Khóa luận Kinh tế tư nhân Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra như hiện nay, kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng thể hiện rõ vai trò tích cực của mình trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đặc biệt, trong những năm thập niên cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, khi Thuyết tự do hoá được vận dụng rộng rãi ở nhiều nước và trào lưu cải cách, mở cửa, thúc đẩy kinh tế thị trường trở thành phương thức chính thức thúc đẩy tăng trưởng của nhiều nước đang phát triển và đặc biệt là các nền kinh tế chuyển đổi, KTTN một lần nữa khẳng định là một trong những cấu thành quan trọng của mọi nền kinh tế quốc dân. Điều này cũng không ngoại lệ với Việt Nam. Việt Nam chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, do vậy vai trò của khu vực KTTN đang được chú trọng rất nghiêm túc và đúng đắn. Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) đã chỉ rõ: “ Hơn 10 năm qua, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân, KTTN gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân, đã phát triển rộng khắp trong cả nước đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội của đất nước”. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, còn nhiều rào cản hạn chế sự phát triển và hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế này. Để tạo điều kiện cho KTTN phát triển đúng với tiềm năng của nó cần phải có nhận thức đúng, cũng như có đánh giá đúng về những đóng góp của khu vực KTTN với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Chính vì vậy, em chọn đề tài “ Kinh tế tư nhân Việt Nam - thực trạng và giải pháp” làm khoá luận tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích KTTN trên phương diện lý luận và thực tiễn để tìm ra những nguyên nhân cụ thể và những rào cản cản trở sự phát triển của khu vự kinh tế tư nhân, qua đó có thể đưa ra các giải pháp cũng như phương hướng giúp thành phần kinh tế này có sự phát triển đúng hướng đạt hiệu quả cao trong nền kinh tế đất nước. Đề tài có kết cấu ba chương: Chương1: Những vấn đề chung về KTTN Chương2: Thực trạng phát triển KTTN ở Việt Nam. Chương3: Định hướng và giải pháp cơ bản để phát triển KTTN ở Việt Nam. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN 2 1. 1. Khái niệm và đặc điểm: 2 1.1.1 Khái niệm: 3 1.1.2 Đặc Điểm: 3 1.2.Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân. 3 1. 3 Kinh nghiệm phát triển KTTN ở một số quốc gia: 3 1. 3. 1 Phát triển kinh tế tư nhân ở một số nước: 3 1.3.2 Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân cho Việt Nam: 3 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM 3 2. 1. Quan điểm của Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân từ 1986 đến nay. 3 2.2 Thực trạng Kinh tế tư nhân ở việt nam từ đổi mới đến nay. 3 2.2.1 Sự phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam từ đổi mới đến nay: 3 2.2.2 Những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào nền kinh tế quốc dân: 3 2.2.2.1.Khu vực tư nhân tại nhiều việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động: 3 2.2.2.2.Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn vào phát triển kinh tế – xã hội: 3 2.2.2.3. Đóng góp quan trọng vào GDP, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội: 3 2.2.2.4 Kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy phát triển thể chế kinh tế thị trường ,đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, 3 2.3 Các khó khăn cản trở sự phát triển của khu vực KTTN: 3 2.3.1. Kinh tế tư nhân khó khăn trong tiếp cận vốn: 3 2.3.2.Khó khăn trong tiếp cận nguồn nhân lực: 3 2.3.3.Khó khăn trong việc tiếp cận mặt bằng sản xuất kinh doanh: 3 2.3.4.Khó khăn trong việc thu hút và đào tạo nguồn nhân lực: 3 2.3.5. Khó khăn trong việc tiếp cận khoa học công nghệ 52 2.3.6. Một số khó khăn khác: 3 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM 3 3. 1. Định hướng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong bối cảnh mới. 3 3. 1. 1. Bối cảnh kinh tế mới: 3 3. 1. 2. Quan điểm định hướng Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân: 3 3. 2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian tới. 3 3. 2. 1. Về phía Nhà Nước: 3 3. 2. 2. Về phía doanh nghiệp: 3 KẾT LUẬN 3 TÀI LIỆU THAM KHẢO 3

