MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 3
2.1. Tài liệu nước ngoài. 3
2.2. Tài liệu trong nước 5
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 8
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI 8
4.1. Mục đích: 8
4.2. Nhiệm vụ: 9
5. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 9
5.1. Cơ sở lý luận 9
5.2. Phương pháp nghiên cứu: 9
5.2.1 Nghiên cứu lý thuyết 9
5.2.2.Sử dụng phương pháp quan sát và thực nghiệm sư phạm 10
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN 10
6.1. Ý nghĩa khoa học 10
6.2. Ý nghĩa thực tiễn 10
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 11
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 11
B. PHẦN NỘI DUNG 12
CHƯƠNG I 12
VẤN ĐỀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH GÍA KẾT QUẢ HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT 12
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ 12
1. Cở sở xuất phát 12
1.1. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử 12
1.2. Đặc trưng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông 14
1.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh trong học tập Lịch sử 16
1.4. Phương hướng đổi mới việc hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường THPT 19
2.Thực trạng vấn đề hướng dẫn học sinh tự kiểm tra – đánh giá kết quả học tập ở trường THPT hiện nay. 21
2.1. Đối với giáo viên 21
2.2. Đối với học sinh 25
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT 29
1. Quan niệm về kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá 29
1.1. Khái niệm 29
1.2. Mục đích của kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá 31
1.3. Chức năng của kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá 32
2. Vai trò của việc tự kiểm tra – đánh giá trong học tập 34
2.1. Đối với học sinh 34
2.2. Đối với giáo viên: 35
3. Tự kiểm tra, đánh giá nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh trong học tập. 36
CHƯƠNG II 42
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾN HÀNH TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG HỌC TẬP LỊCH SỬ THẾ GIỚI LỚP 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) Ở TRƯỜNG THPT 42
I. VỊ TRÍ - MỤC TIÊU - NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI LỚP 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN). 42
2.Vị trí 42
3. Mục tiêu 43
3. Nội dung cơ bản của Lịch sử thế giới lớp 10(chương trình chuẩn) 44
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH TRONG HỌC TẬP LỊCH SỬ THẾ GIỚI LỚP 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) Ở TRƯỜNG THPT 47
1. Những yêu cầu xác định các biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử ở trường THPT 47
2. Nội dung và biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử ở trường THPT 51
2.1. Biện pháp giúp học sinh tái hiện những điều đã học 51
2.2. Biện pháp hướng dẫn học sinh tự trả lời những câu hỏi trong giáo trình hoặc tài liệu hướng dẫn học tập. 55
2.3. Làm các bài tập do giáo viên yêu cầu 62
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 69
I. MỤC ĐÍCH, NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM 69
1. Mục đích 69
2. Nguyên tắc 69
3. Phương pháp 69
II. TỔ CHỨC THỰC NGHIỆM 70
1. Thời gian thực nghiệm 70
2. Đối tượng thực nghiệm 70
3. Bài học được chọn biên soạn đề bài thực nghiệm 70
4. Hướng dẫn thực nghiệm 70
5. Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm 70
6. Kết quả thực nghiệm 72
C. KÊT LUẬN 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 1 85
ĐÁP ÁN 90
PHỤ LỤC 2A 95
PHỤ LỤC 2B 97
102 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2738 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường Trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức giải quyết mới mà trước đó học sinh chưa biết. Chức năng quan trọng của bài tập nhận thức là rèn luyện năng lực tích cực, độc lập suy nghĩ khi giải quyết vấn đề nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong quá trình học tập. Bài tập nhận thức có khả năng nâng cao trình độ tư duy, phát triển khả năng lập luận, lí giải cho học sinh. Do đó, không chỉ giúp học sinh khôi phục hình ảnh quá khứ, mà còn đi sâu vào nhận thức bản chất của sự kiện lịch sử. Bài tập nhận thức có nội dung khó hơn, sâu hơn câu hỏi và các loại bài tập khác (trắc nghiệm, thực hành…) đòi hỏi thời gian, công sức, trình độ của học sinh nhiều hơn và tác dụng, kết quả đem lại cũng cao hơn. Việc xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức – bài tập nêu vấn đề trong dạy học lịch sử phải nhằm vào các mục đích tăng cường hoạt động nhận thức tích cực, độc lập, thông minh, sáng tạo của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức, giúp học sinh nắm vững hiểu sâu sắc, đầy đủ hơn hệ thống kiến thức cơ bản của môn học chứ không phải chỉ để ghi nhớ, học thuộc, rèn luyện cho học sinh kĩ năng tư duy, lôgíc (lập luận, lý giải, phân tích, chứng minh, bác bỏ…) trong học tập lịch sử: bồi dưỡng tình cảm đạo đức nói chung, tinh thần chuyên cần trong lao động học tập, thái độ vượt khó…nói riêng. Vì vậy, khi xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức – bài tập nêu vấn đề phải đảm bảo các yêu cầu: Bài tập tập trung vào nội dung cơ bản của bài, của chương hay khoá trình là những điều mới học sinh chưa biết, cần phải giải quyết trong giờ học đó hay quá trình học tập, đòi hỏi học sinh phải tích cực, độc lập làm việc. Bài tập thể hiện nội dung cơ bản của bài học tức là xây dựng bài tập phải bám sát và bộc lộ các điểm mấu chốt, các vấn đề quan trọng, thiết thực do chương trình, sách giáo khoa và thực tế cuộc sông đặt ra qua các bài cụ thể. Hay nói khác đi đó là các vấn đề trọng tâm của mục, của bài được quy định trong chương trình là các vấn đề nhận thức xương sống, cốt lõi để tạo lập hệ thống tri thức. Ví dụ, khi dạy học bài “Cách mạng tư sản Pháp 1789”, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh trao đổi để tạo tình huống có vấn đề, rồi nêu lên vấn đề dưới dạng bài tập nhận thức: Cách mạng Pháp 1789 có điểm gì giống và khác với Cách mạng tư sản Anh 1640 và Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ mà được gọi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản và quần chúng nhân dân trong Cách mạng tư sản Pháp. Giải quyết được các vấn đề này, học sinh sẽ nắm được nội dung cơ bản của bài.
Bài tập về khoa học lịch sử, lý luận dạy học bộ môn và các môn học liên quan bao gồm nhiều dạng: Trình bày, phân tích một vấn đề nêu lên để trao đổi, thảo luận hoặc xêmina, viết thu hoạch, sưu tầm các loại tài liệu (tài liệu dân gian, tài liệu hiện vật, tài liệu thành văn…) tiến hành điều tra thực tế, thống kê, phân tích các kết quả thu được…Các loại tài bài tập được nâng dần theo trình độ của chương trình học, là bước đầu chuẩn bị cho các báo cáo khoa học, niên luận, khoá luận.
Tựu chung lại có một số hình thức bài tập mà học sinh khi học môn Lịch sử nói chung và Lịch sử thế giới nói riêng cần thực hiện trong quá trình học tập để thông qua đó tự kiểm tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng của bản thân trong đó có việc thực hiện các bài tập về nhà.
Bài tập về nhà
Xây dựng và sử dụng các dạng bài tập Lịch sử trong dạy học lịch sử có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hình thành, củng cố tri thức lịch sử cho học sinh. Nó là một trong những biện pháp phát triển các năng lực nhận thức độc lập, trong đó đặc biệt là tư duy độc lập, sáng tạo của các em. Đồng thời, sử dụng các dạng bài tập còn là một hình thức quan trọng để kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Bởi vì, khi hoàn thành các bài tập học sinh sẽ tự nhận thấy những thiếu sót của mình, giáo viên biết được kết quả nắm kiến thức của học sinh.
