LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHÁM NGHIỆM 4
HIỆN TRƯỜNG 4
1. Khái niệm hiện trường và phân loại hiện trường 4
1.1. Khái niệm 4
1.2. Phân loại hiện trường 6
2. Vai trò của khám nghiệm hiện trường trong điều tra hình sự 8
3. Phương pháp khám nghiệm hiện trường 12
3.1. Phương pháp khám nghiệm hiện trường theo khu vực (phương pháp chia ô) 13
3.2. Phương pháp khám nghiệm hiện trường dựa vào phương thức gây án đã được nhận định 13
3.3. Phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc từ ngoài vào trung tâm hoặc từ trung tâm ra ngoài 14
3.4. Phương pháp khám nghiệm theo đường song song 15
3.5. Phương pháp khám nghiệm theo cách cuốn chiếu 15
CHƯƠNG II 17
TRÌNH TỰ KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG 17
1. Chuẩn bị khám nghiệm hiện trường 17
1.1. Chuẩn bị trước khi đến hiện trường 17
1.1.1. Chuẩn bị lực lượng 17
1.1.2. Chuẩn bị phương tiện 19
1.2. Chuẩn bị khi đến hiện trường 19
2. Tiến hành khám nghiệm hiện trường 20
2.1. Quan sát hiện trường (khám nghiệm sơ bộ) 21
2.2. Khám nghiệm tỉ mỉ 23
3. Kết thúc khám nghiệm hiện trường 28
3.1. Họp rút kinh nghiệm 28
3.2. Đánh giá sơ bộ dấu vết, vật chứng và những tin tức, tài liệu thu được tại hiện trường 29
3.3. Đóng gói, niêm phong và vận chuyển dấu vết, vật chứng 30
4. Các văn bản của công tác khám nghiệm hiện trường 32
4.1. Biên bản khám nghiệm hiện trường 32
4.2. Sơ đồ hiện trường 33
4.3. Bản ảnh hiện trường 34
4.4. Báo cáo khám nghiệm hiện trường 35
CHƯƠNG III 36
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG 36
1. Thực trạng hoạt động khám nghiệm hiện trường trong thời gian qua 36
1.1. Kết quả 36
Tổng số vụ 37
1.2. Những tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân 38
2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của khám nghiệm hiện trường trong điều tra hình sự 40
2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 40
2.2. Cần nâng cao năng lực của điều tra viên và kỹ thuật viên khám nghiệm hiện trường 42
2.3. Bổ sung phương tiện kỹ thuật hình sự hiện đại cho công tác khám nghiệm hiện trường 43
2.4. Cần làm tốt công tác bảo vệ hiện trường 45
2.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia khám nghiệm hiện trường và với các lực lượng nghiệp vụ khác 46
KẾT LUẬN 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3713 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khám nghiệm hiện trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trên hiện trường là một công việc hết sức khó khăn, phức tạp. Vì vậy, khi phát hiện được một dấu vết, vật chứng nào đó cần phải phân tích, đánh giá chúng, tìm mối liên hệ giữa chúng với những dấu vết, vật chứng khác, mối liên hệ logic này được xuyên suốt trong quá trình tìm – thu dấu vết, vật chứng tại hiện trường.
Một hệ thống dấu vết nhất định được tạo ra trong một phương thức, thủ đoạn hoạt động nhất định, hay nói một cách khác, mỗi một phương thức thủ đoạn hoạt động nhất định của bọn tội phạm đều gây ra và để lại hiện trường một hệ thống dấu vết đặc trưng cho nó. Vì vậy, trong khi tìm kiếm dấu vết, vật chứng, điều tra viên cần phải tính xem sẽ gặp những loại dấu vết, vật chứng nào? ở đâu?... Có những trường hợp nếu biết rõ nạn nhân chết vì bị bắn thì sẽ hướng cho nhân viên khám nghiệm hiện trường đi tìm đầu đạn hay vỏ đạn ở hiện trường. Ví dụ, vụ án anh Sơn trú tại ấp Tân Thuận, xã Tân Tiến, Bình Phước bị cướp - giết ngày 26/1/2006.
Nội dung vụ việc: Ngày 09/02/2006, hai xác chết được phát hiện trên đất nước Campuchia gần địa bàn huyện Lộc Linh, tỉnh Bình Phước. Qua khám nghiệm ban đầu nhận định nạn nhân bị chết do bị bắn, hiện trường là nơi không dân cư, đường xá đi lại rất khó khăn và có nhiều đơn vị bộ đội và công an tỉnh bạn đóng tại khu vực này. Từ nhận định về nguyên nhân chết của nạn nhân, các điều tra viên tiến hành tìm kiếm và thu lượm được năm vỏ đạn tại hiện trường. Qua giám định xác minh năm vỏ đạn này và những đầu đạn trên cơ thể hai nạn nhân là của cùng một khẩu súng (loại AK - loại súng mà các lực lượng bộ đội biên phòng hay sử dụng).
Ngày 11/02/2006, chị Nguyễn Thị Huệ trú tại ấp Tân Thuận, Tân Tiến, Bình Phước đã xác nhận một trong hai nạn nhân là anh Sơn, chồng của chị, người còn lại là bạn của anh Sơn, hai người thường cùng nhau đem tiền qua biên giới buôn bán thuốc lá lậu. Sự việc: ngày 26/01/2006, anh Sơn cùng rủ anh Huy (là người cùng huyện) qua biên giới mua thuốc lá của một người Campuchia để mang về bán lại tại Việt Nam. Đi qua địa bàn huyện Lộc Linh, qua biên giới, hai anh bị bắn chết và bị cướp toàn bộ số tiền mang theo. Lực lượng công an Việt Nam đã hỗ trợ lực lượng công an Campuchia khám nghiệm hiện trường và điều tra vụ án trên. Qua những vỏ đạn tìm được tại hiện trường và đầu đạn tìm được trên người nạn nhân, công an hai nước đã xác định khẩu súng là của Ensa Gôn, lính bảo vệ biên giới của Campuchia. Qua điều tra được biết Gôn cùng một nhóm lính bảo vệ biên giới nữa thường xuyên bỏ doanh trại đi buôn bán hàng lậu với người Việt Nam kiếm lời. Do đã quen biết với anh Sơn và biết được thói quen của anh Sơn (thường giấu tiền trên mũ) và thời gian, con đường anh Sơn hay đi, Gôn rủ Phia giết và cướp tài sản của anh Sơn trên đường anh Sơn qua biên giới mua bán thuốc lá lậu. (1) Nguồn: www.vtc.com.vn
Ngoài ra, trường hợp hiện trường bị xáo trộn có thể phải dựng lại theo sự trình bày của người biết việc nhằm kết hợp kết quả phân tích, nghiên cứu, đánh giá các dấu vết, vật chứng đã phát hiện được với tình trạng hiện trường được xây dựng lại mà rút ra nhận xét xác đáng về diễn biến của sự việc, hành động của thủ phạm.
Mặt khác, đối với hiện trường thiếu dấu vết hay dấu vết tồn tại ở những nơi mâu thuẫn với phương thức gây án, đây là những dấu hiệu quan trọng để có thể đặt ra được những giả thuyết về sự giả tạo hiện trường, đánh lạc hướng quá trình điều tra tại hiện trường. Ví dụ như đối với hiện trường có người chết, các điều tra viên cần chú ý
tới tình trạng hiện trường trong mối quan hệ với tư thế, dáng điệu của nạn nhân cũng như các dấu vết khác... Mặt khác, các đồ vật do những người không liên quan đến sự việc xảy ra vứt lại, hoặc bỏ quên ở hiện trường cũng có thể gây nhầm lẫn đối với các cán bộ điều tra và do đó công tác điều tra cũng có thể bị lạc hướng...
Trong khi củng cố và tiến hành thu lượm tất cả những dấu vết, vật chứng phải đảm bảo những yêu cầu kĩ thuật và tính pháp lí của nó, đảm bảo những dấu vết thu được tại hiện trường có thể trở thành chứng cứ được tòa án chấp nhận khi tiến hành xét xử vụ án. Do đó, cần phải tính toán những dấu vết xét thấy cần thiết và sử dụng những biện pháp kĩ thuật thích hợp để thu lượm những dấu vết đã phát hiện được.
Thu mẫu so sánh là một công việc cần thiết. Bởi trong quan hệ tìm - thu dấu vết còn một vấn đề quan trọng là đối tượng gây ra dấu vết đồng thời cũng có thể là đối tượng mang dấu vết. Khi thu mẫu so sánh phải đảm bảo thu được những mẫu cùng loại, có liên quan đến dấu vết cần giám định và đúng yêu cầu kĩ thuật, đủ yếu tố giám định.
Một yêu cầu quan trọng trước khi thu lượm dấu vết, vật chứng tại hiện trường, đó là việc chụp ảnh, mô tả, vẽ sơ đồ nhằm ghi nhận toàn bộ vị trí của dấu vết, vật chứng đã được phát hiện.
Những công việc cụ thể của giai đoạn này được quy định ở khoản 3 điều 150 Bộ luật TTHS như sau:
“Khi khám nghiệm hiện trường, Điều tra viên tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm hiện trường.
Trong trường hợp không thể xem xét ngay được thì đồ vật và tài liệu thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra”.
* Quá trình phát hiện và thu lượm dấu vết, vật chứng: sau khi khám xét sơ bộ, chụp ảnh (ảnh toàn cảnh, ảnh định hướng), phác hoạ sơ đồ hiện trường ở giai đoạn quan sát hiện trường, các dấu vết, vật chứng có thể được thu lượm.
Cần chú ý là trong suốt quá trình tồn tại, mọi dấu vết đều chịu sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan dẫn tới những thay đổi cho tới khi bị phá hủy hoàn toàn. Các yếu tố gây ra sự thay đổi của dấu vết có thể là:
- Những tác động bên ngoài;
- Thời gian dấu vết chịu tác động;
- Tính bền vững tương đối của từng dấu vết trước những tác động đó.
Do đó, trong quá trình phát hiện và thu lượm dấu vết cần thực hiện tốt các nguyên tắc sau:
- Loại trừ những yếu tố tác động vào dấu vết;
- Tiến hành phát hiện và thu lượm với khả năng nhanh nhất để rút ngắn thời gian dấu vết chịu ảnh hưởng của những tác động bên ngoài;
- Dùng những phương tiện, phương pháp phát hiện và thu lượm thích hợp nhất đối với từng loại dấu vết, tránh làm giảm chất lượng hoặc làm hỏng dấu vết;
- Việc phát hiện và thu lượm từng dấu vết phải theo một trình tự, đó là những dấu vết dễ bị thay đổi, phá hủy phải được thu lượm trước như dấu vết hơi, vi vết. Đồng thời sử dụng những phương pháp phát hiện và thu lượm dấu vết theo trình tự ít ảnh hưởng đến dấu vết trước: chụp ảnh - vẽ sơ đồ - mô tả, dùng đèn chiếu xiên phát hiện...;
- Phải thu lượm tất cả dấu vết, vật chứng tồn tại ở hiện trường, không coi trọng một số dấu vết hoặc lời khai mà bỏ qua những dấu vết khác, vì ở thời điểm này chưa thể xác định được giá trị của từng dấu vết.
Các bước trong quá trình phát hiện và thu lượm dấu vết ở hiện trường theo các trình tự sau:
Bước 1: Về nguyên tắc, trước hết tiến hành các biện pháp phát hiện dấu vết.
Khi bước vào hiện trường, cán bộ khám nghiệm hiện trường cần tiến hành công việc hết sức cẩn thận, luôn lưu ý đến các dấu vết có thể có ở trên cửa ra vào, quả đấm cửa, công tắc điện.v.v... đồng thời chú ý quan sát phía trên trần nhà (nếu là hiện trường trong nhà), thậm chí ngay cả khi đã được thông báo rằng các dấu vết có thể không tìm được.
Các phương tiện và phương pháp thường dùng để phát hiện dấu vết là:
- Đèn chiếu xiên, dùng đèn chiếu xiên quan sát từ nhiều góc độ khác nhau có thể phát hiện được các loại dấu vết: dấu vết xước, các dấu vết in không màu (dấu vết chân, giày dép, đường vân); một số loại vi vết như tơ, sợi, vi vật thể như mảnh thủy tinh, kim loại, hóa chất, dấu vết máu, các chất thải của cơ thể.
- Các loại bột ( bột nhôm, bột đồng, bột sắt, bột mồ hóng, bột than, bột Manife.v.v...) để phát hiện dấu vết đường vân.
- Các loại hóa chất như: i ốt, benzidin, nitrat bạc để phát hiện dấu vết đường vân; và các loại hóa chất như liminol, benzidin để phát hiện dấu vết máu.
- Dùng đèn tử ngoại (UV) để phát hiện những dấu vết có tính phát quang (ví dụ: dấu vết máu, tinh dịch, dịch âm đạo.v.v...).
- Phát hiện dấu vết dựa vào sự tồn tại của những dấu vết khác. Ví dụ: dấu vết hơi ở những vật thủ phạm đã cầm vào; dấu vết sợi dính vào cửa bị cậy phá.v.v...
Bước 2: Xác định mối liên quan giữa các dấu vết đã phát hiện được. Từ đó thiết lập nhận định về quá trình diễn biến của hành vi tại hiện trường.
Bước 3: Đánh dấu những dấu vết đã phát hiện được bằng số. Điều tra viên đặt những tấm bìa ghi số thứ tự đánh dấu lần lượt những nơi có dấu vết theo trình tự hành động của thủ phảm ở hiện trường đã nhận định. Đây cũng chính là số của dấu vết ghi trong biên bản khám nghiệm hiện trường.
Bước 4: Chụp ảnh hiện trường. Khi chụp ảnh cần chú ý, tất cả những tấm bảng đánh số dấu vết cần đặt quay về hướng chụp ảnh.
Bước 5: Mô tả, vẽ sơ đồ vị trí dấu vết và mối quan hệ của chúng.
Bước 6: Chụp ảnh từng dấu vết (mỗi dấu vết chụp hai ảnh, một ảnh chụp vị trí và một ảnh chụp chi tiết dấu vết).
Bước 7: Đo đạc và vẽ sơ đồ chi tiết dấu vết.
Bước 8: Thu lượm dấu vết, vật chứng bằng những phương pháp thích hợp nhât, trong đó ưu tiên phương pháp thu cả vật mang dấu vết.
Bước 9: Đóng gói những dấu vết đã thu lượm theo đúng quy định, tránh mọi sự tiếp xúc giữa các dấu vết, vật chứng.
Bước 10: Đánh số dấu vết đã thu lượm và viết vào biên bản khám nghiệm hiện trường. Tránh sự lẫn lộn giữa các dấu vết với nhau và với mẫu so sánh.
3. Kết thúc khám nghiệm hiện trường
3.1. Họp rút kinh nghiệm
Lực lượng khám nghiệm hiện trường tiến hành họp sau khi khám nghiệm xong với mục đích rà soát lại toàn bộ công tác khám nghiệm, kiểm tra lại nhằm đảm bảo tính khách quan, toàn diện trong quá trình nghiên cứu, phát hiện, thu lượm, bảo quản dấu vết, vật chứng theo đúng yêu cầu kĩ thuật và pháp luật. Đây là một hoạt động cần thiết, ngoài việc xem xét lại các dấu vết, vật chứng thu thập được ở hiện trường, hoạt động này còn giúp chính lực lượng khám nghiệm xem xét lại mình về tổ chức đồng thời đúc rút những kinh nghiệm cần thiết cho những lần khám nghiệm sau, đặc biệt là những kỹ thuật viên trẻ.
Sau khi họp rút kinh nghiệm cần tiến hành thông qua biên bản khám nghiệm hiện trường ngay tại hiện trườg. Biên bản khám nghiệm hiện trường do điều tra viên lập và được những người tiến hành, tham gia và chứng kiến cuộc khám nghiệm thông qua và ký xác nhận.
3.2. Đánh giá sơ bộ dấu vết, vật chứng và những tin tức, tài liệu thu được tại hiện trường
Công việc này được tiến hành ngay sau khi lực lượng khám nghiệm tiến hành hội ý rút kinh nghiệm. Việc sơ bộ nghiên cứu, đánh giá dấu vết, vật chứng và những tài liệu thu được ở hiện trường nhằm đánh giá được sự việc đã xảy ra. Các tài liệu thu nhận được ở hiện trường có thể được đánh giá qua các nguồn tin báo, lời khai người báo tin, tố giác, người bị hại, nhân chứng...
Để rút ra được các thông tin về: đối tượng, quá trình xảy ra sự việc... lực lượng khám nghiệm cần đánh giá sơ bộ các dấu vết, vật chứng thu được ở hiện trường, đồng thời tiến hành đánh giá các di biến động của các đối tượng trên địa bàn, nơi xảy ra sự việc, đánh giá về dư luận quần chúng đối với sự việc xảy ra...
Dấu vết vật chứng cần được đánh giá theo hai phương pháp:
- Đánh giá từng dấu vết, vật chứng để từ đó khai thác giá trị thông tin thông báo của từng dấu vết, vật chứng;
- Đánh giá theo tổ hợp, hệ thống của các dấu vết, vật chứng nhằm tìm được giá trị thông tin thông báo về quá trình hoạt động của tội phạm trên hiện trường.
Quá trình đánh giá sơ bộ dấu vết, vật chứng và những tin tức, tài liệu tại hiện trường nhằm rút ra các kết luận sau:
- Thời gian và tính chất của sự việc xảy ra;
- Đối tượng bị xâm hại;
- Hậu quả, tác hại;
- Động cơ, mục đích, thói quen và trạng thái tâm lí của người để lại dấu vết, vật chứng tại hiện trường;
- Phương thức, thủ đoạn hoạt động của người này;
- Số lượng người đã thực hiện hành vi;
- Phương tiện, công cụ thực hiện hành vi;
- Thủ đoạn che dấu hành vi.
Các kết luận này tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ ra phương hướng điều tra tiếp theo được đúng hướng, sát với thực tế của vụ việc và những công việc phải hoàn thành trong thời gian tới của các lực lượng.
3.3. Đóng gói, niêm phong và vận chuyển dấu vết, vật chứng
Việc đóng gói, niêm phong và vận chuyển dấu vết cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Bảo quản theo đúng yêu cầu luật định (Điều 75 – BLTTHS);
- Tránh mọi tác động tiếp xúc từ bên ngoài;
- Tránh mọi khả năng đổ vỡ, va chạm giữa dấu vết, vật chứng với nhau và với các vật khác;
- Chống sự hủy hoại do quá trình thối rữa, mốc, ôxy hóa, ăn mòn hoặc do các phản ứng lí, hóa học khác;
- Tránh làm bẩn, tránh mọi sự tiếp xúc giữa dấu vết, vật chứng với nhau, với mẫu so sánh, với dụng cụ đóng gói hoặc với các vật khác;
- Tránh gây nhầm lẫn giữa dấu vết, vật chứng và mẫu so sánh do việc ghi nhận, đánh dấu không rõ ràng.
Bảo quản dấu vết, vật chứng thu được tại hiện trường là một công việc quan trọng và mang ý nghĩa to lớn đối với hoạt động khám nghiệm hiện trường nói riêng và công tác điều tra hình sự nói chung. Những nhầm lẫn phạm phải trong khi thẩm vấn hoặc ở những lĩnh vực khác của cuộc điều tra sơ bộ có thể sửa chữa được nhưng nhầm lẫn phạm phải trong khi khám nghiệm hiện trường cũng như bảo quản dấu vết, vật chứng thì không thể sửa chữa lại được. Để đạt được những yêu cầu đã nêu trên, việc bảo quản, vận chuyển dấu vết, vật chứng cần phải được thực hiện theo những nguyên tắc sau:
- Dấu vết, vật chứng và mẫu so sánh phải được đóng gói từng vật tách rời nhau, tránh mọi khả năng tiếp xúc với nhau;
- Những vât dính máu, ẩm ướt như quần áo, giầy dép... phải để nơi thoáng gió dưới bóng râm cho khô trước khi đóng gói để tránh mốc, thối, mục làm hỏng dấu vết, vật chứng;
- Mọi dấu vết, vật chứng và mẫu so sánh thu được phải được đóng gói trong những dụng cụ phù hợp:
+ Các chất ăn mòn phải được đựng trong các dụng cụ không bị ăn mòn;
+ Lông, tóc, sợi hoặc các vật thể nhỏ phải được bảo quản trong các dụng cụ sạch sẽ như túi polyetilen, lọ thủy tinh.v.v... tránh bị dính các loại tạp chất;
+ Mọi vật chứng, đặc biệt là các đồ vật dễ vỡ phải có cách đóng gọi như buộc, dính bằng băng dính và có lót tránh mọi sự lay động, va chạm và làm rơi đổ vỡ.
- Cần phải giữ nguyên trạng thái của các dấu vết, vật chứng khi đóng gói, ví dụ tại hiện trường tìm được các loại dao gập, kìm, kéo.v.v... thì cần phải giữ nguyên trạng thái của chúng như khi thu thập (không gập dao lại, không đóng kìm, kéo lại). Riêng đối với súng cần phải tháo đạn và khóa chốt an toàn.
- Các loại chất độc, chất nổ, chất dễ cháy, vũ khí, đạn và các vật nguy hiểm khác phải được đóng gói an toàn đúng theo quy định đối với từng loại. Bên ngoài vỏ bọc phải ghi rõ tên vật, mức độ nguy hiểm, cần tránh gì, những kí hiệu chú ý khi vận chuyển (ví dụ: “dễ vỡ”, “tránh nước”, “chất cháy”, “chất nổ”...).
- Phải ghi đầy đủ những thông tin cần thiết kèm theo vật mang dấu vết hoặc viết lên đồ đóng gói để tránh thất lạc. Những thông tin này bao gồm: vụ gì; ở đâu; ngày – tháng – năm xảy ra; ngày – tháng – năm thu giữ; tên dấu vết, vật chứng; số lượng; trên đồ vật mang vết nào; phương pháp thu; người thu...
- Vỏ ngoài của vật liệu đóng gói phải bền vững trong quá trình vận chuyển. Vật liệu dùng bao gói dấu vết, vật chứng thường là; giấy, bìa các - tông, gỗ, hộp nhựa, chai lọ thủy tinh, kim loại, túi polietilen. Dụng cụ bao gói cần phải sạch, riêng túi polietilen chỉ được dùng một lần.
Quá trình vận chuyển các dấu vết, vật chứng đảm bảo giữ gìn cẩn thận, tránh mọi hư hỏng, đặc biệt là các chất như: chất độc, chất dẽ cháy nổ...
4. Các văn bản của công tác khám nghiệm hiện trường
Các văn bản của công tác khám nghiệm hiện trường gồm:
- Biên bản khám nghiệm hiện trường;
- Sơ đồ hiện trường;
- Bản ảnh hiện trường;
- Báo cáo khám nghiệm hiện trường.
4.1. Biên bản khám nghiệm hiện trường
Biên bản khám nghiệm hiện trường có thể là chứng cứ pháp lí theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 tại các Điều 64 (Chứng cứ) và Điều 77 (Biên bản về hoạt động điều tra và xét xử).
Như vậy, biên bản khám nghiệm hiện trường là một tài liệu pháp lý ghi nhận tình hình thực tế khách quan ở hiện trường và kết quả của công tác khám nghiệm hiện trường. Việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường được quy định cụ thể ở các Điều 150 (khoản 3) và Điều 154 - Bộ luật TTHS năm 2003. Hình thức và nội dung biên bản khám nghiệm hiện trường được lập theo mẫu của loại biện bản này do Bộ Công an ban hành.
Các yêu cầu đối với một biên bản khám nghiệm hiện trường gồm:
- Việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường cần được thực hiện theo đúng yều cầu luật định;
- Việc viết biên bản khám nghiệm hiện trường có thể chia làm hai bước:
+ Bước 1: Viết biên bản đồng thời với quá trình khám nghiệm để kịp thời ghi nhận những thông tin, dấu vết, vật chứng thu được ở hiện trường;
+ Bước 2: Viết lại hoàn chỉnh sau khi kết thúc khám nghiệm hiện trường.
- Nội dung biên bản chỉ phản ánh trung thực, khách quan và đầu đủ tình hình hiện trường, không ghi những câu nhận xét, phân tích, kết luận hoặc phán đoán chủ quan vào biên bản;
- Chỉ ghi nhận vào biên bản những dấu vết, vật chứng mà cán bộ khám nghiệm phát hiện, thu lượm được ở hiện trường;
- Chỉ mô tả những sự vật có liên quan bằng những khái niệm chuẩn xác, không dùng ký hiệu riêng hay viết tắt;
- Các số trong biên bản cần phải ghi cả bằng số và bằng chữ, ngày tháng cần được ghi bằng hai con số;
- Phải viết biên bản bằng bút mực hoặc bút bi, không viết mực đỏ hoặc bút chì;
- Khi viết biên bản cần tránh tẩy xóa, trường hợp tẩy xóa phải có xác nhận của người làm chứng;
- Trường hợp biên bản có nhiều trang, phải đóng dấu giáp lai hoặc ký xác nhận vào từng trang.
Biên bản sau khi được lập xong cần được đọc cho mọi người cùng nghe và ký xác nhận vào biên bản là đúng với thực tế, nếu có bổ xung gì thì cũng ghi vào phần cuối biên bản và sau đó ký tên.
4.2. Sơ đồ hiện trường
Sơ đồ hiện trường là bản vẽ mô tả hiện trường, dấu vết vật chứng có ở hiện trường nhằm minh họa và bổ sung cho biên bản khám nghiệm hiện trường.
Sơ đồ hiện trường gồm:
* Sơ đồ chung: là loại sơ đồ mô tả bao quát toàn bộ khu vực hiện trường và vùng lân cận có liên quan.
Loại sơ đồ này nhấn mạnh vào vị trí toàn cảnh hiện trường trong mối liên quan với các đối tượng khác ở khu vực lân cận như: đường mòn, đường giao thông, đầu mối giao thông (ngã ba, ngã tư.v.v...), sông ngòi, ruộng vườn, các khu nhà và công trình xung quanh.v.v...
* Sơ đồ khu vực: là sơ đồ chi tiết hóa những khu vực nhất định của hiện trường. Tùy theo thực tế, khi cần thiết, hiện trường có thể được phân chia thành nhiều khu vực để vẽ chi tiết những khu vực cần minh họa như: từng khu nhà, gian buồng.v.v... trong hiện trường, nơi có nhiều dấu vết, tang vật. Quan trọng nhất là vẽ sơ đồ khu vực trung tâm hiện trường.
* Sơ đồ chi tiết: dùng để mô tả vị trí, hình dáng của một hay nhiều dấu vết, vật chứng có liên quan với nhau, qua đó hình dung được quá trình gây ra từng dấu vết và từ mối liên quan của các dấu vết có thể dự đoán trình tự các hoạt động của thủ phạm ở hiện trường.
Việc vẽ sơ đồ hiện trường được thực hiện qua hai bước:
- Bước 1: vẽ phác họa sơ đồ trong khi tiến hành khám nghiệm. Sơ đồ phác họa tuy chưa cần vẽ đúng tỉ lệ nhưng vẫn phải vẽ đầy đủ đường nét, đủ các đối tượng cần mô tả và ghi lại đủ số liệu kích thước, vị trí của từng vật.
- Bước 2: sau khi kết thúc khám nghiệm, dựa vào sơ đồ phác họa vẽ hoàn chỉnh sơ đồ hiện trường.
Khi vẽ sơ đồ hiện trường, cần căn cứ vào đặc điểm của từng loại hiện trường, loại sơ đồ và đặc điểm của đối tượng cần mô tả... để lựa chọn phương pháp vẽ sơ đồ cho phù hợp. Các phương pháp vẽ sơ đồ hiện trường gồm: phương pháp vẽ mặt bằng, phương pháp vẽ mở, phương pháp vẽ mặt cắt, phương pháp vẽ phối cảnh).
4.3. Bản ảnh hiện trường
Bản ảnh hiện trường là tài liệu bổ sung cho biên bản khám nghiệm hiện trường, ghi nhận bằng hình ảnh toàn bộ quang cảnh hiện trường cũng như vị trí, trạng thái của đồ vật, dấu vết, vật chứng có ở hiện trường.
Để đáp ứng những yêu cầu bản ảnh hiện trường, khi tiến hành khám nghiệm phải chụp bốn loại ảnh hiện trường sau:
- Ảnh định hướng: nhằm mô tả vị trí và phương hướng của hiện trường liên quan với cảnh vật xung quanh như đường xá, nhà cửa, cánh đồng, ao hồ.v.v... và đường ra vào hiện trường cũng như dẫn tới các đường giao thông;
- Ảnh toàn cảnh: nhằm mô tả phạm vi, quang cảnh cấu trúc của hiện trường và mối liên quan giữa các khu vực của hiện trường với nhau và với nạn nhân, đồ vật, dấu vết, vật chứng.v.v... ở hiện trường. Ảnh toàn cảnh cũng phản ánh mối quan hệ của hiện trường với các vùng lân cận xung quanh;
- Ảnh từng phần: loại ảnh này chụp từng khu vực của hiện trường để thể hiện rõ vị trí, trạng thái của các đồ vật, nạn nhân, dấu vết, vật chứng trong mối liên quan với nhau và với cảnh vật xung quanh. Khu vực trung tâm hiện trường cần được chụp riêng;
- Ảnh chi tiết: loại ảnh này phản ánh vị trí, đặc điểm của từng đồ vật, dấu vết, vật chứng như dấu vết cạy phá cửa, vết thương, dấu vết vân tay, tài liệu.v.v... ở tại hiện trường để phục vụ việc nghiên cứu, đánh giá, giám định dấu vết.
Tùy trường hợp cụ thể, điều tra viên phụ trách khám nghiệm quyết định số lượng từng loại ảnh phải chụp để đáp ứng yêu cầu của bản ảnh hiện trường.
Khi chụp ảnh dấu vết phải có thước tỉ lệ và cần đặt máy vuông góc với vật mang dấu vết. Thước đo và việc đặt phim ở mặt phẳng song song với vật sẽ giúp cho việc phóng to ảnh hay rửa ảnh theo đúng kích thước 1´1 được dễ dàng, thuận lợi và chính xác.
4.4. Báo cáo khám nghiệm hiện trường
Báo cáo khám nghiệm hiện trường là một loại tài liệu nghiệp vụ (không phải văn bản pháp lí) do điều tra viên chủ trì cuộc khám nghiệm hiên trường viết để lưu hồ sơ vụ án và gửi lãnh đạo cơ quan điều tra. Nó phản ánh một số vấn đề sau:
- Kết quả khám nghiệm;
- Những biệp pháp, phương pháp nghiệp vụ đã áp dụng;
- Những phương tiện kĩ thuật đã áp dụng;
- Những nhận định và những đề xuất các biện pháp giải quyết tiếp theo.
Báo cáo khám nghiệm hiện trường gồm bốn nội dung:
+ Tóm tắt tình hình vụ việc và hiện trường;
+ Quá trình và kết quả công tác điều tra và khám nghiệm hiện trường;
+Ý kiến phân tích, nhận định;
+ Ý kiến đề xuất.
Báo cáo khám nghiệm hiện trường được gửi kèm theo biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
1. Thực trạng hoạt động khám nghiệm hiện trường trong thời gian qua
1.1. Kết quả
Khám nghiệm hiện trường là một hoạt động mang tính kỹ thuật hình sự, do đó đội ngũ kỹ thuật viên đóng vai trò quan trọng trong hoạt động điều tra này. Một thực tế hiện nay, các phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương vẫn là lực lượng chủ yếu tiến hành khám nghiệm hiện trường các vụ việc mang tính hình sự đã xảy ra mà đặc biệt là các vụ án có người chết. Với một khối lượng công việc đồ sộ như vậy, những năm qua được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Công an các tỉnh, thành phố cũng như lãnh đạo bộ Công an, hoạt động khám nghiệm hiện trường đã đạt được những kết quả khả quan.
Đối với những vụ việc mang tính hình sự, kết quả khám nghiệm hiện trường đã thực sự đóng vai trò to lớn trong việc xác định tính chất vụ án. Công việc này rất có ý nghĩa khi mà số lượng các vụ án ngày càng ra tăng như hiện nay. Việc xác định tính hình sự của vụ việc giúp loại trừ những vụ việc không thuộc phạm vi giải quyết của lực lượng Công an, đồng thời giúp giải quyết nhanh chóng các vụ án. Điều này có ý nghĩa trong việc tiết kiệm không chỉ thời gian mà cả kinh phí và lực lượng cho hoạt động điều tra.
Ví dụ, tại phòng Kỹ thuật hình sự Thành phố Hải Phòng, chỉ tính riêng số vụ việc có người chết được tiến hành khám nghiệm hiện trường trong các năm từ 2001 đến 2005 là rất lớn. Tuy nhiên, từ kết quả khám nghiệm tại hiện trường và khám nghiệm tử thỉ xác định một lượng lớn vụ việc này lại không phải là tội phạm (xem bảng 3.1).
Bảng 3.1: thống kê các vụ khám nghiệm hiện trường có người chết
từ 2001-2005 trên địa bàn Thành phố Hải Phòng).
Năm
Tổng số vụ
Vụ việc có người chết
Giết người
2001
156
84
19
2002
287
209
39
2003
460
391
49
2004
527
441
44
2005
756
450
49
Đối với các vụ án hình sự, kết quả các cuộc khám nghiệm đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc xác định phương hướng điều tra, giải quyết các vụ án. Trong thời gian qua, nhiều vụ án không phát hiện được quả tang nhưng do thực hiện tốt việc khám nghiệm hiện trường đã góp phần làm rõ các tình tiết của vụ án. Nhiều trường hợp vụ án đã được các cấp Tòa án xét xử khách quan, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị cáo vẫn kêu oan, đưa ra nhiều tình tiết mới như bị bức cung, mớm cung, nhằm phủ nhận lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa trước đó. Tuy nhiên qua xem xét lời khai của các nhân chứng, của các bị cáo khác, đặc biệt là căn cứ vào các vật chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường vụ án đã xác định việc kết tội bị cáo là chính xác, không có căn cứ để kháng nghị.
Hơn nữa, thời gian qua, công tác khám nghiệm hiện trường đã có nhiều tiến bộ nhờ sự quan tâm chỉ đạo của ngành Công an và Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chỉ thị số 02/CT/2006- VKSTC-VP của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2006 nêu rõ: “Đối với các vụ trọng án không quả tang, những vụ án nghiêm trọng phức tạp, Lãnh đạo Viện phải trực tiếp tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi”. Do đó, hầu hết các vụ án có khám nghiệm hiện trường đã được Kiểm sát viêntham gia kiểm sát chặt chẽ việc khám nghiệm, tạo điều kiện nâng cao chất lượng các vụ khám nghiệm hiện trường, phục vụ ngày càng tốt hơn cho công tác điều tra.
1.2. Những tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, nhìn một cách tổng thể thì công tác khám nghiệm hiện trường còn một số tồn tại và thiếu sót. Điều này ảnh hưởng tới việc xác định phương hướng điều tra và đường lối giải quyết vụ án. Theo số liệu thống kê hai năm 2003 và 2004, các vụ án bị hủy ở cấp phúc thẩm có tới 97% là do thiếu sót trong công tác điều tra, trong đó có nhiều vụ án thiếu sót trong khâu khám nghiệm hiện trường. Riêng số vụ án vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo điều 202 của Bộ luật Hình sự bị hủy thì trong số đó có tới 55% số vụ án do công tác khám nghiệm hiện trường có sai sót.
Các sai sót chủ yếu của công tác khám nghiệm hiện trường đó là:
- Công tác khám nghiệm hiện trường còn chưa được chú ý và có phần bị xem nhẹ so với các hoạt động điều tra khác. Thông thường, các cán bộ điều tra chỉ chú ý vào người biết việc... để làm chứng cứ mà coi nhẹ các dấu vết, vật chứng thu được tại hiện trường. Hơn nữa, đối với những vụ án mạng đã rõ thủ phạm hoặc những vụ việc không nghiêm trọng, công tác khám nghiệm hiện trường thường chỉ được tiến hành một cách qua loa, đại khái cho đủ thủ tục pháp luật.
- Việc thu lượm dấu vết, vật chứng còn chưa hiệu quả. Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, lực lượng khám nghiệm thường chỉ chú trọng vào các dấu vết đặc trưng của từng loại hiện trường, do đó khi thu thập dấu vết, vật chứng đã bỏ lọt, bỏ sót nhiều dấu vết, thậm chí có những dấu vết quan trọng để chứng minh rõ vụ việc. Ngược lại, có trường hợp việc thu lượm dấu vết mẫu vật một cách tràn lan, thiếu định hướng gây khó khăn cho công tác giám định sau này.
- Các trang thiết bị dùng cho khám nghiệm hiện trường còn thiếu về số lượng và còn thô sơ, lạc hậu. Mặt khác, việc trang bị thiếu đồng bộ đã dẫn tới việc sử dụng kém hiệu quả một số loại máy móc thiết bị và một số máy móc khác bị xếp xó, gần như không được sử dụng.
- Công tác khám nghiệm hiện trường đòi hỏi rất nhiều loại hồ sơ khác nhau. Tuy nhiên, nhiều vụ việc cụ thể công tác hồ sơ khám nghiệm hiện trường không thống nhất, chưa đảm bảo yêu cầu pháp luật và nghiệp vụ như: bản ảnh chụp không đạt yêu cầu, biên bản khám nghiệm hiện trường trong nhiều trường hợp còn thiếu thông tin về tình hình hiện trường, các dấu vết không được phản ánh một cách khách quan.
- Việc bảo quản, niêm phong các dấu vết, vật chứng thu lượm được tại hiện trường không ít trường hợp còn có sai sót về kỹ thuật cũng như chưa đầy đủ. Trong thực tế còn những trường hợp Cơ quan điều tra không quản lý, bảo quản tốt vật chứng thu thập được, để thất lạc và không tìm lại được, điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc đánh giá chứng cứ vụ án.
- Về mặt tổ chức lực lượng, ở nhiều nơi, lực lượng công an quận, huyện, thị chưa thực hiện tốt vai trò của mình trong công tác bảo vệ cũng như khám nghiệm hiện trường một số vụ việc thuộc phân cấp của mình. Thực tế là lực lượng này khi tiến hành khám nghiệm chỉ thu giữ những mẫu vật nhìn thấy bằng mắt thường, hơn nữa, công tác đóng gói, bảo quản, niêm phong mẫu vật còn nhiều sai sót về kỹ thuật. Thêm vào đó, việc tổ chức lực lượng đến hiện trường khi nhận được tin báo còn chưa kịp thời, việc bảo vệ hiện trường còn yếu.
Những tồn tại trên do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, trong đó những nguyên nhân chủ quan cần phải được quan tâm nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng công tác khám nghiệm hiện trường, phục vụ tốt cho quá trình điều tra vụ án. Các nguyên nhân chủ yếu gồm:
- Cán bộ làm công tác khám nghiệm hiện trường còn thiếu về lực lượng và yếu về trình độ chuyên môn, đặc biệt, đội ngũ cán bộ kỹ thuật hình sự cấp huyện, thị. Thậm chí, nhiều huyện, thị không có đội ngũ cán bộ kỹ thuật hình sự hoặc có nhưng họ là cán bộ điều tra kiêm nhiệm, ít được đào tạo chuyên môn. Do vậy, tuy đã có cơ chế hoạt động và sự phân cấp khám nghiệm hiện trường cụ thể nhưng những vụ việc thuộc thẩm quyền khám nghiệm của lực lượng kỹ thuật hình sự cấp huyện vẫn phải có sự giúp đỡ của lực lượng kỹ thuật hình sự cấp trên;
- Phương tiện kỹ thuật hình sự còn thiếu và thô sơ, hầu hết có thời gian sử dụng đã lâu nên không còn đáp ứng yêu cầu;
- Khám nghiệm hiện trường là một hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS nhưng trong thực tế vị trí pháp lý, quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ chuyên trách về kỹ thuật hình sự chưa được xác định rõ. Điều này ảnh hưởng tới thái độ cũng như nhiệt tình làm việc của các kỹ thuật viên;
- Do nhận thức của lãnh đạo, điều tra viên cũng như kỹ thuật viên hình sự chưa đầy đủ trong việc xác định vị trí, vai trò của công tác kỹ thuật hình sự nói chung và công tác khám nghiệm hiện trường nói riêng nên họ chỉ coi đây là biện pháp hỗ trợ hơn là biện pháp điều tra tố tụng hình sự mặc dù hoạt động khám nghiệm hiện trường đã được Bộ luật TTHS quy định riêng tại Điều 150. Hơn nữa, việc kiểm tra của lãnh đạo về các yêu cầu pháp luật, nghiệp vụ trong hoạt động của cấp dưới dẫn chưa đầy đủ dẫn tới sự tùy tiện và mang nặng hình thức trong hoạt động của lực lượng khám nghiệm hiện trường;
- Một nguyên nhân nữa là chính sách đãi ngộ. Tại hầu hết các tỉnh, thành của cả nước, chế độ chính sách đãi ngộ về trách nhiệm và độc hại cho lực lượng kỹ thuật viên hình sự chưa được quan tâm đúng mức. Điều này khiến một số cán bộ thiếu nhiệt tình công tác, không phát huy được năng lực vốn có, một số không chịu học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, tìm cách chuyển vị trí công tác.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn tới những hạn chế của công tác khám nghiệm hiện trường thời gian qua. Những nguyên nhân này có thể khắc phục được tuy còn nhiều khó khăn.
2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của khám nghiệm hiện trường trong điều tra hình sự
2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Pháp luật điều chỉnh mọi lĩnh vực, hoạt động trong đời sống xã hội. Riêng đối với hoạt động khám nghiệm hiện trường, những quy định của Bộ luật TTHS là hết sức quan trọng. Trong đó, tư cách pháp lý, quyền hạn, trách nhiệm của các lực lượng tham gia vào công tác khám nghiệm hiện trường cần được quy định rõ ràng, cụ thể, từ đó thúc đẩy công tác này theo một quy trình nhất định.
Trước đây, Bộ luật TTHS 1988 có quy định điều tra viên phải báo cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, song Viện kiểm sát tham gia như thế nào vào công tác này vẫn chưa được quy định cụ thể. Do đó, Bộ luật TTHS 2003 đã quy định sự có mặt bắt buộc của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm hiện trường cũng như vai trò, quyền hạn của Kiểm sát viên. Điều này đảm bảo cho hoạt động khám nghiệm hiện trường tuân thủ các quy định của pháp luật.
Điều 150 - Bộ luật TTHS đã quy định riêng về khám nghiệm hiện trường, tuy nhiên quy định này còn chưa đầy đủ. Luật quy định lực lượng điều tra giữ vai trò chủ trì cuộc khám nghiệm hiện trường nhưng trên thực tế, các kỹ thuật viên khám nghiệm là những người thực hiện từ đầu đến cuối các công việc như: phát hiện, thu lượm, bảo quản dấu vết vật chứng đến hoàn chỉnh hồ sơ khám nghiệm. Khám nghiệm hiện trường là một công việc mang tính kỹ thuật do vậy nó đòi hỏi những người tiến hành cấn có trình độ chuyên môn. Tuy nhiên, vai trò của các kỹ thuật viên khám nghiệm hiện trường lại không được luật quy định rõ. Điều này gây khó khăn cho quá trình làm việc cũng như tinh thần làm việc của các kỹ thuật viên cũng như điều tra viên.
Công tác điều tra hình sự nói chung và trong lĩnh vực khám nghiệm hiện trường nói riêng, Bộ luật TTHS giữ một vai trò cực kỳ quan trọng. Việc quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của các lực lượng tham gia vào công tác này là cần thiết, điều này sẽ thúc đẩy công tác khám nghiệm hiện trường hoạt động theo một quy trình nhất định. Do đó, Bộ luật TTHS cần quy định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò cũng như mối quan hệ giữa lực lượng kỹ thuật viên khám nghiệm, lực lượng điều tra và các thành phần khác tham gia khám nghiệm hiện trường. Khi đã xác định đúng vị trí, nhiệm vụ cũng như vai trò của mình, các thành phần tham gia vào khám nghiệm hiện trường sẽ nhiệt tình hơn trong công việc. Đặc biệt việc phân định rõ ràng trách nhiệm giữa các lực lượng sẽ giúp thống nhất về mặt thủ tục pháp lý, đảm bảo chất lượng cũng như hiệu quả hoạt động khám nghiệm hiện trường đồng thời tạo sự chủ động, tăng sự sáng tạo và say mê nghề nghiệp của các lực lượng mà đặc biệt là lực lượng kỹ thuật viên khám nghiệm hiện trường.
2.2. Cần nâng cao năng lực của điều tra viên và kỹ thuật viên khám nghiệm hiện trường
Kết quả của công tác khám nghiệm hiện trường phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, khả năng thụ cảm, tư duy của cán bộ điều tra, cán bộ khám nghiệm. Kết quả của công tác khám nghiệm hiện trường có vai trò quan trọng đối với những bước đi tiếp theo của quá trình điều tra vụ án hình sự, tuy nhiên công việc này chỉ có thể tiến hành một lần và không thể làm lại do tính chất dễ biến đổi của hiện trường. Do vậy, kết quả thu được tại hiện trường phụ thuộc rất nhiều vào những người trực tiếp tiến hành khám nghiệm từng vụ việc cụ thể. Điều này khiến cho việc nâng cao năng lực của các điều tra viên và kỹ thuật viên khám nghiệm trở nên cấp thiết.
Thêm vào đó, thực tế hiện nay lực lượng cán bộ kỹ thuật hình sự vừa thiếu lại vừa yếu. Tình trạng này một phần do số lượng cán bộ kỹ thuật hình sự được đào tạo hàng năm ở Học viện Cảnh sát nhân dân là rất ít, điều này kéo theo việc điều chuyển những cán bộ không đúng chuyên môn về làm công tác kỹ thuật hình sự để bù đắp sự thiếu hụt về số lượng. Việc làm này càng làm cho chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật hình sự không đáp ứng yêu cầu thực tế.
Khắc phục tình trạng này cần phối hợp cả việc đào tạo cán bộ mới với nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ hiện đang công tác. Cụ thể như sau:
- Tăng số lượng học viên chuyên ngành kỹ thuật hình sự mỗi khóa của Học viện Cảnh sát nhân dân. Điều này giúp tăng số lượng cán bộ được đào tạo cơ bản chuyên ngành kỹ thuật hình sự, là tiền đề để bồi dưỡng những cán bộ có chuyên môn cao, tiếp cận với trình độ chung của các nước trong khu vực;
- Những cán bộ bị điều chuyển làm những công việc không đúng chuyên môn cần được chuyển về đúng vị trí công tác của họ;
- Có kế hoạch thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn về công tác khám nghiệp hiện trường cho đội ngũ kỹ thuật viên hiện đang công tác. Điều này là thực sự cần thiết do sự phát triển ngày càng nhanh của công nghệ và thủ đoạn phạm tội của bọ tội phạm cũng ngày càng tinh vi hơn. Đồng thời lực lượng kỹ thuật viên hình sự hiện nay ở các cấp quận, huyện, thị còn yếu, việc nâng cao nghiệp vụ là cần thiết;
- Cần tiến hành kiểm tra chuyên môn để từ đó có phương hướng bồi dưỡng và hướng dẫn cho lực lượng làm công tác khám nghiệm hiện trường. Bên cạnh đó, lực lượng này cần thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm, thảo luận về khám nghiệm hiện trường các vụ điển hình. Việc trao đổi ý kiến với lực lượng trực tiếp tham gia khám nghiệm sẽ là những kinh nghiệm tốt cho tất cả các kỹ thuật viên bởi hiện trường là không giống nhau đối với từng vụ việc;
- Lực lượng điều tra và kiểm sát viên tham gia vào khám nghiệm hiện trường cũng cần được trang bị những kiến thức tối thiểu, do đó việc mở các lớp tập huấn và trao đổi kinh nghiệm làm việc cũng như phối hợp hoạt động giữa lực lượng này và các kỹ thuật viên khám nghiệm hiện trường là công việc cần thiết, đồng thời các lực lượng này cũng cần tự bổ sung kiến thức cho mình về khám nghiệm hiện trường.
Hiện trường là kho thông tin vật chất quan trọng, công tác khám nghiệm hiện trường muốn đạt được hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự phối hợp hiệu quả của tất cả các lực lượng tham gia. Muốn làm được điều này, ngoài việc tổ chức lực lượng tốt, phân công nhiệm vụ rõ ràng còn cần đến năng lực cá nhân và tinh thần vượt khó, hợp tác làm việc của từng cán bộ, chiến sĩ. Chính vì vậy, việc tự ý thức trách nhiệm để từ đó tự trau dồi kiến thức chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm làm việc là đòi hỏi đặt ra với mỗi cá nhân tham gia vào công tác khám nghiệm hiện trường nói riêng và công tác điều tra, xét xử, phòng, chống tội phạm nói chung.
2.3. Bổ sung phương tiện kỹ thuật hình sự hiện đại cho công tác khám nghiệm hiện trường
Toàn bộ dấu vết, vật chứng thu thập được ở hiện trường là cơ sở để tiến hành các bước điều tra tiếp theo. Tuy nhiên để những dấu vết, vật chứng này hé lộ những thông tin quan trọng về sự thật của vụ án còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một trong số đó là vấn đề phát hiện, thu thập, bảo quản vật chứng. Vấn đề này có liên quan trực tiếp tới các trang thiết bị kỹ thuật, để công tác khám nghiệm hiện trường đạt hiệu quả cao nhất thì việc được trang bị đầy đủ các phương tiện chuyên dùng là điều kiện cần thiết.
Hiện nay, các trang thiết bị chuyên dùng cho khám nghiệm hiện trường đã đáp ứng được phần nào nhu cầu thực tiễn, tuy nhiên vẫn còn những bất cập trong vấn đề khai thác và sử dụng những thiết bị này. Các thiết bị đang được sử dụng phần nào đã lạc hậu, các loại máy móc hiện đại tuy đã được trang bị nhưng còn thiếu mà đặc biệt là tại các quận, huyện, thị. Điều này không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thực tiễn tình hình tội phạm đang gia tăng. Đặc biệt cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, tội phạm cũng sử dụng những thành tựu công nghệ trong hành vi phạm tội của mình khiến cho việc truy tìm của lực lượng điều tra càng trở nên khó khăn. Do đó, việc trang bị mới, bổ sung phương tiện kỹ thuật chuyên dùng cho công tác khám nghiệm hiện trường cũng là phù hợp với quy luật khách quan và là một yêu cầu thiết thực đối với công tác phòng, chống tội phạm.
Hiện tại, việc trang bị ngay các phương tiện kỹ thuật hình sự hiện đại là điều khó khăn, do vậy đòi hỏi đặt ra đối với mỗi cán bộ đó là: khai thác, sử dụng triệt để các trang thiết bị hiện có, phát huy tinh thần tiết kiệm, sáng tạo trong công tác... Đồng thời trong thời gian sớm nhất cần giải quyết một số vấn đề sau:
- Nhanh chóng trang bị những phương tiện cần thiết cho công tác khám nghiệm hiện trường. Công việc này có thể tiến hành theo từng giai đoạn tuy nhiên mỗi trang thiết bị được bổ sung cần phải đồng bộ nhằm khai thác tối đa công dụng của các trang thiết bị này, đồng thời việc bổ sung máy móc gì cần tính đến nhu cầu sử dụng tránh tình trạng trang bị một cách tràn lan những vẫn không đầy đủ, gây lãng phí;
- Song song với việc bổ sung thiết bị cần tính đến việc đào tạo cán bộ sử dụng. Các loại máy móc dùng trong khám nghiệm hiện trường thường là những máy móc chuyên dụng mà không phải bất kỳ ai cũng sử dụng được một cách dễ dàng. Việc bổ sung kiến thức về các thiết bị mới cũng cần được tính đến trong quá trình trang bị phương tiện kỹ thuật cho từng đơn vị trong lực lượng khám nghiệm hiện trường;
- Tiến hành nối mạng thông tin nghiệp vụ nhằm phục vụ tốt hơn nữa cho việc phối hợp hoạt động của các lực lượng trong khám nghiệm hiện trường nói riêng và các hoạt động điều tra khác. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu vấn đề thiết lập cơ sở dữ liệu tội phạm. Không phải bất kỳ một vụ việc nào sau khi khám nghiệm cũng làm rõ được, do vậy việc lưu giữ những thông tin thu được tại hiện trường dưới dạng cơ sở dữ liệu là điều cần thiết. Các chứng cứ, vật chứng thu được tại hiện trường không phải lúc nào cũng bảo quản được tốt trong một thời gian dài, việc hư hỏng là điều không thể tránh khỏi, hơn nữa các điều kiện vật chất cũng không cho phép làm điều này. Vì vậy đôi khi những vật chứng trong một vụ việc đã bị đình chỉ điều tra có thể lại rất có giá trị đối với một vụ việc khác được phát hiện sau đó. Trong trường hợp, này nếu có dữ liệu để đối chiếu sẽ là một thông tin rất hữu ích cho cơ quan điều tra;
- Phối hợp chặt chẽ và tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ phận liên quan như phòng Hậu cần, Viện Khoa học hình sự... trong các vấn đề về công nghệ và kinh phí cho việc trang bị các phương tiện kỹ thuật cần thiết.
2.4. Cần làm tốt công tác bảo vệ hiện trường
“Bảo vệ hiện trường là việc sử dụngcác lực lượng, biện pháp và các phương tiện phù hợp nhằm giữ nguyên trạng của hiện trường nói chung, dấu vết, vật chứng có ở hiện trường nói riêng cũng như phát hiện, ghi nhận những thông tin, thay đổi ở hiện trường có liên quan đến vụ việc đã xảy ra.” (1) Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Khoa học điều tra hình sự, Nxb Công an nhân dân, H. 2005. Tr58.
Hiện trường có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân: do con người, do súc vật, côn trùng, do thiên nhiên.v.v... Những thay đổi của hiện trường có ảnh hưởng rất lớn tới công tác khám nghiệm hiện trường. Vì vậy nếu tổ chức tốt công tác bảo vệ hiện trường sẽ đảm bảo tính khách quan, nguyên vẹn của hiện trường giúp cho lực lượng khám nghiệm hiện trường có thể nhanh chóng phát hiện, thu thập các dấu vết, vật chứng một cách chính xác mà ít có sự nhầm lẫn.
Lực lượng bảo vệ hiện trường vẫn chưa được Bộ luật TTHS quy định, trên thực tế lực lượng này rất đa dạng. Họ có thể gồm: cán bộ công an cấp cơ sở; cán bộ bảo vệ các cở quan, xí nghiệp, công, nông, lâm trường; thành viên các tổ an ninh nhân dân; các công dân tốt... trong trường hợp cần thiết có thể huy động lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ tham gia bảo vệ hiện trường. Những lực lượng này về cơ bản không có kiến thức về nghiệp vụ bảo vệ hiện trường do đó không đảm bảo được yêu cầu trong khi thực thi nhiệm vụ.
Do đó để làm tốt công tác bảo vệ hiện trường cần:
- Thường xuyên mở các lớp tập huấn về nhiệm vụ bảo vệ hiện trường cho cán bộ cấp quận, huyện, thị và lực lượng cơ sở gồm: Công an xã, phường, bảo vệ dân phố... Trong tương lai cần xây dựng một lực lượng bảo vệ hiện trường có kiến thức chuyên môn, điều này là cần thiết bởi một hiện trường được bảo vệ tốt là tiền đề quan trọng cho một cuộc khám nghiệm hiện trường đạt kết quả cao, đáp ứng yêu cầu đặt ra;
- Tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa và những vấn đề khác có liên quan đến công tác bảo vệ hiện trường. Tận dụng sự ủng hộ từ quần chúng nhân dân không chỉ giúp nắm thông tin về vụ việc một cách nhanh chóng mà còn giúp cho quá trình bảo vệ hiện trường đạt hiệu quả. Trong nhiều trường hợp người đầu tiên phát hiện ra hiện trường là các công dân, khi có sự việc xảy ra họ có thể báo ngay cho cơ quan công an biết. Ngoài ra, việc nâng cao nhận thức cho quần chúng về công tác bảo vệ hiện trường khiến họ không vì tò mò mà đi vào khu vực hiện trường gây biến đổi hiện trường mà còn tích cực giúp đỡ nhân viên bảo vệ cũng như cán bộ khám nghiệm hiện trường trong việc bảo vệ hiện trường cũng như cung cấp thông tin có liên quan đến vụ việc.
2.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia khám nghiệm hiện trường và với các lực lượng nghiệp vụ khác
Bộ luật TTHS chưa có những quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của từng lực lượng tham gia khám nghiệm hiện trường, vì vậy việc phân công cũng như phối hợp hoạt động giữa các lực lượng này là yếu tố quan trọng dẫn tới sự thành công của một cuộc khám nghiệm.
Lực lượng kỹ thuật hình sự là lực lượng tiến hành khám nghiệm hiện trường còn điều tra viên là người chủ trì cuộc khám nghiệm, do đó để tránh tình trạng các cán bộ khám nghiệm không chủ động được kế hoạch khám nghiệm thì cần có sự trao đổi thông tin cần thiết giữa hai lực lượng này. Trong nhiều trường hợp do không được xác định rõ vai trò, nhiệm vụ mà lực lượng kỹ thuật viên đôi khi thiếu nhiệt tình trong công tác còn các điều tra viên chủ trì cuộc khám nghiệm thì phó mặc những công việc mang tính nghiệp vụ cho các kỹ thuật viên. Chính vì vậy, việc phối hợp tốt giữa điều tra viên và các kỹ thuật viên không chỉ giúp nâng cao hiệu quả công việc mà còn giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm của từng lực lượng khi tham gia khám nghiệm hiện trường.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia vào quá trình khám nghiệm hiện trường là bắt buộc. Viện kiểm sát mà trực tiếp là kiểm sát viên phải thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khám nghiệm hiện trường, đảm bảo cho việc khám nghiệm tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Kiểm sát viên cần phối hợp với các lực lượng khác trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát của mình nhằm phát hiện nhanh chóng những vi phạm pháp luật nhằm ngăn chặn kịp thời không để phát sinh những hậu quả đáng tiếc. Trong trường hợp phát hiện có sai sót, vi phạm của cơ quan điều tra và Điều tra viên trong quá trình khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải đưa ra các yêu cầu để Cơ quan điều tra và Điều tra viên khắc phục. Cơ quan điều tra khi nhận được những yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện đầy đủ và nhanh chóng. Mục đích cuối cùng là đảm bảo cho hoạt động khám nghiệm hiện trường tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo hiệu quả của hoạt động này phục vụ đắc lực cho hoạt động điều tra làm rõ vụ án.
Trong quá trình khám nghiệm hiện trường cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Kỹ thuật viên khám nghiệm, Điều tra viên với cán bộ Công an cấp cơ sở để trao đổi thông tin liên quan đến vụ việc phục vụ cho công tác điều tra và khám nghiệm đạt kết quả. Lực lượng Cảnh sát hình sự, Cảnh sát kinh tế, Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy... khi tham gia khám nghiệm hiện trường theo chức năng cần chủ động kết hợp với việc phát hiện, xem xét dấu vết, vật chứng và các tài liệu có liên quan phục vụ yêu cầu điều tra làm rõ vụ án và yêu cầu nghiệp vụ của ngành.
Các lực lượng nghiệp vụ khác tùy theo chức năng của mình và yêu cầu của Cơ quan điều tra có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện cho công tác khám nghiệm hiện trường được tiến hành thuận lợi đạt kết quả cao.
KẾT LUẬN
Sự phát triển không ngừng của kinh tế thị trường kéo theo sự gia tăng của tội phạm cả về số lượng các vụ phạm tội và mức độ nghiêm trọng của từng loại tội phạm. Thêm vào đó, các loại tội phạm mới cũng xuất hiện theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã gây ra những khó khăn không nhỏ đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Làm tốt công tác này đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ngành và của toàn xã hội mà lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt, bên cạnh đó là công tác xét xử và thi hành án. Tố tụng hình sự là một quá trình do vậy cần phải được quan tâm ngay từ các bước điều tra ban đầu mới có thể giải quyết triệt để một vụ việc xảy ra. Chính vì vậy điều tra hình sự nói chung và khám nghiệm hiện trường nói riêng cần phải được quan tâm đúng mức.
Công tác khám nghiệm hiện trường là một bộ phận trong chiến thuật điều tra hình sự. Nó có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống những biện pháp, phương tiện phục vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ở nước ta hiện nay, mặc dù Bộ luật TTHS đã có một số quy định song công tác kỹ thuật hình sự nói chung và công tác khám nghiệm hiện trường nói riêng vẫn chưa được nhìn nhận đúng so với tầm quan trọng của công tác này. Vì vậy, việc nghiên cứu về khám nghiệm hiện trường, đưa ra những vấn đề lí luận cơ bản cũng như trình tự và các yêu cầu pháp luật đặt ra đối với công tác khám nghiệm hiện trường nhằm mục đích rút ra những tồn tại của công tác này và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần đẩy lùi những hạn chế và nâng cao hiệu quả của công tác khám nghiệm hiện trường trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Đích cuối cùng là góp phần đưa những nhận thức về khám nghiệm hiện trường cũng như kỹ thuật hình sự lên đúng vị trí của nó, phục vụ đắc lực hơn nữa cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “khám nghiệm hiện trường”, em nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo. Song do giới hạn của đề tài và kiến thức của bản thân có hạn nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong có được sự tham gia góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật hình sự năm 1999.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chỉ thị số 02/CT/2006-VKSTC-VP ngày 09/01/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2006.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Khoa học điều tra hình sự, Nxb Công an nhân dân, H. 2005.
Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Giáo trình Công tác bảo vệ và khám nghiệm hiện trường trường, H. 1996.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, H. 2005.
Viện khoa học hình sự , sổ tay bảo vệ và khám nghiệm hiện trường , H. 1992.
Công an Thành phố Hải Phòng, Báo cáo tổng kết công tác kỹ thuật hình sự các năm từ 2001 đến 2005 của phòng kỹ thuật hình sự - PC21.
Hồ sơ một số án của Cơ quan Cảnh sát điều tra tỉnh Nghệ An năm 2003, 2005 và Cơ quan Cảnh sát điều tra Thành phố Hải Phòng năm 2005.
Tạp chí Kiểm sát năm 2005, 2006.
Một số tài liệu khác: báo Công an nhân dân, báo An ninh thủ đô, tạp chí Luật học...
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (113).DOC