docx74 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Kinh tế tư nhân Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c. Kinh tế tư nhân đang ngày càng sử dụng vốn có hiệu quả hơn tạo nguồn bổ sung vào ngân sách nhà nước. Theo cục thuế, năm 2000 KTTN nộp ngân sách nhà nước được 11. 033 tỷ đồng chiếm 16,1% tổng thu ngân sách, năm 2001 là : 11.075 tỷ đồng tăng 0,38% chiếm 14.8% tổng thu ngân sách . Năm 2003 là: 13.025 tỷ đồng tăng 1.992% chiếm 16% tổng thu ngân sách. Năm 2004 là: 13.550 tỷ đồng tăng không đáng kể so với năm 2003 chiếm 47,2% tiền nộp ngân sách là thuế doanh thu, 27% là thuế lợi tức, 24,3% thuế xuất khẩu và 1,5% là các loại thuế khác . Với sự lớn mạnh của KTTN nó đã làm hiệu quả của công tác thu ngân sách cũng tăng lên. Trước kia, nền kinh tế chỉ tồn tại các xí nghiệp quốc doanh, hiệu quả của công tác thu thuế thấp do nhà nước đã bao cấp toàn bộ đầu vào và đầu ra cho các xí nghiệp. Bước sang KTTN, khu vực KTTN đã phát triển mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực do vậy nhà nước thu nhiều khoản thuế. Đóng góp của doanh nghiệp dân doanh vào ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng nhanh, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103.6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Ngoài ra, KTTN còn góp phần tăng thu ngân sách như thuế môn bài, VAT trong nhập khẩu và các loại phí khác. Ở một số địa phương, đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm tỷ trọng rất lớn trong ngân sách. Chẳng hạn ở thành phố Hồ Chí Minh là khoảng 15%, Tiền Giang là 24%; Đồng Tháp 16%; Gia Lai 22% ; Quảng Nam 22%, Bình Định là 33%. . . Khu vực KTTN có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư xã hội. Tính đến cuối năm 2004 đầu tư của khu vực KTTN chiếm 29% tổng đầu tư toàn xã hội của Việt Nam (khoảng 10 tỷ USD) cao hơn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Chẳng hạn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh thành phố Hồ CHí Minh đã chiếm 38% tổng số vốn đầu tư của các DNNN và ngân sách gộp lại (36,5%) . KTTN tăng trưởng nhanh cũng là một nhân tố kích thích cải thiện hoạt động của các DNNN. Khoảng cách về tính hiệu quả giữa các DNNN giảm đi khi DNNN buộc phải cạnh tranh với nhau và với các khu vực khác. 2.2.2.3. Đóng góp quan trọng vào GDP, xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội: Tăng trưởng của khu vực tư nhân đã đóng góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và việc xoá đói giảm nghèo. Hiện nay, KTTN đóng góp khoảng 49% GDP cả nước, chiếm khoảng 28,8% trong các ngành công nghiệp (xấp xỉ bằng tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, không kể dầu khí), tăng 4,4% so với năm 2000. Trong lĩnh vực thương nghiệp, vị thế của KTTN còn lớn hơn nhiều, KTTN chiếm đến 84% tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ. Bảng 2.7: Đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế (%) Năm KTNN KTNQD KTVĐTNN 1995 42 27,6 6,3 1996 49,1 24,9 7,4 1997 49,4 22,6 9,1 1998 55,5 23,7 10 1999 58,7 24 12,2 2000 57,5 23,8 13,3 2001 58,1 23,5 13 2004 56 26,9 17,2 Nguồn: Niên gián thống kê năm 2004 Những năm gần đây, khu vực KTTN có tốc độ tăng trưởng rất nhanh, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Trong 4 năm (2000-2004), tốc độ tăng trưởng của KTTN trong công nghiệp đạt mức 20% / năm. Trong nông nghiệp KTTN đã có đóng góp đáng kể trong trồng trọt chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến và xuất khẩu. Nhờ sự phát triển của KTTN, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng hoá, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá khu vực nông nghiệp nông thôn. Trong những năm qua KTTN thực sự chiếm một tỷ trọng khá lớn vào sự ổn định GDP trong nước . Bảng 2. 8: cơ cấu sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế (%) Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 KTNN 41. 27 40. 39 40. 75 41. 13 40. 5 40. 35 41 KTTT 8. 54 8. 64 8. 53 8. 3 8. 2 8. 0 8. 40 KTTN 3. 31 3. 26 3. 3 3. 54 3. 71 3. 80 4. 0 KT cá thể 33. 45 33. 08 32. 18 31. 40 31. 5 31. 5 32. 0 KT hỗn hợp 4. 19 4. 25 4. 41 4. 78 4. 80 5. 0 5. 0 KT có vốn đầu tư NN 9. 24 10. 38 10. 77 10. 88 11. 29 11. 35 9. 6 Nguồn:Tạp chí kinh tế và dự báo tháng 6 năm 2004. Qua bảng trên cũng cho ta thấy tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế : Năm 1996 tốc độ tăng trưởng GDP toàn quốc là 9,3% trong đó khu vực tư nhân cũng có tỷ lệ tăng xấp xỉ. Góp phần thúc đẩy kinh tế tăng kim ngạch xuất khẩu chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình thực hiện công nghiệp hoá của nước ta hiện nay để xây dựng và phát triển một nền kinh tế ổn định vững chắc với tốc độ phát triển mạnh đòi hