Giao thông: Một vấn nạn lớn ở thành phố Hồ Chí Minh là nạn kẹt xe, ô nhiễm và tai nạn giao thông. Qua số liệu của Cục Bảo vệ môi trường thành phố Hồ Chí Minh, có thể nhận định tình hình ô nhiễm môi trường đã đến lúc báo động. Tại TP.HCM có đến 50-60% mô tô, xe máy đang lưu hành không đạt yêu cầu về khí thải. Số liệu do Cục Đăng kiểm Việt Nam cung cấp, năm 2006, cứ 2 người Sài Gòn thì có 1 chiếc xe máy, như vậy TP.HCM có khoảng 3,5 triệu xe máy; gần 2 triệu chiếc trong số đó đang thải lượng khí thải vượt mức cho phép.
Đây chính là tác nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm không khí tại TP.HCM. Hàng loạt chất độc hại như CO, benzen, các hợp chất hữu cơ. đang từng phút, từng giờ được thải ra không khí, nhất là ở những tụ điểm tắc nghẽn giao thông. Trong khi đó, theo thông báo từ Tổng cục Thống kê, lượng xe máy đang có xu hướng tăng mạnh trong năm nay.
Nồng độ CO vào một số thời điểm vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,05 – 1,21 lần. Nồng độ bụi PM10 và ozone tại thành phố Hồ Chí Minh vượt tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Số liệu từ các trạm đo không khí ven đường cho thấy nếu so sánh với các thành phố khác trong khu vực Đông á, thì nồng độ các hạt bụi (nhỏ hơn10 micromét), nồng độ nitrogen dioxide, carbon monoxide tương tự hay cao hơn Bangkok, Manila, Tokyo.
115 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1633 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phố Hồ Chí Minh và kinh nghiệm cho các tỉnh thành khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghệ cao ở nước ngoài vào làm việc tại khu nông nghiệp công nghệ cao thành phố. Sở Giao thông công chính thành phố được lập tuyến xe buýt từ trung tâm thành phố đến khu nông nghiệp công nghệ cao phục vụ hoạt động đi lại cho các cán bộ, công nhân viên của các đơn vị hoạt động trong khu nông nghiệp công nghệ cao với giá vé theo khung giá chung của thành phố.
Tóm lại, mặc dù thành phố rất quan tâm đến việc xây dựng khu công nghệ cao với một loạt những ưu tiên, ưu đãi cho nhà đâu tư nhưng xét về tổng thể toàn địa phương thì những chính sách ưu tiên, ưu đãi đầu tư đối với các nhà đầu tư chiến lược, các ngành kinh tế trọng điểm chưa được vạch ra rõ ràng để thu hút các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư từ các nước Đông á, Đông Nam á chiếm phần lớn nguồn vốn FDI vào thành phố. Các nhà đầu tư từ châu Âu, châu Mỹ chưa nhiều. Điều này gắn liền với chất lượng nguồn vốn đầu tư và trình độ công nghệ chưa tạo sự đột phá và đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Đây cũng chính là bài học kinh nghiệm quý báu dành cho các tỉnh thành khác trong việc thực hiện ưu tiên, ưu đãi thu hút đầu tư các nhà đầu tư chiến lược vào các ngành kinh tế trọng điểm.
3.4. Tăng cường hiệu quả các dự án đã triển khai
Nâng cao tính hiệu quả của các dự án FDI đã triển khai là một cách để thu hút hơn nữa đầu tư trong tương lai. Nó tạo niềm tin cho các nhà đầu tư đang có ý định đầu tư vào địa phương, hơn nữa nó giống như một sự cam kết nhiều giá trị của chính quyền địa phương cho sự thành công của mỗi dự án tiếp sau trên địa bàn địa phương mình. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, ở Việt Nam nói chung, hiệu quả đầu tư còn thấp và nếu xu hướng này tiếp tục thì việc đạt được mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững sẽ rất khó.
Có hai cách để tạo nên sự tăng trưởng, đó là đầu tư nhiều hoặc đầu tư có hiệu quả. Để đầu tư nước ngoài vào thành phố thực sự mang lại hiệu quả, trước mắt cần giảm thiểu các chi phí liên quan đến đầu tư. Bài toán cắt giảm chi phí là rất khó, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh cải cách từ cơ sở hạ tầng vốn lạc hậu của địa phương, gây thất thoát điện nước, điện thoại..., đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cải cách cơ chế quản lý gây tổn thất và kém hiệu quả của các dự án đầu tư. Đây là một việc làm lâu dài, cần thời gian và tiền bạc.
Tuy nhiên, trước mắt, để cắt giảm chi phí cần loại bỏ chính sách bù giá chéo những dịch vụ quan trọng để bù lỗ cho các doanh nghiệp đang được bao cấp, xóa bỏ độc quyền trong một số lĩnh vực điện, nước, điện thoại; loại bỏ chế độ quản lý giá trong một số ngành để các doanh nghiệp tự do cạnh tranh, có những chỉ dẫn cần thiết về các lĩnh vực đầu tư tránh tình trạng đầu tư xây dựng cơ bản song mới thấy thiếu nguyên vật liệu sản xuất, cơ sở hạ tầng không phù hợp... Bên cạnh đó cần loại bỏ tình trạng tiêu cực đang làm nảy sinh các chi phí ngoài luồng, thực hiện tốt chế độ "một cửa" theo Quyết định 181/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để tạo ra bộ máy quản lý trong sạch hơn, giúp đồng vốn doanh nghiệp bỏ ra thu được lợi ích cao hơn.
Vì mục tiêu của FDI là nhằm thu lợi nhuận cao, do vậy, nếu các dự án FDI đã được triển khai đạt kết quả tỷ suất lợi nhuận cao sẽ khuyến khích và củng cố niềm tin cho các nhà ĐTNN tiếp tục đầu tư để tái sản xuất mở rộng, đồng thời nêu gương có sức thuyết phục các nhà ĐTNN khác yên tâm bỏ vốn. Điều này sẽ giúp cho nguồn vốn FDI tiếp tục tăng. Ngược lại lỗ sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư.
Một cách tổng quan ta có thể thấy thành phố Hồ Chí Minh là một trong số ít các địa phương của Việt Nam đã cố gắng nỗ lực làm tốt công tác này. Số dự án xin chấm dứt hoạt động trên địa bàn thành phố chỉ chiếm một lượng rất nhỏ so với các dự án xin cấp mới và xin tăng vốn (năm 2006 có 28 dự án xin chấm dứt hoạt động, vốn đầu tư 71 triệu USD, trong khi đó có tới 251 dự án mới được cấp phép với tổng vốn 1.520,5 triệu USD, có 117 dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng số vốn tăng 713,2 triệu USD). Các dự án FDI được triển khai tại TP HCM cũng đã mang lại những thành công bước đầu rất đáng trân trọng như: ACECOOK VIETNAM JSC, AMERICAN INTERNATIONAL ASSURANCE CO. LTD, HONG KONG AND SHANGHAI BANKING CORP. (HSBC), FORD VIETNAM CO., PROCTER & GAMBLE VIETNAM LTD,… Những cái tên này đã rất thành công và trở nên quen thuộc trên thị trường Việt Nam.
3.5. Đẩy mạnh chương trình quảng bá và xúc tiến đầu tư
3.5.1. Những khó khăn trong hoạt động quảng bá và xúc tiến đầu tư ở thành phố Hồ Chí Minh
Công tác xúc tiến đầu tư (XTĐT) đang được các tỉnh trong cả nước ngày càng quan tâm, nhưng việc triển khai hoạt động trên thực tế còn rất nhiều khó khăn. TP.HCM là địa phương đã khắc phục được phần nào những khó khăn đó, trong khi các tỉnh khác còn loay hoay tìm cách làm hiệu quả.
Có những khó khăn của công tác XTĐT tại TP.HCM và cũng là những khó khăn điển hình trong XTĐT ở các địa phương. Công tác XTĐT không chấm dứt ở thời điểm cấp phép, mà xuyên suốt quá trình hoạt động của dự án. Đã có thời, Thành phố chỉ tập trung mời gọi các nhà đầu tư mới, mà xem nhẹ việc hỗ trợ các nhà đầu tư đang hoạt động. Còn hiện nay, công tác XTĐT được xác định là lâu dài và đa dạng, đòi hỏi nỗ lực của tất cả cơ quan có liên quan.
Trong những khó khăn, vất vả nhất là khắc phục yếu kém của quy hoạch hạn chế XTĐT. Lần đầu tiên, TP.HCM đã xây dựng được danh mục dự án kêu gọi đầu tư khá chi tiết để trình bày tại Hội chợ Đầu tư diễn ra trong tháng 11/2005. “Trong 2 năm, chúng tôi phải đi năn nỉ từng nhà đầu tư, thuyết phục họ nghiên cứu chi tiết dự án, cùng ngồi làm với họ để đưa ra một dự án kêu gọi đầu tư đầy đủ thông tin. Đó là việc làm của một con kiến, góp nhặt từng tí một, mà nguyên nhân là chưa có quy hoạch”, Ông Lương Văn Lý, Phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM nói. Trước đây, danh mục đầu tư thường chỉ nêu tên dự án rồi ngồi chờ nhà đầu tư đến bàn cụ thể.
Quyết tâm của địa phương trong công tác XTĐT còn thể hiện ở việc chính quyền quyết định chi bao nhiêu cho hoạt động xúc tiến đầu tư. Tại TP.HCM, mãi đến năm 2001 mới có ngân sách riêng cho XTĐT. Nhưng kể từ đó hoạt động thu hút đầu tư đã có bước chuyển tích cực và ngân sách XTĐT đã tăng từ 5 tỷ đồng năm 2001 lên 7 tỷ đồng năm 2006. Tuy nhiên, nguồn tài chính cho hoạt động XTĐT còn eo hẹp. Năm 2003, TP.HCM đã thuê một công ty nước ngoài tổ chức hội nghị XTĐT tại châu Âu, đem lại hiệu quả cao, nhưng chưa dám áp dụng lại vì kinh phí quá cao so với khả năng tài chính.
Và quan trọng nhất là cơ chế làm XTĐT như thế nào. Khó khăn nhất là làm gì để hỗ trợ nhà đầu tư sau cấp phép đầu tư. TP.HCM đã thành lập Tổ liên ngành để phối hợp các sở, ngành làm việc này. Tổ liên ngành hàng tháng quyết định ngay các vấn đề của nhà đầu tư và nếu sở, ngành nào vắng mặt không có lý do cũng phải chịu trách nhiệm về các quyết định của Tổ, không thể lấy lý do vắng mặt không có ý kiến. Trong khi đó, ở An Giang, vẫn còn tình trạng mỗi người nghĩ xúc tiến đầu tư theo một kiểu, nên làm theo cảm tính. Có lãnh đạo còn coi XTĐT là công việc của bộ phận làm xúc tiến, chứ không phải là hoạt động marketing của địa phương.
3.5.2. Những chuyển biến tích cực
Để mời gọi đầu tư nước ngoài phù hợp việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn hướng tới thành phố thương mại-công nghiệp-dịch vụ, làm đầu tàu cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, từ đầu năm 2004 đến nay, hoạt động xúc tiến thương mại và quảng bá du lịch của thành phố ngày càng đi vào chiều sâu với nhiều hoạt động đa dạng, phong phú. Cùng với việc mời gọi doanh nghiệp FDI tham gia đầu tư thương mại, du lịch, hạ tầng cơ sở, công nghiệp… lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên lắng nghe doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn nêu các khó khăn, vướng mắc, qua đó, tìm cách tháo gỡ; đồng thời kiến nghị những vướng mắc vượt quyền để các ban, ngành Trung ương có biện pháp giải quyết.
Thành phố Hồ Chí Minh còn cử đoàn cán bộ đi mời gọi đầu tư do Phó chủ tịch UBND thành phố dẫn đầu sang Singapore và Malaysia giới thiệu 24 dự án, trị giá 7 tỷ USD mời gọi đối tác khu vực tham gia xây dựng cải tạo và phát triển hạ tầng thành phố; tổ chức Hội chợ Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh với 132 dự án bao gồm: 51 dự án hạ tầng, địa ốc, 17 dự án công nghiệp, 33 dự án dịch vụ và 31 dự án công nghiệp kỹ thuật cao với 250 nhà đầu tư nước ngoài trong tổng số 400 doanh nghiệp trong và ngoài nước tham dự…
Hơn 100 tổ chức đầu tư nước ngoài đã tham dự hội nghị các nhà đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh do Công ty quản lý Quỹ Vina Capital Hoa Kỳ tổ chức, trong đó 80% số nhà đầu tư đến Việt Nam lần đầu, là hội nghị đầu tư gián tiếp có quy mô lớn nhất từ trước tới nay, thu hút nhiều tổ chức đầu tư tài chính và ngân hàng lớn trên thế giới tìm kiếm cơ hội đầu tư, giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán, cổ phần của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực: ngân hàng, bất động sản, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Chính vì vậy, ngay đầu tháng 3/2006, tập đoàn Intel Hoa Kỳ quyết định đầu tư 605 triệu USD, trong đó giai đoạn đầu xây dựng một nhà máy lắp ráp echip bán dẫn và nhà máy kiểm định sản phẩm trị giá 300 triệu USD tại khu công nghệ cao TP Hồ Chí Minh dự kiến cuối năm 2007 sẽ đi vào hoạt động. Ngay sau đó tập đoàn NIDEC (Nhật Bản) đã làm ăn ở khu chế xuất Tân Thuận hàng chục năm nay với tổng vốn đầu tư 94 triệu USD quyết định đầu tư thêm 500 triệu USD vào Việt Nam và TP Hồ Chí Minh. Một số dự án lớn như dự án xây dựng khu công nghiệp cảng Hiệp Phước có tổng vốn đầu tư 180 triệu USD. Đường vành đai Bình Lợi - Tân Sơn Nhất có tổng vốn 318 triệu USD dự kiến sẽ được cấp phép vào giữa quý II năm 2006….
Nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn lâu dài, thành phố Hồ Chí Minh đang khẩn trương quy hoạch theo hướng mở khu công nghiệp - tài chính - thương mại mới ở bán đảo Thủ Thiêm. Cải tạo, xây dựng quy hoạch lại các quận trung tâm. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở cả ba cấp, trong đó chú trọng quản trị doanh nghiệp và quản lý cao cấp. Tích cực thực hiện cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục phiền hà, giúp nhà đầu tư sớm yên tâm, khởi nghiệp làm ăn tại thành phố… Tích cực tìm thị trường tiêu thụ mới, chuyển nhanh một số xí nghiệp sang làm mặt hàng mới. Các sở: Thương mại, Công nghiệp, Du lịch cần chuyên môn hoá công tác xúc tiến thương mại, có biện pháp mời gọi các dự án lớn của các nhà đầu tư Hoa Kỳ, Nhật Bản… Có biện pháp cụ thể nhằm biểu dương các nhà đầu tư thực hiện đúng luật pháp Việt Nam cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
3.5.3. Đề xuất về hoạt động xúc tiến đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất 21/04/2008
Các khu công nghiệp, khu chế xuất TP. Hồ Chí Minh xúc tiến đầu tư theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đây là một mục tiêu quan trọng, là khâu đột phá nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xác định các ngành công nghiệp, dịch vụ trọng điểm để thu hút đầu tư trong thời gian tới, đó là:
Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin và giao thông vận tải, làm điều kiện phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ khác.
Đào tạo tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế có chất lượng cao mang tầm cỡ quốc tế và khu vực nhằm đáp ứng tốt cho nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài và hoạt động của họ tại Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh.
Công nghiệp phần mềm, bán dẫn, điện tử, hóa chất cơ bản và cơ khí chế tạo là các ngành công nghiệp hỗ trợ cho phát triển của các ngành công nghiệp khác nhằm tăng hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng trong sản phẩm sản xuất tại Việt Nam.
