Khóa luận Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và những tác động của AFTA đến Việt Nam

Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế không thể nào đảo ngược của nền kinh tế thế giới hiện đại và tự do hóa thương mại là một yếu tố cơ bản của xu thế này. Đối với các nước đang phát triển, chiến lược phát triển kinh tế dựa vào công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu chứng tỏ thành công hơn so với chiến lược kinh tế dựa vào công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam tham gia CEPT/AFTA và chuẩn bị để tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế khác như APEC, GATT/WTO là một quyết định đúng đắn hoàn toàn. Trong quá trình hội nhập này, thực tiễn cuộc sống đòi hỏi chúng ta chấp nhận cơ chế hợp tác và cạnh tranh, nỗ lực phấn đấu nâng cao năng lực bản thân đạt tới mục tiêu mà chúng ta đã xác định. Một bài học rút ra từ thực tiễn hội nhập kinh tế khu vực là phải khẩn trương đề ra các chính sách và biện pháp hữu hiệu thực hiện một cách chủ động nội dung và tiến trình CEPT/AFTA. Cơ chế thị trường không chấp nhận những gì cứng nhắc thuộc cơ chế điều hành nền kinh tế theo chế độ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp trước đây; chính sách thương mại phải được xây dựng thông thoáng hơn theo hướng tự do hoá, chỉ nên bảo hộ những gì là cần thiết và phải định rõ thời hạn bảo hộ. Bảo hộ càng nhiều, sức cạnh tranh càng yếu. Các công cụ phi thuế quan cần phải được nghiên cứu cụ thể hoá theo thời gian và điều kiện của đất nước, tuy nhiên cần phải chú ý tuân thủ các thông lệ, luật lệ quốc tế và phản ánh được xu hướng của thời đại. Hiện nay, nước ta là thành viên ASEAN, trong tương lai không xa sẽ là thành viên của tổ chức WTO. Sự chậm trễ sẽ đồng nghĩa với mất thời cơ hội nhập và tăng trưởng, là kéo dài sự lúng túng và thụ động trong quá trình hội nhập. Hội nhập kinh tế Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới có nghĩa là các thể chế kinh tế Việt Nam phải phù hợp với tập quán quốc tế. Sau nhiều năm đi theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, tình thế hiện nay đòi hỏi Chính phủ phải nỗ lực cải cách các thể chế kinh tế theo hướng đơn giản hóa cơ chế quản lý, trao quyền tự chủ kinh doanh nhiều hơn nữa cho các doanh nghiệp, bảo đảm tính minh bạch và nhất quán trong chính sách kinh tế cũng như trong các quy định về hoạt động kinh doanh, bãi bỏ những chính sách, quy định không phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính cuộc cải cách thể chế này giữ vai trò quan trọng trong việc tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam và tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà nước cần chú ý đầu tư thích đáng để phát triển nguồn nhân lực của đất nước, một yếu tố then chốt làm biến đổi các lợi thế so sánh theo hướng có lợi cho mục đích phát triển bền vững. Người thực hiện và chịu tác động trực tiếp của tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế trên thực tế là các doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp cận thông tin hội nhập khu vực và thế giới. Thách thức vẫn còn nhiều ở phía trước, nhưng chúng ta hy vọng vào những kết quả có thể đạt được trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực ASEAN.

doc108 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2770 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và những tác động của AFTA đến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u dùng ( kể cả ô tô, xe gắn máy). Cần vận dụng một cách đồng bộ, nhất quán các biện pháp thuế quan và phi thuế quan, kết hợp với các biện pháp tổ chức và giám sát nhập khẩu nhằm ngăn chặn, tiến tới khắc phụ tình trạng nhập lậu hàng hóa qua biên giới. Trên đây là một số quan điểm cơ bản chỉ đạo hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải thấu hiểu và nắm vững những quan điểm này trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược kinh doanh dài hạn nhằm đạt được mục tiêu của mình, đồng thời có các giải pháp thích hợp từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh. II. khả năng cạnh tranh của Việt Nam Hội nhập là xu thế tất yếu của các nước trên thế giới. Nói hội nhập là nói đến cạnh tranh sòng phẳng, có thắng có thua, không thể đem cái ta có, lỗi thời, không phù hợp, giá cả đắt đỏ, đem áp đặt cho người khác mà phải làm ra cái mà thế giới cần, được chấp nhận; điều đó cũng có nghĩa cái ta làm ra được người tiêu dùng mua mà không mua của người khác. Có thể khẳng định rằng yếu kém lớn nhất của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào khu vực cũng như hội nhập trên toàn thế giới là “khả năng cạnh tranh” của nền kinh tế nói chung và của hàng hoá nói riêng. Hội nhập là một quá trình lâu dài, không chỉ có những thuận lợi mà còn đầy rẫy những thách thức. Để có thể tranh thủ thời cơ và vượt qua thách thức chỉ có một con đường duy nhất là nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế xét trên ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. 2.1 Khả năng cạnh tranh quốc gia Khả năng cạnh tranh quốc gia được hiểu là việc xây dựng môi trường cạnh tranh kinh tế chung để thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời đảm bảo việc phân bổ các nguồn lực để nền kinh tế duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam trong và ngoài khu vực. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung do nhiều yếu tố quyết định, nhưng các yếu tố cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia đó là: môi trường pháp lý, kết cấu hạ tầng, thị trường... - Môi trường pháp lý Thứ nhất, tính không thống nhất, không đồng bộ, không phù hợp, sai sót, chồng chéo giữa chính sách kinh tế với văn bản pháp qui cũng như giữa các văn bản pháp qui với nhau. Sự thiếu thống nhất trong phân cấp quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thường xuyên diễn ra. Chẳng hạn, các bộ chủ quản một số ngành cũng được giao chức năng quản lí về hoạt động xuất nhập khẩu một số mặt hàng nên xảy ra không ít trường hợp “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, thiếu nhất quán giữa quản lí chung và quản lí chuyên ngành. Một số danh mục quản lí hàng hoá xuất nhập khẩu còn có sự chồng chéo giữa các bộ ngành. Ví dụ như mặt hàng thủy sản, Hải quan đề nghị bỏ qui định về kiểm tra trọng lượng từng con đối với thuỷ sản xuất khẩu nhưng phía Bộ Thuỷ sản lại cho rằng cần giữ nội dung qui định về khối lượng cá để bảo vệ nguồn lợi các loại thuỷ sản quí hiếm bị khai thác quá mức [59,14]. Tính đồng bộ còn thể hiện ở quan điểm thiếu tính tổng thể, toàn diện, mà hầu như chúng ta đang tồn tại một quan điểm “thiếu đâu làm đó, sai đâu sửa đấy”. Quan điểm này tuy có những tích cực nhưng đây là những quan điểm làm ăn nhỏ lạc hậu. Nhiều pháp lệnh, nghị định của Nhà nước được ban hành, nhưng rất lâu sau mới hình thành những văn bản hướng dẫn thi hành hoặc là nhiều văn bản pháp qui của Nhà nước sau khi được ban hành không hợp lí, thiếu khả thi, bị thay