Trong thời gian tới NHĐT&PTVN có rất nhiều cơ hội và thách thức mới. Những cơ hội này xuất phát từ việc tháo gỡ, cởi mở khó khăn của Chính phủ Việt Nam, quyết tâm của NHĐT&PTVN trong việc tiếp tục cơ cấu lại toàn bộ hệ thống ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Giai đoạn phát triển tiếp theo của NHTMVN có một ý nghĩa vô cùng quan trọng để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển nền tài chính nước nhà, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế trên thị trường quốc tế.
Kinh doanh ngoại tệ là một mắt xích quan trọng trong hoạt động kinh doanh đối ngoại và là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả và phát triển mạnh sẽ góp phần thực hiện thành công chiến lược kinh doanh của ngân hàng, đạt được mục tiêu về lợi nhuận, khách hàng . Ngoài ra, hoạt động này còn góp phần thúc đẩy các hoạt động khác cùng phát triển, đưa ngân hàng tiến nhanh hơn trên con đường hội nhập.
Mặc dù đã có những thành công, đóng góp lớn nhưng bên cạnh đó Sở giao dịch I cũng còn rất nhiều khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Để phát triển trong thời gian tới, việc đưa ra các giải pháp hoàn chỉnh không phải là vấn đề đơn giản mà đòi hỏi phải có sự nghiên cứu dần dần, có thời gian để rút kinh nghiệm.
93 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về hoạt động kinh doanh của SGD I.
1.1. Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính:
- Xây dựng phương án xử lý nợ tồn đọng từ 30/9/2003 trở về trước và nâng cao chất lượng tín dụng.
- Xây dựng kế hoạch tài chính lành mạnh gắn với thực hiện hạch toán kế toán đầy đủ theo nguyên tắc tự trạng trải và cẩn trọng; nâng cao hiệu quả kinh doanh; cơ cấu lại các nguồn thu và thực hiện tiết kiệm chi phí, bảo đảm đủ trang trải chi phí, trích dự phòng rủi ro; quản lý chi tiêu theo định mức.
1.2. Cải thiện cơ cấu tài sản Nợ- Có.
* Tăng trưởng nguồn vốn :
+ Xây dựng kế hoạch chăm sóc khách hàng có tiền gửi lớn, thường xuyên, phát triển khách hàng có tiềm năng tiền gửi như hệ thống kho bạc, các công ty bảo hiểm, các tổng công ty…
+ Nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ, giảm thủ tục giấy tờ, tăng năng suất phục vụ khách hàng, kết hợp các nghiệp vụ khác với công tác huy động vốn, qua khách hàng cũ mở rộng marketing khách hàng mới, phấn đấu giảm sự phụ thuộc vào số ít khách hàng tiền gửi lớn.
+ Từng bước thí điểm giao chỉ tiêu huy động vốn tiền gửi khách hàng đối với các cán bộ giao dịch trực tiếp như cán bộ tín dụng, kế toán. TTQT,…giao chỉ tiêu huy động vốn dân cư hàng quý đối với Quỹ tiết kiệm có gắn với động lực vật chất.
+ Mở rộng mạng lưới huy động vốn, chú trọng tạo một bộ mặt mang phong cách riêng của SGD I, tạo nên sự an tâm tin tưởng đối với người dân.
+ Nghiên cứu, thực hiện các hình thức huy động: tiết kiệm gửi góp, nhận và trả tiết kiệm tại nhà; thường xuyên theo dõi tình hình lãi suất thị trường, dự báo xu hướng biến động đưa ra lãi suất họp lý, linh hoạt.
+ Vận dụng các cơ chế hiện hành tổ chức điều hành nguồn vốn linh hoạt, phấn đấu dần dần điều chỉnh cơ cấu tài sản Nợ - Có phù hợp nhằm hạn chế rủi ro về cơ cấu loại tiền, lãi suất đối với hoạt động ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
* Tăng trưởng và nâng cao chất lượng tín dụng:
+ Duy trì thường xuyên công tác tổ chức đánh giá phân loại khách hàng theo định kỳ (trên cơ sở các thông tin có chọn lọc). Từ đó xây dựng giới hạn tín dụng và hạn mức tín dụng cho từng khách hàng, có chính sách lãi suất phù hợp kết hợp với chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng để có thể gia tăng số dịch vụ cung cấp cho từng khách hàng, đồng thời tăng doanh số giao dịch.
+ Thực hiện nghiêm túc luật tổ chức tín dụng và quy trình tín dụng của ngành.
1.3. Dịch vụ và công nghệ ngân hàng:
- Tuân thủ và làm theo quy trình ISO do NHĐT&PTTW ban hành trong lĩnh vực CNTT.
- Nghiên cứu triển khai mở rộng nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ tại các điểm giao dịch.; tìm kiếm các đại lý đủ điều kiện thực hiện thu đôỉ ngoại tệ, thanh toán séc du lịch, mở tài khoản cá nhân, chuyển tiền kiều hối.
- Chú trọng tăng cường khả năng tự xây dựng các chương trình phần mềm ứng dụng phục vụ các mặt nghiệp vụ, tăng tốc độ thanh toán và tăng cường khả năng kiểm soát kế toán, phục vụ công tác điều hành hoạt động kinh doanh của SGD.
1.4. Công tác tổ chức đào tạo cán bộ:
- Thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo, mời các chuyên gia trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, ngân hàng tài chính nói chuyện. Chú trọng hình thức tập huấn nghiệp vụ đối với các cơ chế, chế độ hướng dẫn mới hoặc các chiến dịch hoạt động lớn.
- Phát động phong trào nghiên cứu khoa học sâu rộng trong toàn thể cán bộ SGD, xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học khuyến khích mọi người tham gia nghiên cứu, nâng cao trình độ nghiệp vụ.
2. Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của SGD I.
Xu hướng mở cửa hội nhập toàn cầu hoá kinh tế thế giới đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thương mại quốc tế, cùng với nó hoạt động giao dịch ngoại hối của thị trường ngoại hối quốc tế ngày càng trở nên sôi động và phát triển, trở thành bộ phận không thể thiếu được của kinh doanh quốc tế. Hoạt động của NHTM trên thị trường ngoại hối đã trở thành mảng hoạt động quan trọng trong hoạt động kinh doanh đa năng và là công cụ quan trọng trong cạnh tranh và thu hút khách hàng.
Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt và nguy cơ mất thị phần trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt liên quan đến lĩnh vực thị trường quốc tế, yêu cầu bức xúc đối với các NHTMVN là phải nghiên cứu một cách hệ thống, nhìn nhận và đánh giá nghiêm túc thực trạng hoạt động kinh doanh liên quan đến ngoại tệ để có những biện pháp hữu hiệu phát huy thế mạnh của mình nhằm nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh trên thị trường ngoại hối.
