LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, thị trường tài chính đang trên đà phát triển mạnh mẽ, mở ra ngày càng nhiều cơ hội cho các ngân hàng thương mại, song đi cùng nó cũng kéo theo rất nhiều rủi ro. Trong các loại rủi ro thì rủi ro thanh khoản được xem là “rủi ro nguy hiểm nhất”. Thanh khoản và quản lý rủi ro thanh khoản là yếu tố quyết định đến sự an toàn trong hoạt động của mỗi bất kỳ ngân hàng thương mại nào.
Thực tế, chỉ một hay hai ngân hàng gặp rủi ro về thanh khoản có thể lây lan ngay sang ngân hàng khác. Trong khi đó, bản thân một ngân hàng thương mại sẽ không đủ sức chống đỡ được rủi ro hệ thống. Điển hình là hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới lớn nhất trong vòng một thế kỷ qua đã và đang tiếp tục tác động đến thị trường tài chính Mỹ và gây ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường tài chính các nước khác trong đó có Việt Nam.
Tại Việt Nam, sau đợt căng thẳng thanh khoản đầu năm 2008, nhờ những can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, tình hình hiện tại đã cải thiện đáng kể, song khó khăn vẫn phía trước. Đặc biệt, giai đoạn 5 tháng đầu năm 2011, tình hình thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam lại trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Chính vì thế, bên cạnh những hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại cần phải quan tâm hơn nữa đến công tác quản trị rủi ro thanh khoản, không chỉ vì an toàn của chính ngân hàng mình mà còn vì an toàn chung của cả hệ thống tài chính tiền tệ.
Đó là lý do người viết chọn đề tài: “Hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam – thực trạng và giải pháp”.
II. Mục đích nghiên cứu khóa luận
Trên cơ sở lý luận về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại, mục đích nghiên cứu của đề tài khóa luận là tập trung làm rõ các vấn đề: Lý luận cơ bản về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam; phân tích và đánh giá tình hình rủi ro thanh khoản và thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong mấy năm trở lại đây. Từ đó, đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro thanh khoản tại các NHTM Việt Nam.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu:
Tổng quan về hệ thống ngân hàng thương mại, quản trị rủi ro thanh khoản trong kinh doanh của ngân hàng và quản trị rủi ro thanh khoản, tính thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản của NHTM Việt Nam; những tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực này và một số biện pháp để nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Do giới hạn về phạm vi nghiên cứu, khóa luận xin được tập trung về năng lực quản trị rủi ro thanh khoản từ năm 2008 đến 4 tháng đầu năm 2011. Trong đó, tập trung nghiên cứu về các ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam. Từ đó, đưa ra những nhận định và giải pháp sát với thực tiễn của công tác quản trị rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở để khóa luận xác định phương pháp nghiên cứu của mình. Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng phương pháp khác như: Mô tả - giải thích, so sánh – đối chiếu, phân tích – tổng hợp, thống kê mô tả, kiểm định giả thiết để làm rõ nội dung nghiên cứu.
V. Kết cấu khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận tốt nghiệp được chia làm 3 chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro thanh khoản và hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
98 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2492 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hì khả năng nhận diện lại còn yếu kém, và ngược lại, một khi nhận diện được rồi nhưng vì những lý do lợi nhuận, các NHTM vẫn chưa chủ động phòng ngừa cho rủi ro đó.
Từ các bảng tổng hợp và phân tích các chỉ số ở trên, hệ số CAR cũng như các chỉ số trạng thái tiền mặt, CKTK và lượng dự trữ thanh khoản tăng dần trong từng năm nhưng so với khu vực và một số ngân hàng trên thế giới thì các chỉ số này còn rất thấp. Đặc biệt một số NHTMCP lớn như Vietcombank trong mấy năm qua vẫn lững chững ở hệ số CAR mà ko thể đạt đến mức tối thiểu yêu cầu. Trong khi đó, các chỉ số Dư nợ/tiền gửi khách hàng và chỉ số Năng lực cho vay lại tăng cao qua các năm. Điều này chứng tỏ, các NHTM Việt Nam vẫn còn đang rất liều lĩnh trong công tác QTRRTK. Các ngân hàng chấp nhận đánh đổi giữa rủi ro không thanh toán được để đổi lấy thu nhập cho ngân hàng.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam còn bị động và chịu nhiều tác động của chu kỳ kinh doanh cũng như chính sách quản lý vĩ mô của nền kinh tế. Thời điểm đầu năm 2011, khi NHNN chủ trương CSTT thắt chặt bằng việc quy định trần lãi suất huy động là 14%, các NHTM đã có những biện pháp chui lãi suất nhằm tăng nguồn vốn huy động cho bản thân ngân hàng. Đây là một trong những dấu hiệu cho thấy các NHTM Việt Nam đang đối diện với RRTK và là bằng chứng chứng tỏ các NHTM Việt Nam chưa chủ động trong công tác QTRRTK.
Nguyên nhân của những tồn tại
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức về QTRRTK của một số NHTM Việt Nam còn hạn chế: Một sự chủ quan, một kế hoạch tăng trưởng tín dụng, mở rộng mạng lưới quá nhanh so với nội tại của ngân hàng, khả năng quản lý chưa theo kịp với biến động nhanh chóng của thị trường, kể cả biến động do chính sách…đều là nguyên nhân dẫn đến căng thẳng thanh khoản trong một số NHTM thời gian qua. Các NHTM chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa ALCO và bộ phận huy động vốn – giữ vai trò báo cáo chi tiết các nguồn vốn lớn của tổ chức và cá nhân; với bộ phận giao dịch, bộ phận thông tin tuyên truyền, quan hệ quốc tế, tiếp thị và tín dụng. Bản thân công tác QTRRTK còn khá mới mẻ và chưa nhận được sự lưu tâm của các nhà quản trị ngân hàng. Do sức ép tăng trưởng và lợi nhuận, các nhà quản trị vẫn thường nhấn mạnh vào rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng…mà quên mất rủi ro thanh khoản – rủi ro quan trọng và nguy hiểm nhât trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ hai, trình độ của cán bộ quản trị rủi ro còn yếu kem: Chất lượng nguồn nhân lực là nguyên nhân sâu xa nhất của những rủi ro mang tính chủ quan trong hoạt động ngân hàng. Đặc biệt công tác QTRRTK lại vô cùng quan trọng, việc xác định lượng tiền ổn định còn dựa trên cảm tính chủ quan, do vậy, nếu cán bộ QTRRTK còn non kinh nghiệm và yếu về kiến thức thì việc nhận diện, phân tích nguyên nhân, lượng hóa RRTK sẽ bị sai lệch, ảnh hưởng đến toàn hệ thống.
Thứ ba, mức độ hợp tác giữa các NHTM vẫn còn hạn chế. Trước hết là thiếu hợp tác trong việc chia sẻ kinh nghiệm và chính sách QTRRTK, khiến mỗi ngân hàng quản trị theo một cách khác nhau, các ngân hàng nhỏ không học tập được kinh nghiệm từ ngân hàng lớn. Mặc dù tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh là cần thiết, nhưng RRTK lại là rủi ro mang tính hệ thống, nếu NHTM không hỗ trợ và hợp tác với nhau thì nếu một ngân hàng phá sản thì sự sụp đổ của một hệ thống ngân hàng là khó tránh khỏi.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, chính sách tiền tệ còn thiếu nhất quán và còn quá nhiều mục tiêu đã làm cho NHNN trong một số trường hợp trở nên khó khăn hơn khi lựa chọn công cụ tác động, nhất là trong điều kiện kinh tế Việt Nam, các công cụ điều tiết vĩ mô còn chưa hoàn thiện và chưa nhiều. Cùng một lúc, NHNN có thể vừa đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát, trong khi vẫn mong muốn tăng trưởng tín dụng phải đạt một mức cao.
Thứ hai, đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi: Có thể nói, những điểm yếu trong khả năng thanh khoản nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của nhóm ngân hàng được thể hiện ở đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi: Năng lực quản lý và mức độ tác động của các CSTT của NHNN còn yếu và chưa đồng bộ, quy mô NHTM Việt Nam còn nhỏ, kỹ năng quản trị thấp, nền tảng công nghệ chưa hiện đại…là những đặc trưng dễ thấy. Đặc biệt, sự chi phối của sở hữu nhà nước và sự can thiệp của NHNN còn khá sâu phần nào hạn chế tính chủ động trong hoạt động QTRRTK của các NHTM. Ngay khi NHTM có dấu hiệu lâm vào RRTK, NHNN đã kịp thời có những động thái can thiệp như bơm thanh khoản cho NHTM vô tình đã tạo cho NHTM tính ỷ lại vào NHNN.
Thứ ba, sự thiếu minh bạch, công khai hóa thông tin: Các thông tin chính xác về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa minh bạch. Ở Việt Nam hiện nay, ngoài trung tâm thông tin tín dụng của NHNN CIC cũng chưa có một công ty định mức tín dụng chuyên nghiệp nào cung cấp dịch vụ điều tra, phân tích luồng thông tin tài chính, định mức tín nhiệm và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế nhằm hỗ trợ NHTM trong công tác thẩm định khách hàng để cho vay. Chính việc thiếu hụt những thông tin đa dạng, chuẩn xác đó đã khiến cho chất lượng tín dụng của các NHTM không cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro, gây khó khăn trong việc thu hồi khoản tín dụng, do đó cũng dễ dàng đẩy NHTM vào trạng thái rủi ro thanh khoản.
Tóm lại, phân tích thực tế tính thanh khoản và QTRRTK tại các ngân hàng được khảo sát cho thấy: Khi lãi suất thị trường liên ngân hàng còn thấp, các ngân hàng đã vay qua đêm để đảm bảo dự trữ bắt buộc, còn nguồn vốn huy động được đem cho vay, mà lại cho vay đầu tư vào chứng khoán, bất động sản – những lĩnh vực có độ rủi ro cao. Khi lượng cung tiền bị siết chặt cũng là lúc lãi suất tăng cao, trong khi các khoản cho vay chưa thể thu hồi được, khả năng thanh khoản sụt giảm là điều tất yếu. Thêm vào đó, các tài sản khác như chứng khoán có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền lại được dự trữ ở mức thấp, cũng làm cho tình trạng căng thẳng thanh khoản trầm trọng thêm. Rõ ràng khi NHNN thực thi chính sách tiền tệ, khả năng thanh khoản của NHTM gặp sẽ gặp một số khó khăn nhất định. Tuy nhiên, nếu NHTM chú trọng công tác quản trị rủi ro thanh khoản thật tốt thì sẽ có thể phòng ngừa và tài trợ được rủi ro trong trường hợp nếu có xảy ra. Sau đây, chương 3 của khóa luận xin được đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác quản trị rủi ro thanh khoản tại các NHTM Việt Nam dựa trên những số liệu và tình hình thực tế về rủi ro thanh khoản cũng như quản trị rủi ro thanh khoản đã phân tích ở chương 2.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
3.1. Dự báo xu hướng RRTK của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới
3.1.1. Về tình hình kinh tế
Bước sang năm 2011, nước ta có những thuận lợi cơ bản: Nền kinh tế tiếp tục giữ được mức tăng trưởng khá; an sinh xã hội được bảo đảm; quốc phòng, an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã thành công tốt đẹp, tạo sức mạnh và niềm tin trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Tuy nhiên, khó khăn, thách thức vẫn còn rất lớn. Kinh tế thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp: Những biến động về chính trị, xã hội ở một số nước Trung Đông và Châu Phi tác động làm tăng mạnh giá dầu mỏ, giá vàng, lương thực và một số loại nguyên vật liệu cơ bản; thị trường tài chính toàn cầu, đặc biệt là khu vực đồng Euro vẫn bất ổn; lạm phát bắt đầu tăng cao ở một số nước trong khu vực vốn là thị trường nhập khẩu quan trọng của nước ta.
Nhiều dự báo cho rằng kinh tế thế giới sẽ còn tiếp tục có những diễn biến xấu. Lạm phát cao diễn ra ở nhiều nước, kể cả các nước trong khu vực. Giá dầu mỏ, lương thực và một số nguyên vật liệu cơ bản còn tăng. Thiên tai, biến đổi khí hậu và những diễn biến mới của tình hình Trung Đông, Bắc Phi tác động xấu đối với nền kinh tế thế giới. Thị trường tài chính toàn cầu tiếp tục có mặt còn thiếu ổn định, thậm chí đã có những cảnh báo về nguy cơ tái khủng hoảng.
Ở trong nước: Việc thực hiện đồng thời ba mục tiêu (kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội) và chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2011 gặp nhiều khó khăn, thách thức. Kết quả tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố quyết tâm và đồng thuận của toàn xã hội, vào năng lực, hiệu lực, hiệu quả của việc điều hành chính sách vĩ mô của Nhà nước. Chỉ số giá tiêu dùng có thể còn tiếp tục tăng cao. Những tác động của các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bên cạnh mặt tích cực, có thể có những tác dụng phụ làm giảm tốc độ tăng trưởng, ảnh hưởng đến thị trường bất động sản, thị trường tài chính, tiền tệ, tính thanh khoản và độ an toàn của một số NHTM, nhất là đối với sự ổn định của hệ thống cơ chế, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.1.2. Về rủi ro thanh khoản
Theo số liệu phân tích của Cty Chứng khoán Thăng Long (TLS), tính đến ngày 25/3/2011, lãi suất qua đêm chào bán trên thị trường liên ngân hàng vẫn dao động quanh mốc 19%. Trong lúc nhu cầu vay trên thị trường mở (OMO) tiếp tục tăng lên do chênh lệch lớn giữa lãi suất liên ngân hàng và lãi suất OMO, thể hiện ở tỉ lệ đăng ký/chào thầu đạt 377% so với mức 362% tuần trước. Theo thống kê đến 25/3/2011, công cụ thị trường mở tiếp tục được NHNN sử dụng khá linh hoạt với khối lượng bơm ròng ra đạt 3.000 tỉ đồng. TLS cho rằng, với chỉ số CPI tháng 3.2011 ở mức 2,17% (thấp hơn mức 2,2% của Bộ Kế hoạch - Đầu tư) có thể khiến cho NHNN tiếp tục thắt chặt tiền tệ trong quý II này. Chính vì vậy, thanh khoản thị trường liên ngân hàng sẽ còn căng thẳng trong những tháng tới. Và trước mắt, lãi suất liên ngân hàng có thể vẫn xoay quanh mốc 20% đối với các kỳ hạn ngắn trong thời gian tới.
