Đối với chi phí quản lý phục vụ cho các hoạt động kinh doanh như: chi khấu hao Tài sản cố định, mua sắm công cụ lao động, vật liệu giấy tờ in,. Ngân hàng nên có kế hoạch chi trên cơ sở vốn được cấp và theo lệnh của Giám đốc Chi nhánh. Đối với khoản chi lương, đây là khoản chi hết sức quan trọng, đo đó việc chi lương phải thực hiện nghiêm túc theo hệ số được duyệt. Bên cạnh đó Chi nhánh cần phải có biện pháp sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, đào tạo và sử dụng lao động theo chuyên môn, sở trường của từng người, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Nêu năng suất lao động cao, có thể mức chi lương cao bình quân cao nhưng lại chiếm tỷ lệ nhỏ so với hiệu quả thu được.
Đối với các khoản chi theo định mức, dự toán và chi khoán, Ngân hàng cần phải quản lý chặt chẽ và khống chế mức chi trong dự toán đã được duyệt, để tránh trường hợp chi lãng phí. Các khoản chi này phải được Giám đốc Chi nhánh phê duyệt.
Ngoài ra tồn quỹ tiền mặt tại Ngân hàng cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
Tiền mặt tồn quỹ tại Ngân hàng là tài sản có không sinh lời. Cũng giống như tồn kho của doanh nghiệp, thế nhưng tiền mặt không thể tồn quỹ bằng không. Do tiền mặt tại quỹ đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của Ngân hàng góp phần đảm bảo uy tín của Ngân hàng với khách hàng, do đó việc định mức tồn quỹ tiền mặt tại Ngân hàng đảm bảo sao cho Ngân hàng có đủ khả năng chi trả, đảm bảo uy tín Ngân hàng đối với khách hàng và tối đa hoá lợi nhuận.
Hiện nay, việc định mức tồn quỹ tiền mặt của NHNo & PTNT Việt Nam là ấn định từ trên xuống, nó ảnh hưởng đến sự chi trả của các chi nhánh, dẫn đến chi nhánh thừa vốn, lãng phí vốn. Mặt khác việc chấp hành định mức tồn quỹ tại chi nhánh chưa nghiêm, thường thường số vốn này thừa 150 triệu. Nếu bình quân 1 chi nhánh thừa 150 triệu đồng, thì toàn bộ hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam sẽ thừa là : 150 triệu x 600 chi nhánh = 90 tỷ đồng.
Nếu đem nguồn vốn này nhân với lãi suất 0,5% thì một con số chi phí tăng lên là : 450 triệu đồng.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cần phải có biện pháp cho đơn vị cơ sở xây dựng định mức tốn quỹ tiền mặt của mình dựa theo số liệu lịch sử của các năm và trên cơ sở tỷ lệ tồn quỹ tiền mặt của các nguồn vốn để xác định định mức tồn quỹ. Hơn nữa, kiểm tra nghiêm về thực hiện định mức tồn quỹ và phạt trừ vào quỹ thu nhập của những đơn vị không chấp hành nghiêm định mức tồn quỹ tiền mặt, tránh lãng phí không cần thiết ./.
64 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Kế toán thu nhập chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hóa: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động này. Năm 1999 vừa qua NHNo & PTNT Việt nam đã tiến hành đầu tư để trang bị và nối mạng vi tính, nhất là năm 2000 hệ thống ngân hàng nông nghiệp việt nam đã đầu tư trang bị thanh toán chuyển tiền điện tử giúp cho dịch vụ chuyển tiền qua Ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt được thuận tiện và nhanh chóng hơn. Do đó nguồn thu từ dịch vụ của hệ thống NHNo & PTNT được nâng cao, năm 2000 thu từ dịch vụ Ngân hàng của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá đạt 9.176 ngàn đồng tăng 2211 ngàn đồng so với năm 1999, tuy nhiên nguồn thu này vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong thu nội bảng của Chi nhánh (chiếm 1.5%).
Với phương châm tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ bằng cách tăng doanh số thanh toán qua Ngân hàng chứ không phải tăng lệ phí dịch vụ tổng doanh số thanh toán trong năm 2000 của Chi nhánh là 27.893 tỷ đồng tăng 5% so với năm 1999.
Hiện nay Chi nhánh đang áp dụng mức thu phí dịch vụ Ngân hàng như dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ chuyển tiền qua Ngân hàng nói chung là thấp hơn so với các Ngân hàng Thương mại khác và thấp hơn so với bưu điện. Đây cũng là một ưu thế rất lớn của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá và ngày càng thu hút khách hàng sử dụng cácdv Ngân hàng, góp phần làm cho hoạt động dịch vụ Ngân hàng ngày càng phát triển tạo điều kiện cho Chi nhánh nâng cao thu nhập.
* Thu nhập bất thường
Đây là khoản thu các khoản nợ gốc và lãi các khoản vay của khách hàng đã được sử lý rủi ro. Với khoản thu này Chi nhánh tích cực khai thác để tăng thêm thu nhập, trong điều kiện khách hàng có thể trả được nợ gốc và lãi giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng.
Năm 2000 chi nhánh đã thu được 40.689 ngàn đồng chiếm 6.7 % so với năm 1999 tăng hơn 24.447 ngàn đồng (tăng 148.84%)
Qua việc phân tích các nguồn thu chủ yếu trong Tổng thu nhập nội bảng của Chi nhánh ta thấy: thu lãi tiền vay là khoản thu chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất (91.5%), do trong năm 2000 Chi nhánh đã đẩy mạnh hoạt động tín dụng làm cho thu nhập từ hoạt động này tăng lên 176.318 ngàn đồng góp phần chủ yếu trong sự tăng thu nhập nội bảng của Chi nhánh, các hoạt động khác cũng làm cho thu nhập nội bảng của Chi nhánh tăng lên (trừ hoạt động kinh doanh ngoại tệ ) so với năm 1999 Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh vẫn còn đơn điệu, các nghiệp vụ có thể đem lại thu nhập chi Chi nhánh như: Kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh vàng bạc, đá quý, liên doanh liên kết, cho thuê két sắt,... chưa được thực hiện đã ảnh hưởng phần nào tới sự tăng trưởng về thu nhập của Chi nhánh.
Song tình hình thu nhập vẫn chưa phản ánh hết được hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Để xác định được kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá chúng ta cần phải xem xét các khoản chi phí .
2. Tình hình chi phí của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá
Cũng như các khoản thu nhập, chi phí là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chi phí của Ngân hàng là các khoản chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động của Ngân hàng. Mỗi loại nghiệp vụ khác nhau có các khoản chi phí khác nhau, ngoài ra còn có các khoản chi cho hoạt động bình thường của bộ máy Ngân hàng. Vì vậy nội dung các khoản chi phí trong Ngân hàng rất phong phú và đa dạng.
Để nghiên cứu tình hình chi phí của Ngân hàng chúng ta có thể khái quát toàn bộ chi phí của Ngân hàng qua các khoản mục chính như sau: chi phí cho hoạt động kinh doanh, chi nộp thuế, chi cho nhân viên và chi khác. Năm 2000 tình hình chi phí của Chi nhánh NHNo & PTNT được thể hiện qua nội dung sau:
Bảng 5: Tình hình chi phí của NHNo & PTNT
Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá:
( Đơn vị: ngàn đồng,%)
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
So sánh 2000/1999
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
+-Số tuyệt đối
+-%
Tổng chi nội bảng
407.479
100
434.523
100
+27.044
+6,64
1.Chi về hoạt động KD
249.393
61,20
199.085
45,82
-50.308
-20,17
3.Chi phí cho nhân viên
87.646
21,50
143.566
33,04
+55.920
+63,80
4.Chi phí khác
70.440
17,30
91.872
21,14
+21.432
+30.42
Theo số liệu trên cho thấy Tổng chi phí nội bảng của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá đạt 434.523 ngàn đồng, so với kế hoạch chi năm 2000 là 467.229 ngàn đồng giảm được 7% . Chứng tỏ trong năm 1999 Chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý các khoản chi phí góp phần tăng lợi nhuận. Để nghiên cứu tình hình chi phí năm 2000 của Chi nhánh chúng ta cùng xem xét từng khoản mục sau:
* Chi về hoạt động kinh doanh:
Đây là khoản chi có tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi phí nội bảng của Ngân hàng. Tính đến cuối năm 2000, mức chi cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh là 199.085 đồng chiếm tỷ trọng 45,82% trên tổng chi phí nội bảng, giảm so với năm 1999 là 50308 ngàn đồng, do chi nhánh huy động trả lãi trước trong năm 1999
* Chi phí cho nhân viên
Yếu tố con người có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả mọi hoạt động, các hoạt động nói chung chỉ có thể thực hiện được khi có sự điều khiển của con người. Ngành Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt mà đối tượng của nó là tiền tệ, hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, năng suất hiệu quả làm việc của mỗi nhân viên Ngân hàng sẽ ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do đó ngành Ngân hàng nói chung mức chi lương bình quân cho cán bộ nhân viên thường cao hơn so với các ngành khác.
Toàn bộ chi phí cho nhân viên năm 2000 của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá là 143.566 ngàn đồng, tăng 55.920 ngàn đồng so với năm 1999 và chiếm tỷ trọng 33.03% tổng chi phí nội bảng. Việc tăng chi phí cho nhân viên là do trong năm 2000 do trong năm mức lương tối thiểu được tăng lên từ 180.000 –210.000 đ, tổng số lao động đến cuối năm 2000 theo danh sách trả lương là 8 CBVC, Như vậy mức chi bình quân cho một CBVC là 17.94 triệu đồng, tăng so với năm 1999 là 6,9 triệu đồng. Tăng chi phí cho nhân viên sẽ là yếu tố khích lệ người lao động, tuy nhiên việc tăng chi phí này phải kết hợp với nâng cao chất lượng, trình độ người lao động mới đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
* Các chi phí khác
Trong hoạt động của Ngân hàng ngoài những khoản chi chủ yếu cho hoạt động kinh doanh, Ngân hàng còn phải chi các khoản chi khác như: Chi khấu hao Tài sản cố định, chi mua sắm công cụ lao động,chi vật liệu, giấy tờ in, kho quỹ, cước phí bưu điện ... đây là các chi phí cần thiết để cho hoạt động kinh doanh được diễn ra thuận lợi. Khoản chi phí khác chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí nội bảng của Ngân hàng nhưng nếu không có biện pháp quản lý chặt chẽ các khoản chi phí này sẽ phát sinh những khoản chi lãng phí, bất hợp lí. Năm 2000 khoản chi này của Chi nhánh là 91.872 ngàn đồng, chiếm tỷ trọng 21.14% tổng chi phí, tăng 21.432 ngàn đồng . Điều này chứng tỏ trong năm 2000 Chi nhánh chưa thực sự quản lý chặt chẽ các khoản chi phí này, đặc biệt là các khoản chi khoán, chi theo địng mức dự toán như: chi khấu hao Tài sản cố định, chi bảo dưỡng sủa chữa tài sản, chi công cụ lao động, vật liệu giấy tờ in,chi đào tạo chi dự phòng ...các khoản chi này đều tăng khá lớn so với năm 1999. Để giảm chi phí trên cơ sở tiết giảm tối đa các khoản chi phí bất hợp lý, tránh lãng phí nhằm tăng thu nhập cho Ngân hàng, Ngân hàng cần phải quản lý tốt hơn các khoản chi phí này, nhất là trong việc xét duyệt mức khoán và định mức để xác định các mức chi hợp lý nhất đối với từng loại.
Qua đánh giá chung tình hình chi phí của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá ở trên, ta thấy : trong năm 2000 Chi nhánh đã kiểm soát và không ngừng tìm mọi biện pháp để tiết kiệm các khoản chi, mặc dù chi phí tăng nhưng phù hợp với yêu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh.
Như ở trên đã trình bày, chi phí cho hoạt động kinh doanh là chi phí chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi phí của Ngân hàng, chi phí ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Để thấy rõ hơn tình hình chi phí của Chi nhánh ta cần đi sâu phân tích khoản mực này.
Bảng 5: Chi tiết về tình hình chi phí cho hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá.
(Đơn vị : ngàn đồng,%)
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
So sánh 2000/1999
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
+- Số tuyệt
đối
+-%
Chi về hoạt động KD
249393
100
199085
100
-50.308
-20,17
1.Trả lãi tiền gửi
1171484
46.97
148411
74.54
+30.993
+36,39
+Trả lãi tiền gửi các đơn vị TCKT
7901
3.17
6083
3.09
-1.818
-23,00
+Trả lãi tiền gửi tiết kiệm
109247
43.80
142328
71.49
+33.081
+30,28
2.Trả lãi tiền vay
0
3.Trả lái phát hành KP,TP
117832
47.24
32707
16.42
-85.125
-72,24
4.Chi về KD ngoại tệ
0
5.Chi khác về HĐ KD
14412
5.77
17966
9.02
+3554
+24,66
Chi phí cho hoạt động kinh doanh năm 2000 của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá là 199.085 ngàn đồng giảm 50308 ngàn đồng so với năm 1999, về số tương đối giảm 20.17%. Để thấy rõ sự thay đổi này ta phải phân tích từng khoản chi dể thấy rõ nguyên nhân của sự thay đổi này:
* Trả lãi tiền gửi.
Năm 1999 chi phí cho trả lãi tiền gửi của Chi nhánh là 117.149 ngàn đồng, chiếm tỷ trọng 46.97,31% trong chi về hoạt động kinh doanh, đến năm 2000 chi phí này là 148.411 ngàn đồng, chiếm tỷ trọng 74,54% chi về hoạt động kinh doanh, tăng 28.738 ngàn đồng (tăng 24.53%) so với năm 1999. Chứng tỏ NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá đã chú trọng đến công tác huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, dân cư.
+ Năm 2000,chi trả lãi tiền gửi các tổ chức kinh tế là 6.83 ngàn đồng (chiếm tỷ trọng 3.09%chi về hoạt động kinh doanh) giảm so với năm 1999 là 1.818 ngàn đồng. Nguyên nhân của sự giảm chi phí trả lãi tiền gửi các tổ chức kinh tế là do trong năm 2000 mặc dù Chi nhánh đã có nhiều biện pháp tiếp cận và thắt chặt mối quan hệ với các tổ chức kinh tế nhưng số dư tiền gửi bình quân trong năm giảm. Với nguồn vốn huy động được từ các tổ chức kinh tế là 435.673 ngàn đồng tăng hơn so với năm 1999 là 407.538đồng đây là số dư tăng lên cuối năm còn bình quân trong năm lại thấp cho nên chi trả lãi cho nguồn này giảm đi cũng là điều đễ hiểu. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng bởi nguồn vốn này có chi phí đầu vào thấp góp phần mở rộng đầu tư cho vay cuả Ngân hàng, không những thế mở rộng huy động vốn từ nguồn vốn tiền gửi này còn tạo điều kiện cho Ngân hàng tăng các khoản thu về dịch vụ. Tuy nhiên do tính chất của nguồn vốn này ít ổn định cho nên khi sử dụng chỉ nên sử dụng tối đa 70 - 80% để đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng, giữ uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng, do vậy chi nhánh cần phải có chính sách khuyến khích khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến gửi tiền và sử dụng các phượng tiện thanh toán của ngân hàng
+ Trả lãi tiền gửi tiết kiệm
Chi trả lãi tiền gửi tiết kiệm năm 2000 của Chi nhánh là142.328 ngàn đồng tăng 33.081 ngàn đồng so với năm 1999. Đây là nguồn vốn có tính chất tương đối ổn định, giúp Ngân hàng chủ động hơn trong kinh doanh.