đổi, rút không thực hiện... Theo ông Oliver Massmann - Công ty luật Baker & Mckenzie thì "Hệ thống pháp luật Việt Nam cần được xem xét trong một thể thống nhất với Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và các quy định của AFTA. Khi Việt Nam gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài sẽ tăng mạnh nhưng từ nay đến thời điểm đó, các bạn sẽ phải sửa đổi 148 điều luật và quy định mà theo chúng em là chưa được hoàn thiện" [51]. Thứ hai, hệ thống pháp luật thương mại vẫn chưa thực sự tạo lập quan hệ bình đẳng cần thiết giữa các loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là một số doanh nghiệp lớn hoạt động trong lĩnh vực thương mại, vẫn được "ưu ái" hơn. Khả năng cạnh tranh bình đẳng vẫn còn là vấn đề bức xúc đối với các doanh nghiệp nhỏ. Cơ chế thực hiện bình đẳng trên thực tế chưa thực sự có hiệu quả. Pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền ở nước ta mới chỉ là manh nha, chưa đủ tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho hoạt động thương mại. ở khía cạnh khác, lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng cũng chưa được pháp luật thương mại bảo vệ một cách hữu hiệu. Hơn nữa, pháp luật thương mại chưa thực sự đảm bảo quyền tự do, tự chủ kinh doanh của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại. Cơ chế xin - cho và những điều khoản khắt khe về quyền tự do khế ước vẫn đang là những rào cản đáng kể. Nhiều doanh nghiệp, vì thế, còn rơi vào thế lúng túng, gò bó, thậm chí bất lực trong hoạt động thương mại, đặc biệt là trong xuất khẩu. Thứ ba, hệ thống thuế, đặc biệt là thuế quan và hàng rào phi quan thuế, vẫn còn nặng nề, phức tạp. Trong biểu thuế xuất nhập khẩu thì sự định danh hàng hoá còn chưa rõ ràng, khi đọc tên có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau gây khó khăn cho việc áp thuế xuất hoặc nhập khẩu. Ví dụ có loại hoá chất có thể áp loại mã thuế là 1%, 5%, 30% [60,11] hay như có loại hàng hoá áp dụng cả hai thuế suất đều đúng, nơi áp thuế 3% cũng đúng, nơi áp thuế 30% cũng không sai [61,36]. Thuế xuất nhập khẩu nhìn chung vẫn còn cao và còn quá nhiều mức, gây khó khăn không những cho doanh nghiệp mà cho cả hoạt động quản lý. Mặt khác, các thủ tục hành chính lại rất phức tạp. “Để được thông quan tại các cảng biển, doanh nghiệp phải hoàn thành 127 loại giấy tờ, trong khi ở các nước ASEAN khác, họ chỉ cần 7 loại” [51]. Hơn nữa, việc thường xuyên thay đổi các qui định về mức thuế xuất nhập khẩu, danh mục hàng cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu làm cho doanh nghiệp luôn bị động trước kinh doanh [62,43-50] Thứ năm, tính chưa hiệu quản của bộ máy quản lí, điều hành và sự tuỳ tiện, không đủ năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, công chức quản lí, điều hành kinh doanh xuất nhập khẩu.Trong hoạt động quản lí điều hành kinh doanh xuất nhập khẩu nổi lên một số sai phạm điển hình: - Việc cầm giữ hàng hoá kéo dài nhưng không đủ bằng chứng chứng minh sự vi phạm của doanh nghiệp, gây thiệt hại lớn của doanh nghiệp. - Việc qui kết sai lầm, thiếu cân nhắc về các hoạt động của doanh nghiệp, sau đó khi doanh nghiệp được giải oan thì sự việc coi như đã rồi và gây tổn thất lớn cho doanh nghiệp. Hơn nữa, do sự nghi ngờ của Hải quan, buộc các doanh nghiệp phải giám định hàng hoá nhiều lần dẫn đến kéo dài thời hạn tạm giữ hàng hoá đã gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp. - Giám định là công tác hỗ trợ cho Hải quan xác định đúng qui cách chủng loại, mẫu mã làm cơ sở cho việc áp thuế. Cùng một loại hàng hoá nếu giám định cho kết quả khác nhau thì Hải quan thường chọn kết quả giám định nào áp mã có thuế suất cao nhất. Một vấn đề nổi cộm là việc thực thi pháp luật của Việt Nam cũng chưa ổn định và chưa thống nhất. Nhiều nhà đầu tư phàn nàn rằng, Chính phủ ban hành quy định mới nhưng các cấp địa phương lại không thực hiện đúng chủ trương. Ví dụ như việc thực thi chính sách ưu tiên xuất khẩu chưa được nhất quán. Tại một số địa phương do nhu cầu thu ngân sách, các cơ sở mới đầu tư cho sản xuất xuất khẩu vẫn bị thu thuế trong khi qui định là được miễn thu thuế thời gian đầu [63,14]. Nhiều tranh chấp, vướng mắc giữa các doanh nghiệp và địa phương, đã được cơ quan trung ương kết luận nhưng địa phương không thực hiện hoặc thực hiện một cách miễn cưỡng cũng chính là rủi ro đối với doanh nghiệp. Có thể nói, pháp luật thương mại Việt Nam nói chung chưa đảm bảo tiến trình hội nhập, tự do hóa thương mại cũng như việc thực hiện các cam kết khu vực và quốc tế. - Cơ sở hạ tầng: Hệ thống giao thông của Việt Nam vẫn còn chưa thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hoá từ nơi này sang nơi khác, chưa giảm được chi phí vận tải. Hệ thống thông tin, viễn thông đã có những bước chuyển biến nhưng vẫn còn nhiều yếu kém so với các nước trong khu vực. 2.2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện bằng khả năng bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh, duy trì được lợi nhuận và được đo bằng thị phần hàng hoá, và dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc các yếu tố: 2.2.1. Chi phí đầu vào đối với các doanh nghiệp Việt Nam - Giá nguyên liệu đầu vào Có thể nói rằng hiện nay, hàng hoá Việt Nam chưa thể cạnh tranh về mặt giá cả so với hàng hoá của các nước khác trong khu vực. Sở dĩ như vậy là vì giá thành của các sản phẩm còn quá cao khiến các doanh nghiệp không thể cho ra một sản phẩm giá rẻ. Trong các yếu tố cấu thành về giá như giá nguyên vật liệu, nhân công, các chi phí về hạ tầng như điện nước... Thực trạng giá “đầu vào” ở Việt Nam hiện nay rất đáng lo ngại, thường cao hơn 30-50% so với các đối tác ASEAN. Bảng 15 - Chi phí sản xuất của Việt Nam và một số nước ASEAN Chỉ tiêu VNam Thái Indonesia Singapore Malaysia Giá điện sx (cent/KWh) 6,30 - 4,50 - 5,70 ĐTQT bquân (USD/phút) 1,97 1,55 1,38 0,88 1,03 Xi măng PC (USD/tấn) 51,50 - 46,70 47,70 - Cước vận chuyển container đi Nhật Bản (USD) 1300 800 - - - Nguồn: Theo Ban vật giá Chính phủ Thêm vào đó, phần lớn các sản phẩm dù để tiêu dùng hay xuất khẩu đều có nguồn gốc nhập ngoại, thậm chí một số ngành (dệt may chẳng hạn) phải sử dụng tới hơn 70% phụ liệu nhập khẩu nên giá "đầu vào" đối với các sản phẩm công nghiệp đều có mức giá cao hơn mức giá của thế giới. Điều này tất yếu dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu đối với các sản phẩm Việt Nam khi tham gia hội nhập. Từ năm 1996 đến nay, bình quân chi phí "đầu vào" tăng 32,43% (xăng dầu tăng 42,28%, nước tăng 130%, thuế sử dụng đất tăng 90%, điện tăng 37,5% v.v...), trong khi đó, tỷ lệ giá bán sản phẩm "đầu ra" chỉ tăng 22,82%. Tỷ suất lợi nhuận bình quân giảm từ 16,8% năm 1996 xuống 6,2% năm 2000, thấp hơn xấp xỉ 2 lần so với các nớc trong khu vực và hơn 3 lần so với khu vực Châu Âu, đang làm nhiều nhà đầu tư do dự khi quyết định đầu tư. Với mặt bằng sản xuất như hiện nay nên giá thành sản xuất ở Việt Nam cao hơn cả giá bán sản phẩm cùng loại trên thế giới: Giá thành sản xuất đường năm 2000 - 2001 tại Việt Nam là 385-400 USD/tấn trong khi đó giá bán trên thế giới chỉ là 290 USD/tấn. Giá thành sản xuất xe máy (chưa có thuế) trong nước là 1.250 USD/chiếc, trong khi đó giá bán thế giới chỉ 1.100 USD/chiếc. Nhiều doanh nghiệp cho rằng, những năm gần đây, họ đã có những nỗ lực để đầu tư công nghệ mới, thay đổi cung cách quản lý, thực hiện tiết kiệm trong sản xuất v.v... nhưng do chi phí "đầu vào" cao làm "đội" giá thành, nên sản phẩm không thể chen "chân" vào các thị trường trong nước cũng như khu vực. Nhiều sản phẩm Việt Nam xuất khẩu theo điều kiện FOB lại ngang với giá giao theo điều kiện CIF của các doanh nghiệp thuộc nhiều quốc gia khác, nên không thể cạnh tranh được với khu vực. Chi phí "đầu vào" cao do nhiều yếu tố, trong đó rõ nhất là tính độc đoán của một số doanh nghiệp có vị thế độc quyền. Các doanh nghiệp phải mua điện với cách tính giá không phù hợp với quy luật thị trường, lẽ ra "mua càng nhiều giá càng rẻ" thì ở đây "mua càng nhiều giá càng cao". Điều này ngăn cản các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất vì có nguy cơ nếu càng mở rộng, giá sản phẩm càng cao. Không chỉ có điện, nhiều chi phí "đầu vào" khác cũng đã cao một cách không hợp lý nhưng vẫn đang và có xu hướng tăng lên. - Các khoản phí và lệ phí Phí và lệ phí khoản thu tuy chiếm tỷ trọng không lớn trong ngân sách Nhà nước nhưng đối với các doanh nghiệp thì lại là gánh nặng. Hiện nay bên cạnh những loại phí, lệ phí chính thức, thành văn (cụ thể, theo Nghị định 04/CP của Chính phủ về phí lệ phí thuộc ngân sách Nhà nước ngày 30/1/1999, gồm có 20 loại phí, 35 loại lệ phí ) doanh nghiệp còn phải đối mặt với những khoản phí và lệ phí không chính thức. Theo Nghị định 04/CP phạm vi điều chỉnh quá hẹp (chỉ những khoản phí, lệ phí thuộc ngân sách Nhà nước) mà thực tế lại đang tồn tại nhiều loại phí, lệ phí không thuộc ngân sách Nhà nước do rất nhiều cấp, ngành khác nhau thu. Đối với doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu thì bên cạnh phí hải quan hay chi phí cho các loại thuế đã được quy định còn phải đóng rất nhiều loại "phí" dưới các hình thức khác nhau mà nếu không nộp đủ thì hàng hoá sẽ bị ách tắc, doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí lưu kho bãi, mất cơ hội kinh doanh, làm tăng chi phí sản xuất và tăng giá thành sản phẩm. 2.2.2. Hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo Năng lực, trình độ chuyên môn của các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến sự thành bại của một doanh nghiệp. Nếu lãnh đạo có năng lực, trình độ đáp ứng được yêu cầu, chức trách nhiệm vụ được giao thì doanh nghiệp có cơ hội tốt để đạt được thành công. Ngược lại, nhà quản trị thiếu năng lực, trình độ chuyên môn là nguồn rủi ro lớn nhất đối với doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ lãnh đạo được hình thành từ ba yếu tố: thứ nhất, những kiến thức được đào tạo, học tập, rèn luyện trong nhà trường; thứ hai, trong quá trình bám sát thực tế sản xuất - kinh doanh; thứ ba, do năng khiếu bẩm sinh. Đối với Việt Nam, cả 3 yếu tố này còn rất thiếu: - Thông thường, giáo dục và đào tạo luôn phải đi trước nhằm mở đường và trợ giúp cho việc hình thành nhân cách, năng lực của các nhà lãnh đạo trong tương lai. Nhưng đối với Việt Nam, trong một thời gian dài đào tạo về kinh tế luôn chịu ảnh hưởng của tư duy kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Sự chuyển đổi sang tư duy và phương pháp đào tạo về kinh tế thị trường là một khoảng thời gian dài, còn gặp không ít khó khăn do sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, tài liệu mà quan trọng nhất là đội ngũ cán bộ giảng dạy kinh tế. - Thực tế luôn là bức tranh sinh động, là tấm gương phản ánh, là “lửa thử vàng” nhằm thử thách, đánh giá năng lực các nhà quản trị một cách trung thực và chính xác nhất. Tuy nhiên thực tiễn sản xuất - kinh doanh theo cơ chế thị trường nhất là kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam còn chưa đủ dài, chưa đủ phức tạp, qui mô kinh doanh chưa đủ lớn để tạo lập phẩm chất, năng lực của các nhà quản trị thông qua thương trường quốc tế. Sự rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm của các nhà lãnh đạo luôn thiếu những điều kiện cần thiết về môi trường, vật chất, thiếu những cơ hội được cọ xát. - Năng lực của nhà quản trị kinh doanh còn được hình thành trên cơ sở năng khiếu, sở trường và lòng ham mê, nhiệt huyết. Năng khiếu phải được phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng mới phát huy để phục vụ cho các hoạt động lãnh đạo. Công tác phát hiện, bồi dưỡng, tuyển dụng và bổ nhiệm các nhà lãnh đạo của Việt Nam còn nhiều bất hợp lí, chưa tạo dựng một cơ chế tuyển chọn khách quan, còn mang nặng tính chủ quan, áp đặt. Việc bổ nhiệm cán bộ thiếu năng lực, phẩm chất hoặc giao trọng trách vượt quá khả năng cán bộ thực sự là một nguy cơ ảnh hưởng đến sự thành bại của doanh nghiệp. Tham khảo Bảng 13, Phụ lục, chúng ta sẽ thấy rõ trình độ được đào tạo và độ tuổi của giám đốc các doanh nghiệp. Giám đốc khối DNNN có trình độ (81,4% có trình độ cao đẳng, đại học trở lên) cao hơn khối doanh nghiệp tư nhân (20,1% có trình độ cao đẳng đại học trở lên). Giám đốc khối DNNN trung ương có trình độ cao hơn giám đốc khối DNNN địa phương. Tuổi trung bình của giám đốc khá cao, xấp xỉ 80% giám đốc có tuổi đời trên 40, gần 30% giám đốc có tuổi đời trên 50. Điều này chứng tỏ phần lớn giám đốc được đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về kinh tế trong thời gian bao cấp. Do vậy, dù có bồi dưỡng về kiến thức kinh tế thị trường thì vẫn rơi vào tình trạng “chắp vá”, không đồng bộ, thiếu hệ thống... 2.2.3. Tình trạng thiếu thông tin, lờ mờ về hội nhập khu vực Các doanh nghiệp Việt Nam từ trước đến nay vẫn luôn trông chờ vào sự giúp đỡ, hướng dẫn về thông tin của Nhà nước, chưa thực sự tự mình khai thác và tìm hiểu thị trường. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho hàng hoá do Việt Nam sản xuất chưa thể đứng vững trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường các nước trong khu vực cũng như thị trường các nước khác trên thế giới. Điều này thực sự chỉ đúng với các doanh nghiệp nhà nước còn đối với các doanh nghiệp tư nhân, họ nhận thức được rằng muốn tồn tại phải tìm mọi cách để cạnh tranh, nếu có sự hỗ trợ của Nhà nước thì càng quý, nhưng tự thân vẫn là chính. Theo một số giới am hiểu về doanh nghiệp cho biết, một số doanh nghiệp tư nhân làm kinh doanh xuất nhập khẩu am hiểu các lộ trình của nước ta và các nước về AFTA, APEC khá chu đáo và cụ thể hơn một số doanh nghiệp nhà nước, vì đó là sự sống còn của họ. “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”. Trong kinh doanh cũng vậy, chỉ khi hiểu rõ về mình cũng như hiểu rõ về đối thủ cạnh tranh về thị trường cạnh tranh thì mới có thể tồn tại và phát triển được. Có thể nói đây là một vấn đề quá khó, nhưng phải bắt buộc tìm hiểu, xem xét, cân nhắc kỹ, thông qua