Với 46 năm xây dựng và trưởng thành NHĐT&PTVN đã không ngừng lớn mạnh, phấn đấu nỗ lực, sáng tạo, mãi là người lính xung kích phục vụ đầu tư và phát triển, góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và với hơn 10 năm phát triển, Sở giao dịch I đã không ngừng phấn đấu để trở thành đơn vị hàng đầu trong toàn ngành ngân hàng. Để thực hiện mục tiêu phát triển giai đoạn 2001-2005 mà nội dung chủ yếu xuyên suốt là cơ cấu lại toàn bộ để phát triển và chủ động hội nhập. Với những yêu cầu đặt ra đó, đồng thời nhận thức được tầm quan trọng hàng đầu như là tiền đề cho mở cửa và hội nhập của hoạt động kinh doanh ngoại tệ, SGD I đã và đang nghiên cứu để đưa ra biện pháp nhằm thúc đẩy và hoàn thiện hoạt động kinh doanh này của mình sao cho có hiệu quả và an toàn ở mức cao nhất. Một trong những cơ sở để đưa ra giải pháp là định hướng hoạt động kinh doanh ngoại tệ năm 2003 và 2004:
- Định hướng hoạt động kinh doanh ngoại tệ phải được đặt trên đề án tái cơ cấu và chiến lược phát triển của Ngân hàng, phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ đồng bộ với hoạt động tín dụng, xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và các nghiệp vụ khác
- Toàn chi nhánh cần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đáp ứng cao nhất nhu cầu hợp pháp hợp lệ về ngoại tệ của khách hàng. Nhận thức rõ ràng đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng là trách nhiệm của toàn chi nhánh.
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHĐT&PTVN trong giai đoạn hiện nay trước hết là để phục vụ tốt nhu cầu của khách hàng theo đúng quy định của Nhà nước, đảm bảo hiệu quả, an toàn tuyệt đối không chạy theo lợi nhuận đơn thuần mà vi phạm các quy định của Nhà nước.
- Trong kinh doanh ngoại tệ phải tuân thủ pháp luật, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kịp thời nắm bắt diễn biến thị trường để đảm bảo an toàn, nâng cao hiệu quả và hạn chế rủi ro.
- Bắt đầu từ 2002, 12 nước thành viên của EU đã bắt đầu thanh toán bằng đồng EUR. Do đó, trong những năm tiếp theo các giao dịch cũng phải bắt đầu được chú trọng đẩy mạnh thực hiện kinh doanh đồng EUR.
- Mở rộng mạng lưới giao dịch, phát triển thêm nhiều khách hàng là ngân hàng và doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, tiếp thị thêm nhiều khách hàng mới có hoạt động xuất nhập khẩu, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các khách hàng trong các khu công nghiệp.
- Mở rộng tín dụng ngoại tệ với những khách hàng có khả năng tái tạo ngoại tệ hoặc tìm được nguồn cung ngoại tệ từ các doanh nghiệp khác, cho vay kết hợp với áp dụng các công cụ phòng chống các rủi ro tỷ giá, xác định khả năng hỗ trợ ngoại tệ của SGD đối với một số khách hàng có doanh số giao dịch lớn để nâng mức tăng trưởng tín dụng một cách an toàn trên cơ sở chính sách cung ứng ngoại tệ phù hợp với tình hình cung cầu.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một bộ phận của hoạt động kinh doanh đối ngoại, do đó, mục tiêu của nó phải gắn liền với định hướng chung, hỗ trợ đắc lực để hoàn thành định hướng đó. Mục tiêu lợi nhuận là quan trọng nhưng ngân hàng phải đảm bảo an toàn về tài sản, vốn, ngoại tệ của quốc gia, góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại với chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA SỞ GIAO DỊCH I - NHĐT&PTVN.
Kinh doanh ngoại tệ là một trong những nghiệp vụ không thể thiếu được trong các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thời hiện đại. Hơn nữa, đây là một hoạt động mang tính phức tạp, rủi ro cao và chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều biến cố kinh tế, xã hội, chính trị…
Để có thể cạnh tranh gay gắt chiếm lĩnh thị trường thì các NHTM phải đưa ra các giải pháp riêng cho mình. Việc có những giải pháp đúng đắn sẽ giúp thúc đẩy sự phát triển đồng bộ và nâng cao hiệu quả kinh doanh và cho chính ngân hàng đó. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nguyên nhân nào thì cần có giải pháp đó kèm theo để tổ chức thực hiện. Xuất phát từ thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I trong thời gian vừa qua và phương hướng phát triển trong thời gian tới, căn cứ vào một số tồn tại trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ cùng với những kiến thức đã học và thời gian thực tập tại Sở, em xin nêu ra một số phương pháp đẩy mạnh pháp triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I NHĐT&PTVN.
1. Đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.
Tại SGD I, trong kinh doanh ngoại tệ mới chỉ thực hịên nghiệp vụ mua bán giao ngay, mua bán kỳ hạn và nghiệp vụ SWAP (nhưng rất ít). Ngoài ra các nghiệp vụ khác như hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai chưa được thực hiện. Vì vậy, hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn đơn giản, mạng tính sơ khai, chưa có sự kết hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ, chưa có hoạt động dự trữ, đầu cơ. Do đó, để hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển thì cần đặc biệt triển khai ứng dụng nghiệp vụ tương lai và hợp đồng quyền chọn. Đây là các nghiệp vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tự bảo hiểm các khoản thu chi và tránh rủi ro hối đoái, như vậy thì Sở có thể thu hút thêm khách hàng, mở rộng mạng lưới kinh doanh. Tuy nhiên, việc đưa các nghiệp vụ mới này vào áp dụng không chỉ trong “một sớm một chiều”. Nó không chỉ đòi hỏi sự am hiểu về nghiệp vụ, nỗ lực học hỏi kinh nghiệm và nằm từ phía ngân hàng mà còn cần sự ủng hộ, hiểu biết về nghiệp vụ từ phía khách hàng. Vì vậy, để thực hiện nghiệp vụ mới này thì Sở giao dịch I ngoài việc trang bị kiến thức nghiệp vụ, đào tạo kỹ năng cho cán bộ kinh doanh ngoại tệ cần giới thiệu, quảng bá cho khách hàng hiểu rõ về lợi ích các nghiệp vụ để họ sử dụng chúng như các công cụ phòng ngừa rủi ro và tính toán hiệu quả trong kinh doanh.
Trước mắt, khi các nghiệp vụ này chưa được áp dụng thì SGD I cần tiếp tục thúc đẩy việc sử dụng và nâng cao hiệu quả các nghiệp vụ đang sử dụng:
* Đối với nghiệp vụ mua bán giao ngay:
- Tiếp tục mở rộng quy mô thực hiện nghiệp vụ bằng các chính sách thu hút khách hàng đến giao dịch ngoại tệ với mình đồng thời mở rộng quan hệ với các NHTM khác.
- Giữ uy tín với khách hàng: thanh toán đúng hạn, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, đảm bảo đúng tỷ giá công bố.
* Đối với nghiệp vụ mua bán kỳ hạn và nghiệp vụ SWAP:
Khi giao dịch cần đảm bảo theo nguyên tắc cân bằng giữa mua và bán để đảm bảo tránh rủi ro về tỷ giá. Ngân hàng cũng cần giới thiệu giúp khách hàng hiểu biết thêm về nghiệp vụ và lợi ích của chúng, để khuyến khích họ sử dụng, đem lại lợi nhuận và hạn chế thua lỗ cho cả ngân hàng và cả khách hàng.
2. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh.
Tại nước ta hiện nay, đồng USD vẫn là đồng tiền được các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng chủ yếu trong thanh toán quốc tế. Trong các NHTM thì việc huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ thì dùng đồng USD là chủ yếu và đồng USD chiếm tới 98% các giao dịch bằng ngoại tệ tại SGD I - NHĐT&PTVN.