Bài tập về nhà trong học tập nói chung, học tập lịch sử nói riêng là một trong những phương pháp để phát triển tư duy độc lập của học sinh. Song, bài tập chỉ có hiệu quả khi nó tiếp tục hoàn thiện về hình thành kiến thức, giáo dục tình cảm, đạo đức và phát triển học sinh. Muốn vậy, bài tập về nhà nên tránh bắt các em học thuộc một cách máy móc sách giáo khoa hoặc bài giảng của thầy. Có thể đưa nhiều dạng bài tập về nhà để phát triển hoạt động nhận thức độc lập của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Trong dạy học Lịch sử có thể sử dụng các loại bài tập về nhà như:
Bài tập dưới dạng một câu hỏi tổng hợp: Yêu cầu đối với loại bài tập này không phải là học sinh lặp lại những kiến thức đã tiếp nhận trên lớp mà phải xem xét những sự kiện đã học trong mối quan hệ khác, đòi hỏi phát triển thêm một khía cạnh mới của vấn đề hoặc làm cho kiến thức đã biết thêm sâu sắc, nâng cao trình độ nhận thức ở mức khái quát. Loại bài tập này thường được nêu ra khi học sinh nghiên cứu xong một số bài, hoặc chương.
Bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng thực hành, hệ thống, khái quát hoá kiến thức và vận dụng kiến thức. Loại bài tập này có nhiều hình thức. Bài tập lập niên biểu giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức, ghi nhớ, so sánh các sự kiện để rút ra những dấu hiệu bản chất, sự khác biệt giữa chúng. Tuỳ theo nội dung lịch sử và đối tượgn học sinh mà giáo viên yêu cầu lập bảng thống kê, niên biểu tổng hợp chuyên đề hay so sánh. Thông thường khi kết thúc một chương, phần hay dạy học các bài sơ kết, tổng kết giáo viên có thể sử dụng bảng thống kê hoặc niên biểu tổng hợp. Bài tập vẽ lược đồ, bản đồ nhằm khắc sâu kiến thức, xác định không gian, thời gian sự kiện. Bài tập vẽ sơ đồ, đồ thị…nhằm củng cố, khái quát, khắc sâu kiến thức và phát huy trình độ tư duy của học sinh trong học tập lịch sử. Các loại đồ dùng trực quan quy ước trên có tác dụng rất lớn trong việc phát trỉên tư duy học sinh, giúp các em nắm vững và đi sâu vào bản chất sự kiện.
Bài tập trắc nghiệm khách quan.
Việc đưa ra những bài tập về nhà có chất lượng yêu cầu học sinh phải hoàn thành sẽ giúp các em tự kiểm tra, đánh giá được trình độ của mình, đồng thời giáo viên cũng nắm được trình độ hiểu biết kiến thức, những kĩ năng giải quyết bài tập, thực hành của các em. Song, để có những bài tập chất lượng đòi hỏi giáo viên phải đầu tư, suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo.
Bài tập loại này yêu cầu học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học vào những việc làm cụ thể mà quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông yêu cầu, nhằm rèn luyện kỹ năng thực hành bộ môn. Ví dụ: sử dụng tài liệu tham khảo; sử dụng sách giáo khoa vào việc tiếp thu một bài lịch sử cụ thể… Để giải quyết những các bài tập thực hành bộ môn đòi hỏi học sinh phải:
Nghiên cứu để nắm chắc kiến thức phương pháp học tập và thực hành bộ môn
Tìm hiểu kĩ sách giáo khoa lịch sử phổ thông và các tài liệu tham khảo liên quan đến các bài học
Thảo luận ở tổ hoặc nhóm và trình bày trước tập thể.
Qua những việc làm này, học sinh sẽ tự kiểm tra, đánh giá để hoàn thiện kiến thức của bản thân về lịch sử và các kỹ năng thực hành bộ môn.
Muốn rèn luyện kỹ năng này, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh cần thực hiện:
Tìm đọc tài liệu có liên quan theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Lập đề cương (nếu bài tập có tính chất thực hành cần dự kiến kế hoạch làm).
Viết chi tiết bài tập.
Tập trình bày (phát huy kĩ năng thực hành của bộ môn)
Rèn luyện kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá trong học tập của học sinh trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 ở trường trung học phổ thông, thực chất là giúp hình thành ở học sinh năng lực tự học – chìa khoá vàng của giáo dục, một hình thức tổ chức dạy học cơ bản. Nó góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông, nhằm nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên lịch sử ở trường phổ thông. Song những kỹ năng này không tự đến với người học, mà chúng được hình thành dần dần trong quá trình luyện tập kiên trì và có hệ thống trên cơ sở tính tự giác học tập của học sinh với môn Lịch sử và dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Do vậy, trong học tập học sinh cần có ý thức luyện tập và thường xuyên rèn luyện, còn giáo viên cần phải đặt ra yêu cầu và hướng dẫn học sinh thực hiện.
Trên đây là một số những biện pháp giúp học sinh học tập để tiến hành kiểm tra, đánh giá có hiệu quả trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành, phát triển năng lực tự học của bản thân.
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
MỤC ĐÍCH, NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
Mục đích
Khi đưa các biện pháp nhằm hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra, đánh giá trong học tập phần Lịch sử thế giới lớp 10 trong trường phổ thông nhằm:
Xem xét mức độ phù hợp của những biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập Lịch sử thế giới lớp 10. Sau khi đưa vào thử nghiệm, sẽ lựa chọn được các biện pháp vừa sức với học sinh.
Thực nghiệm chứng minh tính khả thi và ý nghĩa thực tiễn của những biện pháp được đưa ra trong đề tài.
Nhằm so sánh ý nghĩa tích cực của việc sử dụng các phương pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá theo cách thức đổi mới với những biện pháp kiểm tra, đánh giá truyền thống.
Thu thập những ý kiến đề xuất từ phía giáo viên và những hứng thú phản ánh từ phía học sinh về nội dung, hình thức, số lượng kiến thức….trong việc tự kiểm tra, đánh giá kiến thức đã học.
Nguyên tắc
Các bài dùng làm thực nghiệm phải gắn với nội dung chương trình SGK theo qui định của Bộ Giáo dục. Các bài thực nghiệm phải phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với từng loại trường.
Bài thực nghiệm phải đảm bảo chính xác về mặt khoa học. Kết quả thực nghịêm phải được xử lí khoa học đảm bảo tính khách quan, phản ánh đúng được ưu, nhược điểm của các biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá.
Phương pháp
Chọn đối tượng thử nghiệm và địa bàn thử nghiệm.
Đề tài được tiến hành thử nghiệm tại hai trường Tùng Thiện (Thị xã Sơn Tây) và trường thực nghiệm Nguyễn Tất Thành (Hà Nội) là trường lớn, trường điểm. Giáo viên có năng lực và trình độ chuyên môn vững vàng, trong bộ môn Lịch sử có nhiều giáo viên giỏi cấp thị xã và thành phố, học sinh phần lớn có lực học từ trung bình đến khá giỏi còn lực học yếu kém chiếm tỷ lệ thấp.
TỔ CHỨC THỰC NGHIỆM
Thời gian thực nghiệm
Học kì II của năm học 2008-2009 và Học kì I của năm học 2009-2010. Và được tiến hành tuỳ thuộc vào thời gian của Giáo viên trường thực nghiệm.
Đối tượng thực nghiệm
Học sinh lớp 10, chương trình SGK hiện hành theo chuẩn của Bộ Giáo dục.
Bài học được chọn biên soạn đề bài thực nghiệm
Bài 11: Tây Âu thời hậu kì trung đại
Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu Âu và Mĩ giữa thế kỉ XIX
Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân.
Bài 37: Lê – nin và phong trào công nhân Nga đầu thế kỉ XX
Hướng dẫn thực nghiệm
Giáo viên làm đề tài có nhiệm vụ hướng dẫn học sinh cách làm các đề bài thực nghiệm vì các bài kiểm tra có các câu hỏi ở nhiều dạng khác nhau, nhiều dạng học sinh chưa quen thuộc. Hướng dẫn giáo viên và học sinh cách trình bày ý kiến của mình vào bản tổng hợp đánh giá tính hiệu quả của các phương pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá.
Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm được đánh giá ở nhiều khía cạnh khác nhau. Phân chia kết quả làm bài của học sinh theo hai nhóm. Nhóm cao gồm có xấp xỉ 27% của toàn nhóm có điểm số cao nhất và nhóm thấp gồm có số bài tương đương 27% có số điểm thấp nhất.
Ghi số lần trả lời đúng của học sinh trong mỗi nhóm cao và thấp. Cho mỗi lựa chọn của mỗi câu trắc nghiệm theo mẫu dưới đây.
Ví dụ: Câu trắc nghiệm số 2 bài thực nghiệm số 1
Bảng 3.1: Thống kê tần số các câu trả lời đúng của học sinh theo hai nhóm.
Nhóm
Các lựa chọn
Tổng cộng
a
b
c
d
Nhóm cao (27%)
2
12
5
3
20
Nhóm thấp (27%)
3
4
7
6
20
Về mặt định lượng: Chúng tôi sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập đã xây dựng để tiến hành kiểm tra với học sinh khối lớp 10. Nội dung những câu hỏi nhằm đánh giá kết quả học tập của học sinh theo các mức độ:
+ Nhận biết và xác định đúng những kiến thức cơ bản của bài học
+ Rèn luyện kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh.
Về mặt định tính: Chúng tôi quan sát, nhận xét trên các mặt sau:
+ Không khí lớp học.
+ Thái độ, hứng thú học tập của học sinh.
+ Tổng hợp ý kiến của giáo viên tham gia thực nghiệm.
Đánh giá tính ứng dụng, tính tích cực của các nội dung kiểm tra có sự hướng dẫn của giáo viên với nội dung kiểm tra không có biện pháp hướng dẫn của giáo viên cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá được trình bày trong đề tài tôi tiến hành thực nghiệm song song hai dạng đề bài, một dạng theo phương pháp truyền thống và một dạng theo phương pháp đổi mới cùng với việc thu thập thông tin và lấy ý kiến từ giáo viên, học sinh trong suốt quá trình nghiên cứu nhằm đánh giá tính khả thi và ý nghĩa, giá trị của các biện pháp hướng dẫn của giáo viên giúp cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá việc lĩnh hội kiến thức Lịch sử tại các trường trung học phổ thông hiện nay.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, tôi đã tiến hành biên soạn đề bài kiểm tra học kì II môn Lịch sử thế giới sau khi học sinh học xong chương III “Phong trào công nhân (từ đầu thế kỉ XIX đến đầu XX) cho lớp thực nghiệm và lớp đối chứng có cùng nội dung.
Trước khi tiến hành thực nghiệm, đề kiểm tra đã được trao đổi, thảo luận với giáo viên dạy thực nghiệm và các giáo viên dạy bộ môn.
Nội dung và phương pháp tiến hành cụ thể từng tiết kiểm tra (xem phần phụ lục).
6. Kết quả thực nghiệm
Sau khi dạy xong hai lớp thực nghiệm và đối chứng, chúng tôi tiến hành điều tra tâm lý và trắc nghiệm kết quả thực nghiệm:
Lóp
Số học sinh
Loại giỏi
9 – 10
Loại khá
7 - 8
Loại TB
5 - 7
Loại yếu
< 5
Thực nghiệm
45 (100%)
67%
33%
0%
0%
Đối chứng
47(100%)
40%
60%
0%
0%
Bài kiểm tra của lớp thực nghiệm: Bài kiểm tra của lớp thực nghiệm bao gồm các câu hỏi trắc nghiệm khách quan kết hợp với câu hỏi tự luận, các câu hỏi này đảm bảo độ khó. Số lượng câu hỏi được phân bố theo từng nội dung được đánh giá. Bài kiểm tra của lớp thực nghiệm gồm 1 câu hỏi tự luận và 7 bài trắc nghiệm khách quan. Tuy nhiên, với sự hướng dẫn của giáo viên kết quả cho thấy mức độ biết, hiểu và vận dụng những kiến thức lịch sử đã học của học sinh khá cao, hầu hết đạt yêu cầu đề ra của đề bài, qua đó cho thấy học sinh nắm kiến thức vững, chắc, rèn luyện được những kĩ năng thực hành bộ môn, đáp ứng được mục tiêu đề ra về mặt giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. (xem phục lục 2A)
Bài kiểm tra của lớp đối chứng: Với cùng một đề bài kiểm tra nhưng áp dụng cho lớp dạy đối chứng tức là học sinh trả lời những câu hỏi trong bài kiểm tra mà không có sự hướng dẫn ôn tập của giáo viên từ trước, học sinh hoàn toàn bị động và làm theo cách nhớ và học bài bằng cách học thuộc lòng bài giảng của giáo viên và những nội dung trong sách giáo khoa. Trong lớp học đối chứng, học sinh không được giáo viên hướng dẫn những biện pháp tự kiểm tra, đánh giá như: lập dàn ý kiến thức cơ bản những bài đã học, tự trả lời những câu hỏi trong sách giáo khoa, những câu hỏi do giáo viên yêu cầu và làm những bài tập về nhà phù hợp với nội dung bài học. Vì vậy, khi làm bài kiểm tra này học sinh bên lớp học đối chứng tỏ ra khá lúng túng, bị động, mức độ biết, hiểu và vận dụng, kĩ năng thực hành bộ môn đạt kết quả không như ý, chỉ ở mức độ trung bình và khá. Điều này cho thấy sự vận dụng linh hoạt những biện pháp hướng dẫn của giáo viên giúp cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử đã đạt được những kết quả nhất định, có giá trị cả về lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong trường phổ thông hiện nay.
Qua phân tích nội dung của bài kiểm tra lịch sử của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng có thể thấy rằng những biện pháp hướng dẫn của giáo viên giúp học sinh tiến hành tự kiểm tra, đánh giá trong việc lĩnh hội kiến thức phát huy những tác dụng rõ rệt. Bằng những biện pháp hướng dẫn cụ thể của giáo viên, học sinh lĩnh hội kiến thức lịch sử đã học nhanh hơn, nắm vững hơn và đặc biệt gây được những hứng thú của học sinh đối với môn học, từ đó hình thành rõ rệt hơn khả năng tự học của học sinh không chi với môn Lịch sử mà với tất cả các môn học khác trong trường phổ thông. Qua công tác thực nghiệm, chúng tôi trao đổi với trực tiếp với các giáo viên bộ môn và các giáo viên khác thấy rằng phần lớn các giáo viên đều cho việc sử dụng các biện pháp hướng học sinh tự kiểm tra, đánh giá này rất hay và hiệu quả về nhiều mặt. Ưu điểm lớn nhất là thái độ hứng thú học tập của các học sinh, phát huy năng lực nhân thức và thái độ học tập của các em, phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh.
C. KÊT LUẬN
Cho tới hiện tại đã có nhiều công trình nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá nói chung và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh trong việc học tập Lịch sử ở trường phổ thông nói riêng. Mỗi một đề tài đã đóng góp một phần vào việc giải quyết những khó khăn, tồn tại cũng như đưa ra được một số những giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề tồn tại của kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá.
Với đề tài: “Hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra, đánh giá trong học tập Lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường trung học phổ thông” đã góp phần bổ sung vào việc đổi mới hệ thống phương pháp dạy học Lịch sử nói chung và cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh phù hợp với yêu cầu đổi mới của quá trình dạy học hiện nay. Đề tài đã thu được kết quả sau:
Giảm tải được việc học sinh học vẹt, ghi nhớ kiến thức Lịch sử một cách máy móc không có hệ thống, hình thành ở học sinh phổ thông những kĩ năng học tập với bộ môn và phát huy năng lực cũng như khả năng nhận thức độc lập, sáng tạo của học sinh. Từ đó hình thành ở học sinh phương pháp học tập đúng đắn, chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức và biết cách trình bày những vấn đề khoa học. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng cho học sinh trong những cấp học tiếp theo.
Sắp xếp một cách có hệ thống cũng như làm rõ, cụ thể hoá một số vấn đề về cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến kiểm tra, đánh giá của giáo viên và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh. Đề tài cũng nhận thấy những quan điểm đổi mới các phương pháp, biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong việc lĩnh hội kiến thức được trình bày trong đề tài là thiết thực đối với giáo viên, học sinh phổ thông.
Đề tài cũng đã xây dựng được một hệ thống các biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả lĩnh hội kiến thức dựa trên mục đích yêu cầu và nội dung đánh giá kết quả học tập của từng bài, từng chương. Đồng thời, đề tài cũng đưa ra được các bước, các nguyên tắc, những điều kiện để giáo viên tiến hành hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả lĩnh hội kiến thức của mình. Những biện pháp này đều được tiến hành thực nghiệm trong thực tế tại các trường phổ thông để xác minh tính hiệu quả và tính ứng dụng trong việc dạy và học môn Lịch sử tại các trường phổ thông hiện nay. Thông qua hoạt động thực nghiệm những biện pháp được tiến hành từng phấn đến toàn phần để khẳng định việc tự kiểm tra, đánh giá của học sinh trong học tập môn Lịch sử ở trường phổ thông có thể làm được và làm tốt, nó có tác dụng rất lớn trong công tác giảng dạy của giáo viên và việc hình thành ý thức học tập tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
Việc kiểm tra, đánh giá là công việc hết sức cần thiết và quan trọng trong nhà trường phổ thông, nó không những giúp giáo viên đánh giá được năng lực của học sinh mà còn có tác dụng rất lớn với việc rèn luyện tư tưởng, đạo đưac cho học sinh. Nếu biết tiến hành những biện pháp hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra, đánh giá theo đúng yêu cầu, giáo viên sẽ bồi dưỡng cho học sinh ý thức, thái độ, động cơ học tập đúng đắn, thói quen làm việc có hệ thống, có kế hoạch, tinh thần kỷ luật và tự giác trong học tập, lao động, góp phần xây dựng và hình thành, phát triển nhân cách cho học sinh.
Để khắc phục thực tiễn chưa tốt trong kiểm tra, đánh giá học sinh cũng như hoạt động tự kiểm tra, đánh giá của học sinh hiện nay còn nhiều hạn chế, cùng với mục đích mong muốn góp phần cải tiến phương pháp kiểm tra, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ mô Lịch sử trong nhà trường phổ thông, chúng tôi nêu một số kiến nghị sau:
Trên cơ sở lí luận dạy học hiện đại và những kinh nghiệm tiến tiến trong thực tế cho rằng, để đổi mới việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của học sinh cần vận dụng một số biện pháp. Thứ nhất là phải có quan niệm đúng về kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập của học sinh. Bởi vì hiểu đúng vấn đề đặt ra mới có việc làm đúng, tránh được những sai phạm đáng tiếc xảy ra. Đó là, phải nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá là một trong những biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Điều này phải được quán triệt từ các cấp quản lí giáo dục, quản lí chuyên môn (Bộ - Sở, lãnh đạo các trường phổ thông) đến từng giáo viên. Trên cơ sở quan niệm đúng, cơ quan chuyên môn của Bộ Giáo Dục – Đào tạo, Sở giáo dục – đào tạo phải xây dựng các quy đinh, quy chế về kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập lịch sử của học sinh nói riêng, các bộ môn nói chung. Để hoạt động kiểm tr, đánh giá có hiệu quả, ban giám hiệu các trường phổ thông và giáo viên bộ môn phải thực hiện nghiêm túc những quy chế chuyên môn về kiểm tra, đánh giá mà Bộ, Sở đã đưa ra. Cần phải tránh việc chạy theo thành tích làm cho kết quả kiểm tra, đánh giá không đảm bảo độ tin cậy và tính giá trị. Thứ hai, phải đảm bảo tính toàn diện trong nội dung kiểm tra, đánh giá. Mục đích của nhà trường phổ thông là đào tạo những con người phát triển toàn diện, hài hoà, năng động, sáng tạo. Do đó, khi kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo được tính toàn diện về kết quả bồi dưỡng nhận thức, giáo dục và phát triển học sinh. Đối với mặt kiến thức, tính toàn diện là phải kiểm tra, đánh giá cả việc biết, hiểu và vận dụng kiến thức của học sinh. Kiểm tra học sinh biết lịch sử, tức là đòi hỏi học sinh phải ghi nhớ, tái hiện được các sự kiện, hiện tượng, khái niệm thuật ngữ, quy luật, bài học lịch sử cơ bản đã học. Khi giáo viên đưa ra các câu hỏi, học sinh phải nhớ lại và tái hiện được những sự kiện, hiện tượng…đã nghiên cứu. Từ nhớ, biết sự kiện, việc kiểm tra, đánh giá phải giúp học sinh đạt được mức độ nhận thức cao hơn, đó là hiểu. Hiểu bao gồm cả biết, đòi hỏi học sinh phải biết được ý nghĩa bản chất của tri thức lịch sử, thấy được mối liên hệ bên ngoài, bên trong giữa các sự kiện, hiện tượng, có khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá, phán đoán, suy luận để rút ra kết luận. Như vậy, hiểu đòi hỏi học sinh nắm kiến thức ở mức độ cao hơn nhận biết do trí nhớ đưa lại, có quá trình suy luận phức tạp trước nguyên lí, mối liên hệ, quy luật…Học sinh có thể chứng tỏ sự hiểu biết của mình bằng khả năng giải thích các mối liên hệ nhân quả của các sự kiện lịch sử. Bên cạnh xem xét mặt kiến thức, giáo dục, nội dung của kiểm tra, đánh giá phải nhằm phát triển kĩ năng thực hành cho học sinh. Hành trong học tập lịch sử bao gồm thực hành bộ môn và cao hơn là “hành” trong cuộc sống. Kiểm tra, đánh giá kĩ năng thực hành bộ môn lịch sử thể hiện ở việc yêu cầu học sinh làm các loại đồ dùng trực quan: vẽ bản đồ, lập niên biểu, bảng thống kê…kĩ năng thực hành cao hơn là yêu cầu học sinh hoàn thành những việc công ích xã hội (tham gia sưu tầm, biên soạn lịch sử địa phương, xây dựng nhà truyền thống…). Thực hiện công việc này không chỉ giúp học sinh củng cố kiến thức lịch sử dân tộc, hiểu sâu sắc lịch sử địa phương, mà còn làm cho các em càng yêu quê hương mình hơn và biết cách sưu tầm tư liệu, trình bày một vấn đề lịch sử. Thứ ba, phải đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đaáh giá trong quá trình học tập lịch sử của học sinh, trong đó có kết hợp chặt chẽ hoạt động kiểm tra, đánh giá của giáo viên với phát triển hoạt động tự kiểm tra, đánh giá của học sinh. Các nhà giáo dục và giáo dục lịch sử đã khẳng định rằng dạy học ở trường phổ thông nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là một quá trình thống nhất giữa hoạt động dạy của thầy và học của học sinh. Đây là một quá trình hoạt động luôn luôn thay đổi và phát triển. Trung tâm điều khiển là giáo viên, đối tượng điều khiển là học sinh, giữa trung tâm và đối tượng luôn có mối liên hệ hai chiều xuôi, ngược. Trong quá trình học tập, học sinh thu được hai tín hiệu ngược trong là nhờ kết quả tự kiểm tra, đánh giá và kiểm tra, đánh giá do giáo viên tiến hành. Do vậy, học sinh cần tận dụng việc kiểm tra, đánh giá của thầy, đồng thời tiến hành có hệ thống việc tự kiểm