*Trả lãi phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
Năm 2000 Chi nhánh đã chi trả cho khoản này là 32.707 ngàn đồng (chiếm tỷ trọng 16.42% chi về hoạt động kinh doanh) so với năm 1999 việc chi trả lãi phát hành kỳ phiếu, trái phiếu đã giảm rất mạnh: giảm 85.125 ngàn đồng (giảm 72.24%). Do trong năm 2000 khối lượng vón huy động từ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu là 357.322 đồng so với năm 1999 giảm 443.673 ngàn đồng. Việc giảm khối lượng vốn huy động từ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu đã giảm bớt một khoản chi phí lớn, vì lãi suất huy động bằng kỳ phiếu, trái phiếu cao nhất trong các hình thức huy động. Mặt khác trong năm 1999 Ngân hàng Nhà nước đã 5 lần hạ lãi suất trần cho vay từ 1,25%/tháng xuống còn 0,85%/tháng đã làm cho chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và đầu ra giảm, nếu Chi nhánh huy động dưới hình thức này lớn, sẽ gặp phải rủi ro về lãi suất lớn, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh.
* Chi về kinh doanh ngoại tệ và các khoản chi phí khác
Kinh doanh ngoại tệ đối với NHNo & PTNT Việt nam còn là nghiệp vụ tương đối mới mẻ. Năm 2000 chi kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh chưa phát sinh, chứng tỏ Chi nhánh chưa thực hiện tốt nghiệp vụ kinh doanh này.
Các khoản chi khác về hoạt động kinh doanh năm 2000 là 17.966 tăng 3.554 ngàn đồng so với năm 1999, các khoản chi phí này chi ra để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Việc tăng các khoản chi phí này sẽ giúp cho các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được tốt hơn, tuy nhiên phải có biện pháp quản lý chặt chẽ tránh phát sinh những khoản chi phí lãng phí.
Tóm lại, tình hình chi phí của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá năm 2000 có những điểm nổi bật sau: Chi trả lãi tiền gửi là khoản chi chủ yếu với tỷ trọng 34.15% tổng chi phí nội bảng, chi phí trả lãi phát hành kỳ phiếu, trái phiếu giảm mạnh so với năm 1999, các khoản chi còn lại đều còn rất cao. Điều này đòi hỏi Chi nhánh phải có nhiều biện pháp quản lý, kiểm soát các khoản chi phí nhằm giảm chi phí tăng thu nhập như: tăng cường các biện pháp để huy động nguồn tiền gửi từ tổ chức kinh tế, dân cư, hạn chế tối đa nguồn đi vay, ...quản lý chặt chẽ các chi phí quản lý.
3. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá
Qua việc phân tích các khoản mục chủ yếu trên Báo cáo Thu nhập - Chi phí của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá ta có thể xác định kết quả kinh doanh của Chi nhánh như sau:
Bảng 6: Kết quả hoạt động kinh doanh
theo Báo cáo Thu nhập - Chi phí .
Đơn vị : ngàn đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
So sánh 2000/1999
Số tuyệt đối
+-%
Tổng thu nội bảng
406.228
603.898
+197.671
+48,65
Tổng chi phí nội bảng
414.501
434.523
+20.022
+4,83
Chênh lệch ( ồ Thu - ồ Chi )
-8.273
+169.375
Qua bảng số liệu trên ta thấy cả Tổng thu nhập và Tổng chi phí nội bảng năm 2000 đều tăng lên, trong đó Tổng thu nhập nội bảng tăng197.671 ngàn đồng, Tổng chi phí tăng 20.022 ngàn đồng so với năm 1999, tốc độ tăng của Thu nhập lớn hơn tốc độ tăng của Chi phí (tốc độ tăng thu nhập là 48.65%, tốc độ tăng chi phí là 4.83% ). Như vậy trong năm 2000 Chi nhánh đã đạt được kết quả rất tốt trong việc khơi tăng nguồn thu và tiết giảm chi phí. Nhưng qua đó cũng cho thấy hoạt động kinh doanh của Chi nhánh thể hiện qua Báo cáo Thu nhập - Chi phí là lãi, lãi nội bảng trong năm 2000 là 169.375 ngàn đồng ( so với năm 1999 lỗ là 8.273 ngàn đồng), tuy nhiên khoản lãi này không đánh giá hoàn toàn kết quả kinh doanh của đơn vị. Tại sao vậy ? Đây là đặc thù trong chế độ hạch toán kế toán của hệ thống NHNo &PTNT Việt nam.
Trong năm 2000 Tổng nguồn vốn kinh doanh của Chi nhánh là 5.965.525 ngàn đồng, trong khi đó Tổng dư nợ của Chi nhánh đạt 5.980.230 ngàn đồng, do đó có sự thiếu vốn được điều chuyển từ Ngân hàng Nông nghiệp Tỉnh về cho vay , nguồn vốn này được điều hoà từ các chi nhánh khác trong cùng hệ thống. Chi nhánh sẽ nhận được khoản thu lãi cho vay từ nguồn vốn trên hạch toán nội bảng. Nhưng khoản chi lãi điều hoà không được coi như chi nội bảng, do đó không phản ánh trên Báo cáo Thu nhập - Chi phí. Nên bảng cân đối Chi nhánh là lãi đây là một tồn tại không phản ánh chính xác kết quả kinh doanh của đơn vị
Để xem xét đánh giá chính xác kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá chúng ta phải căn cứ vào Bảng kết quả tài chính theo quy định 946A về khoán tài chính trong hệ thống NHNo & PTNT Việt nam. Theo đó kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh như sau:
Bảng 7: Kết quả tài chính theo quy định 946A
(Đơn vị :Ngàn đồng,%)
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Chênh lệch
Số tuyệt đối
+-%
A.Tổng thu 946A
406.228
603.893
+ 197.665
+48.65
I.Tổng thu nội bảng
406.228
603.893
II.Các khoản cộng thêm vào thu nhập
1.Thu lãi thừa vốn
2.Phí huy động vốn hộ TW
B.Tổng chi 946A
332.085
404.091
+ 72.006
+21.68
I.Tổng chi nội bảng (Trừ lương và phụ cấp lương)
326.855
308091
II.Các khoản loại trừ khỏi chi phí
0
-Trả lãi huy động vốn hộ TW
0
III.Các khoản cộng thêm vào chi phí
5.230
96000
-trả lãi điều hoà vốn
5.230
96000
C.Quỹ thu nhập (A-B) (Lợi nhuận)
74.143
199.802
+ 125.659
+169.48
Kết quả hoạt động kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng được thể hiện cuối cùng là lợi nhuận nếu như lợi nhuận thu được là cao,được gọi là kinh doanh tốt, có hiệu quả, còn ngược lại là không có hiệu quả.
Năm 2000 Tổng thu 946A của Chi nhánh đạt 603.893 ngàn đồng tăng so với năm 1999 là 197.665 ngàn đồng (tăng 48.65%). Nếu chỉ xét riêng Tổng thu nhập của Ngân hàng, đây là bức tranh phản ánh những cố gắng vượt bậc của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá, trong giai đoạn hiện nay của nền kinh tế nước ta trì trệ, thiểu phát, lãi suất cho vay liên tục giảm xuống, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, hầu hết các Ngân hàng huy động vốn vào nhiều nhưng cho vay ra lại gặp khó khăn, trong khi đó nợ quá hạn chiếm tỷ lệ quá cao trên tổng dư nợ của các Ngân hàng (chiếm tới 14%). Bên cạnh đó Tổng chi 946A của Chi nhánh năm 2000 là 404.091 ngàn đồng trong khi năm 1999 là 332.085 ngàn đồng, tăng 72.006 ngàn đồng (tốc độ tăng 21.68%). Như vậy tốc độ tăng thu nhập cao hơn tốc độ tăng chi phí, về số tuyệt đối mức tăng của thu nhập lớn hơn.