Tuy nhiên, trong điều kiện thương mại toàn cầu, việc sử dụng chủ yếu đồng USD là không còn phù hợp nữa. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ một mặt đáp ứng nhu cầu cụ thể về ngoại tệ đó cho khách hàng khiến khách hàng tìm đến ngân hàng thường xuyên hơn. Mặt khác, đa dạng hoá sẽ chia sẻ, phân tán rủi ro trong khi tỷ giá của các loại ngoại tệ khác nhau có những biến động phụ thuộc vào nhiều yếu tố không kiểm soát được.
Trong giai đoạn hiện nay, khi các nước thành viên EU đã tiến hành thanh toán bằng EUR thì việc đưa đồng EUR vào các giao dịch là rất cần thiết, không nên chú trọng quá vào đồng USD mà nên mở rộng kinh doanh ra những loại ngoại tệ khác như JPY, GBP… Với tỷ giá của USD luôn biến đổi và chênh lệch tỷ giá chỉ khoảng 0.05% thì các loại ngoại tệ khác chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán lên là rất cao, lên tới 1-1.8%. Như vậy, nếu đẩy mạnh việc kinh doanh các đồng ngoại tệ khác USD này thì lợi nhuận thu được là cao hơn, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, để có kế hoạch duy trì trạng thái ngoại hối và các loại ngoai tệ thì cần phải xem xét tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để đưa ra một chính sách tối ưu tránh tình trạng khách hàng cần ngoại tệ này mà ngân hàng chỉ có ngoại tệ khác.
3. Xây dựng chính sách khách hàng tại SGD I cho kinh doanh ngoại tệ.
Chính sách khách hàng luôn có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một NHTM. Giải pháp về một chính sách khách hàng đúng đắn sẽ là một yếu tố quyết định vị trí của ngân hàng trong cuộc cạnh tranh gay gắt giành giật thị phần trên thị trường ngoại hối của các NHTM.Vì vậy:
- SGD I cần mở rộng diện khách hàng, chăm sóc khách hàng thường xuyên và chu đáo hơn, nắm bắt kịp thời diễn biến và nhu cầu của khách hàng cũ, tích cực tìm kiếm khách hàng mới, dự án mới có hiệu quả. Sở phải xác định sẵn sàng cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, tinh thần thái độ phục vụ, đặc biệt là các dịch vụ hoàn hảo, chất lượng cao để thu hút khách hàng. Các cán bộ kinh doanh ngoại tệ cần định kỳ thực hiện đánh giá, phân loại khách hàng để áp dụng chính sách khách hàng phù hợp.
- Hơn nữa, Sở phải chủ động tìm kiếm khách hàng đến giao dịch. Tuy Sở đã chủ động tìm đến khách hàng nhưng do cạnh tranh quyết liệt và phương pháp, điều kiện tiếp cận chưa phù hợp nên hiệu quả chưa cao. Mạng lưới hoạt động đã được mở rộng nhưng vẫn chưa đủ và chưa có địa điểm trung tâm thu hút được khách hàng để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Trong tình hình hiện nay, khách hàng có hoạt động xuất nhập khẩu đến giao dịch với hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ, mà khách hàng của Sở chủ yếu là các ngân hàng khác. Do đó, SGD I cần chủ động tìm kiếm khách hàng có hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; mở rộng mạng lưới giao dịch, cần có những chính sách ưu đãi, sản phẩm dịch vụ tiện ích để thu hút nhóm khách hàng này, vì đây vừa là nguồn thu vừa là nguồn bán quan trọng của ngân hàng. Sở không nên chỉ chú trọng thu hút những khách hàng lớn mà còn nên tập trung vào những đối tượng khách hàng vừa và nhỏ nhưng rất đông đảo, đặc biệt trong cơ chế mới có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mới được thành lập. Đây là mục tiêu đặt ra với toàn thể nhân viên giao dịch kinh doanh ngoại tệ của Sở, và đây cũng là yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của Sở.
- Sở cần xúc tiến việc đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng, tiết kiệm thời gian và đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Hiện nay, quy trình mua bán ngoại tệ còn bất hợp lý và lạc hậu. Khi mua ngoại tệ, khách hàng phải xuất trình đơn xin mua ngoại tệ kèm theo các chứng từ liên quan cho phòng kinh doanh đối ngoại, khách hàng còn phải lập uỷ nhiệm chi trích tài khoản VND để trả tiền mua, mà lẽ ra họ có thể uỷ quyền cho ngân hàng tự trích tài khoản VND. Như vậy, nên để khách hàng chỉ cần đến Phòng nguồn vốn kinh doanh để giao dịch, phần còn lại là công việc nội bộ giữa các phòng trong Sở giao dịch sẽ tự làm.
- Sở nên có chính sách giá cả hợp lý cho từng khách hàng. Trong một môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chính sách giá cả phải được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp trên cơ sở cân đối vốn, chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà Sở theo đuổi. Tuyệt đối không chạy theo lợi nhuận mà làm mất đi nền khách hàng bền vững. Sở phải tiến hành phân loại khách hàng. Với nhóm khách hàng có quan hệ lâu dài với Sở, khối lượng giao dịch lớn và có uy tín sẽ được hưởng lãi suất ưu đãi, mua bán ngoại tệ với giá cả ưu đãi….
- Sở tăng cường thực hiện chính sách Marketing khách hàng. Trong báo cáo tổng kết năm 2002 ban lãnh đạo đã đưa ra giải pháp là thực hiện chính sách Marketing khách hàng. Đây là nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt khi Sở vừa tiến hành hiện đại hoá toàn hệ thống và trong thời gian tới Sở sẽ áp dụng nghiệp vụ kinh doanh mới, dịch vụ sản phẩm mới, do đó, phải tổ chức quảng bá, tuyên truyền cho khách hàng những thông tin về hoạt động kinh doanh của mình sao cho ngắn gon, dễ hiểu và dễ biết sử dụng. Sở có thể tăng cường quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, tạp chí, truyền hình, mạng Internet. Đối với khách hàng có quan hệ mua bán ngoại tệ với Sở cần giới thiệu cho họ biết về những nghiệp vụ mới sao cho họ thấy được nó có lợi nhất đối với họ, và sử dụng chúng thuận tiện. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của SGD I.
4. Đầu tư hiện đại hoá cơ sở vật chất, công nghệ ngân hàng cho SGD I.
Trong thời gian tới khi mà hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, Việt Nam sẽ tham gia vào các tổ chức tài chính thương mại lớn trong khu vực và thế giới. Điều này có nghĩa là các NHTMVN sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng nước ngoài khi mà họ có rất nhiều lợi thế nhất là về công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Khi đó một loạt các sản phẩm ngân hàng hiện đại vốn đã được sử dụng ở nhiều quốc gia khác nhau sẽ được tung ra ở Việt Nam cho khách hàng sử dụng. Lúc đó lợi thế tạm thời của NHTMVN sẽ dần mất đi. Để giành giật thị trường thì yêu cầu cấp bách đặt ra với tất cả các NHTM và với Sở giao dịch I nói riêng là phải đổi mới trang thiết bị công nghệ ngân hàng sao cho phù hợp. Đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ - đây là một hoạt động mạng tính rủi ro cao, gắn liền với sự thay đổi của thị trường, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, kinh tế, chính trị, chính sách điều hành của Nhà nước…, do đó, việc đầu tư công nghệ vào lĩnh vực này là hết sức cần thiết.
- Tỷ lệ trạng bị công nghệ tại SGD I đạt gần 0,6 PC/người và cần nâng cao hơn nữa. Việc các bộ phận được kết nối mạng, hoặc thông qua truyền tin, với các chương trình giao dịch trực tiếp (chương trình IBS, chương trình tiết kiệm…) cần được nâng cấp và hoàn thiện hơn nữa, tăng cường các chương trình phần mềm ứng dụng, thực hiện xây dựng các hệ thống báo cáo, các chương trình vấn tin phục vụ công tác quản trị điều hành nhằm tạo cơ sở xây dựng các chương trình quản lý, phân tích dự báo trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tăng thêm khả năng cạnh tranh của SGD I trên địa bàn mà sức ép cạnh tranh ở mức độ cao.
- Sở cần trang bị thêm, nâng cấp các loại máy chủ loại lớn với tốc độ xử lý cao phục cụ mảng dịch vụ cho khách hàng như Homebanking, Phonebanking, Interetbanking nhằm mở rộng hơn nữa các dịch vụ ngân hàng, tăng thêm hiệu quả sử dụng ATM. Đây là điều kiện tiên quyết để Sở tiến tới thực hiện thanh toán điện tử, trước mắt giữa SGD với chi nhánh trực thuộc và các phòng giao dịch, tiến tới cho một số khách hàng lớn, có quan hệ thường xuyên tại SGD, giúp củng cố thêm vai trò và sự tin tưởng của khách hàng đối với SGD, dần hướng tới là một ngân hàng hiện đại, hoà nhập với xu hướng chung của thế giới.
- Thực trạng cho thấy hiện nay hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I vẫn là một mảng nghiệp vụ của Phòng nguồn vốn kinh doanh, chưa có một phòng kinh doanh tiền tệ riêng biệt nên chưa có điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Vậy trong thời gian tới Sở giao dịch cần thành lập phòng kinh doanh tiền tệ riêng. Mặt khác, các hoạt động giao dịch mua bán ngoại tệ mới chỉ thông qua điện thoại, fax… Sở đã có màn hình Reuter để theo dõi tình hình biến động tỷ giá của Nhà nước, do đó, Sở cần đầu tư mạng Internet nối với các doanh nghiệp lớn, các NHTM khác để theo dõi diễn biến của thị trường. Bên cạnh đó, Sở cũng cần xây dựng mạng truyền tin nội bộ và hệ thống ứng dụng hỗ trợ các cấp quản lý và điều hành.
5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động kinh doanh ngoại hối.
Trình độ và chất lượng của đội ngũ cán bộ kinh doanh ngoại hối đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của NHTM trên thị trường ngoại hối.
Một mặt, thị trường ngoại hối có độ nhạy cảm rất cao (phương pháp tính tỷ giá, kỹ thuật giao dịch và mối quan hệ với thị trường có nhiều phức tạp). Hơn nữa, kinh doanh ngoại hối trên thị trường ngoại hối quốc tế rất đa dạng phức tạp, đòi hỏi phải theo sát biến động của tỷ giá trên thị trường, kết hợp phân tích, đánh giá các yếu tố khác như kinh tế, chính trị, xã hội tâm lý…của mỗi nước, mỗi thành viên giao dịch. Do vậy, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm giao dịch và trình độ Anh ngữ của cán bộ kinh doanh ngoại tệ phải rất cao mới đảm nhận được hoạt động này. Ngoài ra, cán bộ kinh doanh ngoại hối phải biết dự báo thị trường, xem xét xu hướng biến động của tỷ giá trong thời gian trước mắt, trung và dài hạn. Trong khi đó, cán bộ SGD đa số đều là cán bộ trẻ, có trình độ song còn thiếu kinh nghiệm nên chưa thích ứng ngay được với cơ chế thị trường, ít được đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ và cập nhật thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp còn hạn chế, đặc biệt số cán bộ có trình độ tổng hợp, hoặc biết tổng quát về hoạt động của ngân hàng còn chưa nhiều.
Nhận thức được điều đó, Sở giao dịch I cần có những chính sách phát triển nguồn nhân lực một cách tốt nhất để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong hoạt động kinh doanh của mình.
5.1. Nâng cao trình độ quản lý.
Để theo dõi, chỉ đạo việc kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả và đề ra được phương hướng chiến lược mở rộng kinh doanh thì trước hết, ban lãnh đạo của Sở giao dịch cần nắm bắt được sự thay đổi của các văn bản, quan điểm chỉ đạo điều hành của Chính phủ, thường xuyên theo dõi tình hình biến động của thị trường, có cái nhìn toàn diện, bao quát kết hợp với đầu óc phân tích tổng hợp, linh hoạt sáng tạo, đưa ra các quyết định kịp thời, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh hoặc hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất, hình thành dựa trên cơ sở thực tế và tư duy chiến lược của mình.
Để có được phẩm chất này đòi hỏi người lãnh đạo phải dày dặn kinh nghiệm và tích luỹ nghề nghiệp vững vàng, ham hiểu biết… Ban lãnh đạo phải thường xuyên lập ra kế hoạch kinh doanh, thực hiện kiểm tra kiểm soát đầy đủ chặt chẽ để xử lý kịp thời những vướng mức và khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ được thông suốt và nhanh chóng. Có chiến lược kinh doanh đúng đắn và giải pháp kịp thời sẽ góp phần thực hiện công việc một cách có kế hoạch, hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
5.2. Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về chuyên môn.
Kinh doanh ngoại tệ là một nghiệp vụ mới, hoạt động của nó gắn liền với những diễn biến của thị trường. Vì vậy, đòi hỏi nhân viên phụ trách phải có trình độ, am hiểu và biết phân tích, đánh giá để có phương án kinh doanh tối ưu, biết tận dụng thời cơ, cơ hội trong kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh liên quan đến thị trường ngoại tệ. Mặt khác, hoạt động trên thị trường ngoại hối là hoạt động đặc thù, các giao dịch cam kết mua bán của NHTM mang tính bắt buộc. Do vậy, uy tín của ngân hàng ảnh hưởng lớn đối tới hoạt động của ngân hàng đó trên thị trường ngoại hối, tác động trực tiếp vào khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Trình độ xử lý nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp nhất tới uy tín của ngân hàng. Hiểu được tầm quan trọng này, Sở giao dịch I phải thường xuyên mở các lớp tập huấn nghiệp vụ, đưa cán bộ đi học tập, tu nghiệp cả ở trong nước và nước ngoài.
Thực hiện đào tạo và phát triển nghiệp vụ chuyên môn cho nhân viên phụ trách lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ, mà hiện nay, Sở giao dịch I có 3 nhân viên trẻ thực hiện nghiệp vụ này. Đây là một lợi thế cho Sở giao dịch trong việc thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ, đáp ứng cho tương lai, nhưng cũng là hạn chế vì họ còn thiếu kinh nghiệm. Cán bộ làm nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ không chỉ tinh thông nghề nghiệp mà còn phải giỏi ngoai ngữ, am hiểu pháp luật và các thông lệ quốc tế, sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại phục vụ công việc, có sức khoẻ tốt là một điều kiện rất quan trọng cho một “dealer” giỏi. Hơn nữa, họ cần có khả năng thu thập thông tin, phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội… sự nhạy cảm nghề nghiệp để xử lý tình huống giao dịch một cách linh hoạt.
SGD I còn nhiều khó khăn như vốn, công nghệ nhưng chưa cấp bách bằng nguồn nhân lực, vì vậy Sở cần phải đầu tư cho đào tạo và có chế độ đãi ngộ thoả đáng khuyến khích các nhân viên tự học hỏi, nâng cao trình độ và sự nhạy bén nghề nghiệp của họ.
6. Thực hiện tốt một số nguyên tắc trong kinh doanh ngoại tệ.
Hoạt động kinh doanh ngoai tệ là hoạt động chứa nhiều rủi ro, trong đó rủi ro về tỷ giá và rủi ro về lãi suất là những rủi ro đặc trưng. Về cơ bản ngân hàng không thể kiểm soát được rủi ro mà chỉ có thể dùng các biện pháp nhằm hạn chế thiệt hại do chúng gây ra. Để có biện pháp hữu hiệu thì ngân hàng cần thực hiện tốt một số nguyên tắc trong kinh doanh ngoại tệ.
6.1. Ngân hàng cần thực hiện nguyên tắc mua đủ bán hết.
Rủi ro về tỷ giá xuất hiện khi ngân hàng có trạng thái một loại ngoại tệ nào đó dư thừa hoặc thiếu hụt. Khi ngoại tệ đó lên giá thì trạng thái dư thừa sẽ có lợi còn nếu trạng thái âm thì sẽ bị lỗ. Trong quá trình mua bán hàng ngày, trạng thái ngoại tệ này luôn thay đổi nên ngân hàng luôn có khả năng gặp phải rủi ro do sự biến động của tỷ giá. Vì vậy, để hạn chế rủi ro do tỷ giá gây ra, ngân hàng cần thực hiện nguyên tắc mua đủ bán hết. Mặt khác Sở giao dịch cần điều chỉnh mức trạng thái ngoại tệ tối ưu, ít rủi ro nhất nhưng phải có hiệu quả bởi nếu duy trì trạng thái ngoại tệ ở mức cân bằng thì sẽ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh khi không có đủ ngoại tệ cho nhu cầu bất ngờ của khách hàng.
6.2. Nguyên tắc tìm đường thoát trước khi tạo ra trạng thái ngoại tệ.
Sở giao dịch I cũng cần đẩy mạnh đột phá trong việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái (nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn…) hoặc thoả thuận với khách hàng nếu tỷ giá biến động vượt quá một phạm vi giới hạn cho phép thì ngân hàng và khách hàng sẽ cùng chia sẻ thiệt hại hoặc cùng hưởng lợi. Đây là nguyên tắc thứ hai cho ngân hàng.
Rủi ro lãi suất chủ yếu xảy ra với các nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ quyền chọn. So với rủi ro tỷ giá hối đoái thì rủi ro hối đoái ít có ý nghĩa hơn nhưng với khối lượng giao dịch lớn thì nó cũng gây ra thiệt hại đáng kể. Để hạn chế rủi ro, SGD I cần phải phân tích rủi ro phát sinh từ những nghiệp vụ này. Việc này cần phải thực hiện theo nguyên tắc kết hợp phân tích cơ bản với phân tích kỹ thuật. Phân tích cơ bản để xác định thị trường, phân tích kỹ thuật xác định thời điểm.
Bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào thì lợi nhuận bao giờ cũng đi kèm với rủi ro. Rủi ro càng lớn thì lợi nhuận càng cao. Để thu được lợi nhuận lớn thì đòi hỏi mỗi đơn vị kinh doanh phải nắm lấy cơ hội, tận dụng thời cơ và biết tổng hợp tất cả các nghiệp vụ kinh doanh. Riêng đối với Sở giao dịch I, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ thì việc tổng hợp tất cả các nghiệp vụ, am hiểu thị trường và đặc biệt cần có sự nhạy cảm, linh hoạt, khả năng nắm bắt thị trường nhanh để từ đó đưa ra các biện pháp, công cụ phòng ngừa rủi ro mà vẫn thu được lợi nhuận cao.
7. Mở rộng và phát triển các hoạt động có liên quan đến kinh doanh ngoại tệ.
Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng đều có liên quan trực tiếp, tác động lẫn nhau. Hoạt động này phát triển sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động khác cùng phát triển. Trong lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tại Sở giao dịch I thì việc kinh doanh ngoại tệ không chỉ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế và cho vay ngoại tệ phát triển.
7.1. Hoạt động thanh toán quốc tế.
Muốn đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ thì phải làm tốt công tác thanh toán quốc tế. Công tác thanh toán quốc tế tại SGD I cần đảm bảo sự tin cậy, tốc độ thanh toán nhanh, có mạng lưới ngân hàng đại lý rộng, tạo thuận lợi cho khách hàng ở nhiều thị trường khác nhau thì khách hàng sẽ tìm đến ngân hàng nhiều hơn. Để thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán quốc tế thì đòi hỏi SGD I phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Chính sách thu hút khách hàng: Sở cần có các mức ký quỹ phù hợp với từng doanh nghiệp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí cho khách hàng có uy tín, quan hệ lâu dài với Sở, khách hàng có khối lượng giao dịch lớn. Tư vấn cho khách hàng về phương thức giao dịch có lợi cho khách hàng. Tổ chức thực hiện nghiệp vụ đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác, kịp thời, an toàn về vốn…
- Để tăng sức cạnh tranh, SGD I nên giảm bớt thời gian làm thủ tục mở, thanh toán L/C đến mức gọn nhất có thể được bằng cách đơn giản hoá các thủ tục trong các lần giao dịch sau với khách hàng thường xuyên. Các đơn xin mở L/C, chứng từ hàng xuất nên được kiểm tra ngay khi xuất trình hoặc nhân viên ngân hàng sửa chữa những sai sót chứng từ ngay giúp khách hàng tiết kiệm được thời gian không phải đi lại nhiều lần.
- Mở rộng quan hệ với các ngân hàng khác, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài để tận dụng tối đa sự trợ giúp về nghiệp vụ, chuyên môn và khai thác thông tin kinh tế.
- Tổ chức thực hiện tốt quy trình thanh toán quốc tế mới, phát triển và sử dụng mạng thanh toán quốc tế SWIFT với hiệu quả cao nhất để nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế.
- Trong cung ứng dịch vụ thanh toán quốc tế, các thanh toán viên với năng lực chuyên môn và phong cách ứng xử của họ đóng vai trò quan trọng hàng đầu vì chính họ là hình ảnh của Sở trong lòng khách hàng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của khách hàng, thanh toán viên cần có trình độ chuyên môn giỏi, chiều sâu kinh nghiệm, kiến thức về các lĩnh vực liên quan đến nghiệp vụ ngoại thương để có thể xử lý chúng nhanh chóng, chính xác và đặc biệt nhận biết được các tình huống lừa đảo, giả mạo chứng từ. Do đó, cần chú trọng công tác đào tạo cả về nghiệp vụ và Anh ngữ chuyên sâu cũng như xây dựng, hoàn thiện văn hoá ứng xử, luôn có thái độ mềm mỏng ân cần, tạo sự gần gũi và tin cậy cho khách hàng.
7.2. Hoạt động cho vay ngoại tệ.
Hiện nay, Sở chỉ cho vay ngoại tệ đối với một số công ty và tổng công ty có doanh số hoạt động lớn nhưng số lượng các doanh nghiệp này không nhiều, do đó, để mở rộng cho vay ngoại tệ thì Sở cần:
- Tiếp tục tăng khơi nguồn ngoại tệ trung và dài hạn.
- Thực hiện tốt cho vay tài trợ xuất nhập khẩu để giúp các doanh nghiệp có vốn làm hàng xuất khẩu. Thực hiện cho vay ứng trước bộ chứng từ hàng xuất để tạo điều kiện cung cấp ngoại tệ cho doanh nghiệp và có điều kiện mở rộng thị trường ngoại tệ có kỳ hạn.