tra, đánh giá của bản thân để củng cố và hiểu sâu sắc kiến thức như tái hiện những kiến thức lịch sử đã học và tập trình bày cho bản thân hay người khác nghe theo các công việc: tự lập hoặc nhớ lại những dàn ý bài đã học, hình dung nhớ lại những sự kiện, hiện tượng, khái niệm…theo dàn ý đã cấu tạo; tự trình bày hoặc trao đổi với bạn. Tự trả lời những câu hỏi trong sách giáo khoa là một trong những hình thức tiến hành tự kiểm tra, đánh giá của học sinh như xác định được yêu cầu của câu hỏi, xác định nội dung trả lời có trong sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, dự kiến câu trả lời dưới dạng dàn ý, tái hiện những kiến thức liên quan để trả lời. Ngoài ra, học sinh phải hoàn thành các bài tập do giáo viên nêu ra. Đây là hoạt động tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của các em một cách tốt nhất. Muốn vậy, học sinh cần: xác định được yêu cầu của bài tập, nghiên cứu lại sách giáo khoa hoặc tài liệu tham khảo (nếu cần) theo sự hướng dẫn của giáo viên; làm bài tập (nếu các câu hỏi tự luận cần lập đề cương). Và cuối cùng là tăng cường các bài tập về nhà có chất lượng. Việc xây dựng và sử dụng các dạng bài tập lịch sử trong dạy học lịch sử có vai trò quan trọng đối với quá trình hình thành, củng cố tri thức lịch sử cho học sinh. Nó là một trong những biệ pháp phát triển các năng lực nhận thức độc lập, trong đó đặc biệt là tư duy độc lập, sáng tạo của các em. Đồng thời, sử dụng các dạng bài tập còn là hình thức quan trọng để kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Bởi vì khi hoàn thành các bài tập học sinh sẽ tự nhận thấy những thiếu sót của mình, giáo viên biết được kết quả nắm kiến thức của học sinh. Và cuối cùng là tổ chức tốt các khâu ra đề, coi và chấm kiểm tra, thi. Trên đây là những gợi ý về các con đường, biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông trong đó có cả những biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá. Giáo viên cần nắm vững lí luận và căn cứ vào điều kiện cụ thể của nhà trường, địa phương, đối tượng học sinh vận dụng linh hoạt, sáng tạo để đạt kết quả cao nhất.
Tóm lại, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong xu thế mở cửa, hội nhập với thế giới và khu vực hiện nay, để không hoà ta trong thế giới có nhiều quốc gia phát triển hơn ta, đòi hỏi phải tăng cường giáo dục truyển thống, bản sắc dân tộc cho thế hệ trẻ. Bộ môn Lịch sử có ưu thế đặc biệt trong vấn đề này. Bởi vì, những việc thực, con người sinh động cụ thể của quá khứ không chỉ có tác động tới trí tuệ, mà cả trái tim của học sinh. Song, thực tiễn dạy học ở trường phổ thông hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu này. Vì vậy, muốn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ bồi dưỡng nhận thức, giáo dục và phát triển học sinh, phải nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
Có nhiều con đường - biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn lịch sử ở trườg phổ thông. Kết quả của công việc này đạt đến mức độ như thế nào còn phụ thuộc nhiều vào sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt của giáo viên trong việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp dạy học. Điều này, đòi hỏi giáo viên Lịch sử không chỉ nắm chắc chuyên môn lịch sử, lí luận dạy học bộ môn, có kiến thức văn hoá chung, vốn sống thực tê, mà cả sự nồng hậu của trái tim. Chị có thật sự yêu nghề, yêu trẻ, giáo viên mới vượt qua những khó khăn, gặp phải và thực hiện tốt nhiệm vụ “trồng người” của mình.
Sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người chủ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Do đó, để nâng cao hiệu quả dạy học ở phổ thông nói chung, môn lịch sử nói riêng, ngoài vai trò đặc biệt của giáo viên còn cần sự hỗ trợ, tạo điều kiện, cộng tác của nhiều cơ quan, các cấp, các ngành và toàn xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Ngọc Bảo, “Phát biểu tính tích cức, tự lực của học sinh trong quá trình dạy học (tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên phổ thông trung học)”. Vụ giáo viên Bộ giáo dục – đào tạo, Hà Nội – 1995.
Nguyễn Đình Chỉnh, Kiểm tra – đánh giá học tập của học sinh – Hà Nội, 1995.
Nguyễn Thị Côi, Đổi mới việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông (Tài liệu Hà Nội đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn Lịch sử ở trung học phổ thông và trung học cơ sở, Hà Nội T11/ 1999
N.G. Đairi: “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào?” – Nxb Giáo Dục, 1973.
Nguyễn Thị Côi (chủ biên): Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử, ĐHSPHN, 1995.
Nguyễn Thị Côi - Phạm Thị Kim Anh: Hướng dẫn học sinh làm bài tập Lịch sử - NKGD, số 6, 1994.
Nguyễn Thị Côi - Nguyễn Hữu Chí: Bài học Lịch sử và việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh ở trường phổ thông trung học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1999.
Nguyễn Thị Côi - Nguyễn Tiến Hỷ - Trần Bá Đệ - Trịnh Đình Tùng - Đặng Thanh Toán: Hướng dẫn ôn tập và làm bài thi môn Lịch sử, Nxb ĐHQG, Hà Nôi, 1998.
Hà Thị Đức: Cơ sở lí luận thực tiễn và hệ thống những biện pháp đảm bảo tính khách quan trong quá trình của kiểm tra – đánh giá tri thức của học sinh sư phạm, Luận án PTS, Hà Nội, 1986.
Hà Thị Đức: Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở Đại học, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 4-1995.
Phạm Văn Đồng: Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực - một phương pháp vô cùng quý báu, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 12 – 1994.
Phạm Văn Đồng: Đào tạo thê hệ trẻ của dân tộc thành người chiến sỹ thông minh sáng tạo, Nxb Giáo dục 1998.
Danilop M.A.Xkatkin M.N: Lí luận dạy học ở trường phổ thông, Nxb Giáo Dục, 1998.
Phó Đức Hoà: Xây dựng quy trình đánh giá tri thức của học sinh tiểu học, Luận án PTS, 1996.
Đặng Vũ Hoạt – Hà Thị Đức, Lí luận dạy học đại học, Hà Nội, 1994.
Đặng Vũ Hoạt, Một số vấn đề kiểm tra – đánh giá học sinh, Lý luận dạy học, Tập 2, Hà Nội, 1981.
Trần Bá Hoành, Đánh giá trong giáo dục, BGĐT, Hà Nội, 1991.
Trần Kiều, Đổi mới đánh giá-Đòi hỏi bức thiết của đổi mới phương pháp dạy học, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 5, 1995.
Nguyễn Kỳ, Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm, Nxb Giáo dục, 1995.
Trang Thị Lân, Việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 5, 1998.
Phan Ngọc Liên - Trịnh Đình Tùng - Nguyễn Thị Côi, Phương pháp dạy học Lịch sử, tập I-II, ĐHSP Hà Nội, 2002.
Phan Ngọc Liên (chủ biên) – Trịnh Đình Tùng - Nguyễn Thị Côi, Phương pháp luận sử học, tập I,II, ĐHSP Hà Nội, 2002.
Phan Ngọc Liên, Thiết kế bài giảng Lịch sử ở trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
Phan Ngọc Liên - Nguyễn Thị Côi - Đặng Văn Hồ, Phương pháp học tập và nghiên cứu Lịch sử, Nxb Đại học Huế, 1997.
