.1. Đường lối chính sách của Đảng về chứng khoán và thị trường chứng khoán 46
1.2. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam 47
1.3. Yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới và hội nhập WTO 49
2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng 50
2.1. Ban hành nghị định mới thay thế nghị định 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ 50
2.2. Sửa đổi bổ sung quy định về chào bán thêm cổ phần ra công chúng 51
2.3. Bổ sung quy định về bảo lãnh phát hành 52
KẾT LUẬN 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
58 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoàn thiện pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
timex (bán đầu giá cổ phần ngày 13/04/2007), bản cáo bạch không công bố danh sách những người lãnh đạo công ty nắm giữ số lượng cổ phần là bao nhiêu ở ba công ty con của Intimex và bản thân Intimex nắm bao nhiêu cổ phần ở từng công ty con. Bên cạnh đó, bản cáo bạch của công ty chỉ toàn thấy thua lỗ mà không nhắc đến số lượng các khu đất công ty quản lý trên toàn quốc với tổng diện tích lên tới hơn hai triệu mét vuông. Chính vì những thông tin quan trọng như vậy không được đề cập đầy đủ trong bản cáo bạch đã dẫn đến tình trạng nhà đầu tư chỉ đọc bản cáo bạch thì không thể trúng thầu khi tham gia đấu giá (chỉ có 10 nhà đầu tư trúng thầu trong số 1078 nhà đầu tư đăng ký đấu giá) [17]. Không phải mọi bản cáo bạch chào bán cổ phiếu ra công chúng đều mang thông tin thiếu chính xác nhưng thực tế là ngày càng có nhiều bản cáo bạch chất lượng kém. Thông tin thiên lệch trong bản cáo bạch không giúp nhà đầu tư nắm được chính xác tình hình của doanh nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng này nằm ở chất lượng của kiểm toán. Đơn vị kiểm toán có trách nhiệm kiểm tra bản cáo bạch của tổ chức phát hành trước khi đưa trình Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay chỉ có 11 đơn vị kiểm toán được phép hoạt động với nhân lực luôn thiếu so với nhu cầu kiểm toán của thị trường [18]. Đối với các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán, thông thường bản cáo bạch là do đơn vị tư vấn niêm yết (là các công ty chứng khoán) làm ra. Nhưng chất lượng tư vấn của các công ty chứng khoán thực hiện nhiệm vụ tư vấn niêm yết không đảm bảo, dẫn đến tình trạng làm bản cáo bạch theo hướng dẫn của tổ chức phát hành.
Chất lượng kiểm toán thấp không phát hiện được lỗi trong bản cáo bạch khiến bản cáo bạch sau khi được kiểm toán vẫn không phản ánh đúng tình hình của doanh nghiệp không chỉ dẫn đến sự đánh giá sai của nhà đầu tư đối với triển vọng phát triển của công ty mà còn có khả năng ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường chứng khoán. Nếu để một công ty có chất lượng không tốt lên sàn giao dịch tập trung, công ty đó phá sản sẽ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền cho toàn bộ thị trường chứng khoán.
Bản cáo bạch phải có đầy đủ chữ ký của những người có liên quan đến hoạt động chào bán theo quy định tại Điểm d Khoản 1.2 Điều 1 Mục II Thông tư 17/2004/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng: Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính hoặc Kế toán trưởng của tổ chức phát hành và người đại diện theo pháp luật của tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành chính (nếu có). Trường hợp ký thay phải có giấy uỷ quyền. Quy định vày thể hiện tính chặt chẽ của pháp luật về trách nhiệm của những người có liên quan đến hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng. Khi ký tên vào bản cáo bạch, những cá nhân trên đã đảm bảo cho những thông tin đưa ra và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về phần nội dung liên quan đến chữ ký của họ.
3.1.2. Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là công cụ được sử dụng để công bố hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là nguồn thông tin rất quan trọng cho biết sức mạnh của tổ chức phát hành. Báo cáo tài chính là một bộ phận của bản cáo bạch.
Báo cáo tài chính được quy định tại điều 16 Luật chứng khoán 2006:
Báo cáo tài chính gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản và nguồn hình thành tài sản của tổ chức phát hành, cung cấp các số liệu thông tin để phân tích đánh giá chi tiết về tình hình chi phí, thu nhập và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua thuyết minh báo cáo tài chính, nhà đầu tư biết được chế độ kế toán đang áp dụng tại doanh nghiệp.
Như vậy, báo báo tài chính là nguồn thông tin chính thức duy nhất nhà đầu tư có được để phân tích tình hình hoạt động của tổ chức phát hành. Tính trung thực có ý nghĩa đặc biệt qua trọng đối với một báo cáo tài chính, do đó báo cáo tài chính của chào bán cổ phần ra công chúng phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận.
Hiện nay, hầu hết các chuẩn mực kế toán của Việt Nam chưa theo kịp chuẩn mực kế toán quốc tế. Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung trong đó có các công ty cổ phần chào bán ra công chúng chưa thực sự là công cụ giúp nhà đầu tư nắm rõ tình hình doanh nghiệp.
Trường hợp tổ chức phát hành là công ty mẹ thì báo cáo tài chính là báo cáo hợp nhất theo quy định của pháp luật về kế toán. Ví dụ công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT là một công ty mẹ với sáu công ty chi nhánh do đó khi lập báo cáo tài chính phải là báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của pháp luật về kế toán.
Hồ sơ đăng ký chào bán ra công chúng nếu nộp trước ngày 1 tháng 3 của năm thì báo cáo tài chính gồm báo cáo của năm trước đó (có thể chưa có kiểm toán) và báo cáo tài chính của hai năm trước liền kề (bắt buộc có kiểm toán) .
Để đảm bảo cho báo cáo tài chính sát với tình hình hoạt động của tổ chức phát hành, Luật chứng khoán quy định: nếu ngày kết thúc kỳ kế toán của của báo cáo tài chính gần nhất cách thời điểm gửi hồ sơ chào bán cổ phiếu ra công chúng hợp lệ cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quá 90 ngày thì tổ chức phát hành phải lập báo cáo tài chính bổ sung đến tháng hoặc đến quý gần nhất.
Ngoài ra, đối với báo cáo tài chính của hồ sơ chào bán cổ phiếu ra nước ngoài, nếu không được lập theo chuẩn mực kế toán của Việt Nam thì tổ chức phát hành phải có văn bản giải trình các điểm khác biệt trong báo cáo tài chính (Điều 4 Mục I Thông tư 17/2007/TT-BTC).