Xác định đối tượng xúc tiến đầu tư vào các KCN, KCX
Các tập đoàn kinh tế đa quốc gia đầu tư theo hình thức khu liên hợp nhiều dự án từ chế tạo máy móc, thiết bị, tạo nguồn nguyên liệu đầu vào đến thành phẩm.
Các tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực vừa sản xuất công nghiệp, vừa cung cấp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp như tài chính, ngân hàng, logistic, bất động sản,…
Các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu lớn của thế giới và khu vực.
Các tập đoàn tài chính, công nghệ thông tin và phần mềm.
Hạn chế thu hút các ngành nghề thâm dụng lao động, sử dụng tài nguyên không hiệu quả, sử dụng công nghệ lạc hậu và tạo ra giá trị gia tăng thấp và các dự án có quy mô nhỏ.
Xác định phương thức xúc tiến đầu tư:
Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành thương hiệu đối với các nhà đầu tư trên toàn thế giới, do vậy chúng ta cần xây dựng và quảng bá hơn nữa hình ảnh của thành phố qua các kênh truyền thông trên thế giới.
Một trong những phương thức xúc tiến đầu tư có hiệu quả nhất là thông qua các nhà đầu tư hiện hữu bởi vì ý kiến của họ hoàn toàn mang tính khách quan, tạo được lòng tin vững chắc ở các nhà đầu tư mới, đồng thời qua họ, chúng ta có thể thu hút được các ngành công nghiệp hỗ trợ rất có hiệu quả.
Thông qua ngoại giao: thành phố Hồ Chí Minh là điểm đến của hầu hết các đoàn khách quốc tế khi đến Việt Nam và là nơi đặt trụ sở của các cơ quan ngoại giao của các nước tại Việt Nam, đây chắc chắn là kênh xúc tiến đầu tư rất quan trọng, đồng thời thông qua các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài chúng ta sẽ có điều kiện quảng bá hình ảnh và định hướng thu hút đầu tư của thành phố.
Ngoài ra, chúng ta phải chủ động tiếp xúc trực tiếp các nhà đầu tư thông qua hội thảo chuyên đề được tổ chức trong nước và nước ngoài.
Hoàn thiện công tác quy hoạch, cơ chế chính sách, môi trường pháp luật đáp ứng cho công tác xúc tiến và thu hút đầu tư
Thành phố Hồ Chí Minh đã từng thành công trong việc thí điểm xây dựng và phát triển các KCN, KCX trong cả nước với khu chế xuất Tân Thuận. Đề nghị Chính phủ cho thành phố xây dựng mô hình khu công nghiệp gắn liền với các hoạt động dịch vụ, thương mại, trung tâm đào đạo và chuyển giao công nghệ theo mô hình liên hợp công nghiệp – dịch vụ - thương mại. Khu công nghiệp không chỉ có sản xuất công nghiệp mà còn có cả trung tâm tài chính, trung tâm đào tạo, và khoa học công nghệ và trung tâm thương mại vừa phục vụ cho sản xuất vừa phục vụ cho lưu thông phân phối hàng hóa, vừa thu hút vốn đầu tư trực tiếp, vừa thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ các thành phần kinh tế.
Xây dựng quy hoạch phát triển các KCN theo mục tiêu trên gắn với quy hoạch phát triển vùng để vừa thu hút đầu tư có trọng điểm vừa định hướng thành phố trở thành hạt nhân của cả khu vực về các dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp của các địa phương lân cận.
Đề nghị Chính phủ hoàn thiện cơ chế chính sách về thu hút đầu tư theo hướng đầy đủ, rõ ràng minh bạch và kịp thời. Đặc biệt là trong các lĩnh vực nhạy cảm cũng là các mục tiêu thu hút đầu tư hiện nay như công nghệ cao, công nghệ mới, dịch vụ,…
Đào tạo đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về đầu tư và xúc tiến đầu tư có đủ trình độ, năng lực và đạo đức để có thể đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư đồng thời, tham mưu và đề xuất một cách có hiệu quả các vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách trong thu hút đầu tư
Một cách tổng quát, các nhân tố liên quan đến chính sách tạo điều kiện của chính quyền đối với FDI và môi trường kinh doanh, chất lượng của thể chế và các thủ tục hành chính thuận lợi, các cam kết về mở cửa, tiềm năng thị trường, sự ổn định kinh tế vĩ mô, chi phí thấp là những nhân tố quan trọng nhất tác động đến quyết định lựa chọn địa điểm của nhà đầu tư nước ngoài. Các yếu tố lao động phổ thông nhiều, gần nguồn nguyên liệu, mức độ cạnh tranh không phải là những nhân tố chính ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư FDI
Các nhà đầu tư nước ngoài không hài lòng ở các lĩnh vực như: trả lời của các cơ quan chức năng đối với các câu hỏi của nhà đầu tư; Mức đáp ứng các dịch vụ công của các cơ quan chức năng; Việc thực hiện chính sách của thành phố tại cấp quận/huyện; Hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin, viễn thông; Mức giá thuê đất; công bố thông tin; thuế thu nhập cá nhân. Mặc dù các yếu tố như sự quan tâm của Lãnh đạo thành phố về thu hút FDI, cải thiện thủ tục cấp phép đầu tư của Thành phố được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao, nhưng thật sự chưa có lĩnh vực nào được các nhà đầu tư hài lòng ở mức cao.
Các vấn đề không thuận lợi của Thành phố trong thu hút FDI bao gồm vấn đề tham nhũng, các loại thủ tục giấy phép và hành chính, chi phí về sử dụng hạ tầng cơ sở và điều kiện về hạ tầng cơ sở, nguồn nguyên liệu, mức độ cạnh tranh lớn, chính sách thuế. Lợi thế của Thành phố trong thu hút FDI bao gồm: môi trường kinh doanh đa dạng, nhiều cơ hội kinh doanh; thị trường tăng trưởng cao; các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (tư vấn, quảng cáo…) phát triển mạnh; định chế tài chính, ngân hàng của địa phương phát triển. Đây là các thế mạnh rõ rệt của Thành phố so với các địa phương trong vùng, nhưng cũng không phải là thế mạnh của Thành phố khi so với Thái Lan (Bangkok) và Trung Quốc (Thượng Hải/Thâm Quyến).
Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện những điểm yếu, tăng cường những ưu thế của mình để tiếp tục dẫn đầu cả nước trong việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI. Xây dựng, cải thiện và duy trì một môi trường đầu tư ổn định; từng bước đưa ra một chiến lược cụ thể để thu hút đầu tư; dành nhiều ưu tiên ưu đãi cho những nhà đầu tư chiến lược, cho những ngành kinh tế trọng điểm; tăng cường hiệu quả các dự án đã triển khai và hơn hết là đẩy mạnh chương trình quảng bá và xúc tiến đầu tư chính là những cách mà thành phố đã và đang thực hiện. Đây cũng chính là những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thành phố Hồ Chí Minh dành cho các tỉnh thành khác trong cả nước. Làm tốt được những khâu trên thì chắc chắn bất kỳ một địa phương nào cũng có thể là điểm đến cho những nhà đầu tư chiến lược, những luồng vốn đầu tư khổng lồ.
KếT LUậN
Trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ và Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO như hiện nay, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng giúp các tỉnh thành phố trong cả nước phát triển cả về kinh tế - xã hội – văn hóa – khoa học kỹ thuật, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước và hội nhập với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là đối với các tỉnh thành còn nhiều khó khăn - những tỉnh thành đang rất thiếu vốn đầu tư, công nghệ và cả kinh nghiệm quản lý. Tuy nguồn vốn FDI cũng kéo theo một số mặt trái nhưng với vai trò to lớn như vậy, các địa phương trong cả nước đều cố gắng hết sức để thu hút được nguồn vốn ưu việt này. Hiện nay các tỉnh thành thực hiện nhiều biện pháp cụ thể để cải thiện môi trường đầu tư của mình, “chạy đua” sao cho địa phương mình trở nên hấp dẫn hơn các địa phương khác đối với các nhà đầu tư.