Phan Ngọc Liên, Thiết kế bài giảng Lịch sử ở trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
Đức Minh, Một số vấn đề lý luận về kiểm tra – đánh giá học sinh, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 36, 1975.
Hồ Chí Minh, Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, 1972.
Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980.
Trần Kim Ngọc, Việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học viên ở trung tâm giáo dục thường xuyên, Tạp chí nghiên cứu Giáo dục 12, 2000.
Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, Giáo dục học, tập I, Nxb Giáo dục, 1987.
T.A.Ilina, Giáo dục học tập II.
Thái Duy Tuyên, Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 2, 1996.
Trịnh Đình Tùng, Mấy biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục của bài học Lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 4, 1998.
I.Lecne, Dạy học nêu vấn đề, Nxb Giáo dục, 1979.
I.Lecne, Phát triển tư duy học sinh trong dạy học Lịch sử, Nxb Giáo dục, 1982.
Lê Đức Phúc, Cơ sở lí luận của việc đánh giá trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, Đề tài B94-37-42, Viện khoa học giáo dục.
Phạm Viết Vượng, Giáo dục học đại cương, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1996.
Nghiêm Đình Vì - Trịnh Đình Tùng, Một vài suy nghĩ về đổi mới nội dung giảng dạy Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 5, 1991.
Hội Giáo dục và khoa học Lịch sử, Khoa Sử trường ĐHSP, Đổi mới việc dạy học Lịch sử “lấy học sinh làm trung tâm”, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1996.
Văn kiện Hội nghị lần thứ II BCHTW khoá VIII (02 – NQ/HNTW, 14/01/93).
Văn kiện Hội nghị lần thứ IV BCHTW khoá VII (04 – NQ/HNTW, 24/12/96). Nxb Chính trị quốc gia, 1997.
Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
Sách giáo khoa Lịch sử lớp 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
N.V. Savin, Giáo dục học tập I, Nxb Giáo dục.
Luật Giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
Trần Minh Hằng, Cải tiến việc kiểm tra, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Sư phạm, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 06, 1998.
Nguyễn Cảnh Toàn, Thế nào là dạy giỏi ở thời đại ngày nay, Tập chí Dạy và Học ngày nay, số 4, 2004.
Phạm Văn Đồng, Cần vũ trang cho mình một phương pháp học tập tốt nhất để học giỏi, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 10, 1970.
Hoàng Văn Huyên, Vì sao chưa phát huy tinh thần chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 12, 1979.
Phan Quốc Chấn, Nâng cao chất lượng giờ học ở nhà của học sinh phổ thông, Tạp chí nghiên cứu Giáo dục, số 9, 1970.
Đào Lan Hương, Vị thế và sự tự đánh giá thái độ học tập của sinh viên, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 10, 1999.
Trần Sinh Thành, Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học, Tạp chí Giáo dục, số 9, 1999.
Hoàng Mạnh Kha, Tổ chức tốt việc tự học của học sinh, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 3, 1981.
Trần Kiều, Đổi mới đánh giá – đòi hỏi bức thiết của đổi mới phương pháp dạy học, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 11, 1995.
Thái Văn Long, Khơi dậy và phát huy năng lực tự học sáng tạo của người học trong giáo dục, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 9, 1999.
Nguyễn Văn Lê, Một số ý kiến vể cải tiến công tác đánh giá, thi tuyển, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 1, 1995.
Trần Bá Hoành, Phát triển trí sáng tạo của học sinh và vai trò của giáo viên, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 9, 1999.
Vũ Gia Khánh, Về nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 11, 1995.
Lê Văn Thảo, Vị trí và vai trò của việc kiểm tra học tập trong nhà trường, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 6, 1997.
Phan Trọng Luận, Tự học - một chìa khoá vàng của giáo dục, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 2, 1998.
Nguyễn Anh Thái, Một vài suy nghĩ về giảng dạy lịch sử Thế giới ở các trường phổ thông và đại học trong bối cảnh hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6, 1991.
Trang Thị Lân, Về việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 5, 1998.
Hoàng Thanh Tú, Một số kĩ thuật kiểm tra, đánh giá vận dụng trong dạy học Lịch sử, Tạp chí Giáo dục, số 156, 2007.
PHỤ LỤC 1
Đề bài kiểm tra học kì II môn Lịch sử thế giới sau khi học sinh học xong chương III “Phong trào công nhân (từ đầu thế kỉ XIX đến đầu XX) cho lớp thực nghiệm và lớp đối chứng có cùng nội dung.
Đề bài thực nghiệm
(Thời gian làm bài 45 phút)
Họ và tên………..lớp 10A Trường THPT Tùng Thiện
Đề bài
Phần 1: Trắc nghiệm khách quan
Câu I: Hãy khoanh tròn chỉ duy nhất một chữ in hoa ở câu trả lời đúng:
Điều kiện cho phép các cuộc phát kiến địa lý có thể tiến hành trong các thế kỷ XV-XVI là
Thương nhân châu Âu đã có nhiều hiểu biết về khoa học và trái đất
Khoa học và kĩ thuật hàng hải đã có nhiều tiến bộ (hiểu biết về địa lý, về đại dương, sử dụng la bàn).
Kỹ thuật đóng tàu của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có nhiều tiến bộ, có thể vượt được đại dương
Cả B và C đều đúng
Phát kiến địa lý là
Sự phát hiện về mặt địa lý
Quá trình đi tìm vàng bạc, hương liệu quý cho bọn vua chúa phong kiến
Quá trình đi tìm những con đường mới, vùng đất mới, dân tộc mới của người châu Âu
Cách thức đi tìm những con đường mới của lãnh chúa phong kiến
3. Em hãy hoàn thành bảng niên biểu về một số cuộc phát kiến địa lý tiêu biểu theo mẫu cho sẵn dưới đây:
Stt
Thời gian
Người tiến hành phát kiến địa lý
Quốc gia
Hướng đi
Kết quả chính đạt được
1
1487
Đi-a-xơ
2
Cô-lôm-bô
3
1497
Va-xcô đơ Ga-ma
4
Ma-gien-lan
Câu II: Hoàn thành các câu sau đây:
Người lãnh đạo quá trình thống nhất nước Đức là……..
Người lãnh đạo quá trình thống nhất nước Italia là………
Cuộc nội chiến ở Mỹ còn được gọi là…………………..
Đảng có chủ trương giải phóng nô lện da đen ở Mỹ là đảng..
Lễ thành lập Đế chế Đức được thành lập tại……………
Khẩu hiệu thống nhất đất nước của Bix-mac là………..