Thực tế cho thấy, từ đầu năm 2011, NHNN đã liên tục 4 lần tăng lãi suất chủ chốt bao gồm: Lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu (xem bảng số 1). Việc NHNN điều chỉnh tăng một loạt mức lãi suất gần đây đã có tác động gián tiếp đến lãi suất cho vay của các NHTM lớn trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng lớn có nguồn tiền mặt đang tăng lãi suất trên thị trường này để kiếm lãi, trong khi nhu cầu vốn đáp ứng thanh khoản trước mắt của các ngân hàng nhỏ rất lớn do vay lãi suất liên ngân hàng qua đêm có lúc lên đến 16-17%/năm, thậm chí 17-20%/năm. Do vậy, huy động lãi suất không kỳ hạn của dân cư là 9-12%/năm đối với các NHTM vẫn lợi hơn là vay liên ngân hàng lãi suất cao. Đó có thể là lý do đơn giản nhưng cũng là bản chất của việc lãi suất tăng huy động vào thời điểm ba tháng đầu năm nay.
Trong khi đó, kỳ hạn 1 tháng lãi suất liên ngân hàng có lúc lên đến 23%/năm. Điều này cho thấy, thị trường liên ngân hàng vẫn tiếp tục căng thẳng, các ngân hàng tiếp tục khó khăn về vốn và đang chấp nhận những khoản vay với lãi suất cắt cổ để đảm bảo an toàn cho chính mình. Và như một hệ quả tất yếu, để thu hút vốn của người dân, sau khi tăng mạnh lãi suất không kỳ hạn, nhiều ngân hàng cũng nâng lãi suất kỳ hạn tuần lên sát trần 14%/năm.
Hồi đầu năm, khi thực hiện các biện pháp siết chặt tiền tệ, lãnh đạo NHNN khẳng định rằng chưa nghĩ đến việc tăng DTBB vì lo ngại những nguy cơ dẫn đến khó khăn thanh khoản cho các ngân hàng như hồi 2008. Ai cũng nhớ, năm 2008, khi NHNN rút mạnh tiền về và tăng DTBB đã đẩy hệ thống vào một cuộc khủng hoảng thanh khoản. NHNN đang bỏ ngỏ việc sẽ nâng tỷ lệ DTBB thêm 1% nên các ngân hàng rất lo lắng. Do vậy, ngân hàng nào cũng trong tư thế phòng thủ, tìm mọi cách để thu hút lượng tiền gửi. Nếu tăng DTBB thì một lượng tiền lớn sẽ đổ vào NHNN, các ngân hàng mất lượng vốn khả dụng, tăng chi phí vốn và việc thắt chặt tín dụng trở nên hiệu quả nhất.
Hơn nữa, nguồn tiền dự trữ không phải mất đi mà sẽ chuyển từ NHTM về NHNN. Cơ quan này sẽ chủ động hơn trong CSTT và cấp cứu cho hệ thống ngân hàng khi có khó khăn ở những tổ chức nhỏ. Chi phí vốn sẽ tăng lên, lãi suất cho vay tăng, DN sẽ khó khăn, nhưng dường như đó không còn là chuyện đáng nói nhiều vì mục tiêu chống lạm phát là hàng đầu. Nâng DTBB đang là một trong những phương án nhằm kiềm chế lạm phát đang được quan tâm và cân nhắc. Một khi tỷ lệ DTBB tăng lên, rõ ràng tình trạng thanh khoản càng trở nên khó khăn hơn cho các NHTM.
Từ những phân tích trên có thể thấy hiện nay, tình hình thanh khoản đang ngày càng căng thẳng, và RRTK đang là một trong những mối lo lớn nhất của các NHTM Việt Nam. Nguyên nhân có thể từ chính bản thân nội tại NHTM đồng thời là do chính sách kinh tế vĩ mô của NHNN.
Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Rủi ro thanh khoản không chỉ là nỗi lo của các NHTM Việt Nam mà còn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các cấp quản lý vĩ mô về tài chính tiền tệ. Trong “Quy định về xếp loại NHTMCP” ban hành ngày 12/03/2008 của Thống đốc NHNN, khả năng thanh khoản được đưa vào một trong năm tiêu chí để đánh giá xếp loại một NHTM Nguồn: NHNN (3/2008), Quy định về xếp loại NHTMCP
. Cụ thể 5 tiêu chí đó là:
Vốn tự có
Chất lượng tài sản
Năng lực quản trị
Kết quả hoạt động kinh doanh
Khả năng thanh khoản.
Như vậy có thể thấy quản trị rủi ro thanh khoản đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một số giải pháp được đưa ra đối với các NHTM như sau:
Đảm bảo vốn tự có ở mức cần thiết
Rõ ràng khi thành lập, các NHTM phải đảm bảo mức vốn điều lệ cao hơn vốn pháp định. Ở đây muốn đề cập vấn đề NHTM nên duy trì một mức vốn tự có hợp lý, cân đối so với quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng. Một chỉ số trạng thái tiền mặt hay chỉ số CKTK quá cao có thể hạn chế khả năng sinh lời của ngân hàng. Tuy nhiên các chỉ số này quá thấp lại đặt ngân hàng vào tình trạng rủi ro thanh khoản. Các NHTM cần xây dựng phương án tăng vốn để đạt được mức vốn cần thiết quy định. Tuy nhiên không phải là tăng vốn bằng mọi giá mà các NHTM có thể nghĩ đến phương án sáp nhập nếu phương án tăng vốn không khả thi. Ngoài ra, các NHTM có thể bổ sung vốn điều lệ bằng cách phát hành trái phiếu hay trích từ lợi nhuận giữ lại.
Trong chỉ tiêu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được NHNN quy định tại Thông tư 13/2010/TT-NHNN thì tỷ lệ này là 9%. Tuy nhiên, theo “Financial Management and Analysis of Projects” của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) năm 2005, có kiến nghị rằng hệ số CAR nên để mức 8% áp dụng với các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD, còn đối với các nền kinh tế mới nổi thì hệ số này nên là 12%. Do vậy, mặc dù NHNN chưa yêu cầu nhưng các NHTM nên đặt ra mục tiêu hệ số CAR 12% để phấn đấu.
Đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa Tài sản có và Tài sản nợ
Thực chất đây là việc áp dụng chiến lược cân đối giữa TSC và TSN hay QTRRTK phối hợp. Bất kỳ sự mất cân đối nào giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn đều có thể dẫn đến RRTK. Thưc tế, các NHTM Việt Nam dường như dựa nhiều vào việc vay mượn vốn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Trong thời gian qua, một số NHTMCP có tỷ lệ đi vay trên thị trường liên ngân hàng rất lớn, chiếm tới 50% hoặc cao hơn mức dư nợ cho vay. Do thị trường tiền tệ biến động phức tạp bởi chịu ảnh hưởng của CSTT thắt chặt, nên các ngân hàng này có nhiều thời điểm phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất trên 20%/năm, thậm chí tới 30% và cá biệt đến 40%/năm nhưng lãi suất cho vay chỉ tối đa 21%/năm. Do vậy, không những khả năng thanh khoản bị đe dọa mà còn ảnh hưởng đến kết quả lợi nhuận. Không chỉ vậy, một số ngân hàng có nguồn vốn khả dụng tương đối, nhất là ngân hàng mới thành lập, số vốn góp của các cổ đông tạm thời chưa sử dụng cho mục đích đi vay khác, thay vì cho khách hàng thông thường vay, đã cho vay trên thị trường liên ngân hàng nhằm tìm kiếm mức chênh lệch lãi suất cao hơn. Như vậy, việc vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng trong thời gian qua với lãi suất cao như thế là không có lợi, gây mất an toàn cho cả hệ thống và chính bản thân ngân hàng. Một vấn đề khác các NHTM cần quan tâm là duy trì tỷ lệ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho trung và dài hạn ở mức hợp lý và theo luật định.