3.2 Phân phối cổ phần ra công chúng
Giai đoạn phân phối cổ phiếu là giai đoạn tổ chức phát hành chuyển giao quyền sở hữu cổ phiếu đến tay nhà đầu tư, từ giai đoạn này trở đi, nhà đầu tư chính thức trở thành cổ đông của công ty.
Phân phối cổ phiếu được quy định tại điều 21 Luật chứng khoán 2006.
Việc phân phối cổ phiếu chỉ được thực hiện sau khi tổ chức phát hành bảo đảm người mua cổ phiếu tiếp cận Bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng được công bố tại các địa điểm ghi trong Bản thông báo phát hành. Hiện nay, nhà đầu có thể tiếp cận bản cáo bạch qua công ty chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán, hoặc tìm kiếm trên mạng internet.
Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải phân phối chứng khoán công bằng, công khai và bảo đảm thời hạn đăng ký mua chứng khoán cho nhà đầu tư tối thiểu là hai mươi ngày; thời hạn này phải được ghi trong Bản thông báo phát hành. Thực tế hiện nay, không phải tổ chức phát hành nào cũng thực hiện đúng yêu cầu phân phối công bằng công khai cho tất cả các nhà đầu tư, đặc biệt với chào bán thêm cổ phần ra công chúng. Công ty Cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (SAM) khi phân phối cổ phiếu bổ sung đợt 2 vào ngày 28 tháng 3 năm 2006 đã không thực hiện công bố thông tin công khai minh bạch cho các nhà đầu tư. Hết thời hạn đóng tiền đăng ký mua cổ phần không nhà đầu tư nào biết để nộp sau đó công ty bán cho cán bộ công nhân viên. Trường hợp này Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã ra quyết định phân phối lại. Công ty vận tải xăng dầu Vipco khi đưa ra phương án tăng vốn điều lệ bằng phát hành thêm cổ phiếu đã phân phối cổ phiếu không công bằng cho các cổ đông khác nhau của công ty, trong đó cổ đông chiến lược là Tổng công ty xăng dầu Việt Nam được mua cổ phiếu với giá chỉ 15000VND/cổ phiếu với tỷ lệ 1:1 trong khi các cổ đông khác của công ty phải mua với giá 40000VND/cổ phiếu với tỷ lệ 50:21. Phương án tăng vốn điều lệ này đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua [17].
Tổ chức phát hành có nghĩa vụ phân phối số cổ phiếu được phép chào bán theo tỷ lệ mà từng nhà đầu tư đăng ký mua. Trường hợp số lượng cổ phiếu đăng ký mua vượt quá số lượng cổ phiếu được phép phát hành thì tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải phân phối hết số cổ phiếu được phép phát hành cho nhà đầu tư tương ứng với tỷ lệ đăng ký mua của từng nhà đầu tư.
Tổ chức phát hành phải hoàn thành việc phân phối cổ phiếu trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chúng có hiệu lực. Trong trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối cổ phiếu ra công chúng trong thời hạn 90 ngày, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem xét gia hạn việc phân phối cổ phiếu nhưng tối đa không quá ba mươi ngày. Thực tế chưa có tổ chức phát hành nào phải xin phép Ủy ban Chứng khoán Nhà nước gia hạn phân phối cổ phiếu, điều này chứng tỏ thời hạn 90 ngày là đủ cho hoạt động phân phối cổ phiếu của tổ chức phát hành.
Trường hợp đăng ký chào bán cổ phiếu cho nhiều đợt thì khoảng cách giữa đợt chào bán sau với đợt chào bán trước không quá mười hai tháng. Tổ chức phát hành lập báo cáo kết quả đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng theo mẫu do Bộ tài chính ban hành. Báo cáo kết quả chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm thông tin về cổ phiếu chào bán, tổ chức phát hành, đại lý phân phối cổ phiếu, kết quả chào bán cổ phiếu gồm: đối tượng mua cổ phiếu, số cổ phiếu chào bán, giá mua cổ phiếu, tỷ lệ phân phối, số cổ phiếu còn lại...; tổng hợp toàn bộ kết quả đợt chào bán cổ phiếu: tổng số cổ phiếu đã chào bán, số tiền thu được, tổng chi phí và cơ cấu vốn của tổ chức phát hành sau đợt chào bán. Tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt chào bán cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, kèm theo bản xác nhận của ngân hàng nơi mở tài khoản phong toả về số tiền thu được trong đợt chào bán.
Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải chuyển giao cổ phiếu hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu cổ phiếu cho người mua trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán.
3.3. Đình chỉ, hủy bỏ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
Hai trong số những biện pháp chế tài được áp dụng với công ty cổ phần có vi phạm trong hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là đình chỉ và hủy bỏ chào bán cổ phần ra công chúng.
Đình chỉ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
Đình chỉ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng được quy định tại điều 22 Luật chứng khoán 2006, trong đó quy định cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Nội dung chi tiết của các vi phạm dẫn đến đình chỉ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng còn được quy định tại Khoản 2 và 3 Điều 9 Nghị định 36/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 8 tháng 3 năm 2007 về xử phạy vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Cho tới thời điểm hiện tại, chưa có tổ chức phát hành nào bị áp dụng biện pháp chế tài này. Mặc dù vậy, sai phạm trong chào bán cổ phần ra công chúng không phải là không có. Ví dụ như sai phạm về công bố thông tin sai lệch hay thông báo phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng không đúng nội dung và thời gian theo quy định. Tuy nhiên, các sai phạm này đều được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phát hiện và xử lý trước khi tổ chức phát hành thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng.
Khi bị đình chỉ chào bán cổ phần ra công chúng, tổ chức phát hành có nghĩa vụ công bố thông tin rộng rãi cho nhà đầu tư biết. Nhà đầu tư có thể tiếp tục chờ trong thời gian đợt chào bán bị đình chỉ hoặc yêu cầu tổ chức phát hành trả lại tiền và thu hồi số cổ phiếu đã mua.
Thời hạn đình chỉ là bốn mươi lăm ngày, tối đa là sáu mươi ngày. Hết thời hạn này, tổ chức phát hành có thể tiếp tục được chào bán cổ phần ra công chúng hoặc bị tuyên bố hủy bỏ đợt chào bán ra công chúng.
Hủy bỏ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng.
Hủy bỏ chào bán ra công chúng được quy định tại điều 23 Luật chứng khoán 2006, trong đó quy định nếu tổ chức phát hành sau sáu mươi ngày không khắc phục được những thiếu sót dẫn đến bị đình chỉ hoạt động chào bán ra công chúng thì Ủy ban Chứng khoán sẽ ra quyết định hủy bỏ đợt chào bán cổ phiếu đó.