Câu III: Hãy nối các sự kiện phù hợp với nội dung theo bảng dưới đây
Thời gian
Nội dung sự kiện
1. 1859
a. Lin-con kí sắc lệnh bãi bỏ chế độ nô lệ
2. 1864
b. Nội chiến ở Mỹ bắt đầu
3. 1861
c. Phổ gây chiến với Áo
4. 1863
d. Nội chiến Mỹ kết thúc
5. 1865
e. Quá trình thống nhất nước Italia bắt đầu
6. 1866
f. Quá trình thống nhất nước Đức bắt đầu
7. 1867
g. Bix-mác chính thức trở thành Thủ tướng nước Đức
8. 1870
h. Liên bang Đức ra đời
9. 1871
i. Phổ gây chiến với Pháp
Câu IV: Hãy khoanh tròn chỉ một chữ in hoa đứng trước câu trả lời đúng
“Sống trong lao động hoặc chết trong chiến đấu” là khẩu hiệu xuất hiện trong cuộc đấu tranh
Khởi nghĩa Li-ông
Phong trào Hiến chương
Khởi nghĩa Sơ-lê-din
Phong trào đập phá máy móc
Hạn chế lớn nhất của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng là
Chưa đấu tranh bảo vệ quyền lợi giai cấp vô sản mà mới chỉ đòi quyền lợi cho giai cấp tư sản
Chưa đánh giá đúng vai trò của giai cấp công nhân
Chưa nhận thức đúng bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản
Chưa xác định đúng phương pháp đấu tranh mặc dù xác định đúng vai trò của giai cấp công nhân
Câu V: Hãy điền đúng (Đ) hay Sai (S) vào ô trống trong các câu sau đây:
Cuộc khởi nghĩa Li-ông nổ ra năm 1830
Phong trào Hiến chương ỏ Anh mới chỉ dừng lại ở đòi quyền lợi kinh tế
Chủ trương đi đến chủ nghĩa xã hội của R. Ô-oen là tuyên truyền , thuyết phục và nêu gương
S.Phu-ri-ê là người Anh
Hình thức đấu tranh đầu tiên của giai cấp công nhân là đập phá máy móc
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là tiền đề của triết học Mác
Xanh-xi-mông vốn là một thương gia ở Pháp
Công nhân Sơ-lê-din khởi nghĩa năm 1844
Nguồn gốc cuat giai cấp công nhân chủ yếu là nông dân mất đất và thợ thủ công phá sản
S.Phu-ri-ê đã từng tình nguyện sang Bắc Mỹ chiến đấu giúp nhân dân thuộc địa Anh đấu tranh giành độc lập
Câu VI: Hãy khoanh tròn chỉ một chữ in hoa đứng trước câu trả lời đúng
Tổ chức “Đồng minh những người chính nghĩa” đổi tên thành “Đồng minh những người cộng sản” vào:
Tháng 5-1847
Tháng 7-1847
Tháng 6-1847
Tháng 8-1847
Dưới đây là mốc thời gian liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của C.Mác và Ph. Ăng-ghen. Hãy điền nội dung phù hợp với các mốc thời gian đó:
1818…………………………
1820…………………………
1841…………………………
1842…………………………
1844………………………….
1847…………………………
1848……………………………..
Câu VII: Hãy nối nội dung ở cột A với nội dung ở cột B thành một câu hoàn chỉnh, có nghĩa trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
A
B
1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là
a. Giai cấp công nhân phải thành lập chính đảng của mình, thiết lập nền chuyên chính vô sản và đoàn kết các lực lượng công nhân trên thế giới
2. Muốn thực hiện thành công cuộc cách mạng vô sản
b. Dùng bạo lực để lật đổ trật tự xã hội hiện có và kêu gọi quần chúng đứng lên làm cách mạng.
3. Mục đích của những người cộng sản là
c. Lãnh đạo cuộc đấu tranh chống sự thống trị và áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa
4. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản
d. Xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới
5. Mục tiêu cuối cùng của những người cộng sản là
e. Đánh dấu bước đầu kết hợp chủ nghĩa xã hộ khoa học với phong trào công nhân
Câu VIII: Hãy trình bày những nét lớn về nguyên nhân, diễn biến và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Nga 1905 – 1907.
ĐÁP ÁN
Đối với lớp thực nghiệm, nội dung các câu hỏi kiểm tra chủ yếu xoay quanh bốn bài: bài 11, bài 33, bài 36 và bài 37 trong chương trình sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 chuẩn của Bộ giáo dục. Hầu hết những nội dung này trước khi tiến hành kiểm tra chúng tôi tiến hành bàn bạc, thảo luận với giáo viên bộ môn tiến hành hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá việc tiếp thu kiến thức của từng bài qua mỗi tiết học như: giáo viên hướng dẫn học sinh lập dàn ý những kiến thức cơ bản cần nắm theo sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, giúp học sinh tự trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa (thường ở cuối mỗi nội dung hoặc cuối mỗi bài học đều có câu hỏi bám sát với nội dung trong sách giáo khoa). Và giáo viên cũng hướng dẫn học sinh tự làm các bài tập về nhà theo yêu cầu của giáo viên hoặc học sinh cũng có thể tự đặt ra câu hỏi liên quan đến nội dung của bài học rồi tự lập dàn ý những kiến thức có sẵn (trong dàn ý kiến thức cơ bản do học sinh đã lập, hoặc trong sách giáo khoa, tài liệu tham khảo) để trả lời những bài tập về nhà do giáo viên yêu cầu hoặc những câu hỏi do tự mình đặt ra. Do vậy, kiến thức mà học sinh nắm được khá vững, khơi dậy được hứng thú, yêu thích của học sinh với môn học và giúp cho học sinh rèn luyện được những kĩ năng thực hành của bộ môn. Sau đây là đáp án:
Câu I:
Đáp án D
Đáp án C
Đáp án theo bảng sau:
Stt
Thời gian
Người tiến hành phát kiến địa lý
Quốc gia
Hướng đi
Kết quả chính đạt được
1
1487
Đi-a-xơ
Bồ Đào Nha
Dọc theo phía Nam của lục địa châu Phi
Tới cực Nam châu Phi, đặt tên là mũi Bão Tố, sau gọi là mũi Hảo Vọng
2
1492
Cô-lôm-bô
Tây Ban Nha
Hướng Tây
Đến được vùng đất Cuba ngày nay và một số đảo khác ở vùng Ăng-ti, nhưng lầm tưởng đây là miền “đông Ấn Độ”. Ông là người đầu tiên phát hiện ra châu Mĩ
3
1497
Va-xcô đơ Ga-ma
Bồ Đào Nha
Hướng Tây Nam
Đến được Can-li-cut(Tây Nam Ấn Độ) rồi quay trở về
4
1480-1521
Ma-gien-lan
Tây Ban Nha
Vòng qua điểm cực Nam của Nam Mỹ
Tới cực Nam của Nam Mỹ tiến qua đại dương và đặt tên đó là Thái Bình Dương. Ông tiếp tục cuộc hành trình tới Phi-lip-pin và là người đầu tiên đi vòng quanh trái đất bằng đường biển
Câu II:
Bix-mác
Ca vua và Ga-ri-ban-di
Chiến tranh li khai
Cộng hoà
Véc-xai
Sắt và máu
Câu III:
1 – e; 2 – f; 3 – b; 4 – a; 5 – d; 6 – c; 7 – h; 8 – i; 9 – g
Câu VI:
Đáp án A
Đáp án B
Câu V:
Sai
Sai
Đúng
Sai
Đúng
Sai
Sai
Đúng
Đúng
Sai
Câu VI:
Đáp án B
2 - Trả lời như sau:
1. 1818 – C.Mác chào đời
2.1820 – Ph. Ăng-ghen chào đời
1841 – C.Mác bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi 23 tuổi
1842 – C.Mác làm cộng tác viên rồi làm Tổng biên tập báo Sông Ranh – Ph. Ăng-ghen viết tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân Anh
1844 – C.Mác và Ph. Ăng-ghen gặp nhau tại Pari
1847
1848 – C.Mác và Ph. Ăng-ghen tuyên bố Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Câu VII:
1 – c; 2 – a; 3 – d; 4 – e; 5 – e.
Câu VIII:
+ Nguyên nhân: Cuối thế kỉ XX, nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nhiều nhà máy bị đóng cửa, số công nhân thất nghiệp ngày càng tăg, tiền lương giảm sút, ngày lao động kéo dài từ 12 giờ đến 14 giờ, điều kiện sống rất tồi tệ. Nhân dân ngày càng chán ghét chế độ Nga hoàng thối nát. Chế độ Nga hoàng lại còn đẩy nước Nga vào cuộc chiến tranh với Nhật Bản (1904 – 1905) để tranh giành thuộc địa. Từ cuối năm 1904, nhiều cuộc bãi công đã nổ ra với khẩu hiệu “Đả đảo chuyên chế”, “Đả đảo chiến tranh”, “Ngày làm 8 giờ”. Lớn nhất là phong trào của công nhân, nông dân và binh sĩ diễn ra trong những năm 1905 – 1907.
+ Diễn biến: Ngày chủ nhật 9/1/1905, 14 vạn công nhân Pê-tec-pua và gia đình không mang vũ khí kéo đến trước Cung điện Mùa Đông (cung điện của Nga hoàng) để đưa bản yêu sách lên nhà vua. Nga hoàng Ni-cô-lai ra lệnh cho quân đội và cảnh sát nổ súng vào đoàn biểu tình. Gần 1000 người chết, 2000 nghìn người bị thương. Làn sóng căm phẫn của nhân dân lan ra khắp nơi. Hưởng ứng lời kêu gọi của những người Bôn-sê-vích, công nhân nổi dậy cầm vũ khí, dựng chiến luỹ khởi nghĩa. Xung đột đổ mấu giữa công nhân và cảnh sát Nga hoàng diễn ra trên các đường phố.
Tháng 5/1905, nông dân nhiều vùng nổi dậy, đánh phá dinh cơ của địa chủ phong kiến, thiêu huỷ văn tự, khế ước, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Tháng 6/1905, thuỷ thủ trên chiến hạm Pô-tem-kin khởi nghĩa. Nhiều đơn vị hải quân, lục quân khác cũng nổi dậy.
Mùa thu năm 1905, phong trào cách mạng tiếp tục dâng cao với những cuộc bãi công chính trị của quần chúng, làm ngưng trệ mọi hoạt động kinh tế và giao thông trong cả nước. Tháng 12/1905, cuộc tổng bãi công được bắt đầu ở Mát-xơ-cơ-va rồi nhanh chóng biến thành khởi nghĩa vũ trang. Công nhân đã dựng chiến luỹ và chiến đấu anh dũng trong hai tuần lễ. Theo gương Mát-xơ-cơ-va, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang cũng nổ ra ở các thành phố khác trong cả nước…Song do thiếu tổ chức chặt chẽ, lực lượng quá chênh lệch nên những cuộc khởi nghĩa này nhanh chóng bị thất bại. Phong trào cách mạng xuống dần và chấm dứt vào cuối năm 1907.
+ Ý nghĩa Lịch sử: Cách mạng 1905 – 1907 là cuộc cách mạng dân chủ tư sản đầu tiên do giai cấp vô sản lãnh đạo trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Tuy thất bại nhưng ý nghĩa của cách mạng thật lớn lao. Cách mạng đã phát động các giai cấp bị bóc lột và các dân tộc bị áp bức trong đế quốc Nga đứng lên đấu tranh, làm lung lay chế độ Nga hoàng. Cuộc cách mạng Nga đã dấy lên một cao trào đấu tranh của giai cấp vô sản trong các nước đế quốc và thúc đẩy sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông vào đầu thế kỉ XX.
PHỤ LỤC 2A
Phiếu trưng cầu ý kiến
Phiếu điều tra thực tiễn việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập Lịch sử của học sinh ở Trường THPT.
(Đối tượng trưng cầu: Giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT)
Họ và tên:
Nơi công tác chuyên ngành: Lịch sử
Số năm công tác:
Để có được những thông tin chính xác về tình hình giảng dạy Lịch sử ở trường phổ thông, làm cơ sở thực tiễn quan trọng giúp chúng tôi hoàn thành đề tài về một số biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử nói chung và lịch sử thế giới lớp 10 ở THPT nói riêng, chúng tôi mong anh, chị vui lòng điền dấu (X) vào những câu mình lựa chọn thấy đúng hoặc đồng ý vào những nội dung dưới đây:
Trong quá trình dạy học Lịch sử, theo anh, chị việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là:
Không cần thiết
Quan trọng
Bình thường
Rất quan trọng
Trong kiểm tra, đánh giá anh, chị thường xuyên sử dụng hình thức nào?
Kiểm tra miệng
Kiểm tra viết
Kiểm tra miệng và kiểm tra viết
Kiểm tra bài tập về nhà và bài tập thực hành
Kết hợp các hình thức trên
Để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của học sinh anh, chị đã sử dụng phương pháp nào:
Sử dụng loại câu hỏi tự luận
Sử dụng loại câu hỏi trắc nghiệm
Phối hợp các loại câu hỏi trên
4. Trong làm bài kiểm tra anh, chị cho biết sự trung thực của học sinh đạt đến mức nào?
Nghiêm túc làm bài
Thỉnh thoảng xem tài liệu
Còn trao đổi nhiều
Còn sử dụng tài liệu
5. Anh, chị có thường xuyên kết hợp giữa kiểm tra, đánh giá học sinh với hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong giảng dạy cũng học tập lịch sử ở trường phổ thông?
Rất thường xuyên và là việc làm không thể thiếu trong quá trình dạy và học ở trường phổ thông
Không thường xuyên
Tách rời giữa kiểm tra của giáo viên với tự kiểm tra, đánh giá của học sinh
Không mấy chú ý tới hoạt động hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong việc học tập môn lịch sử
6. Theo anh, chị việc hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả tiếp thu kiến thức của giáo viên ở trường THPT có cần thiết hay không?
Rất cần thiết
Không cần thiết
7. Để việc kiểm tra, đánh giá của giáo viên và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức đạt hiệu quả cao anh, chị có ý kiến đóng góp gì?
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Ngày………tháng…….năm 2009
PHỤ LỤC 2B
Phiếu điều tra học sinh
Họ và tên:
Lớp………….Trường…………
Trong phiếu điều tra sau đây, em hãy đánh dấu (x) vào những ô vuông mà em cảm thấy đúng với bản thân trong quá trình học tập môn Lịch sử ở trường THPT vào các câu dưới đây:
Đối với em, môn học Lịch sử ở trường Trung học phổ thông:
Rất yêu thích
Bình thường
Không quan tâm vì nó là môn phụ
Theo em, môn Lịch sử là một môn:
Rất quan trọng
Khá quan trọng
Không quan trọng
Trong quá trình học tập lịch sử, theo em kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử là công việc:
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Ở trường, em thấy việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập có được tiến hành thường xuyên hay không?
Được tiến hành thường xuyên
Chỉ kiểm tra vào cuối kỳ
Cần lấy điểm mới kiểm tra
Bản thân em và các bạn ở trường có tiến hành tự kiểm tra, đánh giá khi học tập môn Lịch sử nói chung và Lịch sử thế giới nói riêng không?
Thường xuyên
Hầu như không làm
Chỉ làm như là một cách chống đối
Nếu được các thầy, cô giáo hướng dẫn tiến hành những biện pháp để tự kiểm tra, đánh giá nâng cao mức độ tiếp thu kiến thức bài học em và các bạn có hứng thú với môn học và cảm thấy học tập môn Lịch sử có hiệu quả hơn không?
Bình thường
Rất yêu thích môn học và rèn luyện được khả năng tự học
Không cảm thấy hứng thú với môn học
Để công việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập Lịch sử đạt độ chính xác và có kết quả cao, theo em:
Thầy (cô) phải nghiêm khắc hơn
Sử dụng các phương pháp cũ
Sử dụng những phương pháp mới
Kết hợp nhiều phương pháp kiểm tra, cùng với những biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá.
Để việc kiểm tra, đánh giá của giáo viên và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh trong quá trình tiếp nhận kiến thức, em có những suy nghĩ đóng góp gì?
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày …..tháng …….năm 2009
LỜI CẢM ƠN
Qua luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất và lời cảm ơn chân thành nhất đối với sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của cố GS.TS Phan Ngọc Liên và TS Vũ Thị Ngọc Anh trong suốt thời gian tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong tổ phương pháp dạy học Lịch sử đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày ……tháng 12 năm 2009
Tác giả
Lê Hồng Ánh
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Huongdanhocsinhtukiemtra.doc