nhiều phương án để tìm ra lối đi thích hợp nhất. Cạnh tranh là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Đã có lúc một số quan chức nhà nước khuyên nhủ và có ý cảnh báo các doanh nghiệp phải nâng cao ý thức cạnh tranh, không nên trông chờ ỷ lại vào sự giúp đỡ, thông tin, hướng dẫn của Nhà nước. Ngay cả đối với việc hội nhập vào khu vực để tiến tới thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chỉ hiểu một cách mơ hồ về vấn đề giảm thuế theo CEPT/AFTA. Từ năm 2001, việc cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT trở nền kiên quyết và dồn dập hơn rất nhiều do Chính Phủ bắt đầu đưa vào cắt giảm mạnh nhiều mặt hàng từ trước tới nay vốn có mức thuế suất cao và được bảo hộ bằng nhiều biện pháp phi thuế quan. Cho đến năm 2006 thì sẽ thực hiện cắt giảm đối với hầu hết các mặt hàng, do đó không trừ một doanh nghiệp nào không phải đối mặt với thực tế này. Như vậy lộ trình thực hiện cắt giảm thuế suất hàng hoá theo Chương tình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEPT/AFTA) của Việt Nam đã bắt đầu bước vào giai đoạn nước rút nhưng vẫn còn khá nhiều doanh nghiệp tỏ ra quá “mù mờ” về vấn đề này. Lý do các doanh nghiệp đưa ra là thông tin nắm được còn quá ít và còn mải lo làm ăn, cạnh tranh với các đối thủ trong nước nên không có thời gian tìm hiểu. Mặt khác theo một số doanh nghiệp thì họ cũng có biết sơ sơ là Chính phủ đã đưa vào thực hiện giảm thuế nhiều mặt hàng theo CEPT từ nhiều năm nay, song hầu như chẳng ảnh hưởng tới lĩnh vực sản xuất kinh doanh của minh nên cũng chưa có ý định để tâm tìm hiểu kỹ lưỡng. Có thể nói, đây là một cách nhìn rất hạn hẹp của một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp hiện nay [58,20]. Thậm chí có nhiều doanh nghiệp tuy đã nhận thức được vấn đề nhưng vẫn cố níu kéo sự bảo hộ theo kiểu “được ngày nào hay ngày ấy”. Như vậy tư tưởng dựa dẫm, ỷ lại vào Nhà nước vẫn còn đè nặng lên nhiều doanh nghiệp, chưa thực sự tạo sự năng động kinh doanh ở các doanh nghiệp Nhà nước. 2.3. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá Khả năng cạnh tranh của hàng hoá là thước đo trực tiếp về sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá được thể hiện ở số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã và giá cả... Hàng hoá Việt Nam hiện nay còn ít về số lượng, nghèo về chất lượng, mẫu mã lại chưa phong phú và giá cả thì còn cao so với nhiều nước trong khu vực nên khó có thể cạnh tranh với hàng hoá của các nước trong khu vực. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế lại càng trở nên cấp bách đối với doanh nghiệp Việt Nam khi mà các mặt hàng của một số nước như Thái Lan, Singapore đã có chỗ đứng trên thị trường quốc tế, có uy tín, lại có bạn hàng tương đối rộng. Hơn thế nữa, chiến lược của hầu hết các quốc gia trong khu vực Đông Nam á đều là “hướng ngoại”, vì vậy sự cạnh tranh của hàng hoá không phải là xuất từ chất lượng mà thị trường nội địa kiểm định, và đó phải là tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn và nỗ lực áp dụng nhiều biện pháp để có được sản phẩm với tiêu chuẩn chất lượng cao. Điển hình là việc đăng ký tham gia Hệ thống quản trị theo tiêu chuẩn ISO 9000; Hệ thống quản trị chất lượng đồng bộ TQM; Hệ thống chất lượng theo GMP; HACCP cho các DN sản xuất dược phẩm, thực phẩm, nông sản, thuỷ sản; Hệ thống quản trị an toàn quốc tế ISM Code cho tàu biển và dàn khoan di động trên hải phận quốc tế; Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000 và Hệ thống quản trị chất lượng theo tiêu chuẩn "giải thưởng chất lượng Việt Nam". Nhiều DN đã có những tiến bộ đáng trân trọng trong nhận thức và áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật song cũng còn nhiều DN hoàn toàn không có khái niệm gì về quản lý chất lượng. Thực tế hiện nay ở nước ta tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất được cấp chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng ISO/9000 còn quá ít (hơn 100/600.000 doanh nghiệp). Tuy vậy không phải doanh nghiệp nào cũng hiểu được tầm quan trọng của nó mà một số doanh nghiệp đăng ký các chứng chỉ quản lý chất lượng quốc tế dường như chỉ là để chạy theo phong trào. Thậm chí, có doanh nghiệp còn "mua" chứng chỉ mà không thực sự nâng cao chất lượng sản phẩm. Cần phải nhận thức rõ ràng, sản phẩm của họ không chỉ cần có chứng chỉ quốc tế để xuất khẩu là đủ mà còn phải vượt qua một "rào cản tối cao" - đó là sự lựa chọn của người tiêu dùng [64,8]. III. Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong hội nhập AFTA 3.1. Một số biện pháp của Nhà nước để nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập AFTA 3.1.1. Xây dựng định hướng chiến lược phát triển trong quá trình hội nhập Trong thế giới hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa lại có thể xây dựng được cho mình một nền kinh tế phát triển. Mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế chung đối với tất cả các nước. Tuy nhiên, với nền kinh tế xuất phát muộn và nông nghiệp là bộ phận cấu thành chủ yếu như nước ta, thì trong giai đoạn đầu tiên của quá trình hội nhập, Việt Nam cần phải nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu những ngành sản xuất truyền thống mà nước ta có lợi thế. Đồng thời, trên cơ sở thu hút vốn, công nghệ và trình độ quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài, chúng ta cần đón đầu và tiếp cận một số ngành có hàm lượng công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn với lao động lành nghề để làm ra những sản phẩm mang tính cạnh tranh cao như các sản phẩm thuộc các ngành chế biến lương thực thực phẩm, dệt may, da giày, khai thác và chế biến dầu khí. Xuất khẩu các sản phẩm lương thực thực phẩm qua chế biến vừa tạo ra giá trị gia tăng cao vừa tránh được hàng rào bảo hộ của các nước thành viên đối với hàng nông sản chưa qua chế biến. Tuy nhiên, đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá cần phải chú ý là không được tập trung vào một số ít mặt hàng, không để từng mặt hàng quá phụ thuộc vào một thị trường: tăng thị phần trên những thị trường truyền thống, khai thông và mở rộng thị trường mới; đặc biệt chú ý mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư với các nước Đông Nám á, với các thị trường có tiềm năng lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật, EU... Tăng cường sự phối hợp có hiệu quả giữa cơ quan nhà nước với các hiệp hội và các doanh nghiệp để đẩy mạnh công tác tiếp thị, xâm nhập thị trường. Có cơ chế khuyến khích và tạo thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài làm cầu nối cho hàng Việt Nam đi vào thị trường nước sở tại. 3.1.2 Xây dựng chính sách bảo hộ sản xuất trong nước một cách có lựa chọn, có điều kiện và có thời hạn đi đôi với công bố lộ trình giảm thuế nhập khẩu . Thực tiễn là ở các quốc gia tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu, dù đã đạt gần tới tỷ suất tự do hoá hoàn toàn, họ vẫn thực hiện một số biện pháp bảo hộ thị trường trong nước. Đối với Việt Nam, việc bảo hộ thị trường trong nước là tối quan trọng vì thời gian trước mắt, chúng ta chưa thấy dấu hiệu gì về tăng xuất khẩu khi gia nhập AFTA nên những nỗ lực để bảo vệ, hỗ trợ cho những mặt hàng xuất khẩu sẽ rất cần thiết để hạn chế sức ép nhập khẩu. Bên cạnh đó, vì CEPT có tác động kích thích xuất khẩu chủ yếu đối với các mặt hàng chế biến, nên việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ để điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ phần các mặt hàng chế biến xuất khẩu sẽ là rất quan trọng. Sự bảo hộ sản xuất trong nước sẽ góp phần giảm dần sự chênh lệch về trình độ công nghệ, mẫu mã. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, việc duy trì hay xoá bỏ chính sách bảo hộ sản xuất nội địa bao giờ cũng có tác động mang tính hai mặt. Nếu bảo hộ quá lâu và quá cao thì sẽ làm cho các nhà sản xuất ỷ lại và trì trệ. Song nếu xoá bỏ bảo hộ quá nhanh thì có thể dẫn tới sự phá sản của sản xuất trong nước, giao thị trường nội địa cho thị trường ngoại quốc. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là khi tham gia AFTA, Việt Nam cần phải xây dựng cho mình một chính sách bảo hộ đúng đắn sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu của CEPT/AFTA vừa bảo đảm cho các ngành sản xuất trong nước thích nghi, quen dần với môi trường không có bảo hộ. Muốn vậy, khi thực hiện các chính sách bảo hộ chúng ta cần phải chú ý đến các vấn đề sau: - Chỉ bảo hộ những mặt hàng mà sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, có tiềm năng phát triển về sau, tạo được nguồn thu ngân sách và giải quyết lao động. - Bảo hộ phải được thống nhất thực hiện cho mọi thành phần kinh tế, kể cả các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Chính sách bảo hộ phải được quy định cho từng trường hợp, từng thời gian và không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ hàng hóa nào. - Bảo hộ thị trường trong nước nhưng phải phù hợp với các tiến trình tự do hoá thương mại và các hiệp định quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. 3.1.3. Không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới công tác hành chính, tổ chức liên quan Từ trước đến nay, hệ thống pháp luật luôn là mối lo ngại cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Một trong những mục tiêu của việc thành lập AFTA là kêu gọi hơn nữa đầu tư nước ngoài vào các nước thành viên do đó, để không bị thua kém so với các nước trong khu vực và để trở thành một địa điểm hấp dẫn về đầu tư thì Việt Nam cần phải cải thiện và hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống pháp luật, trong đó cần lưu ý một số điểm: - Tăng cường hệ thống pháp lý thống nhất nhằm tạo ra môi trường pháp lý, môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần phải có quan niệm mới về tầng lớp doanh nhân, cần coi họ là đội quân chủ lực trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới. Từ đó phải có chiến lược lâu dài để xây dựng tầng lớp doanh nhân Việt Nam làm giàu bằng trí tuệ và văn hóa tạo ra nhiều thương hiệu Việt Nam trên thị trường thế giới - Xây dựng hệ thống pháp lý, chính sách phát triển trên cơ sở khoa học, thực tiễn, phù hợp với yêu cầu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh và thông lệ quốc tế nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng và hạn chế những khiếm khuyết cản trở đến hoạt động của doanh nghiệp. - Nghiên cứu kĩ lưỡng, chuẩn bị chu đáo, tránh nóng vội nhằm tạo “sức sống” của các văn bản pháp qui, hạn chế những thay đổi quá nhanh của hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế gây ra bất lợi cho các doanh nghiệp. Không nên lạm dụng nguyên tắc “sai thì sửa” trong khi ban hành các văn bản pháp qui, chính sách kinh tế mà dẫn đến sự tuỳ tiện dễ thay đổi, gây ra sự lo ngại, hoài nghi của các nhà đầu tư về những cam kết mang tính nguyên tắc của Nhà nước. Đối với hoạt động ngoại thương cần chú ý đến các chính sách về: Cải cách chính sách thuế Để nhằm vừa đảm bảo thực hiện đúng những cam kết của CEPT/AFTA vừa thực hiện được 4 nguyên tắc thì ngay từ bây giờ, Việt Nam cần phải xây dựng một lịch trình giảm thuế và xoá bỏ hàng rào phi thuế quan cụ thể cho từng năm, từng thời kỳ trên cơ sở tối đa hoá nguồn thu nhưng lại giảm dần mức độ bảo hộ thực tế đối với các ngành sản xuất trong nước. Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần phải: - Cơ cấu lại các loại thuế đánh vào hàng nhập khẩu Để bù đắp số giảm thu do hạ thuế suất thuế nhập khẩu, chúng ta có thể sử dụng biện pháp mở rộng diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (bao gồm cả hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước) và áp dụng thuế VAT cao đối với hàng nhập khẩu. Điều này sẽ làm cho giá hàng hóa nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước của các nhóm hàng này tăng lên. Đối với hàng nhập khẩu, tăng giá sẽ hạn chế nhập khẩu. Đối với hàng sản xuất trong nước, giá cao sẽ tạo ra sức ép xuất khẩu ra nước ngoài. Như vậy, biện pháp này vừa hạn chế nhập khẩu, vừa khuyến khích xuất khẩu và tăng ngân sách. - Thực hiện đơn giản hoá các mức thuế suất. Có thể nói, do trình độ phát triển của nước ta thấp, các ngành kinh tế phát triển không đều, lợi nhuận bình quân giữa các ngành chưa cao cho nên, hiện tại, hệ thống thuế của Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều mức thuế suất khác nhau, gây khó khăn cho việc tính thuế. Hoàn thiện hệ thống chính sách xuất nhập khẩu Cùng với chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu là một trong những công cụ chủ yếu để điều chỉnh mức độ, phạm vi hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực theo yêu cầu của CEPT/AFTA. Chính sách xuất nhập khẩu phải trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách chung của Nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, khai thác và phát huy tốt nội lực của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vào hoạt động ngoại thương. Do vậy, chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam sắp tới cần hoàn thiện theo các hướng sau: - Tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu. - Cần xây dựng chính sách mặt hàng xuất khẩu thích ứng đối với từng thị trường và khu vực thị trường theo từng thời kỳ. - Thực hiện ưu đãi thuế quan thậm chí giảm thuế đối với các mặt hàng phục vụ sản xuất. 3.1.4. Phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin Trong thu hút đầu tư nước ngoài, hệ thống pháp luật Việt Nam không phải là trở ngại duy nhất, cơ sở hạ tầng cũng là một vấn đề bức xúc. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam cũng đã nỗ lực để hoàn thiện hệ thống đường xá, hệ thống thông tin liên lạc. Chính phủ không những phải thiết lập một hệ thống thông tin liên lạc hiện đại mà còn phải điều chỉnh sao cho giá cả ngang bằng thậm chí thấp hơn các nước trong cùng khu vực. Nhà nước vẫn còn độc quyền đối với các sản phẩm điện, nước hay viễn thông do đó cước viễn thông hay chi phí điện nước vẫn còn đắt so với nhiều nước trong khu vực. Đây chính là một nhân tố khiến cho giá thành sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp còn cao, chưa tạo được khả năng cạnh tranh về giá. Tuy nhiên, gần đây với sự ra đời của Bộ Bưu chính Viễn Thông thì hy vọng giá của các dịch vụ viễn thông sẽ rẻ hơn, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Còn đối với các sản phẩm điện nước thì cần phải giảm bớt sự độc quyền của Nhà nước. 3.1.5. Tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về thị trường khu vực và quốc tế Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên việc tự tìm kiếm thông tin thị trường, tự trang trải mọi khoản phí phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, thiết lập kênh phân phối... là khó có thể thực hiện. Nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin, tư vấn pháp lý, nguồn tài chính... để gia nhập thị trường quốc tế một cách vững vàng, hạn chế gặp phải rủi ro khi phải kinh doanh trong tình trạng bất lợi, thiếu thông tin, thiếu bình đẳng. 3.5.6. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh doanh trong hội nhập Hội nhập là một quá trình lâu dài và không thiếu những rủi ro do vậy để vững vàng trong hội nhập thì biện pháp tốt nhất là tăng cường đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh doanh: - Đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Đây là tiêu chuẩn cơ bản đánh giá năng lực của nhà quản trị. - Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ. Ngôn ngữ là cầu nối cơ bản trong giao tiếp, cũng là nguyên nhân gây ra sự bất đồng, những rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao trình độ ngoại ngữ là điều kiện bắt buộc để có thể hội nhập sâu rộng hơn. - Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ tin học. Tin học ngày nay đã trở thành một công cụ không thể thiếu để tiếp cận với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. - Đào tạo bồi dưỡng kiến thức về pháp luật, tập quán thương mại trong nước và quốc tế. Môi trường pháp luật quốc tế thường phức tạp và không rõ ràng do đó để tránh những vi phạm pháp luật ngoài chủ định, cần có sự am hiểu nhất định về các công ước điều ước quốc tế mà các nước tham gia kí kết. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ cho kinh doanh ngoài sự quan tâm của các doanh nghiệp sử dụng lao động, đòi hỏi phải có đầu tư của Nhà nước. Chỉ có Nhà nước mới đủ sức để thể hiện sự quan tâm thực hiện chiến lược dài hạn về nguồn nhân lực nhằm phục vụ sản xuất, kinh doanh. Với vai trò của mình, Nhà nước cần có những biện pháp ngắn hạn và dài hạn nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh doanh, hạn chế những rủi ro, tổn thất, khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường để tiến tới tạo lập môi trường kinh doanh an toàn cho các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. 3.2. Một số biện pháp của doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập AFTA 3.2.1. Chủ động tiếp cận và chuẩn bị cho tiến trình hội nhập AFTA Hội nhập AFTA mang lại cho Việt Nam những điều kiện mới, sức sống mới, lợi thế mới... trong phát triển kinh tế, tuy nhiên quá trình hội nhập cũng sẽ tạo ra những bất lợi, những nguy cơ mới. Mặc dù tiến trình thực hiện AFTA đã đi được nửa chặng đường nhưng dường như còn quá nhiều doanh nghiệp vẫn còn rất thờ ơ, thậm chí không biết đến Hiệp định CEPT. Các doanh nghiệp nên chủ động chuẩn bị sẵn sàng để không bị bất ngờ trước các tác động mà AFTA mang lại khi khu vực mậu dịch tự do được thiết lập. Ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp cần phải theo dõi đầy đủ lịch trình giảm thuế do Nhà nước công bố để có thể tận dụng được lịch trình cắt giảm thuế. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần phải tăng cường đầu tư công nghệ mới, cải tiến và áp dụng công nghệ quản lí tiên tiến để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp của các nước trong khu vực. 3.2.2. Tăng cường công tác xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tham gia AFTA thì cần phải tiến hành đồng bộ vừa cải thiện chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp vừa tiến hành xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp - Cải tiến phương thức quản lý hoạt động, đặc biệt là quản lý tài chính, quan lý các yếu tố đầu vào nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn. - Đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ gắn với năng lực quản lý và trình độ tay nghề của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp. - Nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng, mở rộng mạng lưới tiếp thị để tạo thêm giá trị cho sản phẩm. - Quản lý chất lượng sản phẩm trước, trong và sau giai đoạn sản xuất. Đặc biệt các sản phẩm của doanh nghiệp phấn đấu đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, cải tiến chất lượng bao bì và nhất thiết các sản phẩm phải thực hiện mã vạch. Để thực hiện được các vấn đề trên đây, các doanh nghiệp Việt Nam cần có những thông tin đầy đủ, cập nhật về công nghệ, thị trường sản phẩm, có sự hỗ trợ tư vấn chuyên môn và chuyên môn hoá công tác quản lý. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược kinh doanh ở doanh nghiệp. Bên cạnh chiến lược tổng thể của Nhà nước, Bộ chủ quản, từng doanh nghiệp cũng phải xây dựng chiến lược doanh nghiệp riêng. Nội dung chiến lược doanh nghiệp tập trung vào 3 vấn đề cơ bản sau đây: - Phân tích lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương quan với các doanh nghiệp cùng ngành, các đối tác cạnh tranh. - Nghiên cứu, dự báo tình hình và sự cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và trên thế giới trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào AFTA, APEC, WTO. Đồng thời cũng nghiên cứu những tác động, xu hướng chuyển động thương mại của một số đối tác cạnh tranh với thị trường Việt Nam như việc Trung Quốc tham gia WTO, thị trường EU... Trên cơ sở đó, mỗi doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh thích hợp. 3.2.3. Đổi mới và hoàn thiện môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là sự hội tụ của nhiều yếu tố khác nhau bao gồm các yếu tố vĩ mô và vi mô nhằm tạo cho doanh nghiệp biết sử dụng khai thác quy trình từ sản xuất đến lưu thông hàng hóa. Các yếu tố này bao gồm: xúc tiến xuất khẩu, đầu tư cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý và tay nghề, các chính sách hỗ trợ sản phẩm... Quan trọng hơn cả là doanh nghiệp phải xác định việc tham gia AFTA là nhiệm vụ, trách nhiệm của chính doanh nghiệp để tồn tại, phát triển trong điều kiện cạnh tranh mở cửa nền kinh tế.Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh Nhà nước cần sớm giải quyết các vấn đề như xây dựng môi trường pháp lý rõ ràng, nhât quán, ổn định;thực hiện chính sách tài chính tích cực,linh hoạt và thận trọng. 