- Nâng cao trình độ cán bộ thẩm định tín dụng để xem xét không chỉ khả năng trả nợ của khách hàng mà còn tư vấn cho họ phương án kinh doanh có hiệu quả nhất.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
1. Đối với Chính phủ.
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh doanh ngoại tệ.
Kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động đặc thù, vì hàng hoá trong thị trường này có tính hấp dẫn cao và rủi ro trong thị trường này cũng rất lớn. Là một lĩnh vực hoạt động kinh doanh trên thị trường mà đặc biệt là thị trường quốc tế, tạo tiền đề cho mở cửa và cho hội nhập nhưng cho đến nay vẫn chưa có một bộ luật cụ thể về quản lý ngoại hối. Để chuẩn bị cho bộ luật mới ra đời thì trước mắt yêu cầu tất cả các ngân hàng thực hiện tốt các quy định, nghị định, thông tư… đang có.
Quản lý ngoại hối là một công việc liên quan đến chính sách tiền tệ quốc gia. Vì vậy, việc ban hành các văn bản quản lý, các thông tư hướng dẫn phù hợp, sát với thực tế là hết sức quan trọng.
Hiện nay, nhiều điều khoản quy định còn gây khó khăn, chưa sát với thực tế như: quy định về tỷ giá, lượng ngoại tệ mua bán và việc mua bán ngoại tệ với người cư trú là tổ chức, điều này gây khó khăn cho các NHTM và doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ.
Theo quy định hiện hành của NNHVN – QĐ101/ 1999 ngày 26/3/1999 mỗi giao dịch phải có giá trị ít nhất là 50.000 USD. Như vậy đối với các doanh nghiệp có quy mô hoạt động kinh doanh nhỏ, đa phần là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giá trị ngoại tệ cho mỗi lần giao dịch là không lớn, quy định trên gây khó khăn trong việc thu hút ngoại tệ quy mô nhỏ và các doanh nghiệp là khách hàng nhỏ đến với ngân hàng. Nên chăng các NHTM cần đề nghị với NHNN giảm giá trị tối thiểu phù hợp với quy mô nhỏ của các NHTM. Việc này ngoài đáp ứng nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn giúp cho các doanh nghiệp tự bảo hiểm các khoản thu, chi ngoại tệ có giá trị lớn khỏi rủi ro ngoại hối.
Gần đây việc triển khai nghị định 61/2001/ NĐ - CP ngày 25/4/2001 của Chính phủ là điều hành tỷ lệ kết hối của các khoản thu ngoại tệ vãng lai của các tổ chức kinh tế xã hội từ mức 50% xuống còn 40%, và bây giờ quyết định của Thủ tướng Chính phủ 46/2003/QĐ-TTg ngày 2/4/2003 là tỷ lệ kết hối đối với nguồn thu ngoại tệ vãng lai là 0% đã làm cho nguồn ngoại tệ của ngân hàng giảm sút, ảnh hưởng đến mức cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế quốc dân trong thời gian qua. Việc quản lý ngoại hối còn bộc lộ nhiều yếu kém và sơ hở làm cho nguồn ngoại tệ vãng lai trôi nổi trên thị trường ngày một gia tăng và chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, nên chưa thể hội đủ điều kiện để chấm dứt tình trạng “ đô la hoá nền kinh tế”.
Việc ban hành các văn bản sát với thực tế đã khó nhưng việc thực hiện của các NHTM còn khó khăn hơn nhiều, nhất là trong lĩnh vực ngoại hối, một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam. Do đó, phải tăng cường công tác đào tạo, tuyên truyền, tập huấn nâng cao trình độ nhận thức các văn bản của cán bộ, nhân viên các NHTM. Với những câu hỏi, kiến nghị về việc khó khăn trong quá trình thực hiện, NHNN cần sớm nghiên cứu trả lời hoặc có thể tập hợp các trường hợp để nghiên cứu ban hành cẩm nang cho hoạt động này như phòng Thương mại quốc tế vẫn làm hàng năm.
1.2. Cơ chế tỷ giá linh hoạt có sự điều chỉnh của Nhà nước.
Trong hai năm 1999 đến 2000 đã có hàng loạt các văn bản về tỷ giá hối đoái ra đời. Điều này chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đến thị trường ngoại hối. Cơ chế tỷ giá và điều hành tỷ giá của nước ta đã thay đổi cơ bản, vai trò kiểm soát của Nhà nước về tỷ giá chặt chẽ hơn. Tỷ giá do Nhà nước công bố đã phần nào đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ của các NHTM và sát với tỷ giá trên thị trường. Tuy nhiên, chế độ tỷ giá này vẫn còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết.
Năm 2002 tỷ giá tăng 2%, thấp nhất trong nhiều năm qua, cho đến ngày 31/12/ 2002 tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố chỉ tăng 1,97% so với cuối năm 2001. Tỷ giá USD/VND chỉ tăng 0,1-0,3%. Tính chung cả năm tỷ giá USD tăng 2,1% thấp hơn hai năm liền kề trước đó (năm 2000 tăng 3,4%, năm 2001 tăng 3.9%). Từ thực tế ấy có thể nhận xét giá trị đối ngoại của VND cũng không giữ được thế chủ động khi nền kinh tế thế giới vẫn chao đảo và giá vàng tăng đột biến: năm 2001 tăng 5%, năm 2002 tăng 19,4% so với năm 2000 (âm 1,7%). Từ phân tích trên, để cơ chế điều hành tỷ giá phát huy hơn nữa, NHNN cần tập trung vào hoàn thiện các vấn đề:
- Củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng một cách căn bản để phát triển thị trường ngoại hối ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đưa các nghiệp vụ mới vào hoạt động.
- Nâng cao dự trữ ngoại tệ của Nhà nước tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu và khối lượng ngoại tệ đang có trên thị trường nước ta. Có như vây, NHNN mới đảm bảo là người mua cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, giúp các NHTM yên tâm hơn trong kinh doanh ngoại tệ.
- Trong thời gian tới, việc đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong giao dịch sẽ được mở rộng, đặc biệt áp dụng đồng EUR vào trong thanh toán. Do đó, NHNN nên đưa ra một cơ chế tỷ giá linh hoạt, thích hợp, để tạo điều kiện cạnh tranh giữa các loại ngoại tệ, tạo khả năng thu hút nhiều loại ngoại tệ khác nhau cho hoạt động của các NHTM.
- Trong việc ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ có kỳ hạn trong các giao dịch kỳ hạn chưa phù hợp với điều hành tỷ giá. Hiện nay, mức gia tăng tỷ giá đã giảm từ 0,58% xuống 0,2% ngay từ kỳ hạn giao dịch đầu tiên trong khi tỷ giá công bố của Nhà nước có tháng điều chỉnh tăng liên tục và tăng trưởng khoảng 1%/tháng. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp và NHTM trong việc mua bán kỳ hạn. Mặt khác, việc quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn bằng cách khống chế mức tối đa được phép dựa trên tỷ giá giao ngay cộng với tỷ lệ % nào đó tuỳ theo từng kỳ hạn là hết sức cứng nhắc, không linh hoạt và không phản ánh đứng bản chất của tỷ giá kỳ hạn. Tuy nhiên, tỷ giá kỳ hạn thực chất được tính dựa trên chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền và tỷ giá giữa chúng tại thời điểm ký hợp đồng. Vì vậy, để hoàn thiện cơ chế tính tỷ giá kỳ hạn thì NHNN nên dựa vào chênh lệch lãi suất thay vì cách tính hành chính hiện nay.