Tăng cường công tác dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô
Điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Khi NHNN thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách ban hành liên tiếp hàng loạt các giải pháp mạnh như tăng tỷ lệ DTBB, tăng lãi suất cơ bản, áp trần lãi suất huy động…thì khả năng thanh khoản của các NHTM Việt Nam gặp khó khăn. Bởi trước đó, có thời điểm tình trạng dư thừa vốn khả dụng đã xảy ra ở một số ngân hàng. Các ngân hàng này đã giảm lãi suất huy động tiền gửi. Nhưng khi điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi, các ngân hàng này trở nên lúng túng. Điều này chứng tỏ việc tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác dự báo kinh tế ở các ngân hàng là cần thiết.
Đổi mới công tác quản trị rủi ro thanh khoản theo mô hình CAMELS
Hiện nay, QTRR nói chung và QTRRTK nói riêng đều đang là một trong những nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ NHTM nào. Để QTRR được hiệu quả, hầu hết các NHTM lớn trên thế giới đều áp dụng mô hình CAMELS. Mô hình cho phép nhà quản trị có thể phối hợp các yếu tố như: Nguồn vốn, tổng tài sản có, lợi nhuận, thanh khoản, độ nhạy cảm với nhau. Bằng mô hình này, nhà quản trị có thể thống nhất mối liên hệ của các rủi ro, từ đó có cái nhìn khái quát nhất về rủi ro thuộc trách nhiệm mình quản trị, dễ dàng nhận diện, phân tích nguyên nhân gây ra rủi ro, đo lường, phòng ngừa và từ đó có thể hạn chế mức độ ảnh hưởng của rủi ro tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Bên cạnh đó, các NHTM nên thực hiện công tác quản trị rủi ro thanh khoản phù hợp thông lệ quốc tế và đúng quy định của pháp luật. Đồng thời phải tập trung vào khách hàng, vào sản phẩm dịch vụ, vào cán bộ ngân hàng, đảm bảo mở rộng lượng khách hàng mới và nâng cao lòng tin đối với khách hàng cũ.
Ngoài ra, NHTM Việt Nam có thể áp dụng phương pháp quản trị rủi ro thanh khoản của SMBC: Hợp nhất tài khoản: Hợp nhất các tài khoản vào một ngân hàng sẽ giúp đơn giản hoá việc giám sát và quản lý các khoản phải thu và phải trả, đồng thời giúp kịp thời huy động vốn. Tập trung tiền mặt tự động: Tự động huy động tiền nhàn rỗi từ các tài khoản phụ vào một tài khoản chính. Các giải pháp tối ưu hoá lãi suất: Gửi tiền nhàn rỗi vào tài khoản tiền gửi kỳ hạn để tối đa hoá lợi nhuận.
Đẩy mạnh công tác huy động vốn và đa dạng hóa nguồn vốn huy động
NHTM nên tăng tỷ trọng tiền gửi dân cư bằng các biện pháp khuyến mãi cho khách hàng, miễn sao đúng quy định về lãi suất trần huy động mà NHNN quy định lại vừa có thể đảm bảo cho ngân hàng không rơi vào trạng thái RRTK. Ngân hàng cần tính toán hợp lý giữa mức lãi suất và kỳ hạn đồng thời duy trì mức dự trữ thanh khoản hợp lý để đảm bảo tốt nhất khả năng thanh toán khi có nhu cầu. Ngoài ra, để tăng cường công tác huy động vốn, quản lý TSN, NHTM nên tập trung vào thị trường bán lẻ ngân hàng. Đây là một kênh huy động vốn rất có tiềm năng và có thể mang lại nhiều tiện ích cho ngân hàng cũng như khách hàng. Ngoài ra, NHTM có thể đa dạng hóa hình thức huy động vốn như: Phát hành trái phiếu, cổ phiếu, sử dụng các biện pháp khuyến mại thu hút khách hàng, vận dụng linh hoạt các lãi suất, nhằm tăng nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư để góp phần tăng trưởng nguồn vốn huy động. NHTM cũng nên đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, cắt bỏ những quy trình rườm rà và thừa thông tin.
Không cho phép rút tiền trước kỳ hạn
Thời gian gần đây hệ thống NHTM luôn gặp vấn đề về thanh khoản, đặc biệt là ở các NHTM cổ phần nhỏ. Một trong những giải pháp giảm RRTK là không cho phép rút trước hạn tiền gửi có kỳ hạn, trừ trường hợp đặc biệt khi khách hàng có thỏa thuận trước với ngân hàng. Việc ổn định hệ thống tài chính là một hướng đi đúng, tuy nhiên biện pháp này có thể gặp vấn đề về tính khả thi của nó.
Trong môi trường lạm phát cao và khó dự báo được trước như hiện nay, trừ trường hợp được thỏa thuận lãi suất vượt trần (14%), người gửi tiền không muốn thực hiện các hợp đồng dài hạn với lãi suất danh nghĩa cố định. Ngược lại, nếu phải trả mức lãi suất huy động vượt trần thì các NHTM lại không muốn huy động dài hạn. Do vậy, các khoản tiền huy động được của các NHTM thường là ngắn hạn và tạo ra sự lệch pha kì hạn giữa các khoản tiền gửi và cho vay. Kết cục là các NHTM thường phải tham gia vào các cuộc đua lãi suất huy động hoặc đẩy lãi suất liên ngân hàng lên rất cao, nhiều lúc vượt 20%, như trong thời gian gần đây nhằm đáp ứng thanh khoản tạm thời.
Tăng cường công tác thẩm định khách hàng và công tác kiểm toán
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Rủi ro này có nhiều nguyên nhân đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Để đảm bảo ngân hàng có thể thu hồi được vốn cho vay thì các hồ sơ vay vốn của khách hàng phải đảm bảo các điều kiện theo quy định và quá trình thẩm định của ngân hàng. Do vậy thẩm định tín dụng là một vấn đề rất phức tạp và cần thiết trước khi ngân hàng cấp vốn cho khách hàng vay. Hiện nay các NHTM Việt Nam đều có tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn cao. Điều này ảnh hưởng tới thu nhập, khả năng hoạt động an toàn của ngân hàng. Chính vì thế, công tác thẩm định tín dụng là hết sức quan trọng. NHTM không chỉ nên chú trọng đến công tác thẩm định trước khi quyết định cho vay mà còn nên chú trọng đến công tác thẩm định cả sau khi cho vay, để nếu có dấu hiệu gì trong việc không thể thu hồi nợ từ khách hàng, NHTM có thể chủ động trong công tác tài trợ cho rủi ro thanh khoản nếu có xảy ra.
Xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp
Phát triển nguồn nhân lực bao giờ cũng là mục tiêu hàng đầu của mọi tổ chức, DN. Việc phát triển đội ngũ nhân viên quản lý nói chung và QTRRTK nói riêng là cần thiết đối với bất kỳ NHTM nào. Chính bộ phận này sẽ tham mưu đắc lực cho cấp lãnh đạo ngân hàng trong việc đưa ra các quyết định đúng đắn kịp thời nhằm ngăn chặn, khắc phục những rủi ro phát sinh và hướng hoạt động kinh doanh đến những thành công mới.
Do vậy, NHTM cần có kế hoạch tuyển dụng, đào tạo,sử dụng nhân viên một cách khoa học, minh bạch và bình đẳng. Đặt nhân viên vào những vị trí phù hợp khả năng của họ là một khâu quan trọng trong coogn tác cán bộ , nhằm đảm bảo rằng chính đội ngũ cán bộ nhân viên này sẽ là những người góp phần vào thành công chung của ngân hàng. Một nhà lãnh đạo có kinh nghiệm luôn hiểu rằng, biết rõ về sự phù hợp của mỗi cá nhân cho từng vị trí công tác là cơ sở của mọi nỗ lực trong hiện tại và tương lai. Sự thiếu quan tâm hay thiếu hiểu biết về việc này có thể khiến ngân hàng tốn kém cả về thời gian và tiền bạc trong quá trình hoạt động. Các ngân hàng cũng nên xây dựng văn hóa doanh nghiệp cho ngân hàng mình. Một khi môi trường làm việc năng động, chuyên nghiệp, thân thiện cởi mở và có bản sắc văn hóa riêng thì sẽ là một động lực thúc đẩy nhân viên nhiệt tình làm việc, cống hiến, sáng tạo và luôn trung thành đối với ngôi nhà thứ hai của mình.
Nâng cao công tác quảng bá hình ảnh, thương hiệu ngân hàng
Ở Việt Nam, có không ít doanh nghiệp có nôi lực rất tốt, song cách thể hiện ra bên ngoài lại không được chuyên nghiệp. Có những sản phẩm - dịch vụ rất tốt, nhưng lại không được người tiêu dùng đánh giá đúng mức. Chính vì thế, NHTM nên chú trọng công tác đổi mới hình ảnh thương hiệu, tạo dấu ấn và lòng tin đối với khách hàng. Đồng thời ngân hàng nên tham gia các cuộc thi về thương hiệu doanh nghiệp nhằm mang đến cho khách hàng các thông tin hữu ích về dịch vụ của ngân hàng. Ngoài việc xây dựng được hình ảnh thân thiện với từng khách hàng cá nhân, việc triển khai sản phẩm dịch vụ thẻ thành công cũng khẳng định sự tiên tiến về công nghệ của một ngân hàng và định vị được thương hiệu của ngân hàng đó. Chính vì vậy, sản phẩm dịch vụ thẻ đã và đang được các NHTM nhìn nhận là một lợi thế cạnh tranh hết sức quan trọng trong cuộc đua nhắm tới thị trường ngân hàng bán lẻ và mang lại tiềm năng thu phí trong tương lai, và quan trọng là có thể mang lại cho ngân hàng nhiều lợi thế cạnh tranh.
Bên cạnh đó, NHTM nên có các hoạt động truyền thông thông tin cho người gửi tiền, trong trường hợp ngân hàng bị ảnh hưởng bởi các tin đồn thất thiệt có thể gây hại cho hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng cần có biện pháp truyền thông nhằm lấy lại uy tín và niềm tin đối với khách hàng.
Xây dựng cơ chế chuyển vốn nội bộ hợp lý
Trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam đã không ngừng mở rộng mạng lưới kinh doanh. Đây là một lợi thế rất đáng kể so với các ngân hàng nước ngoài khi mở chi nhánh tại Việt Nam. Tuy nhiên, ngoài việc tính toán chi phí – lợi nhuận mang lại khi mở chi nhánh, phòng giao dịch, các ngân hàng phải tính đến việc luân chuyển các dòng vốn giữa các chi nhánh, phòng giao dịch với hội sở chính như thế nào để đảm bảo thanh khoản cho cả hệ thống với chi phí thấp nhất. Muốn làm được điều này, cần có một nền tảng công nghệ (hệ thống ngân hàng cốt lõi – core banking) hiện đại. Do vậy, không còn cách nào khác là các ngân hàng cần phải đầu tư nhiều hơn vào công nghệ thông tin; tất nhiên, không dễ dàng gì để thực hiện được trong khi quy mô vốn tự có của các NHTM còn nhỏ như hiện nay. Tuy nhiên, trong mọi tình huống, việc luân chuyển vốn nội bộ phải gắn với hiệu quả kinh doanh của từng chi nhánh, từng phòng giao dịch và vốn được tập trung về hội sở chính. Có như vậy mới dự báo, đo lường được nhu cầu thanh khoản một các chính xác và từ đó có chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản phù hợp.
Cơ chế chuyển vốn nôi bộ cần phải tính đến sự khác biệt về điều kiện kinh tế - xã hội ở địa bàn từng chi nhánh, phòng giao dịch hoạt động. Một chính sách giống nhau đối với mọi điểm giao dịch có thể dẫn đến mất thị phần không đáng có. Chẳng hạn lãi suất huy động tiền gửi ở địa bàn đều giống nhau có thể làm giảm lượng tiền gửi có mức độ cạnh tranh cao hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Một chính sách phân biệt hóa phù hợp có thể góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản trị rủi ro thanh khoản.
Một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước
Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong công tác
Việt nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cho nên, việc hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý nói chung và hệ thống hành lang pháp luật về hoạt động ngân hàng nói riêng là cần thiết và cấp bách. Trong thời gian tới, cần tập trung vào triển khai xây dựng Luật ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng và Luật bảo hiểm tiền gửi; rà soát, sửa đổi hệ thống văn bản pháp quy trong lĩnh vực ngân hàng đảm bảo phù hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng hệ thống NHTM lành mạnh, minh bạch và vận hành theo cơ chế thị trường có kiểm soát của Chính phủ. Muốn vậy, cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình ngân hàng: NHTM, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng phát triển để tránh những đặc điểm riêng có của các loại hình ngân hàng này trở thành lợi thế cạnh tranh không công bằng với các loại hình ngân hàng khác.
Trong dự thảo Luật bảo hiểm tiền gửi, cần nghiên cứu nâng mức BHTG của khách hàng tại ngân hàng. Bởi lẽ, việc nâng tiền gửi được bảo hiểm làm cho khách hàng tại các ngân hàng yên tâm hơn, tránh tình trạng rút tiền ồ ạt. Điều này giúp NHTM ổn định được nguồn tiền gửi, nhất là khi xảy ra tình trạng căng thẳng thanh khoản như những tháng đầu năm 2008 và đầu năm 2011.
Bên cạnh đó, NHNN nên xem xét lại một số điều luật sau:
Thông tư số 02/2011/TT – NHNN quy định về lãi suất huy động không được vượt quá 14% đã trở nên lạc hậu và nên được bãi bỏ.
Trong bối cảnh hiện nay, việc áp dụng trần lãi suất huy động đang tỏ ra nhiều mâu thuẫn và không hiệu quả, việc bỏ lãi suất trần huy động 14% có thể hợp lý.
Tại các nền kinh tế điều hành lãi suất theo cơ chế thị trường, mức lãi suất huy động và cho vay được thị trường quyết định. Đối với Việt Nam, với tính chất lịch sử và bối cảnh vĩ mô hiện tại, NHNN lại can thiệp trực tiếp vào thị trường bằng cách ấn định lãi suất trần huy động là 14%. Ngoài ra, NHNN còn can thiệp gián tiếp thông qua áp dụng trần tăng trưởng tín dụng 20% đối với các ngân hàng. Song song với các công cụ hành chính trên NHNN đã tăng lãi suất tái cấp vốn lên 13%, lãi suất tái chiết khấu lên 12%.
Có thể thấy một số mâu thuẫn trong các giải pháp trên của NHNN. Việc NHNN ấn định lãi suất trần nhằm mục tiêu ngăn chặn các TCTD “đua” lãi suất huy động gây xáo trộn trong hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, bằng cách áp dụng lãi suất trần, NHNN còn kỳ vọng kiềm chế lãi suất cho vay trên thị trường không tăng ở mức quá cao. Giải pháp này, ở một mức độ nào đó, đã có tác động tích cực khi hạn chế các ngân hàng công khai đua lãi suất. Tuy vậy, đến nay lãi suất trần đang thấp hơn nhiều so với mức lãi suất cân bằng trên thị trường. Điều này đang buộc các tổ chức tín dụng phải lách quy định và lãi suất huy động thực tế trên thị trường đã lên đến 16-19%.
Việc NHNN muốn lãi suất đầu ra thấp bằng cách ấn định trần lãi suất đầu vào là không hiệu quả theo lý thuyết kinh tế. Nguyên nhân là do khi hạn chế lãi suất đầu vào thì cung tiền gửi sẽ giảm, dẫn tới lãi suất cho vay tăng (cung giảm làm giá tăng).
Việc áp đặt trần lãi suất với mục tiêu làm giảm lãi suất đầu ra cũng mâu thuẫn với chính sách tiền tệ thặt chặt. Tác dụng của chính sách tiền tệ thắt chặt là làm cho lãi suất thị trường tăng, dẫn đến giảm đầu tư và tiêu dùng để kiềm chế lạm phát.
Cần xem xét một số vấn đề liên quan đến Thông tư 13/2011/TT – NHNN quy định về việc đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của các TCTD.
Thông tư 13 là quy định đúng hướng và mang ý nghĩa tích cực trong trung và dài hạn như: Đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, nâng cao vị trí của NHNN…Tuy nhiên, thông qua việc ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, Thông tư 13 đã cho thấy tác động lớn tới thị trường chứng khoán mà cụ thể là tới yếu tố cơ bản của thị trường. Tại Việt Nam, nếu xét theo giá trị vốn hóa, ba ngành có vốn hóa lớn nhất gồm: Ngân hàng, đầu tư và phát triển bất động sản, dịch vụ đầu tư. Đây là ba ngành lớn, chiếm tới trên 47% vốn hóa toàn thị trường.
Trước tiên, xem xét ngành ngân hàng - đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Thông tư 13. Việc nâng tỷ lệ an toàn vốn sẽ đặt NHTM trước hai phương án: Hoặc tăng vốn tự có, hoặc giảm tổng tài sản có rủi ro.
Việc huy động vốn tự có không thể thực hiện chóng vánh. Vì vậy khả năng các NHTM phải giảm tổng tài sản có rủi ro là khả thi hơn cả. Với cách thực hiện này, các NHTM buộc phải cắt giảm một phần tín dụng cho vay của mình. Thêm vào đó, tại điều 18, Khoản 1 của Thông tư còn quy định tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động giới hạn ở mức 80% (vốn huy động trong Thông tư 13 quy định không bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế). Chưa tính đến, các khoản vốn này có thể chiếm đến 15% tổng vốn huy động được, khiến cho quy định này thực chất đã làm giảm tỷ lệ cho vay xuống còn khoảng 60-65%. Như vậy, với 100 đồng huy động được từ các nguồn, NHTM chỉ được phép cho vay ở mức 66 đồng, và bài toán đặt ra là các ngân hàng sẽ có biện pháp gì để vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh khi chi phí huy động giữ nguyên song doanh thu lại giảm đáng kể.
Với nhóm ngành đầu tư và phát triển bất động sản, cùng với chứng khoán thì các món vay bất động sản cũng được quy định nâng hệ số rủi ro lên 250% (quy định tại điều 5, khoản 5.6). Như vậy, dòng vốn đổ vào bất động sản cũng sẽ bị thu hẹp. Bên cạnh đó, khó khăn đối với nhóm bất động sản còn ở chỗ, tiềm lực vốn của các DN bất động sản Việt Nam được đánh giá là yếu. Theo thống kê, 60% nguồn vốn đầu tư bất động sản phụ thuộc vốn vay. Tỷ lệ vay nợ bình quân của các DN bất động sản niêm yết cũng ở mức trên 21%. Rõ ràng, vay vốn đã khó, lại cộng thêm chi phí vốn đội lên theo đòi hỏi tăng lãi suất của các NHTM sẽ gây không ít khó khăn cho lĩnh vực bất động sản.
Đối với các nhóm ngành còn lại, theo mục tiêu của Thông tư 13 là hướng nguồn vốn vay tới các DN sản xuất - xuất nhập khẩu. Tuy nhiên liệu các DN này có dám vay vốn khi lãi suất hiện tại đã ở mức 14% - 16%, lại đang có nguy cơ tăng thêm.
Rõ ràng, dù trong dài hạn, Thông tư 13 là cần thiết để đảm bảo an toàn cho hệ thống NHTM cũng như tránh được hiện tượng bong bóng tài sản ở Việt Nam, song trước mắt, những ảnh hưởng tiêu cực của Thông tư 13 tới một số nhóm ngành trong nền kinh tế là không thể phủ nhận. Và nếu như những sửa đổi, bổ sung của NHNN chỉ mang tính kỹ thuật, các chủ thể trong nền kinh tế sẽ buộc phải đối mặt và thích nghi với những thay đổi theo hướng an toàn và vì mục tiêu tích cực trong dài hạn của Thông tư 13 này.
Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại
Theo Thời báo kinh tế Việt nam, hiện nay Việt nam có 3 NHTMNN, 1 ngân hàng chính sách, 1 ngân hàng phát triển; 6 ngân hàng liên doanh; 41 NHTMCP; 53 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 10 công ty tài chính; 13 công ty cho thuê tài chính; 998 quĩ tín dụng nhân dân cơ sở. Các đơn vị trên đều có chức năng cho vay, là chức năng chính của ngân hàng. Dân số nước ta hiện nay ước khoảng 86 triệu người, GDP khoảng 65 tỷ USD, số lượng các ngân hàng này được cho là quá nhiều trong điều kiện hiện nay.
Cũng theo bài báo này: Hiện Thái Lan có 65 triệu dân với 30 ngân hàng, trong đó có 17 ngân hàng nước ngoài; Malaysia có 24 triệu dân với 32 ngân hàng, gồm 14 ngân hàng nước ngoài; Indonesia có 215 triệu dân với 160 ngân hàng, gồm 29 ngân hàng ngoại. Đây là những quốc gia có trình độ phát triển tương đồng với Việt nam.