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương trong thời gian qua đã thu hút được luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khổng lồ, cao nhất cả nước, đặc biệt là đầu tư vào các ngành công nghiệp – dịch vụ hiện đại, các ngành công nghệ cao, đem lại lợi ích lớn về kinh tế - xã hội. Mặc dù nguồn vốn này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của thành phố như giúp bổ sung nguồn vốn để đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng, tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường xuất khẩu, phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao... nhưng nguồn vốn này cũng mang lại một số tác động tiêu cực cho thành phố như ô nhiễm môi trường, gia tăng dân số, mất cân đối trong cơ cấu ngành kinh tế, nảy sinh nhiều vấn đề tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động, gia tăng khoảng cách giàu nghèo,... Thành phố đang nỗ lực để có thể vừa tối đa hóa những lợi ích mà FDI mang lại cũng như hạn chế những mặt trái của nó đối với địa phương.
Có thể thấy thành phố Hồ Chí Minh tham gia thu hút FDI chưa lâu, khoảng hơn 20 năm kể từ năm 1987 khi Luật ĐTNN của Việt Nam ra đời nhưng nguồn vốn này đã có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của thành phố, nó biến thành phố từ một nền kinh tế què quặt, đình đốn sau chiến tranh thành một đầu tàu kinh tế vững mạnh của cả nước, đang vươn mình khẳng định vị thế của một “Hòn ngọc Viễn Đông” trong con mắt bạn bè quốc tế. Có được điều này là nhờ những nỗ lực nhằm cải thiện môi trường đầu tư đã đạt kết quả tốt của thành phố trong thời gian 2001 – 2007, đặc biệt là từ năm 2005 trở lại đây, nắm rõ những ưu điểm cũng như những điểm còn tồn tại ở địa bàn mình để biến yếu thành mạnh.
Để có được những bước chuyển mình vững chắc như TP HCM, phát huy những tác động tích cực này và hạn chế những tác động tiêu cực của nguồn vốn FDI, các địa phương khác trong cả nước cần học tập kinh nghiệm của thành phố. Qua những bài học thành công cũng như những mặt còn tồn tại của TP HCM có thể rút ra một số điểm cần lưu ý cho các tỉnh thành khác như sau:
Cùng với việc xác định mục tiêu và định hướng thu hút FDI một cách cụ thể, rõ ràng trong thời gian tới, các tỉnh thành phố khác có thể cải thiện khả năng thu hút và sử dụng FDI của mình theo các hướng như:
Đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị-xã hội;
Xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn với hệ thống cơ chế chính sách nhiều ưu đãi, thủ tục hành chính nhanh gọn, thông thoáng, hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, đáp ứng được nhu cầu nhà đầu tư về đất đai rẻ, nguồn nhân lực chất lượng cao; Tạo sân chơi bình đẳng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài
Đa phương hoá, đa dạng hoá đối tác và hình thức đầu tư;
Mở rộng đồng thời có ưu tiên lựa chọn lĩnh vực thu hút FDI chiến lược, phù hợp với tình hình địa phương mình;
Nâng cao hiệu quả các dự án đã triển khai;
Đẩy mạnh các chương trình quảng bá và xúc tiến đầu tư,...
Làm được những điều này chắc chắn lượng FDI chảy vào các tỉnh thành khác sẽ tăng lên nhanh chóng và vốn FDI thực sự sẽ là nguồn vốn hiệu quả để Việt Nam phát triển kinh tế.
TàI LIệU THAM KHảO
Nguyệt Anh (2004), “7 sẵn sàng vì các nhà đầu tư”, Báo Quốc tế Điện tử
Hòa Bình (2008), “Thu hút FDI của thành phố Hồ Chí Minh: Tự tin với vị thế dẫn đầu”, Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam - www.vovnews.vn
Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (2003, 2004, 2005, 2006, 2007), Thông tin kinh tế xã hội tháng 12 và năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 của Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
Báo Điện tử Đảng Cộng sản (2008), “Kinh tế TP Hồ Chí Minh trên đà về đích trước”
Phạm Văn Hiến (2003), “Chủ động, tích cực góp phần khơi thông các nguồn ngoại lực”, Tạp chí Tài chính
Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2000
Nguyễn Thị Hường (2001), “Triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí kinh tế và phát triển 12/2001, Số 54.
Vũ Trọng Lâm (2003), “Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam”, Tạp chí Thương mại, số 35/2003
Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình đầu tư nước ngoài, NXB Giáo dục, Hà Nội
Phạm Minh (2002), “Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng thuận lợi”, Tạp chí Công nghiệp Việt Nam số 1/2002.
Phạm Minh Nhật (2004), “Dồn sức thu hút FDI”, Báo Quốc tế Điện tử
Phương Lâm Ngọc (2003), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài: chuyển từ giảm sút sang tăng trưởng”, Thời báo tài chính Việt Nam
Trần Văn Ngợi (2002), “Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, Số 5/2002.
Nguyễn Văn Quang (2005), “Đánh giá vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn TP.HCM”, Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
Nguyễn Văn Quang (2007), “Định hướng thu hút đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh”, Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
Nguyễn Văn Quang (2008), “Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 tiếp tục trên đà tăng trưởng cao”, Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (2007), “Báo cáo tình hình Kinh tế - Xã hội Thành phố năm 2006”, TP HCM
Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (2006), “Các lợi thế khi đầu tư vào TP HCM”, TP HCM
Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (2002), “Các Khu Công nghiệp, Khu Chế xuất tại TP HCM”, TP HCM
Tạp chí Cộng sản (2008), “Kinh tế TP HCM giữ vững tốc độ tăng trưởng”
Thông tấn xã Việt Nam (2008), “Đầu tư nước ngoài vào TPHCM tăng mạnh thời hậu WTO”
Tiềm năng Việt Nam thế kỷ XXI, NXB Thế giới, 2001
Tổng cục thống kê (2008), “Tình hình kinh tế - xã hội quí I năm 2008 thành phố Hồ Chí Minh”, Hà Nội
Trung tâm Xúc tiến Thương mại TPHCM (2007), “Số dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép tại TP HCM, 1988 – 6/2007”, TP HCM
Phan Thế Vinh (2003), “Rút giấy phép của các dự án FDI: Diễn biến nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và dự báo Số 5/2003.
Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2006), “Dự báo tăng trưởng kinh tế thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 – 2010”, TP HCM
Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2006), “Thành phố Hồ Chí Minh - Đầu tầu trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”, TP HCM
Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2007), “Vai trò đầu tàu kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước”, TP HCM
Tổng cục Thống kê, Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, 2001
Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2007, NXB Thống kê, 2007
Các Website của:
Ban quản lý các Khu Chế xuất - Khu Công nghiệp TP HCM:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn
Cục Đầu tư nước ngoài:
Cục Thống kê TP HCM:
Khu Công nghệ cao TP HCM:
Sở Công nghiệp TP HCM:
Sở Kế hoạch và Đầu tư TP HCM:
Sở Thương mại TP HCM:
Thành phố Hồ Chí Minh:
Tổng cục Thống kê: www.gso.gov.com
Trung tâm Xúc tiến Thương mại – Đầu tư TP HCM:
Viện Kinh tế TP HCM:
PHụ LụC
Phụ lục 1:
Bảng 1: Số liệu tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư của thành phố Hồ Chí Minh
đến năm 2010
Ngành
Tổng số dự án
Số dự án cóvốn ước tính
Vốn ước tính
Số dự án
%
Triệu đồng
%
Công nghiệp
66
52
11,33
42.407.708
6,25
Thương mại
13
13
2,83
32.176.613
4,75
Du lịch
143
93
20,26
48.879.372
7,21
Xây dựng
4
4
0,87
74.000
0,01
Nông - lâm - ngư nghiệp
14
14
3,05
1.433.600
0,21
Cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng
85
82
17,87
232.396.259
34,27
Giao thông vận tải
66
66
14,38
166.506.370
24,55
Điện
5
5
1,09
8.600.206
1,27
Bưu chính - viễn thông
12
12
2,62
14.494.200
2,14
Nhà đất
8
8
1,74
126.000.000
18,58
Y tế
56
56
12,20
2.665.000
0,39
Văn hóa thông tin và thể dục thể thao
52
50
10,89
1.844.124
0,27
Giáo dục và đào tạo
4
4
0,87
682.000
0,10
Cộng
528
459
100,00
678.159.452
100,00
Phụ lục 2:
Bảng 2: CáC ƯU ĐãI THUế ĐốI VớI DOANH NGHIệP KCX-KCN
Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 và Nghị định 27/2003
Thuế xuất khẩu
NộI DUNG
KCX
KCN
Sản phẩm, hàng hoá
Miễn
Miễn
Thuế nhập khẩu
NộI DUNG
KCX
KCN
Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng để tạo tài sản cố định
Miễn
Miễn
Nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư (kể cả vật tư xây dựng mà trong nước chưa sản xuất được)
Miễn
Miễn theo tỷ lệ XKĐược nợ thuế trong 9 tháng (275 ngày)
Thuế thu nhập doanh nghiệp (*)
NộI DUNG
KCX
KCN
1- DN sản xuất: - Ưu đãi : + Thuế ưu đãi: Thời gian áp dụng (kể từ ngày DA bắt đầu thành lập đi vào hoạt động SXKD) + Miễn thuế (kể từ khi có thu nhập chịu thuế) + Giảm 50 % (cho các năm tiếp theo) - Thuế sau thời hạn ưu đãi (áp dụng cho suốt thời hạn còn lại của DA)
10%15 năm
4 năm
7 năm
28%
15%12 năm
3 năm7 năm
28%
1- DN dịch vụ: - Ưu đãi : + Thuế ưu đãi: Thời gian áp dụng (kể từ ngày DA bắt đầu thành lập đi vào hoạt động SXKD) + Miễn thuế (kể từ khi có thu nhập chịu thuế) + Giảm 50 % (cho các năm tiếp theo) - Thuế sau thời hạn ưu đãi (áp dụng cho suốt thời hạn còn lại của DA)
15%12 năm
3 năm7 năm
28%
20%10 năm
2 năm6 năm
28%
Thuế giá trị gia tăng (VAT)
NộI DUNG
KCX
KCN
Sản phẩm và hàng hoá xuất khẩu
Miễn
Thực hiện theo Luật thuế VAT hiện hành
Sản phẩm và hàng hoá xuất khẩu hoặc bán vào KCX (tiêu dùng bên ngoài lãnh thổ Việt Nam)
0%
Sản phẩm cơ khí, khuôn mẫu, máy tính và phụ kiện, cáp điện, hoá chất cơ bản, săm lốp xe, giấy in, thuốc trừ sâu, phân bón, thiết bị y khoa, thiết bị khám và chữa bệnh, thiết bị dạy học, đồ chơi trẻ em, nguyên vật liệu nông lâm thủ hải sản, thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, ván ép, cấu kiện đúc sẵn, thép, thức ăn gia súc….
5%
Hàng cơ khí điện máy, hàng điện tử, hoá chất, mỹ phẩm, sợi, vải, hàng may mặc, hàng thêu, hàng da và giả da, hàng gốm sứ, thủy tinh, nhựa, gỗ, vật liệu xây dựng, sữa, thực phẩm khô, nước giải khát.
10%
Thuế chuyển lợi nhuận
NộI DUNG
KCX
KCN
5%
5%
Ghi chú:
- KCX: Toàn bộ sản phẩm để xuất khẩu
- KCN: Doanh nghiệp có thể xuất khẩu 100% sản phẩm hoặc vừa xuất khẩu vừa bán tại thị trường nội địa.
Phụ lục 3:
Một số cơ chế, chính sách thu hút đầu tư vào Khu Công nghệ cao
thành phố HCM
Về đối tượng và phạm vi áp dụng chính sách và biện pháp ưu đãi khuyến khích đầu tư
Quyết định này quy định một số chính sách và biện pháp ưu đãi khuyến khích các tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân trong và ngoài nước (sau đây gọi tắt là chủ đầu tư) đầu tư vào Khu Công nghệ cao thành phố, cụ thể:
a) Đối tượng được hưởng các ưu đãi đầu tư:
Các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào Khu Công nghệ cao thành phố thuộc các lĩnh vực đầu tư sau:
- Sản xuất và kinh doanh các sản phẩm công nghệ cao;
- Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao;
- Ươm tạo công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao.
b) Phạm vi áp dụng:
Nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào các ngành nghề:
- Công nghệ thông tin, truyền thông và công nghệ phần mềm tin học;
- Công nghệ sinh học phục vụ cho nông nghiệp, thuỷ sản, y tế;
- Công nghệ vi điện tử, cơ khí chính xác, quang - điện tử và tự động hoá;
- Công nghệ vật liệu mới, Công nghệ Nano;
- Công nghệ môi trường, công nghệ năng lượng mới.
Về giá giao đất - thuê đất trong Khu Công nghệ cao thành phố (giai đoạn 1) có kèm cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước và viễn thông
a) Đối với các dự án đầu tư vào phân khu R&D từ các trung tâm R&D, doanh nghiệp, viện, trường đại học có uy tín quốc tế: miễn tiền thuê đất.
- Các dự án sản xuất công nghệ cao đáp ứng được tiêu chí công nghệ cao theo Quyết định số 27/2006/QĐ-BKHCN ngày 18 tháng 12 năm 2006 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc ban hành “Quy định về tiêu chuẩn xác định dự án sản xuất sản phẩm công nghệ cao” được hưởng mức giá thuê đất như sau:
- Mức giá 0,6USD - 1USD/m2/năm (tương đương 30USD - 50USD/m2/50 năm) áp dụng cho các dự án đầu tư vào Khu Công nghệ cao giai đoạn I.
- Mức giá 0,8USD - 1,2USD/m2/năm (tương đương 40USD - 60USD/m2/50 năm) áp dụng cho các dự án đầu tư vào Khu Công nghệ cao giai đoạn II.
- Ngoài ra, nhà đầu tư phải đóng:
+ Phí duy tu, bảo dưỡng hạ tầng kỹ thuật và sử dụng tiện nghi công cộng là 0,48 USD/m2/năm.
+ Phí xử lý nước thải là 0,24 USD/m3.
b) Về thủ tục giao thuê đất:
Ban Quản lý Khu Công nghệ cao có trách nhiệm làm đầu mối xem xét, hướng dẫn nhà đầu tư các thủ tục giao thuê đất theo đúng quy định và đảm bảo thời gian nhanh nhất.
Về giá điện, nước, viễn thông
- Giá điện: được tính theo khung giá của Công ty Điện lực thành phố áp dụng cho từng đối tượng sử dụng cụ thể theo quy định chung.
- Giá nước: Được tính đúng theo khung giá nước của thành phố.
- Viễn thông: Thành phố sẽ đầu tư hệ thống viễn thông cho Khu Công nghệ cao thành phố. Được tính mức giá bằng giá đường truyền mua vào của các nhà cung cấp, không tính chi phí khấu hao và chi phí quản lý, vận hành trong vòng 03 năm đầu hoạt động.
Về cung ứng dịch vụ một cửa
Ban Quản lý Khu Công nghệ cao thành phố có nhiệm vụ hỗ trợ miễn phí cho chủ đầu tư về thành lập doanh nghiệp, giấy phép đầu tư; thủ tục xuất nhập khẩu; thủ tục giao đất, cho thuê đất; giấy phép xây dựng; visa xuất nhập cảnh nhiều lần, gia hạn visa và một số hỗ trợ khác về thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp trong Khu Công nghệ cao.
Về hỗ trợ đi lại
Thành phố sẽ lập tuyến xe buýt từ Trung tâm thành phố đến Khu Công nghệ cao thành phố phục vụ hoạt động đi lại cho các cán bộ, công nhân viên của các đơn vị hoạt động trong Khu Công nghệ cao thành phố với giá vé theo khung giá chung của thành phố.
Về thuê chuyên gia đầu đàn về lĩnh vực công nghệ cao ở nước ngoài
Chấp thuận chủ trương thuê chuyên gia đầu đàn về lĩnh vực công nghệ cao ở nước ngoài vào làm việc tại phân khu R&D của Khu Công nghệ cao. Ban Quản lý Khu Công nghệ cao thành phố căn cứ vào sự cần thiết, yêu cầu, nhiệm vụ quản lý và nghiên cứu khoa học công nghệ trong từng thời điểm, từng đề tài, dự án cụ thể có tham khảo mức thu nhập của các chuyên gia đầu đàn làm việc trong lĩnh vực công nghệ cao ở các nước trong khu vực đề xuất Uỷ ban nhân dân thành phố việc thuê chuyên gia đầu đàn về lĩnh vực công nghệ cao ở nước ngoài và mức lương cụ thể của từng chuyên gia.
Về thuế thu nhập doanh nghiệp
Các doanh nghiệp đầu tư vào Khu Công nghệ cao thành phố được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo đúng quy định của Luật Đầu tư và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Phụ lục 4:
Các biện pháp thu hút FDI của thành phố Hồ Chí Minh
Sẵn sàng về thông tin:
1.1. Ban quản lý các khu chế xuất và công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh (Ban quản lý) và các Công ty phát triển hạ tầng cần xem trọng hơn nữa “sẵn sàng về thông tin”, phải kịp thời, đầy đủ và chính xác để thu hút đầu tư vào khu công nghiệp.
1.2 Tiếp tục tích cực tham gia thực hiện hệ thống “Đối thoại doanh nghiệp” qua mạng của thành phố, sẵn sàng giải đáp các thắc mắc và hướng dẫn các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
Sẵn sàng về đất:
2.1 Có thể hình thành và mở rộng từ 3 đến 5 khu công nghiệp mới có quy mô 1000-1500 ha của năm 2004-2005:
2.1.1 Công nghiệp hóa chất: dự kiến tại phần mở rộng 600 ha của khu công nghiệp Hiệp Phước, Huyện Nhà Bè.
2.1.2 Công nghiệp nhựa-cao su và công nghiệp thực phẩm chế biến: dự kiến tại phần mở rộng(230ha) của khu công nghiệp Lê Minh Xuân, Huyện Bình Chánh.
2.1.3 Công nghiệp điện tử-cơ khí: dự kiến tại khu đô thị-công nghiệp và khu công nghiệp Tân Phú Trung (500ha – 800ha) ở Củ Chi-Hóc Môn.
2.2 Giá đất cho thuê, phí duy tu cơ sở hạ tầng:
2.2.1 Ban quản lý thường xuyên kiểm tra đôn đốc các Công ty phát triển hạ tầng, triển khai các công trình hạ tầng theo đúng tiến độ dự án đã được duyệt. Kịp thời phát hiện và can thiệp các trường hợp hạng mục công trình hạ tầng được xây dựng với chi phí quá cao, không hợp lý và kịp thời tác động hỗ trợ giải quyết các vướng mắc khó khăn về: vốn, đền bù giải tỏa, thuế, thủ tục hành chính… trong quá trình triển khai dự án.
2.2.2 Thỏa thuận với các khu công nghiệp về phương pháp thu phí duy tu cơ sở hạ tầng hợp lý hơn nhằm góp phần giảm thiểu chi phí sản xuất và kích thích gia tăng sản xuất, xuất khẩu của nhà đầu tư.
2.2.3 Kiến nghị Nhà nước hỗ trợ tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các Công ty phát triển hạ tầng để tiến hành đền bù, giải tỏa thu hồi đất đồng bộ và một lần theo dự án đầu tư đã được phê duyệt; miễn, giảm tiền thuê đất thô để hạ thấp giá cho thuê đất đảm bảo thu hút đầu tư vào khu công nghiệp.
2.2.4 Tiến hành qui hoạch các khu công nghiệp mới tại những vùng đất ít dân cư, có thành phần cấu tạo đất cứng nhằm giảm thiểu chi phí đền bù giải tỏa, san lấp mặt bằng, chi phí xây dựng cơ bản làm nền móng ban đầu, tạo lợi thế cạnh tranh để giảm giá thuê đất.
2.2.5 Khuyến khích các đơn vị cung cấp dịch vụ có liên quan trực tiếp đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng như: điện, nước, viễn thông, ngân hàng, giao thông và các Hiệp hội chuyên ngành (nhu Điện tử, Cơ khí, Nhựa - Cao su, Hóa chất…) tham gia góp vốn đầu tư vào các công ty đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo động lực, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án tại các khu công nghiệp đồng thời kiểm soát được giá cho thuê đất.
2.2.6 Khuyến khích và tạo điều kiện cho các công ty tư nhân cùng tham gia xây dựng, kinh doanh và phát triển hạ tầng khu công.
2.2.7 Kiến nghị nhà nước có chính sách hợp lý và ưu đãi đối với phần đất công để giảm giá cho thuê đất phục vụ chương trình thu hút đầu tư ngành công nghiệp mũi nhọn như: điện-điện tử, cơ khí, hóa chất cơ bản…
Sẵn sàng về lao động:
3.1 Trung tâm dịch vụ việc làm của Ban quản lý khảo sát, nghiên cứu, tham mưu, lập kế hoạch liên kết với các trường kỹ thuật, cao đẳng, đại học để đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực theo nhu cầu của khu chế xuất và khu công nghiệp.
3.2 Trường Cao đẳng bán công Công nghệ và Quản trị doanh nghiệp (CTIM) thuộc Ban quản lý:
3.2.1 Có kế hoạch tuyển sinh – chiêu sinh đào tạo cho phù hợp và chương trình đào tạo phải đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh trong khu chế xuất, khu công nghiệp.
3.2.2 Đội ngũ giáo viên phải được đào tạo và bồi dưỡng về nhận thức, phương pháp giảng dạy theo xu hướng của khu vực và thế giới phù hợp, giúp học sinh, sinh viên tiếp thu nhanh.
3.2.3 Đầu tư thiết bị cho giảng dạy và thực hành hiện đại để làm sao cho sinh viên ra trường đủ sức làm việc được ngay.
3.2.4 Tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiếp xúc với lãnh đạo trường Cao đẳng Bán công Công nghệ và Quản trị doanh nghiệp (CTIM), các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, các Trung tâm dạy nghề, các trường nghề trên địa bàn thành phố để cung cấp thông tin về nhu cầu lao động và năng lực đào tạo cũng như khả năng cung ứng nguồn lao động theo ngành nghề, trình độ;
3.2.5 Xây dựng cơ chế hỗ trợ kinh phí từ ngân sách và ngân hàng hỗ trợ trong việc bồi dưỡng, đào tạo nghề cho thanh niên cũng như sinh viên và xem đây cũng là một biện pháp ưu đãi đầu tư.
Sẵn sàng về viễn thông:
4.1 Đề nghị Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh và các công ty viễn thông khác hỗ trợ và phối hợp với Ban quản lý:
4.1.1 Hỗ trợ vấn đề đường truyền tốc độ cao và ổn định cho các doanh nghiệp có sử dụng nhiều về truyền dữ liệu Internet trong hoạt động ở các khâu thiết kế sản phẩm từ công ty mẹ ở nước ngoài chuyển qua công ty con ở khu chế xuất để sản xuất.
4.1.2 Xây dựng giải pháp tổng thể hạ tầng mạng kết nối giữa Ban quản lý với các khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn thành phố theo quy hoạch phát triển khu chế xuất, khu công nghiệp đến năm 2010 và đến năm 2020.
4.1.3 Hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng hệ thống kết nối giữa Ban quản lý với các khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn thành phố.
4.1.4 Khai thác các dịch vụ viễn thông trong khu chế xuất, khu công nghiệp.
4.2 Hoàn chỉnh và công bố trang Web: giới thiệu chung về Ban quản lý, các quy trình nghiệp vụ phục vụ đầu tư và doanh nghiệp; giới thiệu các khu chế xuất, khu công nghiệp để thu hút đầu tư, giới thiệu các doanh nghiệp điển hình trong khu chế xuất, khu công nghiệp; thí điểm thực hiện thủ tục đăng ký đầu tư qua mạng; Tham gia tốt hệ thống “Đối thoại doanh nghiệp” qua mạng của thành phố.