Tỷ giá do NHNN công bố đôi khi chưa đánh giá đúng bản chất cung cầu USD trên thị trường, nó gần như một hình thức ép giá đối với các NHTM, gây khó khăn cho các NHTM khi thu hút nguồn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường.
Để trong thời gian tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM trên thị trường ngoại hối phát triển và có hiệu quả hơn thì đòi hỏi NHNN phải xem xét và đưa ra những văn bản pháp luật mới, hoàn chỉnh hơn về tỷ giá dựa trên sự đánh giá thực tế diễn biến của thị trường ngoại tệ và những thay đổi của đồng tiền diễn ra liên tục. Việc đưa ra những văn bản mới, hoàn thiện là rất quan trọng trong việc hoàn thiện thị trường ngoại hối của nước ta và tạo điều kiện để thị trường ngoại hối của nước ta hoà nhập với thị trường ngoại hối quốc tế.
1.3. Hình thành và vận hành tốt thị trường ngoại hối.
Tuy đã đi vào hoạt động, nhưng thị trường ngoại hối ở nước ta vẫn còn đang ở ở thời kỳ sơ khai, các nghiệp vụ giao dịch còn đơn giản, loại ngoại tệ không nhiều và số thành viên tham gia là không lớn. Do quy định chặt chẽ của Nhà nước về thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối nên hiện nay, chỉ có các NHTM mới được tham gia vào thị trường này. Để thị trường ngoại hối vận hành theo đúng nghĩa của nó thì Nhà nước cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Xây dựng một cơ chế tỷ giá linh hoạt, nhạy bén, phản ánh được thường xuyên liên tục sự biến động của tỷ giá trên thị trường quốc tế.
- Trang bị hệ thống thông tin hiện đại để tiếp nhận tỷ giá, các nguồn thông tin đa chiều, chính xác, nhanh chóng, thường xuyên đổi mới thông tin và cung cấp cho các NHTM.
- Mở rộng thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối là các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
- Hiện nay, thị trường ngoại hối của nước ta vẫn là một lĩnh vực còn mới đối với người dân. Bởi vậy, muốn mở rộng hoạt động của thị trường này trong thời gian tới thì cần trang bị những kiến thức cơ bản cho dân chúng về thị trường ngoại hối, đặc biệt là các Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu lớn, các đơn vị kinh tế có tiềm năng lớn trong tương lai thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo…
1.4. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ chỉ có thể phát triển được khi bản thân nền kinh tế có những quan hệ kinh tế đối ngoại liên quan đến nhu cầu chuyển đổi tiền tệ. Do vậy, sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến giải pháp về cán cân thanh toán quốc tế đối với hoạt động này. Sự thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ở nước ta luôn được nhắc tới và luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Quan hệ thương mại quốc tế phát triển thì nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường càng lớn và ngược lại.
Năm 2002, kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động bất lợi tới nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Sự phục hồi chậm của nền kinh tế Mỹ và một số nền kinh tế lớn, sự bất ổn của kinh tế chính trị thế giới do tác động của cuộc khủng bố, nguy cơ chiến tranh ở Irắc, sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trên thị trường tài chính thế giới, lãi suất đồng USD giảm mạnh cũng tác động đến huy động tiền gửi ngoại tệ của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu cho phát triển nền kinh tế quốc dân, cho CNH-HĐH đất nước vẫn là những đòi hỏi cấp thiết, kết quả là cán cân thanh toán quốc tế của nước ta vẫn chưa được cải thiện. Đây là yếu tố gây mất cân đối cung cầu ngoại tệ và làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
Do vậy, để cải thiện cán cân thanh toán, Chính phủ cần tập trung vào thực hiện:
- Tiếp tục hạn chế nhập siêu các mặt hàng tiêu dùng bằng cách yêu cầu các NHTM không bán ngoại tệ cho các nhu cầu thanh toán này (kể cả những đơn vị kết hối ngoại tệ cho ngân hàng cũng không được mua lại ngoại tệ), quy định ngân hàng không cho vay ngoại tệ để nhập hàng tiêu dùng, cắt hẳn hoặc giảm hạn ngạch nhập khẩu các mặt hàng mà trong tương lai có thể sản xuất được.
- Đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công tác đầu tư nước ngoài, đa dạng hoá các hình thức đầu tư nhằm thu hút lượng ngoại tệ lớn vào trong hệ thống NHTM và cải thiện các cán cân thanh toán quốc tế.
Vai trò của Chính phủ đối với quản lý ngân hàng là rất quan trọng. Nó tác động mạnh mẽ tới hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của các NHTM và tới sự vận động của thị trường ngoại hối. Do đó, để đưa ra những quyết định đúng đắn thì đòi hỏi Chính phủ phải xem xét trên tất cả các mặt của nền kinh tế, chính trị, xã hội…
2. Đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (NHĐT&PTVN).
2.1. Về quy trình mua bán ngoại tệ giữa Hội sở chính và các chi nhánh.
Quy trình mua bán ngoại tệ giữa Hội sở chính và các chi nhánh còn nhiều phức tạp, các thủ tục rườm rà gây mất thời gian và lãng phí đối với các chi nhánh.
Khi các chi nhánh mua bán ngoại tệ với Hội sở chính thì phải nộp đơn xin mua, trong đó nêu số ngoại tệ cần mua, cho ai, mục đích, ngày hiệu lực, tỷ giá… nên chăng vấn đề này nên để cho Giám đốc của các chi nhánh được phép kinh doanh ngoại tệ chủ động quyết định cho phù hợp với cơ chế quản lý ngoại hối.
Số 1090/NHĐT-KDTT có quy định về việc mua bán ngoại tệ trong hệ thống có ghi: thực hiện mua bán ngoại tệ thông qua NHĐT&PTVN mà không thực hiện mua bán ngoại tệ giữa các chi nhánh. Điều này gây khó khăn cho các chi nhánh trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng và hạn chế khả năng chủ động nguồn ngoại tệ của các chi nhánh. Chi nhánh chỉ được bán ngoại tệ khi đã có đủ nguồn ngoại tệ, không được ứng bán trước trừ trường hợp được Tổng giám đốc cho phép. Đối với mua bán ngoại tệ kỳ hạn, chi nhánh chỉ được bán ngoại tệ kỳ hạn khi đã xác định rõ có hợp đồng chắc chắn, mua được ngoại tệ kỳ hạn. Đối với giao dịch mua bán ngoại tệ khác USD, các chi nhánh chỉ mua theo đề nghị của khách hàng, không được mua bán để giữ trạng thái chờ giá biến động nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Vẫn biết trong mua bán hàng ngày, các chi nhánh cần theo dõi sát tình hình biến động tỷ giá để có quyết định mua bán kịp thời không để rủi ro do tỷ giá biến động ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh, nhưng những quy định đó làm hạn chế khả năng chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của các Chi nhánh, dễ bỏ lỡ cơ hội mua bán khi biến động tỷ giá có lợi cho ngân hàng, điều đó cũng làm giảm sự phát huy tối ưu hiệu quả kinh doanh ngoại tệ.
Để tạo điều kiện cho các chi nhánh chủ động trong việc tìm kiếm nguồn ngoại tệ khi có nhu cầu của khách hàng thì NHĐT&PTVN nên để cho các chi nhánh tự mua bán ngoại tệ với nhau sao cho chấp hành đúng quy định của quản lý ngoại hối.