Như vậy, có một sự tương đồng nhất định giữa số lượng ngân hàng với hai yếu tố cơ bản là dân số và mức độ phát triển của một quốc gia. Với dân số khoảng 86 triệu người hiện nay (nước đông dân thứ 13 trên thế giới) và tốc độ phát triển kinh tế hàng năm bình quân khoảng 7% (thuộc hàng cao nhất châu Á) thì số lượng NHTM ở Việt Nam là quá nhiều. Trong khi đó, số vốn điều lệ mà mỗi NHTM có được thì lại quá ít. Chính vì thế, NHTW nên thúc ép, buộc các ngân hàng yếu kém có nguy cơ không cạnh tranh nổi trong điều kiện hiện nay nên hợp nhất lại. Nên kiên quyết buộc những TCTD không tự nâng vốn điều lệ theo quy định phải sáp nhập với nhau, để đẩy nhanh quá trình mua lại, sáp nhập các ngân hàng, không nên để quá nhiều ngân hàng nhỏ, làm thị trường rối thêm. Quá trình sáp nhập, mua lại luôn tốt đối với các ngân hàng đủ vốn và nhất là các ngân hàng không có khả năng tăng vốn. Ngoài ra, chúng còn làm giảm bớt số lượng TCTD đang khá đông trong nền kinh tế so với quy mô thị trường nhỏ như hiện nay.
Việc các NHTM tại Việt Nam chưa thể phá sản cũng là một phần nguyên nhân khiến cho một số NHTM đã tăng trưởng bằng mọi giá, mà không để ý đến các rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng đến hoạt động của mình, gây những biến động không đáng có trên thị trường những năm gần đây. Bởi không ít ngân hàng cho rằng: Nếu hoạt động yếu kém hay mất khả năng thanh khoản và đứng trước khả năng đổ vỡ thì NHNN sẽ ra tay can thiệp. Tâm lý ỷ lại đã khiến một số ngân hàng có hiệu quả hoạt động kinh doanh yếu kém cũng không có kế hoạch nâng tầm, mà chỉ mong đợi bằng cách này hay cách khác NHNN sẽ ra tay can thiệp. Đây thật sự là điều không có lợi cho nền kinh tế và khiến cho các NHTM không có động lực để phát triển.
Đẩy mạnh công tác chống lạm phát
Lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2011 đã tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, trong đó có hoạt động của các NHTM - kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
Đối với hoạt động huy động vốn: Do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, và nâng thế nào để không vượt trần lãi suất quy định, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng, luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM.
Lạm phát tăng cao, NHNN phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các DN và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của WB, ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín dụng. Vì vậy xét ở góc độ các NHTM cần có những biện pháp kiềm chế lạm phát. Các biện pháp từ phía NHTM bao gồm:
Thứ nhất, kiểm soát tăng trưởng tín dụng
Thứ hai, điều hành lãi suất ổn định và theo xu hướng giảm dần.
Thứ ba, phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản nợ – có, đặc biệt là quản trị thanh khoản
Thứ năm, nâng cao vị thế, chất lượng hoạt động, phục vụ của ngân hàng để tạo niềm tin cho dân chúng gửi tiền vào ngân hàng bằng những hành động thiết thực.
Tăng cường và nâng cao công tác giám sát từ xa hoạt động của các NHTM
Công tác giám sát từ xa hiện nay vẫn được NHNN tại các tỉnh, thành phố thực hiện. Nhưng tính xác thực của báo cáo giám sát này để phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô chưa cao, chưa phản ánh trung thực tình trạng hoạt động nói chung và tình trạng thanh khoản nói riêng của các NHTM. Để thực hiện việc này, cần nâng cao vai trò chức năng của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có cơ cấu tổ chức gồm: Vụ thanh tra các TCTD trong nước; Vụ Thanh tra các TCTD nước ngoài; Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; Vụ Giám sát ngân hàng; Vụ Chính an toàn hoạt động ngân hàng; Vụ Quản lý cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng; Cục Phòng, chống rửa tiền. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng. Ngoài ra, cơ quan này còn giúp Thống đốc NHNN quản lý nhà nước đối với các TCTD, tổ chức quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật. Thực hiện cấp phép hoạt động, chia tách, sáp nhập các tổ chức tín dụng; thành lập và mở các chi nhánh tại Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài.
Khoanh vùng các NHTM yếu thanh khoản Tham khảo tại:
Bên cạnh đó, NHNN cần khoanh vùng những ngân hàng yếu thanh khoản. Hiện nay, đã có một số ngân hàng bị mất tính thanh khoản. Việc các ngân hàng này đẩy lãi suất huy động cao là dấu hiệu đang mất tính thanh khoản. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phải khoanh vùng những ngân hàng này để có biện pháp hỗ trợ, tránh để tình trạng này lây lan qua các ngân hàng khác. Một trong những giải pháp để củng cố tính thanh khoản cho ngân hàng là đẩy lãi suất đầu ra, hạn chế lãi suất đầu vào. Các ngân hàng phải nhanh chóng cắt giảm chi phí.
Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và vừa đủ
Nhìn chung trong thời gian qua, CSTT được thực thi bởi NHNN đã góp phần vào thành tích tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam, ổn định tỷ giá có lợi cho xuất khẩu, tăng cường dự trữ ngoại hối cho đất nước, giữ mức lạm phát trong vòng kiểm soát theo hướng thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, CSTT của NHNN đôi khi còn quá tham vọng, đặt ra quá nhiều mục tiêu, làm giảm hiệu quả tác động của chính sách này đối với nền kinh tế, tạo ra sự mâu thuẫn không đáng có trong việc phát đi tín hiệu cho thị trường. Với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, việc hoàn thiện các công cụ của CSTT ở Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa của chính sách này, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng cao hơn và bền vững hơn là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Chúng ta có thể thấy, cuối năm 2007 đầu năm 2008, các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ chỉ tập trung vào lĩnh vực tiền tệ. Và dường như để thể hiện quyết tâm chống lạm phát đến cùng của mình, NHNN đã thực hiện hàng loạt các biện pháp mạnh, trong đó việc phát hành trái phiếu và tín phiếu bắt buộc với tổng trị giá lên đến 20.300 tỷ đồng được xem là là một biện pháp khá mạnh. Kết quả, thị trường tiền tệ bị xáo trộn, các NHTM chạy đua lãi suất với nhau nhằm thu hút tiền gửi đáp ứng nhu cầu thanh khoản, thị trường chứng khoán, bất động sản sụt giảm…Trong tình huống kiềm chế lạm phát, việc thực thi CSTT thắt chặt là cần thiết, nhưng việc sử dụng liên tiếp nhiều biện pháp mạnh như thế trong một khoảng thời gian dài lại có thể đẩy NHTM rơi vào tình trạng RRTK.
Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các NHTMNN
Theo bài viết về “Đẩy mạnh hội nhập quốc tế ngân hàng Việt Nam” của tạp chí kế toán ngày 14/06/2006, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi can thiệp các cơ quan chính quyền, tình trạng tài chính yếu kém, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, công nghệ ngân hàng tụt hậu so với các nước, nợ khó đòi cao, môi trường kinh tế vĩ mô chưa ổn định đã đặt hệ thống ngân hàng vào tình thế rủi ro khá cao. Vì vậy, lĩnh vực ngân hàng cần nhanh chóng hội nhập cùng với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống ngân hàng có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Việt Nam cần phải đưa ra những cải cách hợp lý về thể chế và pháp lý, công cuộc cải cách này trong xu thế hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp và không thể hoàn thành trong một sớm một chiều. Tuy nhiên cái giá phải trả do cải cách chậm trễ và của việc duy trì hệ thống ngân hàng yếu kém chính là: Tăng trưởng chậm, bỏ qua những thời cơ thuận lợi để phát triển kinh tế và hạn chế khả năng tận dụng được lợi ích từ hội nhập tài chính quốc tế. Chính vì thế, khi các điều kiện kinh tế, xã hội thuận lợi, Chính phủ nên cho phép cổ phần hóa một số NHTM quốc doanh nhằm tăng vốn điều lệ, đồng thời góp phần cung cấp và đa dạng hàng hoá trên thị trường tài chính. Từng bước xoá bỏ các cơ chế bao cấp, bảo hộ đối với các NHTM Việt Nam đồng thời nới rộng dần các hạn chế đối với NH nước ngoài đi đôi với củng cố, lành mạnh hoá các NHTM Việt Nam chính sách hiện hành. Nhờ đó, có thể tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao tinh thần trách nhiệm của NHTM đối với hoạt động kinh doanh của mình.
Nâng cao công tác cung cấp thông tin của Trung tâm thông tin tín dụng (Credit Information Center - CIC)
Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) thuộc NHNN Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 68/1999/QĐ-NHNN9 ngày 27/02/1999 của Thống đốc NHNN, có chức năng thu nhận, xử lý, lưu trữ, phân tích và dự báo thông tin phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước, thực hiện các dịch vụ thông tin ngân hàng. CIC là tổ chức duy nhất của Việt Nam thực hiện chức năng cơ quan đăng ký thông tin tín dụng công, hoạt động vì mục tiêu an toàn hệ thống ngân hàng và hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp. Kho dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia do CIC đang quản lý đến thời điểm hiện tại có trên 18 triệu hồ sơ khách hàng, trong đó có hơn 200 nghìn hồ sơ khách hàng doanh nghiệp, được cập nhật liên tục. Muốn tạo dựng được một hệ thống kinh tế tài chính minh bạch, NHNN cần chủ trương nâng cao vai trò của CIC.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở vận dụng phương pháp tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã thực hiện được những nội dung sau:
Thứ nhất, phân tích nội dung cơ bản về quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và quản trị rủi ro thanh khoản.
Thứ hai, đánh giá tính thanh khoản quản trị thanh khoản, tìm ra những hạn chế, tồn tại và một số gợi ý nhằm hoàn thiện hoạt động này ở các NHTM Việt Nam.
NHTM là một định chế tài chính trung gian, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Do vậy, sự sụp đổ của bất kỳ một ngân hàng nào, nếu không được xử lý khéo léo và thông minh đều có thể lan nhanh và kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống NHTM. Cùng với bước thăng trầm trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam, lý thuyết về quản trị ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro thanh khoản nói riêng đã phát triển không ngừng và bổ sung cho phù hợp với thực tiễn biến động của nền kinh tế. Vấn đề ở chỗ sự thành công trong chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản của NHTM này lại chưa chắc có thể áp dụng thành công cho các NHTM khác. Chính vì thế, các nhà hoạch định chiến lược quản trị cần phải có sự quan tâm thích đáng đối với vấn đề quản trị rủi ro thanh khoản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
PGS.TS. Phan Thị Cúc, Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Giao thông vận tải, 2006.
PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nxb đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2009.
PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn, Quản trị ngân hàng thương mại hiện đại, Nxb Phương Đông, 2010.
PGS.TS. Phan Thị Thu Hà, Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Giao thông vận tải, 2009.
Đỗ Thị Kim Hảo, Cảnh báo sớm nguy cơ rủi ro thanh khoản, Tạp chí ngân hàng số 07/2008.
Nguyễn Đắc Hưng, “Trao đổi về quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại” - Tạp chí ngân hàng số 24/2008.
TS. Nguyễn Đức Hưởng, Khủng hoảng thanh khoản tài chính toàn cầu – thách thức với Việt Nam, NxB Thanh Niên, 2009.
PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi, Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, 2006.
TS. Trương Quang Thông, Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, 2010.
PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến, Ngân hàng thương mại, Nxb Thống kê, 2009.
PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến, Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nxb Thống kê, 2010.
Frederic S.Mishkin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb Khoa học và kỹ thuật, 2001.
Peter. Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, 2010.
Tạp chí ban tuyên giáo số ra ngày 11/01/2011). Nên hay không nên tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc?
Tạp chí tài chính số ra ngày 6/04/2011. Quản trị thanh khoản bằng cách nào?
Báo cáo thường niên của ACB năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của Agribank năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của BIDV năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của Kienlongbank năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của NamAbank năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của Sacombank năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của SHB năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của Vietcombank năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của Vietinbank năm 2008, 2009, 2010
Báo cáo thường niên của Techcombank năm 2008, 2009, 2010
Hiệp ước Basel 1, Basel 2.
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010.
Nghị định số 141/NĐ – CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ quy định mức vốn pháp định của các TCTD.
Quyết định 457/QĐ-NHNN của NHNN ban hành ngày 19/04/2005 quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của các TCTD.
Quyết định Số: 187/QĐ-NHNN ngày 16/01/2008 của NHNN về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các TCTD.
Quyết định 379/QĐ – NHNN ngày 24/02/2009 về việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD
Quyết định số 187/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh DTBB đối với các TCTD ban hành ngày 16/01/2008
Quyết định số 2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 của Thống đốc NHNN về việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với các TCTD.
Quyết định số 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 về việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với các TCTD.
Quyết định số 2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 về việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với TCTD của Thống đốc NHNN.
Quyết định số 379/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh tỷ lệ dự DTBB đối với các TCTD ban hành ngày 24/02/2009
Quyết định số 191/QĐ – BHTG7 ban hành ngày 18/8/2006 về thông tin báo cáo áp dụng đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là NHTM.
Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy định lãi suất huy động vốn tối đa bằng VNĐ của các TCTD.
Thông tư 13/2010/TT-NHNN của NHNN ban hành ngày 20/05/2010 quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn của TCTD.
Thông tư số 15/2009/TT-NHNN ban hành ngày 10/08/2009 sửa đổi một số điều khoản của Quyết định số 457/QĐ-NHNN về tỷ lệ vốn ngắn hạn tài trợ cho vay trung dài hạn của TCTD.
Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ban hành ngày 27/09/2010 của NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong họat động của tổ chức tín dụng.
Tiếng Anh
Benton E. Gup, James W. Kolari (2005), Commercial banking – the management of risk. John Wiley & Son, Inc.
ADB (2005), Financial Management and analysis of Projects, Manila, Philippines.
R. Alton Gilbert, Andrew P. Meyer and Mark D. Vaughan, Could a Camels Downgrade Model improve off-site Surveillance, 2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112661.doc