Như vậy để khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức phát hành tự sửa chữa sai sót của mình, luật không quy định một hành vi nào ngay lập tức bị Ủy ban chứng khoán tuyên bố hủy bỏ chào bán cổ phần ra công chúng mà cho tổ chức phát hành một thời hạn để sửa chữa bổ sung sai sót. Có thể nói đây là một quy định thể hiện sự tiến bộ của Luật chứng khoán 2006.
Đối với trường hợp tổ chức phát hành chào bán cổ phần ra công chúng khi chưa có giấy chứng nhận chào bán cổ phần ra công chúng do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp, luật quy định hủy bỏ ngay lập tức đợt chào bán trái pháp luật đó và có mức phạt tiền từ một đến năm lần khoản thu trái pháp luật nói trên.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày đợt chào bán cổ phần ra công chúng bị huỷ bỏ, tổ chức phát hành phải công bố việc huỷ bỏ chào bán cổ phần ra công chúng trên báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp.
Tổ chức phát hành phải thu hồi các cổ phần đã phát hành, đồng thời hoàn trả tiền cho nhà đầu tư trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đợt chào bán bị huỷ bỏ. Quá thời hạn này, tổ chức phát hành phải bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư theo các điều khoản đã cam kết với nhà đầu tư.
4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
4.1. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức phát hành
4.1.1. Quyền của tổ chức phát hành
Với tư cách là chủ thể phát hành cổ phiếu ra công chúng công ty cổ phần có quyền quyết định nội dung cơ bản của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng:
+ Về cổ phiếu của đợt chào bán: loại cổ phiếu chào bán, số lượng chào bán, giá chào bán cổ phiếu. Tổ chức phát hành hoàn toàn có quyền tự quyết về các nội dung của đợt chào bán. Đối với các công ty cổ phần thành lập theo Luật doanh nghiệp việc quyết định những nội dung cơ bản nói trên về cổ phiếu chào bán được tính toán cụ thể, chính xác Ngược lại, đối với công ty nhà nước cổ phần hóa không phải lúc nào những quyết định về giá chào bán cổ phiếu, số lượng chào bán cũng thực sự mang lại lợi ích cao nhất cho Nhà nước. Trong thực tế hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng đã có nhiều tổ chức phát hành là công ty nhà nước cổ phần hóa khi đưa ra giá chào bán cổ phiếu không sát với giá trị thực tế của cổ phiếu đã gây thiệt hại cho Nhà nước.
+ Quyết định thời gian và phương thức phân phối cổ phiếu. Phương thức phân phối cổ phiếu là bảo lãnh hay tự phát hành, hình thức bảo lãnh và tổ chức bảo lãnh sẽ đứng ra thực hiện hoạt động bảo lãnh. Ví dụ tổ chức phát hành quyết định hình thức bảo lãnh chắc chắn hay bảo lãnh tới mức tối đa..., quyết định thuê công ty chứng khoán nào thực hiện hoạt động bảo lãnh, thuê một công ty hay nhiều công ty chứng khoán đồng bảo lãnh.
+ Về hoạt động kiểm toán: tổ chức phát hành lựa chọn một trong số những tổ chức kiểm toán được chấp nhận kiểm toán cho báo cáo tài chính của mình. Tổ chức kiểm toán có thể là của Việt Nam hoặc nước ngoài tùy theo nhu cầu của tổ chức phát hành.
+ Về hoạt động tư vấn phát hành: tổ chức phát hành quyết định thuê công ty chứng khoán tư vấn về phương án phát hành cho mình, công ty này cũng đồng thời lập bản cáo bạch cho tổ chức phát hành. Tuy nhiên, hiện nay năng lực tư vấn của các công ty chứng khoán còn yếu kém, việc lập bản cáo bạch gần như là thực hiện theo sự chỉ đạo của tổ chức phát hành nên chất lượng bản cáo bạch nói chung chưa đảm bảo thể hiện chính xác tình hình hoạt động của công ty phát hành cổ phiếu.
+ Quyết định phương án và kế hoạch sử dụng tiền thu được từ đợt chào bán. Khoảng thời gian cuối năm 2006 đầu năm 2007, giá cổ phiếu trên thị trường niêm yết và thị trường không chính thức tăng rất cao, nhu cầu về cổ phiếu của các nhà đầu tư tăng vọt khiến các đợt chào bán cổ phiếu được thực hiện trong thời gian này rất thành công. Chính vì vậy, rất nhiều công ty cổ phần trong đó có công ty Nhà nước cổ phần hóa có ý định thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng để tăng vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, vấn đề rất quan trọng là sau khi thực hiện chào bán thành công, lượng vốn thu được có được sử dụng hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào phương án và kế hoạch sử dụng tiền thu được của tổ chức phát hành. Nếu chỉ có phương án chào bán tốt mà không có phương án sử dụng hiệu quả thì không chỉ dẫn tới lãng phí lượng vốn thu được mà còn có thể gây hậu quả nghiêm trọng đến sự tồn tại của công ty và sự an toàn vốn của các cổ đông.
+ Trong trường hợp chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng để tăng vốn có kèm theo quyền mua cổ phần, chào bán cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi hoặc có kèm theo chứng quyền, tổ chức phát hành quyết định phương thức thực hiện quyền.
4.1.2. Nghĩa vụ của tổ chức phát hành
Bên cạnh quyền, pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng còn quy định cho tổ chức phát hành nghĩa vụ sau:
Thứ nhất tổ chức phát hành có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các điều kiện về hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng: Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng phải cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực các thông tin theo quy định của pháp luật về bản cáo bạch và báo cáo tài chính. Hiện nay tổ chức phát hành chưa thực sự thực hiện đúng nghĩa vụ này. Các bản cáo bạch của các công ty đại chúng hiện nay mang nhiều thông tin thiên lệch khiến nhà đầu tư chưa thực sự coi đó là nguồn thông tin hoàn toàn đáng tin cậy. Các nhân tố rủi ro phải đề cập trong bản cáo bạch quá chung chung, khiến nhà đầu tư không biết được thực tế công ty phát hành phải đối đấu với những khó khăn nào. Đặc biệt đối với ngành tài chính ngân hàng có đặc thù rủi ro cao, bản cáo bạch của các tổ chức tín dụng cũng không thể hiện chi tiết những rủi ro có thể xảy ra, thay vào đó nhà đầu tư chỉ thấy dự kiến lợi nhuận rất hấp dẫn.