Lợi nhuận (Quỹ thu nhập) đạt được năm 2000 của Chi nhánh là 199.802 ngàn đồng tăng 125.659 ngàn đồng (tăng 169.48% so với năm 1999). Đây là thành công đáng kể của toàn Chi nhánh trong suốt quá trình kinh doanh của năm tài chính. Qua đó có thể nói rằng việc tăng chi phí của Ngân hàng năm 2000 là hợp lý. Vì không phải bất cứ hoạt động nghiệp vụ nào khi tăng chi phí cũng làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng, mà tăng chi phí sẽ là cơ sở để tăng lợi nhuận, đặc biệt là các khoản chi để trang bị các thiết bị công nghệ Ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn các dịch vụ như thanh toán, chuyển tiền..., nâng cao uy tín của Ngân hàng để từ đó thu hút được nguồn vốn lớn với lãi suất thấp, tăng số lượng khách hàng vay vốn ... Với lợi nhuận đạt được như vậy đã làm cho Quỹ tiền lương hình thành năm 2000 là 126.432 ngàn đồng (đạt 2.69 lần Quỹ lương cơ bản), đảm bảo thu nhập cho người lao động, khuyến khích nâng cao năng suất lao động.
Ngoài ra để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh người ta còn sử dụng các chỉ tiêu như: lãi suất huy động bình quân, lãi suất cho vay bình quân. Lãi suất huy động bình quân được xem như giá mua của Ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh công tác huy động củ Ngân hàng. Các Ngân hàng tiến hành huy động vốn dưới nhiều hình thức khác nhau. Lãi suất cho vay bình quân phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng.
Lãi suất HĐ bình quân
=
Trả lãi tiền gửi + Trả lãi TGTK +
Trả lãi PHTP - Trả lãi ngoại tệ
Tài sản nợ trả lãi bình quân
Lãi suất CV bình quân
=
Thu lãi CV + Thu lãi TG +Thu lãi
điều hoà vốn - Thu lãi ngoại tệ
Tài sản có sinh lãi bình quân
Chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của Ngân hàng, chênh lệch này càng lớn, thu nhập của Ngân hàng càng cao. Năm 2000 chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và đầu vào của Chi nhánh chỉ là 0,3 % so với năm 1999 là 0,2% tăng 0.1%, do nguyên nhân cơ bản là trong năm 2000 chi nhánh đã thu được nguồn thu nhập bất thường là 40.689. Mặt khác cuối năm 1999 chi nhánh đã huy động loại vốn trả lãi trước nên đã tăng chênh lệch lãi xuất đầu ra đầu vào .
Chương III
Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập, giảm chi phí,
nâng cao hiệu quả kinh doanh tại NHNo & PTNT
Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá
Trong nền kinh tế thị trường các yếu tố cạnh tranh nổi lên rất gay gắt đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng, đặc biệt là trên địa bàn thành phố Thanh hoá trung tâm chính trị ,kinh tế,văn hoá của Tỉnh, nơi tập trung đông dân cư có thu nhập cao, cùng rất nhiều Ngân hàng Thương mại với trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại, tiên tiến nhất trong toàn Tỉnh hoạt động. Mục tiêu của các Ngân hàng Thương mại là phải làm thế nào, tìm mọi biện pháp để tối đa hoá lợi nhuận . Một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh ngân hàng là phải thường xuyên phân tích, quản lý các khoản thu nhập - chi phí nhằm phát hiện những “mảnh đất màu mỡ” có khả năng mang lại lợi nhuận cao cho Ngân hàng.
Qua phân tích một số hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá, cũng như phân tích thực tế tình thu nhập - chi phí và đánh giá kết quả kinh doanh của Chi nhánh qua 2 năm 1999 và 2000 ở Chương II, đã cho ta thấy rõ được mức độ ảnh hưởng của các khoản thu nhập và chi phí tới kết quả kinh doanh của Chi nhánh. Đồng thời đã chỉ rõ những thế mạnh và những khó khăn tồn tại của Ngân hàng, từ đó có các biện pháp phát huy thế mạnh hạn chế những khó khăn, tồn tại nhằm đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Việc tìm ra các giải pháp để khơi tăng thu nhập, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề trăn trở đối với nhà quản trị Ngân hàng. Họ không những muốn tìm kiếm lợi nhuận hiện tại mà cả lợi nhuận trong tương lai. Để góp phần làm tăng thu nhập, giảm chi phí nâng cao hiệu quả kinh doanh tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá nói riêng và NHNo & PTNT Việt nam nói chung, trong phạm vi nghiên cứu của mình, em xin mạnh dạn trình bày một số giải pháp sau:
I. Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập cho NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá .
Tăng thu nhập là mong muốn của tất cả các doanh nghiệp để có thể đứng vững trong cạnh tranh và phát triển quy mô hoạt động kinh doanh. Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng không thể không thực hiện tốt hoạt động kinh doanh để không ngừng tăng thu nhập cho mình. Để tăng thu nhập trong hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá cần thực hiện một số giải pháp sau:
1. Mở rộng hoạt động đầu tư tín dụng, tăng cường chất lượng công tác cho vay.
Mở rộng thị trường đầu tư tín dụng luôn là mong muốn của các Ngân hàng Thương mại, vì trong giai đoạn hiện nay đây là hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu cho các Ngân hàng. Đối với NHNo & PTNT Việt nam, việc mở rộng quy mô tín dụng cũng là một vấn đề hết sức cấp bách, bởi NHNo & PTNT không chỉ cung ứng vốn cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn và cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế mà còn là vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của bản thân Ngân hàng. Tuy nhiên việc mở rộng hoạt động đầu tư tín dụng của Ngân hàng phải đi theo hướng nào, mới có hiệu quả mới chính là vấn đề cần phải quan tâm. Muốn vậy, để Chi nhánh có thể tăng trưởng quy mô tín dụng, phát triển kinh doanh cần phải bám sát những giải pháp sau:
* Mở rộng đối tượng cho vay đối với mọi thành phần kinh tế và đa dạng hoá các hình thức cấp tín dụng.
Hiện nay nguồn vốn huy động được của Chi nhánh là khá nhỏ chưa đáp ứng lượng vốn cho vay ra, vì vậy đã phải sử dụng một lượng vốn điều chuyển từ Ngân hàng Tỉnh, có thể thấy rõ điều này qua tỷ trọng chi lãi điều hoà vốn của Chi nhánh. Mặc dù Chi nhánh đã có mức tăng trưởng huy động vốn vượt bậc trong năm 2000 nhưng mức độ huy động vốn của chi nhánh chưa đáp ứng được nhu cầu đâu tư địa phương. Trong khi đó nhu cầu về vốn của các tổ chức kinh tế là khá lớn, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại, đầu tư tiêu dùng cho đân chúng. Do đó ngoài định hướng của Chi nhánh là tăng cường mở rộng cho vay đối với hộ xản xuất nông nghiệp thuộc các xã đóng trên địa bàn.thực hiện triệt để nghị quyết 67 của chính phủ Chi nhánh cần phải quan tâm đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có những dự án sản xuất kinh doanh khả thi, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đất nước cũng như đặc thù kinh tế của địa bàn thành phốThanh hoá.
Bên cạnh đó Chi nhánh cần phải đa dạng hoá các phương thức cho vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn vay của khách hàng, làm cho việc luân chuyển vốn tín dụng phù hợp với luân chuyển vật tư, tiền vốn trong sản xuất, kinh doanh của khách hàng vay vốn. Song song với các phương thức cấp tín dụng chủ yếu như: phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án,... Chi nhánh cần mạnh dạn áp dụng các phương thức cho cho vay như: cho vay thiếu hụt trong thanh toán... Phương thức cho vay từng lần chỉ áp dụng cho vay đơn chiếc, không nên lạm dụng phương thức này, vừa bị động, vùa lãng phí vốn, vùa nhiều thủ tục giấy tờ.
Hoạt động kinh doanh của một Ngân hàng không chỉ bó hẹp trong một vài lĩnh vực mới mẻ, mở rộng tín dụng cũng có nghĩa là lĩnh vực đầu tư. Khi mở rộng đầu tư sang một lĩnh vực đầu tư chưa phải là “lãnh địa” quen thuộc của Ngân hàng cũng như của Chi nhánh, đó có thể coi là “Con dao hai lưỡi”, do đó khi thực hiện đầu tư, mở rộng hoạt động tín dụng Chi nhánh cần phải thận trọng, cân nhắc kỹ càng nhưng không vì thế mà từ chối cơ hội đầu tư khả thi.
* Thực hiện tốt công tác Maketing Ngân hàng.
Là một Chi nhánh mới được thành lập, do đó Chi nhánh cần thực hiện công tác tiếp thị một cách chủ động, thường xuyên. Thông qua các hội nghị khách hàng, các phương tiện thông tin đại chúng để giới thiệu về mình. Có biện pháp hữu hiệu để tiếp cận với các công ty lớn, các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh và sản xuất kinh doanh có hiệu quả để chào hàng nhằm giới thiệu về khả năng đáp ứng các nguồn vốn ngoại tệ các mức lãi suất, khả năng đáp ứng các dịch vụ và các lợi ích khác có thể mang lại cho doanh nghiệp. Qua đó sẽ góp phần cho Chi nhánh nắm bắt rõ được yêu cầu vốn của nền kinh tế trong các ngành nghề; Các động thái của các tổ chức tín dụng khác. Trên cơ sở đó xây dựng và quyết định các đối sách đúng đắn, hợp lý nhằm mở rộng và phát triển tốt mọi quan hệ với các doanh nghiệp, đơn vị quản lý ngành và các Chi nhánh NHNo & PTNT khác trong cùng hệ thống.
Đối với khách hàng thường xuyên có quan hệ giao dịch với Ngân hàng với khối lượng dư nợ lớn, trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi, Ngân hàng cần có các chế độ ưu đãi như có thể ra hạn nợ khi các doanh nghiệp gặp khó khăn, áp dụng mức lãi suất thấp hơn so với các khách hàng khác, khuyến khích bằng cách tặng quà, thăm viếng... Đây là cách rất tốt để giữ quan hệ với khách hàng hiện tại và tăng số lượng khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng, tăng uy tín của Ngân hàng.
* Mở rộng tín dụng cần phải chú ý vấn đề nhân lực cụ thể là đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ nghiệp vụ cao.
Một thực trạng tồn tại phổ biến trong nhiều Ngân hàng hiện nay là nợ quá hạn chiếm tỷ lệ cao trong tổng dư nợ của Ngân hàng. Nguyên nhân không thể không nói đến là trình độ bất cập của đội ngũ cán bộ. Thực tế cho thấy có thể đưa món nợ vay thành nợ khó đòi ngay từ khâu xét duyệt và thẩm định dự án sản xuất kinh doanh do cán bộ xử lý thẩm định dự án chỉ hiểu mơ hồ về ngành nghề dự định đầu tư, điều này tất yếu có sự sai lệch trong việc thẩm định hồ sơ vay vốn đối khách hàng.
NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá có số lượng cán bộ tín dụng ít, hoạt động trên địa bàn rộng, khách hàng của Chi nhánh hoạt động sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực. Do vậy việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên là một vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng.
NHNo & PTNT Việt nam cần ban hành quy chế cho Chi nhánh được chủ động trong việc tuyển dụng lao động phù hợp với quy mô hoạt động kinh doanh, để Chi nhánh có thể tuyển dụng được những cán bộ có trình độ năng lực cao, nắm vững chuyên môn nghiệp vụ của ngành, có hiểu biết sâu rộng những kiến thức về pháp luật, thị trường, ngoại ngữ, tin học...
Chi nhánh cần phải bố trí công việc phù hợp với năng lực sở trường của từng người, theo đúng chuyên đào đạo, cung cấp các thiết bị làm việc tương ứng với khả năng làm việc của nhân viên đó. Có chế độ khen thưởng, xử phạt kịp thời; chi trả lương một cách tương sứng đối với những cán bộ tín dụng để kích thích họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đối với những cán bộ tín dụng không đủ đạo đức phẩm chất hoặc chuyên môn nghiệp vụ cần kiên quyết chuyển đi bộ phận khác.
Hiện nay một vai trò rất quan trong của Ngân hàng đó là không chỉ đơn thuần là nhà đầu tư mà còn là nhà tư vấn cho khách hàng về khả năng sản xuất kinh doanh của khách hàng. Do đó không thể đưa mục tiêu mở rộng tín dụng nếu không kịp thời bổ sung, nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ tín dụng Ngân hàng về năng lực thẩm định và sự am hiểu về lĩnh vực đầu tư, có trực giác nhạy bén. Như vậy thông qua việc lựa chọn, sử dụng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ có chú trọng đến nghệ thuật cho vay cho cán bộ tín dụng, Chi nhánh có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng một cách hợp lý trong từng khoản mục đầu tư, nâng cao uy tín của mình, tăng thu nhập.
* Cần phân đoạn thị trường, phân loại khách hàng, cho điểm khách hàng, trên hệ thống máy tính ; từng bước hỗ trợ cán bộ tín dụng trong việc cung cấp thông tin về khách hàng trợ giúp cho quá trình ra các quyết định để cho vay, từng bước sàng lọc khách hàng để tập trung đầu tư cho những khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
* Sử dụng linh hoạt công cụ lãi suất, nhằm đưa ra một mức lãi suất hợp lý, có tính chất cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng từ đó tăng khối lượng đầu tư tín dụng.
Mở rộng hoạt động tín dụng không có nghĩa là mở rộng một cách tràn lan, điều này sẽ hết sức nguy hiểm cho Ngân hàng bởi như vậy rủi ro trong hoạt động tín dụng sẽ rất cao. Do đó việc mở rộng hoạt động tín dụng phải kết hợp với những biện pháp ngăn ngừa rủi ro. Để củng cố nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác tín dụng Chi nhánh nên chăng phải dựa vào những giải pháp sau:
- Mở rộng hoạt động tín dụng nhưng phải nằm trong khả năng quản lý, kiểm soát của Ngân hàng.
Thực tế đã có nhiều Ngân hàng quá đặt nặg vấn đề tăng trưởng tín dụng mà không coi trọng vấn đề an toàn, đến chất lượng, tăng dư nợ nhưng không đi kèm với việc quản lý của cán bộ tín dụng nên đã dẫn đến tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng. Dư nợ bình quân quá lớn nên cán bộ chuyên trách không thể quản lý, kiểm soát chặt chẽ món vay, Do đó khó có thể phát hiện sử dụng vốn sai mục đích, làm ăn không hiệu quả...để đình chỉ cho vay, thu hồi nợ vay Ngân hàng.
Do vậy đối với Chi nhánh song song với việc mở rộng tín dụng cung cấp cho nền kinh tế cần phải quan tâm đến khả năng kiểm soát của mình đối với các khoản tín dụng đã đầu tư.
- Trước khi cho vay, trong và sau khi cho vay các cán bộ tín dụng cần phải tiến hành thẩm định, kiểm tra, giám sát quá trình cho vay, sử dụng vốn vay có đúng với mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng hay không? Uy ttín của người đi vay thế nào?...
Hiện tại, NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ rất nhỏ 0.81% và phát sinh ở cả cho vay ngắn hạn, trung hạn nhưng không phải như vậy mà chúng ta có thể kết luận được rằng tất cả các khoản cho vay còn lại của Chi nhánh đều có chất lượng rất tốt. Bởi vì hầu hết các khoản cho vay trung dài hạn của Chi nhánh đều chưa đến hạn thu nợ. Do đó cán bộ tín dụng của Chi nhánh cần phải đặc biệt coi trọng công tác thẩm định sau khi cho vay, luôn giám sát các đơn vị vay vốn để kiểm tra việc sử dụng vốn của họ ra sao, tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng hiện tại như thế nào...Để có biện pháp sử lý kịp thời, tránh rủi ro cho Ngân hàng.
- Khi mở rộng hoạt động tín dụng để đảm bảo chất lượng đầu tư tín dụng điều không thể thiếu đối với Ngân hàng là phải có nguồn thông tin tín dụng đáng tin cậy. Nguồn thông tin này có thể là từ Trung tâm phòng ngừa rủi ro (CIC), từ phía các khách hàng vay vốn, các nguồn khác: Bao gồm nguồn thông tin trong hồ sơ Ngân hàng và những thông tin bên ngoài. Với nhiều nguồn thông tin như vậy Ngân hàng sẽ có căn cứ để phát tiền vay. Tuy nhiên với nhiều kênh thông tin, nhiều nguồn cung cấp, thông tin nhận được sẽ bị nhiễu, nhiều khi mâu thuẫn với nhau do không chính xác. Vấn đề đặt ra là Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải có đủ năng lực để chọn lọc để sử lý thông tin có hiệu quả trong việc thẩm định dự án cho vay.
- Nâng cao vai trò của công tác thanh tra kiểm soát khi mở rộng đầu tư tín dụng.
Thanh tra kiểm soát lá nghiệp vụ rất quan trọng để đảm bảo chất lượng công tác cho vay, do đó khi mở rộng hoạt động tín dụng thời hạnì vai trò của công tác thanh tra kiểm soát được đề cập ở đây không chỉ nhằm vào phía đơn thuần là kiểm tra khách hàng và còn quan trọng ở chổ phải kiểm tra thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất tiêu cực gây thất thoát tài sản, làm mất uy tín của Ngân hàng.
Tóm lại để tăng thu nhập cho Ngân hàng trong điều kiện hiện nay, hai vấn đề mở rộng đầu tư tín dụng cho mọi thành phần kinh tế và nâng cao chất lượng hiệu quả các khoản cho vay có ý nghĩa quan trọng như nhau. Tăng trưởng tín dụng góp phần tạo điều kiện cho Ngân hàng tăng nguồn thu, chất lượng các khoản cho vay cao là đảm bảo vững chắc để tăng thu nhập, hạ thấp rủi ro trong hoạt động tín dụng.
2. Đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ Ngân hàng và mở thêm các nghiệp vụ mới nhằm tăng thu nhập cho Ngân hàng.
Trong lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng, các Ngân hàng Thương mại cung ứng đến thị trường những sản phẩm có tên gọi phổ biến là các dịch vụ Ngân hàng. Hoạt động dịch vụ của Ngân hàng có xu thế ngày càng gia tăng, đặc biệt là đối với các Ngân hàng Thương mại hiện đại, dịch vụ Ngân hàng là nguồn thu chủ yếu và quan trọng. Trong cấu thành của một dịch vụ Ngân hàng thời hạn chất lượng dịch vụ là một trong thành tố quan trọng nhất quyết định đến hình ảnh, uy tín của Ngân hàng là cơ sở chủ yếu để thắt chặt mối quan hệ khách hàng ( tạo lòng trung thành) và quyết định khả năng sinh lời của Ngân hàng Thương mại. Do đó, việc thường xuyên duy trì cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các Ngân hàng Thương mại và trở thành lợi thế cạnh tranh đưa đến sự thành công của Ngân hàng.
Đối với các Ngân hàng Thương mại Việt nam nói chung hiện nay, bước đầu đã có những cải tiến đáng kể về dịch vụ Ngân hàng, chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng. Tuy nhiên phải thẳng thắn thừa nhận rằng mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng vẫn chưa được quan tâm đúng. Do đó cải tiến và nâng cấp chất lượng dịch vụ diễn ra khá chậm chạp. chưa đồng bộ, thiếu sự chắc chắn. Vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn thu của Ngân hàng từ hoạt động dịch vụ. Có thể thấy rằng, hiện nay thu nhập từ hoạt động dịch vụ của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá cũng như các Ngân hàng Thương mại khác vẫn còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu nhập. Các khoản thu từ hoạt động dịch vụ chủ yếu là thu phí dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng, còn các khoản thu từ các hoạt động dịch vụ khác như: Dịch vụ tư vấn đầu tư, cho thuê két sắt... vẫn chưa được chi nhánh chú trọng phát triển. Vì vậy để tăng thu nhập cho Ngân hàng từ thu phí dịch vụ các Ngân hàng cần phải tiến hành các biện pháp sau :
-Thực hiện tốt các dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng, trên cơ sở đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng để quá trình thanh toán qua Ngân hàng được nhanh chóng, thuận tiện, an toàn. Trang bị hệ thống máy vi tính hiện đại được nối mạng giữa các Ngân hàng trong hệ thống và với các Ngân hàng kháctrong cả nước.
Hiện nay, tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán qua Ngân hàng chiếm khoảng trên 60%, khối lượng thanh toán bằng tiền mặt ở nước ta còn quá lớn so với tổng phương tiện thanh toán. Do cơ sở hạ tầng viễn thông đảm bảo cho hệ thống thanh toán còn thiếu và yếu; Người dân vẫn có thói quen sử dụng tiền mặt; Cơ sở pháp lý còn thiếu, chưa đồng bộ và nhất quán... Vì vậy để có thể tăng khối lượng thanh toán qua Ngân hàng ngoài việc đầu tư trang bị máy móc phương tiện hiện đại, tuyên truyền vận động công chúng hiểu rõ những ích lợi sử dụng thanh toán qua ngân hàng của các Ngân hàng hiện đại, Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra những quy chế đảm bảo tính đồng bộ nhằm kích thích phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Bên cạnh những công cụ thanh toán cổ truyền như séc,... các Ngân hàng cần đưa vào sử dụng rộng rãi công cụ thanh toán không dùng tiền mặt mới hiện đại như thẻ thanh toán. Đẩy mạnh, phát triển các điểm giao dịch rút tiền mặt từ thẻ, sớm đầu tư trang bị máy ATM. ATM được xem là một trong các thiết bị bắt buộc phải có công nghệ ngân hàng hiện đại của bất kỳ các định chế tài chính nào đang trên đường phát triển. Do đó NHNo & PTNT Việt nam nên nhanh chóng đầu tư tăng cường số lượng máy rút tiền tự động để cạnh tranh thu hút khách hàng đến giao dịch.
- Mạnh dạn tiến hành các dịch vụ mang lại thu nhập ổn định cho Ngân hàng như dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn về thanh toán quốc tế, dịch vụ bảo quản chứng từ vật có giá, cho thuê két sắt ... Đây là dịch vụ mới mẻ đối với người dân Việt nam, để các dịch vụ này đem lại hiệu quả cao, Ngân hàng cần phải có chiến dịch tuyên truyền quảng cáo về những tiện ích, mức phí cụ thể ... đến từng khách hàng để họ thấy được những ưu điểm, lợi ích của những dịch vụ đem lại.
Nền kinh tế Việt nam ngày càng phát triển và từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Thị trường chứng khoán đang từng bước được chuẩn bị ra đời, các Ngân hàng sẽ trở thành những tổ chức tài chính trung gian giữa người cấp vốn và người nhận vốn đầu tư. Nhiều nghiệp vụ mới sẽ được mở ra cho Ngân hàng như: dịch vụ in ấn, bảo quản chứng khoán; làm đại lý bán chứng khoán mới phát hành; làm môi giới chứng khoán; trực tiếp kinh doanh chứng khoán ... góp phần khơi thông nguồn vốn, mở rộng đầu tư, tăng thu nhập cho Ngân hàng, tạo sự chuyển biến về tỷ trọng thu dịch vụ của Ngân hàng.
Hiện nay kinh doanh ngoại tệ vẫn được coi là mới mẻ đối với các Ngân hàng. Khoản thu về kinh doanh ngoại tệ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong Tổng thu nhập của Ngân hàng. Để tạo điều kiện cho các mối quan hệ thương mại cũng như việc giao lưu kinh tế - xã hội phát triển. Ngân hàng cần phải đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cụ thể như:
- Đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh.
Dolla Mỹ vẫn là hàng hoá chính, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh. Bởi vì hiện nay USD vẫn là loại ngoại tệ mạnh nhất và được chấp nhận thanh toán phổ biến tại tất cả các thị trường quốc tế. Các khách hàng vẫn tín nhiệm sử dụng USD trong các hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Trong thời gian sắp tới, khi mà các nước Châu á khôi phục lại nền kinh tế sau khủng hoảng tiền tệ và thị trường Châu á dần chiếm được lòng tin của các đối tác phương Tây thì hoạt động xuất nhập khẩu của Việt nam cũng sẽ có nhiều tăng trưởng lên.
Ngoài ra Ngân hàng cũng nên nghiên cứu về khả năng mua bán đồng euro khi được phép. Hiện nay thị trường Việt nam còn đang dè dặt với loại ngoại tệ này. Nhất là thời gian này do khủng hoảng chiến sự ở Châu âu làm cho đồng euro bị giảm giá trị từ 10 - 12%. Nhưng triển vọng trong tương lai không xa đồng euro sẽ lên ngôi, cạnh tranh vị trí số 1 của USD, trở thành một trong những công cụ dự trữ lớn trong nhiều nước trên thế giới.
Ngân hàng cần chuẩn bị sẽ từ khâu khai thác nguồn cho đến khâu giao dịch, thanh toán để có thể nhanh chóng thoả mãn mọi nhu cầu phát sinh, thích ứng ngay với cơ hội kinh doanh mới. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng cần tạo điều kiện thuận lợi, Marketing hướng dẫn khách thực hiện giao dịch bằng các ngoại tệ khác USD.
- Đa dạng hoá các loại hình giao dịch.
Hiện nay Ngân hàng chủ yếu tiến hành giao dịch Spot và một số giao dịch Forward. Ngân hàng cũng có thể thực hiện được giao dịch Swap nhưng chưa có đối tác, loại hình này chưa phổ biến trên thị trường hối đoái nước ta. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ nói chung còn mang tính sơ khai, đơn giản, sắp tới NHNN đang nghiên cứu để đưa vào thực hiện thêm nhiều loại hình giao dịch mới như Option, Future... Khi thị trường phát triển toàn diện hơn những hình thức này thực sự trở thành phương tiện để phòng ngừa rủi ro hữu hiện và cũng là công cụ để các nhà kinh doanh có đầu óc có thể đầu cơ thu lợi thì chúng sẽ phát triển mạnh mẽ với nhiều sự biến dạng khác nhau. Do vậy cán bộ kinh doanh đối ngoại cần phải được chuẩn bị sẵn sàng về nghiệp vụ chuyên môn, nắm vững các quy định của NHNN va NHNO Trung ương về quy trình thực hiện. Ngân hàng nghiên cứu áp dụng linh hoạt sáng tạo các quy định này sao cho phù hợp với đặc điểm của Ngân hàng, tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng trong các khâu, các thủ tục giao dịch. Cán bộ phụ trách phải nhạy bén, tỉnh táo để khai thác có hiệu quả các công cụ này, đáp ứng nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng.
Để tăng thu nhập cho Ngân hàng từ nguồn thu dịch vụ, bên cạnh việc Ngân hàng đầu tư công nghệ hiện đại, đa dạng hoá các loại dịch vụ, phát triển những dịch vụ mới ... một điều mà Ngân hàng không thể không coi trọng đó là vấn đề nhân lực. Những cán bộ thực hiện các công việc này phải có trình độ nghiệp vụ, có khả năng sử dụng các loại máy móc hiện đại, có khả năng giao tiếp... Có như vậy chất lượng dịch vụ ngân hàng mới được nâng cao, tăng uy tín và khả năng cạnh tranh, từ đó góp phần tăng thu nhập cho Ngân hàng.
3. Tăng cường uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau từ đó không ngừng tăng quy mô và chất lượng nguồn vốn huy động.
Trong nền kinh tế thị trường, các Ngân hàng luôn cạnh tranh gay gắt vơíi nhau, khách hàng là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Khách hàng có toàn quyền lựa chọn Ngân hàng để phục vụ cho mình và uy tín của Ngân hàng là điều kiện đầu tiên để thu hút khách hàng. Ngân hàng phải tìm mọi cách để tạo ra được một hình ảnh đẹp của mình đối với khách hàng.
- Đảm bảo đầy đủ khả năng thanh toán, chi trả và đáp úng nhu cầu tín dụng bất cứ lúc nào của khách hàng. Ngân hàng phải tổ chức thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn để gây được lòng tin của Ngân hàng đối với khách hàng.
- Các cán bộ Ngân hàng khi đi tiếp xúc với khách hàng phải niềm nở, phục vụ tận tình và tác phong nhanh nhẹn để tạo được hình ảnh tốt của Ngân hàng đối với khách hàng.
- Ngân hàng cần có biện pháp để thu hút tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, có chính sách hợp lý để khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân như phục vụ các dịch vụ đối với khách hàng với phí thấp và nhiều lợi ích khác cho khách hàng. Từ đó có biện pháp khai thác triệt để nguồn vốn này nhưng không để xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán ảNgân hàng hưởng đến uy tín của Ngân hàng.
Ngân hàng nên áp dụng và phát triển thể thức tiết kiệm dài hạn, trả lãi hàng tháng, nhận và trả tiền gửi tiết kiệm tại nhà theo yêu cầu của khách hàng qua điện thoại (có thu dịch vụ phí thấp). Những thể thức này đáp ứng được yêu cầu của những khách hàng cao tuổi, không tham gia vào kinh doanh có khoản tiền lớn muốn gửi vào Ngân hàng lĩnh lãi hàng tháng để đảm bảo cuộc sống và tránh những rủi ro khi mang tiền trên đường đi.
II. Một số biện pháp quản lý, tiết kiệm các khoản chi phí của Ngân hàng.
Giảm hợp lý các khoản chi phí của là một trong những biện pháp hữu hiệu để làm cho kết quả kinh doanh của Ngân hàng ngày càng được nâng cao.
Chi phí của Ngân hàng rất đa dạng và phong phú nhưng có thể khái quát làm hai khoản chi lớn là chi cho hoạt động kinh doanh và chi phí quản lý. Để tiết kiệm chi phí của Ngân hàng có nghĩa là tiết kiệm hai khoản chi này.
Đối với chi cho hoạt động kinh doanh, chủ yếu là chi phí cho việc huy động vốn, huy động vốn càng nhiều, chi phí cho việc huy động càng lớn là một điều tất yếu. Giảm được chi phí này là giảm tỷ lệ chi phí trên tổng huyđộng vốn. Do vậy Ngân hàng cần phải phát huy tăng cường các nguồn vốn huy động với giá rẻ như huy động vốn dưới hình thức tiền gửi giữ hộ và tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế có chi phí đầu vào thấp nhất. Đồng thời phải giảm tối đa các nguồn vốn huy động với giá cao như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, các nguồn vốn đi vay... Để giảm lãi suất huy động bình quân của Ngân hàng xuống còn mức thấp nhất nhằm giảm chi phí huy động cho Ngân hàng.
Để Ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn lớn với chi phí đầu vào nhỏ nhất (lãi suất thấp) là tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế, phụ thuộc vào mạng lưới của Ngân hàng phải rộng, có uy tín. Đây là điều mà hiện nay hệ thống NHNo & PTNT Việt nam đang có lợi thế, với mạng lưới chi nhánh rộng khắp, hệ thống thanh toán liên hàng đang được nâng cấp, hệ thống NHNo & PTNT có đủ điều kiện để trở thành một tăng trung tâm thanh toán ở Việt nam. Do vậy, đối với NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá ngoài việc tăng cường mối quan hệ với các khách hàng là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi, phục vụ dịch vụ thanh toán. Cùng với NHNo & PTNT Việt nam, Chi nhánh cần phải có chính sách thu hút các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và các Ngân hàng Thương mại Cổ phần có ít hoặc không có mạng lưới để làm đại lí thanh toán cho họ, kéo theo họ là các khách hàng cũng sẽ mở tài khoản tại Chi nhánh và các chi nhánh khác trong hệ thống. Như vậy nguồn tiền gửi thanh toán sẽ tăng lên rất nhiều Chi nhánh có thể sử dụng nguồn vốn đó để kinh doanh, giảm được chi phí huy động vốn.
Ngoài ra nếu Chi nhánh tích cực tìm mọi cách để khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân cũng sẽ giúp cho Chi nhánh có được nguồn vốn đáng kể cho hoạt động kinh doanh với chi phí rẻ.
Đối với chi phí quản lý phục vụ cho các hoạt động kinh doanh như: chi khấu hao Tài sản cố định, mua sắm công cụ lao động, vật liệu giấy tờ in,... Ngân hàng nên có kế hoạch chi trên cơ sở vốn được cấp và theo lệnh của Giám đốc Chi nhánh. Đối với khoản chi lương, đây là khoản chi hết sức quan trọng, đo đó việc chi lương phải thực hiện nghiêm túc theo hệ số được duyệt. Bên cạnh đó Chi nhánh cần phải có biện pháp sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, đào tạo và sử dụng lao động theo chuyên môn, sở trường của từng người, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Nêu năng suất lao động cao, có thể mức chi lương cao bình quân cao nhưng lại chiếm tỷ lệ nhỏ so với hiệu quả thu được.
Đối với các khoản chi theo định mức, dự toán và chi khoán, Ngân hàng cần phải quản lý chặt chẽ và khống chế mức chi trong dự toán đã được duyệt, để tránh trường hợp chi lãng phí. Các khoản chi này phải được Giám đốc Chi nhánh phê duyệt.
Ngoài ra tồn quỹ tiền mặt tại Ngân hàng cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
Tiền mặt tồn quỹ tại Ngân hàng là tài sản có không sinh lời. Cũng giống như tồn kho của doanh nghiệp, thế nhưng tiền mặt không thể tồn quỹ bằng không. Do tiền mặt tại quỹ đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của Ngân hàng góp phần đảm bảo uy tín của Ngân hàng với khách hàng, do đó việc định mức tồn quỹ tiền mặt tại Ngân hàng đảm bảo sao cho Ngân hàng có đủ khả năng chi trả, đảm bảo uy tín Ngân hàng đối với khách hàng và tối đa hoá lợi nhuận.
Hiện nay, việc định mức tồn quỹ tiền mặt của NHNo & PTNT Việt Nam là ấn định từ trên xuống, nó ảnh hưởng đến sự chi trả của các chi nhánh, dẫn đến chi nhánh thừa vốn, lãng phí vốn. Mặt khác việc chấp hành định mức tồn quỹ tại chi nhánh chưa nghiêm, thường thường số vốn này thừa 150 triệu. Nếu bình quân 1 chi nhánh thừa 150 triệu đồng, thì toàn bộ hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam sẽ thừa là : 150 triệu x 600 chi nhánh = 90 tỷ đồng.
Nếu đem nguồn vốn này nhân với lãi suất 0,5% thì một con số chi phí tăng lên là : 450 triệu đồng.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cần phải có biện pháp cho đơn vị cơ sở xây dựng định mức tốn quỹ tiền mặt của mình dựa theo số liệu lịch sử của các năm và trên cơ sở tỷ lệ tồn quỹ tiền mặt của các nguồn vốn để xác định định mức tồn quỹ. Hơn nữa, kiểm tra nghiêm về thực hiện định mức tồn quỹ và phạt trừ vào quỹ thu nhập của những đơn vị không chấp hành nghiêm định mức tồn quỹ tiền mặt, tránh lãng phí không cần thiết ./.
kết luận
NHNo & PTNT Việt nam là một đơn vị hạch toán độc lập và cũng như mọi doanh nghiệp khác đều phải không ngừng nâng cao khả năng tài chính của mình để tiến hành kinh doanh có lãi. Muốn vậy, ngoải việc đưa ra các biện pháp khơi tăng các nguồn thu ổn định, giảm chi phí một cách hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận, các Ngân hàng còn phải nhạy bén nắm bắt tốc độ phát triển sản xuất trong nước ở từng thời điểm để xác định mức lãi suất hợp lý. Sự cân đối giữa khối lượng, lãi suất huy động vốn và cho vay là điều cần thiết mà mọi Ngân hàng phải đầu tư nghiên cứu. Điều này có nghĩa là Ngân hàng phải tìm mọi biện pháp để giảm chi phí của bản thân để mức lãi suất cho vay và lãi suất huy động xích lại gần nhau mới khuyến khích được sản xuất, đồng thời đảm bảo nguồn thu nhập ổn định và ngày càng tăng giúp cho Ngân hàng ngày càng phát triển một cách vững chắc.
Quản trị kinh doanh Ngân hàng an toàn và hiệu quả, tăng thu giảm chi nâng cao lợi nhuận trong cơ chế thị trường cạnh tranh là vấn đề bức xúc hiện nay.
Kinh doanh Ngân hàng là lĩnh vực đặc thù nên phải chịu nhiều rủi ro và tuỳ thuộc rất lớn vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp, vào tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế. Vì vậy phải được mở rộng đa dạng hoá nhằm phân tán rủi ro. Đồng thời tăng cường quản lý thu chi tài chính, đặc biệt là giảm chi để kinh doanh có lãi.
Qua quá trình thực tập nghiên cứu tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá được sự giúp đỡ của Ban giám đốc, các cô chú cán bộ của Chi nhánh cùng sự chỉ bảo tận tình của thầy Đinh Đức Thịnh và các thầy cô giáo Khoa Kế toán - Kiểm toán - Học viện Ngân hàng. Em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Kế toán thu nhập - chi phí và xác định kết quả kinh doanh tại NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp”. Trong đó, em đã trình bày những vấn đề lý luận thực tiễn về thực trạng thu chi tài chính của Chi nhánh và mạnh dạn nêu ra một số giải pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, hạn chế đến mức tối thiểu các rủi ro trong hoạt động của NHNo & PTNT Chi nhánh số 7 tỉnh Thanh Hoá nói riêng và NHNo & PTNT Việt nam nói chung.
Tuy nhiên với thời gian thực tập có hạn, kiến thức bản thân còn hạn chế sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, vướng mắc. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo Học viện Ngân hàng và các cô chú cán bộ nhân viên của Chi nhánh NHNo & PTNT Việt nam cùng tất cả bạn đọc quan tâm tới đề tài này để nó được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn !
Tài liệu tham khảo
Các văn bản Pháp lệnh Ngân hàng Việt Nam.
Kế toán các nghiệp vụ Ngân hàng.
Quyết định 248/2000 - QĐ-NHNN1.
Quyết định 180/1998 - QĐ-HĐBT.
Quy trình hạch toán kế toán và xử lý thông tin trong công nghệ tin học Ngân hàng.
Tài liệu tập huấn nghiệp vụ.
Các tạp chí, bản tin Ngân hàng.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Nhận xét của giáo viên chấm phản biện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28215.doc