Quy trình mua bán ngoại tệ của các chi nhánh thì quá cũ, không còn phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay khi nghị định quản lý ngoại hối của Chính phủ ban hành và các quy định của ngành chức năng có liên quan về xuất nhập khẩu đã thay đổi quá nhiều. Ngoài ra, quy trình còn nhiều phiền hà cho khách hàng khi mua bán ngoại tệ. Để tạo điều kiện cho các nghiệp vụ kinh doanh mới ra đời và đi vào hoạt động thì NHĐT&PTVN nên thường xuyên hỗ trợ các chi nhánh mua bán các loại ngoại tệ trên thị trường quốc tế với giá cạnh tranh và thời gian thực hiện nhanh, giúp các chi nhánh thực hiện tốt mục tiêu chủ động trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Đó cũng là trọng tâm tập trung của hệ thống trong việc tạo sức mạnh tổng hợp để phát triển và cạnh tranh.
2.2. Triển khai kịp thời, hướng dẫn cụ thể các văn bản của Chính phủ, của ngành về quản lý ngoại hối và kinh doanh ngoại tệ.
Hoạt động như một chi nhánh của NHĐT&PTVN, Sở giao dịch I chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Hội sở chính. NHĐT&PTVN là nơi trực tiếp tiếp nhận các văn bản của Chính phủ, của NHNNVN, của các ngành, các bộ…sau khi nghiên cứu sẽ đưa ra các văn bản hướng dẫn các chi nhánh thực hiện. Tuy nhiên, việc đưa ra các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ, đặc biệt về quản lý ngoại hối và kinh doanh ngoại tệ rất chậm hoặc không hướng dẫn cụ thể, thiếu đồng bộ và không kịp thời với sự đổi mới văn bản của các ngành, các bộ…làm ảnh hưởng tới việc thực hiện của các chi nhánh. Vấn đề đặt ra là NHĐT&PTVN cần triển khai thực hiện kịp thời các văn bản hướng dẫn một cách cụ thể để hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các chi nhánh được thuận lợi hơn, tránh nhầm lẫn và quan trọng hơn là hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của các chi nhánh từng bước được nâng cao.
Mặt khác, đề nghị NHĐT&PTVN cho các chi nhánh được phép kinh doanh ngoại tệ không chỉ phục vụ khách hàng mà còn kinh doanh kiếm lợi cho chính bản thân ngân mình do chênh lệch tỷ giá, được quyền mua bán ngoại tệ với các ngân hàng ngoài hệ thống để từ đó mở rộng mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
NHĐT&PTVN cần thiết lập hệ thống thông tin về tình hình diễn biến của thị trường, những thay đổi trong chính sách quản lý tiền tệ của Chính phủ gửi xuống các chi nhánh nhanh nhất để nắm bắt được và áp dụng vào trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của mình sao cho có hiệu quả nhất, tránh rủi ro.
2.3. Thực hiện chương trình kiểm tra, kiểm sát và nâng cao trình độ nghiệp vụ.
NHĐT&PTVN cần tăng cường công tác kiểm tra với các chi nhánh chặt chẽ hơn nữa để từ đó giúp các chi nhánh giải quyết những khó khăn, vướng mắc một cách kịp thời và chấp hành quy định của Chính phủ, NHNN.
Đề nghị NHĐT &PTVN thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cả về lý thuyết lẫn thực tế hoạt động kinh doanh ngoại tệ cho cán bộ chi nhánh trực tiếp làm nghiệp vụ này. NHĐT &PT cần thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận, tạo điều kiện cho các chi nhánh trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cung cấp các thông tin cần thiết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và trên thế giới cho các chi nhánh, đồng thời giải quyết những thắc mắc của các chi nhánh hoạt động kinh doanh ngoại tệ một cách kịp thời và đầy đủ.
KẾT LUẬN.
Trong thời gian tới NHĐT&PTVN có rất nhiều cơ hội và thách thức mới. Những cơ hội này xuất phát từ việc tháo gỡ, cởi mở khó khăn của Chính phủ Việt Nam, quyết tâm của NHĐT&PTVN trong việc tiếp tục cơ cấu lại toàn bộ hệ thống ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Giai đoạn phát triển tiếp theo của NHTMVN có một ý nghĩa vô cùng quan trọng để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển nền tài chính nước nhà, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế trên thị trường quốc tế.
Kinh doanh ngoại tệ là một mắt xích quan trọng trong hoạt động kinh doanh đối ngoại và là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả và phát triển mạnh sẽ góp phần thực hiện thành công chiến lược kinh doanh của ngân hàng, đạt được mục tiêu về lợi nhuận, khách hàng…. Ngoài ra, hoạt động này còn góp phần thúc đẩy các hoạt động khác cùng phát triển, đưa ngân hàng tiến nhanh hơn trên con đường hội nhập.
Mặc dù đã có những thành công, đóng góp lớn nhưng bên cạnh đó Sở giao dịch I cũng còn rất nhiều khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Để phát triển trong thời gian tới, việc đưa ra các giải pháp hoàn chỉnh không phải là vấn đề đơn giản mà đòi hỏi phải có sự nghiên cứu dần dần, có thời gian để rút kinh nghiệm.
Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch I cùng với những kiến thức đã học, tình hình thực tế, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS. Nguyễn Thị Quy em đã hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Trong giới hạn bài viết của mình, em chỉ đưa ra được môt đóng góp rất nhỏ trong việc nghiên cứu tìm giải pháp khả thi trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng với kiến thức và thời gian hạn chế nên em không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mang nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Quy, các thầy cô trong khoa KTNT, các anh chị Phòng nguồn vốn kinh doanh tại Sở giao dịch I NHĐT&PTVN đã giúp đã em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. VĂN BẢN PHÁP LUẬT.
1. Nghị định của Chính phủ dố 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối.
2. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức.
3. Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN ngày 25/2/1999 về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ.
4. Thông tư số 08/1998/TT NHNN ngày 30/9/1998 hướng dẫn thi hành Quyết định số 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ.
II. SÁCH, GIÁO TRÌNH VÀ TẠP CHÍ.
1. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương – Nhà xuất bản giáo dục Trường đại học Ngoại thương Hà Nội 2000.
2. Ngân hàng thương mại và quản trị nghiệp vụ. Chủ biên TS Phan Thu Hà - TS Nguyễn Thị Thu Thảo, Khoa ngân hàng tài chính – Trường ĐHKTQD.
3. Nghiệp vụ hối đoái và thanh toán quốc tế. Nhà xuất bản thống kê.
4. Tỷ giá tiền tệ và vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhà xuất bản thống kê.
5. Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính – MISHKIN. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật.
6. Tạp chí Ngân hàng số 9/2003, số 3/2003; số 4/2003; số 4/02, số 1/01.
7. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 2/03, số 8/03, số 6/01, số 12/01, số 12/02.
8. Tạp chí kinh tế phát triển số 122/01; số 125/01; số 130/02.
III. TÀI LIỆU CỦA CÔNG TY.
1. Quy trình mua bán ngoại tệ của Sở giao dịch I.
2. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I năm 2000, 2001, 2002 và 9 tháng đầu năm 2003.
3. Các văn bản quản lý ngoại hối hiện hành 9 tháng 6 – 2003).
4. Báo cáo tổng kết về quản lý ngoại tệ trên địa bàn thành phố Hà Nội.