Thứ hai, tổ chức phát hành phải thực hiện nghĩa vụ công bố về hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng bằng bản thông cáo phát hành trên báo theo quy định của pháp luật: thông cáo phát hành phải được thực hiện theo mẫu Phụ lục số 01A ban hành kèm theo Thông tư 17/2007/TT-BTC của Bộ tài chính. Tuy vậy, đã có tổ chức phát hành không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trên, cụ thể là Công ty Hợp tác lao động với nước ngoài phía Nam (Inlaco Saigon) khi thông báo trên báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 13 tháng 4 năm 2007 về việc bán đấu giá cổ phần của Inlaco Saigon thì bản thông cáo không có địa điểm công bố bản cáo bạch.
Thứ ba, tổ chức phát hành đã hoàn thành việc chào bán cổ phiếu ra công chúng trở thành công ty đại chúng và phải thực hiện các nghĩa vụ của công ty đại chúng quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Chứng khoán 2006:
Nghĩa vụ công bố thông tin: Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày có báo cáo tài chính năm được kiểm toán, công ty đại chúng phải công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính năm.
Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn hai mươi tư giờ kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện tại khoản 2 điều 101 Luật chứng khoán và công bố thông tin bất thường trong thời hạn bảy mươi hai giờ kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện tại khoản 3 điều 101 Luật chứng khoán. Tuy nhiên không phải lúc nào nghĩa vụ công bố thông tin cũng được các công ty đại chúng thực hiện đầy đủ. Một số công ty không thực hiện hoặc thực hiện không đúng việc công bố ngày thực hiện quyền mua cổ phiếu của người sở hữu trái phiếu kèm theo quyền mua cổ phiếu hoặc ngày thực hiện chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi sang cổ phiếu và các quyết định liên quan đến việc chào bán. Trường hợp của công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông SAM đã không thông báo công khai minh bạch cho các nhà đầu tư biết về thời hạn đăng ký mua cổ phần khi công ty này chào bán thêm cổ phần ra công chúng [20] là ví dụ tiêu biểu về vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức phát hành.
Công ty đại chúng phải công bố thông tin theo yêu cầu của Ủy ban chứng khoán nhà nước khi xảy ra một trong các sự kiện sau: Có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của nhà đầu tư hoặc có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng lớn đến giá cổ phiếu và cần phải xác nhận thông tin đó. Trong thời gian qua, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có yêu cầu giải trình đối với một số công ty đại chúng liên tục có giá cổ phiếu tăng kịch trần liên tiếp nhiều phiên ví dụ như Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã có yêu cầu giải trình đối với cổ phiếu của Công ty cổ phần Thực phẩm quốc tế Interfood (tên giao dịch cổ phiếu là IFS) có giá tăng kịch trần năm phiên liên tiếp. Hoặc với những thông tin quan trọng liên quan đến hoạt động của công ty như trường hợp Công ty cổ phần Thép Việt - Ý giải trình về hợp đồng đặt hàng sản xuất thép tại nước ngoài và Vinamilk giải trình về thông tin có mạt sắt trong sữa bột [17].
Trong trường hợp hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng bị đình chỉ, tổ chức phát hành phải có nghĩa vụ thực hiện theo những yêu cầu của Ủy ban chứng khoán nhà nước về sửa chữa bổ sung những sai sót trong hồ sơ đăng ký chào bán hoặc về hoạt động phân phối cổ phiếu. Ngoài ra, tổ chức phát hành còn có nghĩa vụ thu hồi cổ phiếu đã phát hành và hoàn trả lại tiền mua cổ phiếu cho nhà đầu tư tự động (đối với hủy bỏ chào bán) hoặc theo yêu cầu (đình chỉ chào bán).
4.2. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
4.2.1. Quyền của nhà đầu tư
Nhà đầu tư được quyền có những thông tin chính xác, trung thực và đầy đủ về tình hình tài chính của công ty cũng như thông tin về bộ máy quản lý quản trị của công ty tổ chức chào bán cổ phiếu cụ thể là nhà đầu tư được quyền nhận bản cáo bạch đầy đủ của tổ chức phát hành. Hiện nay, quyền này của nhà đầu tư chưa được thực hiện đầy đủ do chất lượng bản cáo bạch chưa đảm bảo (xem 2.3.1, Bản cáo bạch).
Được quyền đặt mua số lượng cổ phần theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty: tất cả các nhà đầu tư đều có quyền đặt mua số lượng cổ phần theo khả năng và quy định của điều lệ công ty. Tổ chức phát hành không được quyền từ chối bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nếu như pháp luật và điều lệ công ty không hạn chế.
Khi hoạt động chào bán cổ phiếu bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ra quyết định đình chỉ thì nhà đầu tư có quyền yêu cầu hoàn trả lại tiền mua cổ phần và được quyền nhận lại tiền trong vòng mười lăm ngày từ khi đưa ra yêu cầu:
Nếu đợt chào bán bị Ủy ban Chứng khoán hủy bỏ thì nhà đầu tư được quyền nhận lại tiền mua cổ phiếu trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày hoạt động chào bán bị hủy bỏ, quá thời hạn này nhà đầu tư được tổ chức phát hành bồi thường theo cam kết giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư.
Quyền của nhà đầu tư chiến lược: Nhà đầu tư chiến lược được mua cổ phiếu của công ty với giá thấp hơn 20% so với giá trúng thầu bình quân. Hiện nay, Chính phủ đang xem xét xóa bỏ quy định này, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ đạo dừng việc giảm giá bán cho nhà đầu tư chiến lược, theo đó nhà đầu tư chiến lược sẽ phải mua cổ phần của tổ chức phát hành với giá không thấp hơn giá đấu thành công bình quân trên thị trường. Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank sẽ là doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa đầu tiên thực hiện quy định này [17]. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước có phương án cổ phần hóa đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt nhưng chưa tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu trước ngày 20 tháng 4 năm 2007 phải điều chỉnh lại giá bán đối với nhà đầu tư chiến lược theo quy định trên.
4.2.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư
Nhà đầu tư có trách nhiệm tìm hiểu phân tích bản cáo bạch để đưa ra quyết định mua cổ phiếu và thực hiện thủ tục đăng ký mua cổ phiếu theo quy định của pháp luật.
Nhà đầu tư có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ và đúng hạn cổ phiếu mình đã đăng ký mua. Trong trường hợp nhà đầu tư đã đăng ký mua cổ phiếu và trúng thầu từ chối mua sẽ bị mất toàn bộ tiền đặt cọc.