3.2.4. Tổ chức hệ thống thông tin phản ánh kịp thời sự thay đổi nhu cầu và phát hiện nhu cầu mới trên thị trường mục tiêu Thông tin về thị trường là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây lại là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Để xây dựng được hệ thống thông tin này, việc quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có sự liên kết, hỗ trợ, khai thác thông tin của các công ty bán lẻ trên thị trường các nước ASEAN, nhanh chóng tiếp cận với phương thức thương mại điện tử thông qua việc sử đưa vào sử dụng hệ thống công nghệ thông tin, đặc biệt là Internet, để giúp các doanh nghiệp thu thập, dự báo thông tin về thị trường nhanh chóng và độ chính xác cao nhất. Thông qua những hoạt động hỗ trợ của Chính phủ và các trung tâm tư vấn, các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt và xử lí các thông tin để tháo gỡ các bất cập. 3.2.5. Quan tâm đến thị trường trong nước nhưng đồng thời cũng tìm kiếm các đối tác kinh doanh trên thị trường ASEAN. Trong quá trình hội nhập, cạnh tranh không chỉ diễn ra ở thị trường nước ngoài mà còn diễn ra ở thị trường trong nước. Hội nhập sẽ chỉ thành công một nửa nếu bỏ qua thị trường trong nước. Khi các doanh nghiệp đã có một nền tảng vững chắc ở trong nước thì việc xuất khẩu tìm đối tác bên ngoài sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Hiện nay các doanh nghiệp chủ yếu hoạt động dưới hình thức gia công cho nước ngoài, do đó để có thể tối đa lợi nhuận xuất khẩu thì doanh nghiệp cần tìm kiếm các hợp đồng để trở thành nhà thầu cung cấp. Ký hợp đồng thầu cung cấp cho các công ty bán lẻ sẽ là phương án tối ưu đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, vì làm như vậy sẽ giảm được chi phí phân phối do loại bớt khâu trung gian, mặt khác các nhà bán lẻ sẽ cung cấp nhanh nhất các thông tin cần thiết về sự thay đổi nhu cầu cho các nhà sản xuất. Đồng thời để có khả năng thực hiện các hợp đồng thầu cung cấp, các doanh nghiệp cũng phải tìm kiếm các đối tác trong nước để cung cấp nguyên vật liệu, các phụ kiện chất lượng cao cho sản xuất hàng xuất khẩu... qua đó hạ thấp chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và thúc đẩy sản xuất trong ngành phát triển. Kết luận Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế không thể nào đảo ngược của nền kinh tế thế giới hiện đại và tự do hóa thương mại là một yếu tố cơ bản của xu thế này. Đối với các nước đang phát triển, chiến lược phát triển kinh tế dựa vào công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu chứng tỏ thành công hơn so với chiến lược kinh tế dựa vào công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam tham gia CEPT/AFTA và chuẩn bị để tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế khác như APEC, GATT/WTO là một quyết định đúng đắn hoàn toàn. Trong quá trình hội nhập này, thực tiễn cuộc sống đòi hỏi chúng ta chấp nhận cơ chế hợp tác và cạnh tranh, nỗ lực phấn đấu nâng cao năng lực bản thân đạt tới mục tiêu mà chúng ta đã xác định. Một bài học rút ra từ thực tiễn hội nhập kinh tế khu vực là phải khẩn trương đề ra các chính sách và biện pháp hữu hiệu thực hiện một cách chủ động nội dung và tiến trình CEPT/AFTA. Cơ chế thị trường không chấp nhận những gì cứng nhắc thuộc cơ chế điều hành nền kinh tế theo chế độ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp trước đây; chính sách thương mại phải được xây dựng thông thoáng hơn theo hướng tự do hoá, chỉ nên bảo hộ những gì là cần thiết và phải định rõ thời hạn bảo hộ. Bảo hộ càng nhiều, sức cạnh tranh càng yếu. Các công cụ phi thuế quan cần phải được nghiên cứu cụ thể hoá theo thời gian và điều kiện của đất nước, tuy nhiên cần phải chú ý tuân thủ các thông lệ, luật lệ quốc tế và phản ánh được xu hướng của thời đại. Hiện nay, nước ta là thành viên ASEAN, trong tương lai không xa sẽ là thành viên của tổ chức WTO. Sự chậm trễ sẽ đồng nghĩa với mất thời cơ hội nhập và tăng trưởng, là kéo dài sự lúng túng và thụ động trong quá trình hội nhập. Hội nhập kinh tế Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới có nghĩa là các thể chế kinh tế Việt Nam phải phù hợp với tập quán quốc tế. Sau nhiều năm đi theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, tình thế hiện nay đòi hỏi Chính phủ phải nỗ lực cải cách các thể chế kinh tế theo hướng đơn giản hóa cơ chế quản lý, trao quyền tự chủ kinh doanh nhiều hơn nữa cho các doanh nghiệp, bảo đảm tính minh bạch và nhất quán trong chính sách kinh tế cũng như trong các quy định về hoạt động kinh doanh, bãi bỏ những chính sách, quy định không phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính cuộc cải cách thể chế này giữ vai trò quan trọng trong việc tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam và tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà nước cần chú ý đầu tư thích đáng để phát triển nguồn nhân lực của đất nước, một yếu tố then chốt làm biến đổi các lợi thế so sánh theo hướng có lợi cho mục đích phát triển bền vững. Người thực hiện và chịu tác động trực tiếp của tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế trên thực tế là các doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp cận thông tin hội nhập khu vực và thế giới. Thách thức vẫn còn nhiều ở phía trước, nhưng chúng ta hy vọng vào những kết quả có thể đạt được trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực ASEAN. Tài liệu tham khảo [1,17] Nguyễn Thị Doan, “Chủ động hơn nữa hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế”, Tạp chí Cộng Sản, số 19, 15/10/2001. [2,7] Đỗ Đức Bình, “Kinh tế học của sự hội nhập khu vực và những lợi ích chủ yếu do hội nhập mang lại”, Hội nhập AFTA: Cơ hội và thách thức, ĐH KTQD, Khoa KTKDQT 1997, Trang 7 [3,40] Nguyễn Thị Hồng Nhung, “Tự do hoá thương mại ở ASEAN”, Viện nghiên cứu kinh tế thế giới, 2001, Trang 40. [4,157] Ronald I Mc Kinton, “Trình tự tự do hoá kinh tế - quản lí tài chính trong quá trình chuyển sang nền KTTT”, NXB CTQGHN. [5,67] Michael Mussa, “Macroeconomic Policies and Trade Liberalization: Some common Indications”, Research Observer 2, No 1, Jan 1987, Page 61-77. [6,12] Nguyễn Xuân Thắng, “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt Nam”, NXB Thống Kê, 1999, Trang 12 [7,290] UNDP (MPI/DSC), “Việt Nam hướng tới 2010”, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2001, Trang 290. [8,58] Bộ Ngoại giao - Vụ ASEAN, “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á”, NXB CTQG, 1998, Trang 58 [9,10] Trần Thanh Hải, “Hỏi đáp về hợp tác kinh tế ASEAN” , UBQG về Hợp tác kinh tế quốc tế, NXB Thế giới, 2000, Trang 10. [10,91] “AFTA là gì?”, Kỷ yếu xuất khẩu 2001, NXB Thành phố HCM, Thời báo kinh tế Sài Gòn, 10/2001, Trang 91- 92. [11,5] Hoàng Kình, “Kinh tế quốc tế”, Phần 2, NXB Giáo dục, 1999, Trang 5. [12,214] Học viện Tài Chính, “Giáo trình kinh tế quốc tế”, NXB Tài Chính, 2002, Trang 214. [13,24] Bộ Ngoại Giao, “Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế”, NXBCTQG, 2000, Trang 24. [14] “Philíppin vẫn bảo hộ ngành hóa dầu dù đã có cam kết”, VNTTX / AFP, Bandar Seri Begawan, 16/09/2002 [15,3] PTS. Vũ Đức