4.3 Xây dựng “Cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước đối với khu chế xuất, khu công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh” trong chương trình Đề án 112.
4.4 Xây dựng giải pháp hạ tầng mạng tổng thể kết nối giữa Ban quản lý với các khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn thành phố theo quy hoạch phát triển khu chế xuất, khu công nghiệp đến năm 2010 và đến năm 2020.
4.5 Xây dựng Trung tâm dịch vụ Công nghiệp và Thông tin giới thiệu đầu tư và xúc tiến giao dịch thương mại trên mạng.
Sẵn sàng về giao thông, điện, nước:
5.1 Đối với các công trình ngoài tường rào có kết nối với bên trong khu công nghiệp mà bức bách, các công ty phát triển hạ tầng kịp thời đề nghị Ban quản lý tổng hợp trình ủy ban nhân dân thành phố cho ý kiến để công ty hạ tầng có thể chủ động ứng vốn thực hiện phụ giúp cho Sở Giao thông công chánh, Công ty cấp nước
5.2 Ban quản lý tiếp tục tích cực làm đầu mối làm việc với các Sở, ngành thành phố để giải quyết các vấn đề đặt ra nhằm đảm bảo “Sẵn sàng về giao thông, điện, nước”.
Sẵn sàng về nhà ở cho công nhân:
6.1 Thành phố sửa đổi, bổ sung về cơ chế chính sách cho phù hợp với điều kiện của thành phố, khuyến khích doanh nghiệp các thành phần kinh tế tham gia vào chương trình này.
6.2 Có chính sách về nhà ở cho công nhân (xây bán trả góp, giá ưu đãi…) và ký túc xá cho công nhân đến từ tỉnh, thành phố khác, đồng thời xây dựng và chăm lo đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân.
6.3 Các địa phương có quỹ đất công gần khu chế xuất, khu công nghiệp cần quan tâm xây dựng nhà lưu trú cho công nhân.
6.4 Sắp đến khi quy hoạch đất cho khu chế xuất, khu công nghiệp, cần dành 10% quỹ đất để xây dựng nhà lưu trú.
6.5 Kiến nghị ủy ban nhân dân thành phố cần có chủ trương tạo điều kiện cho nhân dân khu vực xung quanh khu chế xuất, khu công nghiệp làm nhà trọ cho công nhân.
6.6 Tạo điều kiện cho các hộ dân vay vốn ngân hàng, miễn giảm thuế để chỉnh trang, nâng cấp nhà trọ đồng thời nhà nước có kiểm tra tình trạng vệ sinh, môi trường và xử lý nếu không đạt tiêu chuẩn.
Sẵn sàng về hỗ trợ cho doanh nghiệp:
7.1 Tiếp tục thực hiện tốt cơ chế quản lý “ Một cửa, tại chỗ” với phương châm phục vụ nhà đầu tư là chính; kiến nghị mở rộng cơ chế các Bộ, Ngành và ủy ban nhân dân thành phố ủy quyền để Ban quản lý chủ động trong việc rút ngắn thời gian xử lý, xây dựng biểu mẩu, hướng dẫn thủ tục hồ sơ, nâng cao chất lượng phục vụ của các chuyên viên.
7.2 Thường xuyên nắm bắt tâm tư nguyện vọng của các doanh nghiệp, đồng hành với doanh nghiệp tháo gở khó khăn của doanh nghiệp.
7.3 Công ty phát triển hạ tầng phải quan hệ bình đẳng, minh bạch, thân thiện với nhà đầu tư như: thông báo đầy đủ về tính pháp lý của hợp đồng thuê đất, thuê nhà xưởng cho nhà đầu tư.
7.4 Các công ty phát triển hạ tầng mở rộng khả năng cung ứng dịch vụ cho các doanh nghiệp khu chế xuất, khu công nghiệp với chi phí thấp và thời gian ngắn nhất.
Phụ lục 5:
Bảng 3: Một số chỉ tiêu năm 2005 so sánh TP HCM với cả nước, Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng
Chỉ tiêu
Số tuyệt đối
Hà Nội
Hải Phòng
Đà Nẵng
Cả nước
TP HCM
Tỷ lệ TP HCM so với cả nước (%)
Số tuyệt đối
So với TP HCM (lần)
Số tuyệt đối
So với TP HCM (lần)
Số tuyệt đối
So với TP HCM (lần)
Dân số trung bình (1.000 người)
83120
6240
7,5
3183
2,0
1784
3,5
781
8,0
GDP (giá 1994, tỷ đồng)
392898
88870
22,6
34073
2,6
14072
6,3
6220
14,3
Tốc độ tăng trưởng (%)
8,43
12,2
144,7
11,16
1,1
12,3
1,0
13,9
0,9
Thu ngân sách nhà nước
183000
59859
32,7
8706
6,9
5058
11,8
GTSX công nghiệp (giá 1994, tỷ đồng)
416863
116309
27,9
42087
2,8
21589
5,4
8403
13,8
GTSX N – L - NN (giá 1994, tỷ đồng)
137115
2550
1,9
1480
1,7
2267
1,1
676
3,8
Tổng mức bán lẻ hàng hóa (tỷ đồng)
475381
110463
23,2
45000
2,5
11362
9,7
9555
11,6
Tổng kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
32233
12132
37,6
2860
4,2
839
14,5
352
34,5
Nguồn: Niên giám thống kê TP HCM, 2005.
Phụ lục 6:
Bảng 4: Tỷ trọng các ngành nghề có nhu cầu của các doanh nghiệp năm 2008:
Ngành nghề
Tỷ trọng(%)
Công nghệ Thông tin - Viễn thông
9,24
Điện - điện tử - điện công nghiệp - điện lạnh
8,27
Hóa - Hóa thực phầm - Hóa chất - Hóa dầu
3,71
Cơ khí - Xây dựng - Giao thông vận tải - Hàng hải
7,17
Kiến trúc - Thiết kế - In ấn - Bao bì - Xuất bản
8,05
Tài chính - Ngân hàng - Giáo dục đào tạo
9,72
Y khoa - Y tế - Mỹ phẩm
2,45
Quản lý - Quản trị - Hành chánh - Vật tư
7,60
Du lịch - Môi trường - Nhà hàng KS
9,23
Marketing - Dịch vụ - Pháp lý - Phục vụ
8,45
Nông lâm - Ngư nghiệp
0,50
May dệt - Thủ công mỹ nghệ - Bảo vệ - LĐPT
21,86
Các ngành nghề khác
3,75
Tổng cộng
100,00
Phụ lục 7:
Hiện trạng ô nhiễm môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh
Giao thông: Một vấn nạn lớn ở thành phố Hồ Chí Minh là nạn kẹt xe, ô nhiễm và tai nạn giao thông. Qua số liệu của Cục Bảo vệ môi trường thành phố Hồ Chí Minh, có thể nhận định tình hình ô nhiễm môi trường đã đến lúc báo động. Tại TP.HCM có đến 50-60% mô tô, xe máy đang lưu hành không đạt yêu cầu về khí thải. Số liệu do Cục Đăng kiểm Việt Nam cung cấp, năm 2006, cứ 2 người Sài Gòn thì có 1 chiếc xe máy, như vậy TP.HCM có khoảng 3,5 triệu xe máy; gần 2 triệu chiếc trong số đó đang thải lượng khí thải vượt mức cho phép.
Đây chính là tác nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm không khí tại TP.HCM. Hàng loạt chất độc hại như CO, benzen, các hợp chất hữu cơ... đang từng phút, từng giờ được thải ra không khí, nhất là ở những tụ điểm tắc nghẽn giao thông. Trong khi đó, theo thông báo từ Tổng cục Thống kê, lượng xe máy đang có xu hướng tăng mạnh trong năm nay.