Đối với các nhà đầu tư chiến lược, Chính phủ đã có chỉ thị các nhà đầu tư chiến lược phải cam kết đầu tư lâu dài, không được chuyển nhượng cổ phần trong một thời gian nhất định kể từ ngày công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
4.3. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu có)
Theo quy định pháp luật hiện hành chỉ những công ty chứng khoán có nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán mới có quyền bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Hiện nay, theo quy định pháp luật về chứng khoán điều kiện để công ty chứng khoán có nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán là công ty chứng khoán phải đạt vốn điều lệ từ một trăm sáu mươi lăm tỷ đồng trở lên (Điều 18 Nghị định 14/2007/CP).
Tính đến thời điểm hiện tại Việt Nam có 55 công ty chứng khoán đang hoạt động nhưng chỉ 5 công ty chứng khoán thỏa mãn mức vốn điều lệ này [15], tuy nhiên nhìn về lâu dài thì còn rất nhiều công ty lớn sắp chào bán cổ phần ra công chúng với khối lượng cổ phiếu rất lớn, mức vốn một trăm sáu mươi lăm tỷ chưa thỏa mãn được nhu cầu của thị trường. Do vậy Chính phủ cần nâng mức vốn pháp định cho nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán lên cao hơn nữa.
4.3.1. Quyền của tổ chức bảo lãnh
Công ty chứng khoán nhận thực hiện bảo lãnh phát hành cổ phiếu có quyền nhận tiền thù lao theo hợp đồng đã ký kết giữa tổ chức phát hành và công ty chứng khoán. Trong phạm vi đã cam kết tổ chức bảo lãnh có quyền sử dụng nghiệp vụ của mình để đảm bảo thực hiện hoạt động bảo lãnh.
Công ty chứng khoán có thể một mình đảm nhiệm vai trò bảo lãnh cho toàn bộ đợt chào bán ra công chúng của tổ chức phát hành nhưng cũng có thể ký hợp đồng với những công ty chứng khoán khác cùng bảo lãnh.
4.3.2. Nghĩa vụ của tổ chức bảo lãnh
Tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện hoạt động bảo lãnh theo cam kết với tổ chức phát hành. Cam kết phát hành đề cập đến giá chào bán, thời gian, địa điểm phát hành và một số yếu tố khác giúp làm tăng khả năng thành công của đợt chào bán.
Tổ chức bảo lãnh phát hành liên đới chịu trách nhiệm với tổ chức phát hành về nội dung hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng trái pháp luật.
Tổ chức phát hành không được thực hiện bảo lãnh với hợp đồng có tổng giá trị cổ phiếu vượt quá tỷ lệ quy định của pháp luật. Theo quy định tại Thông tư số 93/2005/TT-BTC ngày 21/10/2005 về việc sửa đổi thông tư số 60/2004/TT-BTC ngày 18/6/2004 hướng dẫn việc phát hành cổ phiếu ra công chúng “Quy định tổ chức bảo lãnh phát hành được phép bảo lãnh cho một đợt phát hành với tổng giá trị cổ phiếu không vượt quá 30% vốn tự có và chỉ áp dụng đối với trường hợp nhận mua toàn bộ chứng khoán của đợt phát hành để bán lại” Như vậy quy định về tỷ lệ 30% chỉ áp dụng trong trường hợp mua để bán lại còn các trường hợp khác không có quy định cụ thể.
5. Quản lý Nhà nước về hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
5.1. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống các cơ quan quản lý về chứng khoán nói chung và về hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng nói riêng. Thẩm quyền của chính phủ là thẩm quyền chung, chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Chính phủ ra quyết định thành lập các cơ quan quản lý chuyên ngành về chứng khoán cụ thể là thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và thành lập hai trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trước khi Quốc hội ban hành Luật chứng khoán 2006 Chính phủ ban các văn bản pháp luật quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định 48/1998/NĐ-CP và Nghị định 144/2003/NĐ-CP) và hiện nay là ban hành hướng dẫn thực hiện Luật chứng khoán (Nghị định 14/2007/NĐ-CP).
Đối với hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng, Luật chứng khoán 2006 ủy quyền cho Chính phủ quy định điều kiện chào bán ra công chúng đối với DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần, doanh nghiệp mới thành lập thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao, chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các trường hợp cụ thể khác để phù hợp với thực tế và chủ trương, chính sách của nhà nước trong từng thời kỳ.
Thủ tướng Chính phủ là người ký quyết định phê duyệt kế hoạch cổ phần hóa của các doanh nghiệp Nhà nước. Văn bản pháp luật hiện hành chỉ quy định cổ phần hóa cho các doanh nghiệp (Nghị định 187/2004/NĐ-CP), đối với những ngành nghề đặc thù Chính phủ quyết định thực hiện thí điểm để nghiên cứu hiệu quả trước khi đưa vào áp dụng hàng loạt, ví dụ cổ phần hóa bệnh viện công, Chính phủ chọn bệnh viện Bình Dân làm bệnh viện công đầu tiên cổ phần hóa và thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng[15].
Trước những biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo yêu cầu các Bộ, ngành tăng cường quản lý thị trường chứng khoán, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ cho thị trường hoạt động công khai, minh bạch bằng cách ban hành các văn bản dưới luật để điều chỉnh hành vi trên thị trường. Nhưng Thủ tướng cũng chỉ thị các Bộ ngành cần thận trọng để không ban hành các chính sách mang tính mệnh lệnh hành chính để can thiệp vào thị trường [21].
5.2. Bộ tài chính
Bộ tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó có chào bán cổ phần ra công chúng.
Bộ tài chính ra các văn bản hướng dẫn việc thực hiện các nghị định của chính phủ về cổ phần hóa như ban hành Thông tư 126/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Bộ ban hành các văn bản hướng dẫn chào bán cổ phiếu ra công chúng như quy định mẫu bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng (Quyết định 13/2007/QĐ-BTC), hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng (Thông tư 17/2007/TT-BTC).
Bộ xem xét các vấn đề liên quan đến hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung để đưa ra ý kiến đề xuất với chính phủ các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề có liên quan đến hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng. Hiện nay, Bộ tài chính đang cùng với Chính phủ xem xét, thảo luận Tờ trình Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty cổ phần [16].
Bộ tài chính chỉ đạo Ủy ban Chứng Khoán nhà nước quản lý giám sát hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong đó có hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng.
5.3. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan chuyên trách quản lý hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, được thành lập theo Quyết định số 75/CP của Chính phủ ban hành ngày 28 tháng 11 năm 1996.
Trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan nhà nước trực tiếp cấp phép cho tổ chức phát hành và là cơ quan giám sát hoạt động chào bán cổ phiếu. Ủy ban còn là cơ quan thanh tra giám sát những sai phạm trong hoạt động chào bán và trực tiếp xử lý vi phạm. Cơ quan này còn thường xuyên ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn về đăng ký hồ sơ, trình tự thủ tục chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước còn có nhiệm vụ thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Mới đây, Thủ tướng đã yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tài chính chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước khẩn trương có kế hoạch để triển khai các nội dung hợp tác, trao đổi kinh nghiệm giữa Sở giao dịch chứng khoán New York và Ủy ban [17].
Trong ba tháng đầu năm 2007 thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều biến động mạnh, trong nỗ lực giữ cho thị trường phát triển bền vững, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã phối hợp cùng Ngân hàng Nhà nước ban hành một số quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là quy định cấm các ngân hàng cho công ty chứng khoán trực thuộc vay vốn [21]. Những hoạt động Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã thực hiện trong thời gian vừa qua có thể nói đã góp phần làm cân bằng sự phát triển quá mức của thị trường chứng khoán Việt Nam.
5.4. Trung tâm giao dịch chứng khoán
Hiện nay, Việt Nam đang có hai trung tâm giao dịch chứng khoán đang hoạt động là trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, được thành lập theo quyết định 127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Chức năng nhiệm vụ của hai trung tâm giao dịch chứng khoán rất đa dạng, chủ yếu là thực hiện các nghiệp vụ về tổ chức, quản lý thị trường, điều hành hoạt động mua bán chứng khoán, thực hiện lưu ký chứng khoán....
Đối với hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng, trung tâm giao dịch chứng khoán đóng vai trò tổ chức đấu giá cổ phiếu của doanh nghiệp, thực hiện việc công bố thông tin ra thị trường đối với các doanh nghiệp niêm yết, phát hiện vi phạm, trong đó có vi phạm chào bán cổ phần ra công chúng. Trước đây, việc đăng ký tham gia đấu giá chỉ được thực hiện tại hai trung tâm giao dịch chứng khoán dẫn đến tình trạng ùn tắc, bất tiện cho nhà đầu tư. Hiện nay, mô hình đầu giá hai cấp mới theo Quyết định 115/QĐ-UBCK của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành quy chế mẫu bán đấu giá cổ phần tại trung tâm giao dịch chứng khoán đã giảm tải cho trung tâm giao dịch chứng khoán, các công ty chứng khoán sẽ là đại lý đấu giá, tham gia vào việc tổ chức đấu giá trên cơ sở hợp đồng đại lý với trung tâm giao dịch chứng khoán. Với cơ chế đấu giá mới, nhiệm vụ của hai trung tâm giao dịch chứng khoán là tập trung vào kiểm tra giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán là đại lý đấu giá, nâng cao tính công khai minh bạch của hoạt động đấu giá.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
1. Căn cứ kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng
1.1. Đường lối chính sách của Đảng về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Trong chính sách phát huy các nguồn lực của đất nước, Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, trong đó nhấn mạnh đến công ty cổ phần.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, Đảng yêu cầu phải tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp: Khẩn trương hoàn thành một cách vững chắc kế hoạch sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước theo hướng hình thành công ty Nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là công ty cổ phần. Đẩy mạnh và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, kể cả các tổng công ty nhà nước, thực hiện nguyên tắc thị trường trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước giữ cổ phần chi phối với các tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu cho việc đảm bảo nhũng cân đối lớn của nền kinh tế, Nhà nước chỉ giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các doanh nghiệp bảo đảm an ninh, quốc phòng và những doanh nghiệp sản xuất, cung ứng các dịch vụ thiết yếu mà chưa cổ phần hóa được [1,tr.233].
Đảng khuyến khích phát triển các doanh nghiệp lớn của tư nhân, các tập đoàn kinh tế tư nhân có nhiều chủ sở hữu với hình thức công ty cổ phần. Khuyến khích tư nhân mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước, tham gia đầu tư và các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân lớn bán cổ phần cho người lao động.
Đảng không can thiệp đối với từng hoạt động cụ thể của nền kinh tế mà đặt ra các yêu cầu phát triển, đường lối phát triển để qua đó các ngành các cấp thực hiện.
1.2. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam đang có những tăng trưởng rất ấn tượng. Hàng loạt công ty cổ phần chào bán cổ phiếu ra công chúng tạo nên lượng cung lớn cho thị trường cổ phiếu nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Mới đi vào hoạt động được bảy năm, thị trường chứng khoán vẫn còn mới mẻ và chưa thực sự đi vào ổn định. Số lượng các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn bằng hình thức chào bán cổ phần ra công chúng là rất lớn, nhiều doanh nghiệp nhà nước sắp thực hiện cổ phần hóa hứa hẹn tạo nên sức hấp dẫn mới cho thị trường chứng khoán vốn đang có nhiều biến động.
Theo thống kê, đã có tới 60% thương hiệu mạnh Việt Nam đã niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán, tổng giá trị vốn hóa thị trường đã đạt hơn hai mươi tỷ đô-la, tăng gấp ba lần so với cùng kỳ năm 2006. Đây là những con số biết nói cho thấy quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước theo sát, thể hiện được bộ mặt của nền kinh tế Việt Nam.
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng để phát triển vì số lượng các doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là rất lớn, thời gian tới số lượng không nhỏ các doanh nghiệp và tập đoàn mạnh sẽ tiếp tục niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Chế độ công bố thông tin về chào bán cổ phần ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hóa hiện nay còn rất nhiều bất cập. Tình trạng phổ biến là nhiều thông tin quan trọng ảnh hưởng lớn đến giá cổ phiếu không được thể hiện trong bản cáo bạch. Tại thị trường niêm yết và thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) có sự chênh lệch lớn về cơ chế công bố thông tin. Nhất là đối với các công ty cổ phần thực hiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng tại cơ sở khi mới bắt đầu chào bán ban giám đốc che giấu một số thông tin tốt có khả năng làm tăng giá của cổ phiếu, để cho những người nội bộ công ty mua được cổ phiếu với giá thấp.