Đàm, “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 6 (44)/1996, Trang 3. [16,25] Nguyễn Thị Hồng Nhung, “Tự do hoá thương mại - Kinh nghiệm từ cá nước đang phát triển”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 1(51)/1998, Trang 25. [17,26] Nguyễn Thị Hồng Nhung, “Tự do hoá thương mại ở ASEAN - một quá trình phát triển”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 5 (61), 1999, Trang 26 [18,104] THS. Nguyễn Diệu Hùng, “AFTA - Mục đích thành lập và cơ chế thực hiện”, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và doanh nghiệp Việt Nam, NXB CTQG, 2001, Trang 104 [19,10] “AFTA/CEPT: Bước ngoặt trong sự phát triển kinh tế của ASEAN ”, Tạp chí Tài Chính, Số tháng 7/1997, Trang 10. [20,19] PTS. Hoa Hữu Lân, “AFTA từ khu vực hoá đến toàn cầu hoá”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 5 (49)/1997, Trang 18-22. [21,11] Nguyễn Mạnh Cầm, “ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới”, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và DN Việt Nam, NXBCTQG, 2001, Trang 11. [22,21] “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII”, NXB CTQG Hà Nội, 1996, Trang 21 và 90. [23,13] Nguyễn Thị Như Hà, “Thương mại Việt Nam trong lộ trình AFTA”, Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, Số 3(32), 6/2001, Trang 12-16. [24] Trần Văn Thọ, “Thách thức AFTA”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Số 18, 25/04/2002. [25] Lưu Phan, “áp lực hội nhập tăng nhanh”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, 29/08/2002. [26,17] Lương Văn Tự, “Vượt lên trên những thách thức mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, Số 9, 26/03/2002, Trang 17. [27] “Thực hiện khu vực mậu dịch tự do AFTA: Lợi ích rõ ràng nhất là mở được thị trường tiêu thụ”, Sài Gòn Giải Phóng, 13/08/2002 [28,57] Nguyễn Hữu Cát, “Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế khu vực thông qua CEPT: cơ hội và những vấn đề đặt ra”, Nghiên cứu Đông Nam á, 02/1997, Trang 57. [29,79] Vũ Khoan, “Thương mại Việt Nam-ASEAN trong bối cảnh triển khai thực hiên CEPT/AFTA”, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và doanh nghiệp Việt Nam, NXBCTQG, 2001, Trang 73-81. [30,85] Trần Xuân Thắng, “5 năm thực hiện CEPT/AFTA và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và doanh nghiệp Việt Nam, NXBCTQG, 2001, Trang 82-90. [31] Quý Hào, “Năm thứ hai trên lộ trình giảm thuế”, Thời Báo Kinh tế Việt Nam, 12/03/2002. [32] “Năm nay sẽ cắt giảm 730 dòng thuế theo hiệp định CEPT”, Sài Gòn Giải Phóng, Thanh niên, 31/03/2002. [33] “Cam kết về thuế của Việt Nam tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)”, Bộ Tài chính, tháng 04/2001. [34] “AMM-33 khẳng định mối quan hệ hợp tác kinh tế đặc biệt trong ASEAN”, Bộ Tài Chính, 17/9/2001. [35,15] PTS. Đỗ Đức Định, “AFTA với quá trình công nghiệp hoá Việt Nam”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 6 (44)/1996, Trang 15. [36] Tổng cục thuế, “Biểu thuế xuất nhập khẩu và xuất nhập khẩu ưu đãi”, NXB Thống Kê, 1999. [37,94] “Quá trình tham gia AFTA và lịch trình giảm thuế của Việt Nam theo CEPT/AFTA”, Kỷ yếu xuất khẩu 2001, NXB Thành phố HCM, Thời báo kinh tế Sài Gòn, 10/2001, Trang 93-97. [38] “Cuộc lột xác của ngành Hải quan”, Thanh niên, Hà Nội mới, 19/12/2000. [39,5] Nghị định 60/2002/NĐ-CP qui định về việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7/ GATT. [40,59] Nguyễn Thị Hồng Nhung. “Việt Nam với quá trình tự do hoá thương mại ASEAN”, Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 1(57)/1999, Trang 55-62. [41,4] “Nâng cao hiệu quả phối hợp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khu vực”, Báo Hải quan, Số 62(270), 04/08/2002, Trang 4. [42,3] Hoàng Kim, “Được lợi gì khi áp dụng danh mục thuế quan hài hoà ASEAN”, Báo Hải quan, Số 66(274), 8/08/2002, Trang 3. [43] “Thực hiện Hiệp định CEPT của các nước ASEAN: Quy chế năm 2002”, Thời báo kinh tế Việt Nam, 03/06/2002. [44,174] PTS. Nguyễn Đình Hương - GS. PTS. Nguyễn Đình Bách, “Quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN và chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam”, NXB CTQG, 1999, Trang 174. [45,27] Nguyễn Thị Hồng Nhung, “Việc thực hiện AFTA và những tác động của nó đối với các nước ASEAN”, Nghiên cứu ĐNA, 06/1999, Trang 23-31. [46,12] Trương Chí Trung, “Tác động của AFTA và các giải pháp thích ứng của Việt Nam”, T/chí Tài Chính, Số tháng 7/1997, Trang 12 [47,56] “Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam trong 10 năm 1991-2000”, Tổng Cục Thống Kê, 2001, Trang 56. [48] “Việt Nam được hưởng thuế suất nhập khẩu u đãi CEPT 0 - 5% và hệ thống ưu đãi hội nhập AISP từ ngày 1/1/2002”, Báo Thương mại, Số 19, ngày 5/3/2002 [49] Thuận Phương, “Tối đa cái "được", giảm thiểu cái "mất"”, Tuần báo Quốc tế, Số 19 (487), ngày 9/5/2002 [50,116] “Tiềm năng Việt Nam thế kỷ 21”, NXB Thế giới, 2001, Trang 116. [51] Phong Lan, “Thu hút FDI - Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khốc liệt”, Tin nhanh Việt Nam (www.vnexpress.net.vietnam), 16/8/2002. [52] “Cắt giảm thuế quan tác động tới ngân sách NN”, Bộ Tài chính, 19/04/2002, www.mof.gov.vn/tintuc/ttinhoinhap/19_04_02.htm. [53] “Chi phí đầu vào và khả năng cạnh tranh”, Bộ Tài chính, theo website www.mof.gov.vn/tintuc/taichinh_dn/chiphi.html. [54,23] Trọng Hồ, “Vài suy nghĩ về lợi thế cạnh tranh thương mại ở nước ta”, T/chí Thương mại, số 16, ngày 10/6/2002, Trang 23. [55] “Đầu tư nước ngoài 1988-2001”, Thời báo kinh tế Việt Nam, www.vneconomy.com.vn/statistic/vn/08.htm. [56,19] Trần Thuý Hà, “Năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới số 2 (76), 30/4/2002. [57,21] Nguyễn Thị Thanh Hoài, “Chính sách thương mại của Việt Nam trong xu thế thương mại quốc tế hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, 07/07/2000, Trang 21. [58,12] “Doanh nghiệp còn hiểu rất lờ mờ về hội nhập”, Báo Đầu tư, ngày 21/06/2001. [59,14] Phạm Hồng Quang, “Rà soát văn bản xuất nhập khẩu, hải quan”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Số 91, 14/11/1998, Trang 14. [60,11] Nguyễn Thi, “ Tiếp tục cải tiến thủ tục ”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Số 92, 16/11/1998, Trang 11. [61,36] Lê Văn Tứ, “Có đúng là do cơ chế”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 494, 15/06/2000, Trang 36. [62,43] Nguyễn Đình Tài, “Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Việt Nam thời gian qua và các biện pháp chính sách cho giai đoạn tới”, Nghiên cứu Kinh tế, Số 254, 07/1999, Trang 43-50. [63,14] Lưu Phan, “Trên thoáng, dưới chưa thông”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 510, 05/10/2000, Trang 14. [64,8] Hà Tuấn, “Rào cản kỹ thuật: Thách thức lớn với Doanh nghiệp Việt Nam”, Báo Thương mại, Số 17, ngày 26/02/2002, Trang 8.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKHOA LUAN TOT NGHIEP - Nguyen Thi Nhu Nguyet.doc
  • docPHU LUC BANG DOC.doc
  • docPHU LUC BANG NGANG.doc
Tài liệu liên quan