Nồng độ CO vào một số thời điểm vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,05 – 1,21 lần. Nồng độ bụi PM10 và ozone tại thành phố Hồ Chí Minh vượt tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Số liệu từ các trạm đo không khí ven đường cho thấy nếu so sánh với các thành phố khác trong khu vực Đông á, thì nồng độ các hạt bụi (nhỏ hơn10 micromét), nồng độ nitrogen dioxide, carbon monoxide tương tự hay cao hơn Bangkok, Manila, Tokyo.
Nồng độ benzene trung bình nằm tại các điểm ven những trục đường giao thông chính ở thành phố Hồ Chí Minh là 33,6 microgam/mét khối, trong khi theo tiêu chuẩn của WHO thì chỉ tiêu này là 5 microgam/mét khối.
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới thì thiệt hại về ô nhiễm không khí ở Thái Lan về kinh tế là mất đi 1,6% tổng sản lượng quốc gia hàng năm, do mất đi những ngày lao động, phí tổn y tế nhập viện, chữa trị. Năm 2001, ô nhiễm bụi đã đưa đến hơn 17.000 ca nhập viện, tốn 6,3 tỉ đô la Mỹ chi phí y tế. Hiện nay chưa có một nghiêm cứu đầy đủ về tác hại của ô nhiễm vào sức khoẻ, kinh tế ở Việt Nam, nhưng ta có thể đoán là con số sẽ không khác nhiều lắm với Thái Lan hiện nay.
Hệ thống chuyên chở công cộng xe buýt đã phát triển từ vài năm nay và hoạt động ở nhiều nơi trên thành phố rất hiệu quả tuy vậy vẫn không đủ để giảm đi số lượng xe cá nhân ở thành phố, nhất là xe gắn máy không ngừng tăng. Mức độ ô nhiễm vì thế sẽ còn gia tăng, nhất là vào những lúc ùn tắc giao thông vì cơ sở hạ tầng không đáp ứng được lưu lượng xe hay vào những lúc trời mưa, đường ngập lụt không tháo nước kịp.
Bụi công trường: ở TP.HCM, các trạm quan trắc đo nồng độ bụi chỉ được đặt ở các nút giao thông mà chỉ số nồng độ bụi đo được đã lên tới 0,57mg/m³, gấp đôi mức cho phép; chủ yếu là bụi lơ lửng, loại bụi người dân dễ hít vào nhất.
Nguồn gốc chủ yếu của bụi lơ lửng chính là các công trường xây dựng, mà tại đây lại “nổi tiếng” có nhiều công trường. Trong 6 tháng đầu năm 2007, có hàng trăm vụ các đơn vị thi công bị Sở Giao thông Công chính TP xử phạt do thi công cẩu thả, tái lập mặt đường nhếch nhác.
Chỉ riêng đường Nguyễn Hữu Cảnh (quận Bình Thạnh) đã có nhiều công trường quy mô lớn: Saigon Pearl, cầu Thủ Thiêm, chỉnh trang khu vực phường 22, gói thầu số 8 kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè…. Và sắp tới là công trường sửa chữa cầu Văn Thánh 2.
Trên công trình lắp đặt đường ống dẫn nước ở xa lộ Hà Nội, phần đường dành cho xe 2, 3 bánh bị đất cát lấn chiếm gần một nửa. Con đường nối xa lộ Hà Nội với cảng Cát Lái thì nhầy nhụa, mỗi xe chở vật liệu xây dựng để lại một phần đất, cát khi đi qua những ổ gà rộng hàng mét...
Còn hàng trăm con đường ở TP.HCM đang chịu cảnh đào đắp khác nhau. Mỗi khi trời nắng, bùn đất khô lại, xe cộ chạy qua là bụi cuốn mịt mù.
Ô nhiễm âm thanh: Tiếng ồn cũng là một trong vô vàn nỗi khổ thời ô nhiễm mà người dân TP.HCM đang phải hứng chịu, đặc biệt ở các trục đường chính như Điện Biên Phủ, Nguyễn Văn Linh, Xa lộ Hà Nội…
Phổ biến nhất là tình trạng còi xe khách, xe tải xin đường trong nội thành. Do các loại xe lưu thông quá gần nhau, cường độ âm thanh của còi xe quá lớn, người điều khiển xe hai bánh dễ bị giật mình lạc tay lái, gây ra tai nạn và ách tắc giao thông. Hậu quả nữa của tiếng ồn mà ít người nghĩ tới, đó là khả năng bị điếc hoàn toàn. Theo số liệu của bệnh viện Tai - Mũi - Họng TPHCM thì khả năng tiếp xúc với cường độ âm thanh thông thường của con người là từ 50-85 dB. Tiếng ồn từ 85-100 dB bắt đầu có hại cho tai (tai bị đau, sức nghe giảm dần). Cao hơn 120 dB có thể làm rách màng nhĩ. Trong khi đó, cường độ âm thanh của tiếng còi các loại xe tải, xe ben, xe khách là 90-150 dB.
Ô nhiễm nước: ở thượng nguồn sông Sài Gòn và sông Đồng Nai có rất nhiều cơ sở công nghiệp và sinh họat chưa được xử lý làm ô nhiễm môi trường nước ở hạ nguồn. Mức ô nhiễm hiện nay là đáng báo động vì có ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống cung cấp nước cho thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây, Công ty Cấp nước Sài Gòn cho biết các cơ sở sản xuất bột ngọt, nhiều hộ nuôi cá bè ở thượng nguồn khu vực Dầu Tiếng, Bình Dương, và huyện Dương Minh Châu, Tây Ninh, làm nước sông Sài Gòn bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt cung cấp cho thành phố. Sông La Ngà và sông Thị Vải, hai phụ lưu chính của sông Đồng Nai, cũng bị ô nhiễm. Đoạn sông Đồng Nai từ cầu Hoá An đến cầu Đồng Nai, nơi có Nhà máy Nước Thủ Đức cung cấp nguồn nước chính cho cư dân thành phố Hồ Chí Minh cuối năm 2005 khi lấy mẫu nước tại Hoá An, xét nghiệm cho thấy nồng độ BOD vượt tiêu chuẩn quy định nguồn nước dành cho sinh hoạt từ 2,9-3,4 lần.
Đáng lo ngại hơn là kết quả phân tích các mẫu bùn lắng trong hệ thống sông, kênh rạch và các mẫu đất tại các khu vực vùng ven, khu vực sản xuất đất nông nghiệp gần đây cho thấy đất đang bị ô nhiễm dầu và kim loại ở mức độ khá nguy hiểm. Nếu không ngăn chặn kịp thời thì chúng sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân, đặc biệt sẽ làm gia tăng các khả năng gây bệnh ung thư.
Đây là một thực trạng đáng lo. Trước nhất là phải thực hiện giám sát chất thải công nghiệp ra sông, các khu công nghiệp phải có phương tiện xử lý chất thải trước khi đổ ra sông. Nói chung, tình hình ô nhiễm môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh trong mấy năm gần đây đã đến mức đáng lo ngại và có chiều hướng xấu đi trong tương lai nếu không có những chính sách và biện pháp cấp bách bảo vệ môi trường được áp dụng triệt để.
Mặt đất biến dạng do ô nhiễm: “Hình thể” của thành phố cũng đang có nguy cơ bị biến dạng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này như san lấp, đắp đôn cao nền xây dựng, biến đổi kết cấu địa tầng… Nhưng tập trung nhất là do việc khai thác nước ngầm với khối lượng lớn (trung bình khoảng 600.000m3 nước/ngày đêm) và diễn ra tràn lan không kiểm soát được đã làm cho một số nơi bị sụt, lún.
Tại các quận Tân Bình, Bình Tân, 11, 6 và huyện Bình Chánh, ngành chức năng đã phát hiện ra tình trạng lún đất mặt, trồi ống giếng khoan… Mực nước ngầm cũng đang cạn kiệt, nhiều nơi mực nước hạ thấp đến trên 30m so với mặt đất và xu hướng này đang tiếp diễn với tốc độ từ 2m đến 3m/năm. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho diện tích nước ngọt thì giảm đi và diện tích nước mặn tăng lên nhanh chóng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20672.doc