Thứ hai là có hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai. Sự rò rỉ thông tin phổ biến trong công tác đấu giá cổ phiếu. Trước đây, quy chế đấu giá do Uỷ ban chứng khoán ban hành chỉ yêu cầu các Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố tổng số nhà đầu tư tham gia đấu giá và tổng lượng cổ phiếu đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến việc đặt giá như số lượng nhà đầu tư tổ chức và số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia đấu giá, số lượng cổ phiếu đặt mua của các đối tượng này, lại không được công bố cụ thể. Điều đáng nói là, những thông tin này không được bảo mật chặt chẽ mà được cung cấp một cách riêng lẻ cho những đối tượng có nhu cầu. Những nhà đầu tư loại này nắm được cụ thể, chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị trường, các cá nhân tổ chức nào tham gia đấu giá sẽ tính toán được hợp lý mức giá mà mình bỏ thầu, qua đó chiếm lợi thế so với các nhà đầu tư khác không có thông tin.
Thứ ba, doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư: ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà không công bố rộng rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy các cuộc đấu giá thì người đấu giá thành công chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức. Loại trừ khả năng các nhà đầu tư tổ chức có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích và có vốn lớn hơn thì người ta cũng nghi ngờ các nhà đầu tư nhận được nhiều thông tin chất lượng hơn so với các nhà đầu tư cá thể.
Hiện tượng phổ biến hiện nay là nhà đầu tư đặt giá quá cao cho một cổ phiếu được chào bán thông qua đấu giá, sau đó bỏ không mua để lại tiền đặt cọc. Tình trạng này diễn ra ngày càng nhiều thể hiện sự không lành mạnh trong hoạt động đấu giá cổ phần lần đầu. Nhà đầu tư đặt giá bỏ thầu quá cao khiến cho giá đấu trúng thầu bình quân tăng lên nhiều so với thực tế làm thiệt hại cho nhà đầu tư là người lao động trong công ty và nhà đầu tư chiến lược. Gần đây nhất có hai đợt chào bán cổ phần lần đầu của Công ty thủy điện Thác Mơ và Công ty cổ phần Vận tải dầu khí có giá trúng thầu cao đến mức vô lý (Công ty thủy điện Thác Mơ có giá trúng thầu là 56 triệu đồng/cổ phiếu, công ty Vận tải Dầu khí là 111triệu đồng/cổ phiếu trên mệnh giá 10 nghìn đồng/cổ phiếu) kết quả là nhà đầu tư đều bỏ thầu ví dụ như trường hợp của Công ty vận tải Dầu khí có tới 9.685 cổ phần bị từ chối mua [17].
Một hiện tượng nữa là có một số công ty thực hiện chào bán cổ phần nhỏ giọt nên lượng cổ phần được chào bán rộng rãi có đến 70, 80% là do cổ đông lớn của công ty nắm giữ, những cổ đông này thao túng giá cổ phiếu đó trên thị trường chứng khoán.
1.3. Yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới và hội nhập WTO
Ngày 7 tháng 11 năm 2006 là ngày Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, đánh dấu một mốc son trong công cuộc hội nhập kinh tế thế giới. Việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO đem đến nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam.
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO thực sự tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của thị trường chứng khoán. Các chỉ số chứng khoán tăng mạnh thể hiện hy vọng của nhà đầu tư vào tiềm năng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Rất nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn hình thức chào bán cổ phần ra công chúng để huy động vốn, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nên nguồn hàng hóa dồi dào cho thị trường chứng khoán. Chứng khoán và thị trường chứng khoán trở thành những khái niệm được nhắc đến nhiều nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng và thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.
Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng đem lại nhiều thách thức và nguy cơ lớn vì thị trường chứng khoán Việt Nam nay đã kết nối với thế giới, sẽ dần trở thành một bộ phận của thị trường chứng khoán toàn cầu. Dòng vốn lưu chuyển tại thị trường chứng khoán Việt Nam lúc này không chỉ là của các cá nhân tổ chức trong nước mà còn có sự tham gia của các định chế tài chính khổng lồ trên thế giới. Các định chế tài chính này đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của các thị trường chứng khoán trên thế giới nhưng cũng là nguyên nhân gây khủng hoảng, sụp đổ của nhiều thị trường chứng khoán quốc gia. Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khả năng lây lan những rủi ro và ảnh hưởng của biến động tài chính do sự liên kết toàn cầu rất dễ xảy ra.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra với thị trường chứng khoán Việt Nam khi gia nhập kinh tế quốc tế là phải có hành lang pháp lý vững chắc, điều chỉnh được những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển ổn định và lâu dài.
2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng
2.1. Ban hành nghị định mới thay thế nghị định 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ
Nghị định 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần được xây dựng căn cứ theo Luật doanh nghiệp 1999 và Luật doanh nghiệp 2003 đã hết hiệu lực, không còn phù hợp với hệ thống luật doanh nghiệp hiện hành. Việc cần thiết là sớm ban hành nghị định mới căn cứ theo Luật doanh nghiệp 2005 để thay thế nghị định 187/2004/NĐ-CP, trong đó phần quy định về hoạt động chào bán cổ phần sau khi cổ phần hóa doanh nghiệp phải được xây dựng mới căn cứ theo Luật chứng khoán 2006.
Một số nội dung cần xây dựng mới và sửa đổi trong nghị định thay thế nghị định 187/2004/NĐ-CP:
Thứ nhất, chủ trương bán cổ phần cho người lao động trong công ty là khuyến khích, tạo điều kiện cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp. Theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP người lao động trong công ty được mua với giá giảm 40% so với giá đấu bình quân và mỗi người lao động được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm làm việc, tuy nhiên, thực tế là hiện nay tất cả các đợt chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng của doanh nghiệp cổ phần hóa đều có giá đấu bình quân gấp hàng chục đến hàng trăm lần mệnh giá cổ phiếu khiến người lao động trong công ty không thể mua được cổ phần. Nguyên nhân là Nghị định 187/2004/NĐ-CP có nhiều bất cập từ quy định định giá tài sản doanh nghiệp (định giá quá thấp nên khi chào bán cổ phần giá đặt mua cao hơn gấp nhiều lần mệnh giá) cho đến quy định về giá bán cổ phần ưu đãi đối với người lao động. Vậy nên, cần thiết phải ban hành ngay nghị định mới thay thế nghị định 187/2004/NĐ-CP sửa đổi các quy định về định giá doanh nghiệp và quy định về giá bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong công ty.
Thứ hai, nghị định 187/2004/NĐ-CP hiện nay có một lỗ hổng trong cơ chế chào bán cổ phần lần đầu là khi có nhà đầu tư từ chối mua cổ phần mình đã trúng thầu thì số cổ phần đó được bán cho nhà đầu tư bỏ giá thấp hơn. Có thể nói hiện nay đã có người sự lợi dụng quy định này để đặt giá đấu thầu rất cao sau đó từ chối mua với mục đích tăng giá đấu bình quân để trục lợi. Vì vậy, nghị định mới cần thiết phải sửa đổi quy định này, thay vào đó là quy định nếu số cổ phần bị từ chối mua trên 10% số cổ phần được chào bán thì tiếp tục đầu giá riêng phần bị từ chối đó. Để ngăn chặn hành vi cố tình đặt giá đấu thầu cổ phiếu quá cao, nghị định mới nên có quy định về tiền đặt cọc đối với số cổ phần đăng ký mua của nhà đầu tư, giải pháp có thể là nhà đầu tư phải đặt cọc một số tiền bằng 20% giá đăng ký đấu thầu cổ phiếu, như vậy sẽ không còn tình trạng có những cổ phiếu có giá trúng thầu gấp hàng trăm đến hàng nghìn lần như hiện nay (công ty Thủy điện Thác mơ).
Thứ ba, nghị định 187/2004/NĐ-CP không quy định riêng điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng cho công ty nhà nước cổ phần hóa nên công ty nhà nước cổ phần hóa có thể bán cổ phần ra công chúng kể cả khi thua lỗ, có nguy cơ phá sản [17]. Điều này vừa vô lý vừa nguy hiểm đối với thị trường chứng khoán và toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, nên xây dựng quy định mới về điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.
2.2. Sửa đổi bổ sung quy định về chào bán thêm cổ phần ra công chúng
Hiện nay khi thực hiện chào bán thêm cổ phần ra công chúng, tổ chức phát hành không thực hiện công bằng đối với các cổ đông của công ty. Cụ thể là những phương án phát hành cổ phiếu không công bằng giữa cổ đông nhỏ và cổ đông lớn của công ty ngày càng phổ biến.
Mỗi cổ phần tạo cho cổ đông quyền và trách nhiệm bằng nhau nhưng khi phương án phát hành thêm cổ phần tạo điều kiện cho cổ đông lớn được mua nhiều cổ phần hơn với giá thấp hơn được thông qua tại Đại hội cổ đông vẫn hợp pháp, gây thiệt hại cho cổ đông nhỏ.
Do đó Luật chứng khoán nên có quy định về quyền mua số lượng cổ phần tương ứng với tỷ lệ cổ phần cổ đông đang nắm giữ phải giống nhau đối với tất cả các cổ đông của công ty, không phân biệt cổ đông sáng lập hay nhà đầu tư chiến lược để bảo vệ quyền lợi cho mọi cổ đông của công ty.
2.3. Bổ sung quy định về bảo lãnh phát hành
Hoạt động bảo lãnh phát hành là một phần quan trọng của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng. Nghị định 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật chứng khoán có quy định công ty chứng khoán muốn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán phải có mức vốn pháp định là 165 tỷ đồng Việt Nam. Quy định hiện hành của pháp luật đã hủy bỏ điều kiện chỉ cho phép công ty chứng khoán bảo lãnh giá trị chứng khoán tới 30% vốn pháp định. Do đó, công ty chứng khoán có thể bảo lãnh đối với giá trị chứng khoán lớn hơn cả vốn điều lệ của mình như công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cam kết bảo lãnh số chứng chỉ quỹ trị giá 300 tỷ đồng của Công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VFM) [20].
Nếu công ty chứng khoán tiếp tục được phép bảo lãnh chứng khoán lớn hơn vốn pháp định của mình thì rất nguy hiểm cho hoạt động chào bán chứng khoán và chào bán cổ phần ra công chúng. Trong thời gian tới, nhiều công ty cổ phần và tổng công ty nhà nước cổ phần hóa sắp chào bán cổ phần ra công chúng, khối lượng cổ phiếu chào bán rất lớn, nhu cầu bảo lãnh phát hành cao. Vì vậy, cần thiết phải ban hành ngay quy định về tỷ lệ được phép bảo lãnh của công ty chứng khoán và sửa đổi quy định về vốn pháp định của công ty chứng khoán đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
KẾT LUẬN
Chào bán cổ phần ra công chúng là hoạt động không thể thiếu của thị trường chứng khoán. Việc xây dựng cũng như củng cố pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là một đòi hỏi cấp thiết. Trong thời điểm hiện nay, thị trường chứng khoán đang có những bước phát triển mạnh mẽ thì việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đảm bảo hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng công khai minh bạch là yêu cầu đặc biệt quan trọng vì đó là một trong những hoạt động mở đầu cho sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán.
Khóa luận đã tiến hành nghiên cứu thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam hiện nay và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật điều chỉnh về vấn đề này.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu cũng như khi đưa ra các kiến nghị nhưng do nhiều lý do khách quan mà khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Em rất mong được thầy cô và các bạn giúp đỡ góp ý để nội dung khóa luận được hoàn thiện và sâu sắc hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10 tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010.
Giáo trình Chứng khoán và thị trường chứng khoán – Học viện Ngân hàng NXB Thống Kê 2004.
Luật doanh nghiệp 2005.
Luật chứng khoán 2006.
Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ về Chứng khoán và thị trường chứng khoán ngày 11 tháng 7 năm 1998.
Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2003về Chứng khoán và thị trường chứng khoán (đã hết hiệu lực thi hành)
Nghị định 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc Chuyển Công ty Nhà nước thành công ty cổ phần.
Nghị định 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19 tháng 1 năm 2007 Quy định chi tiết một số điều của Luật chứng khoán.
Nghị định 36/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 8 tháng 3 năm 2007 về việc Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Thông tư số 17/2007/BTC của Bộ tài chính ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2007 hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng.
Thông tư số 126/2004/TT-BTC của Bộ Tài Chính ban hành ngày 24 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển Công ty Nhà nước thành công ty cổ phần.
Thông tư số 60/2004/TT-BTC ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2004 của Bộ Tài Chính về hướng dẫn phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Thông tư số 18/2007/TT-BTC của Bột tài chính ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2007 hướng dẫn mua bán lại cổ phiếu và một số trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng.
Quyết định 13/2007/QĐ-BTC của Bộ tài chính ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2007 về Ban hành Mẫu bản cáo bạch trong Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng và Hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Trang web của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Trang web của Bộ tài chính
Báo điện tử Thời báo kinh tế Việt Nam
Báo điện tử Kiểm toán
Báo điện tử Thanh niên
Thời báo điện tử Tin nhanh Việt Nam
Website diễn đàn doanh nghiệp
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (71).doc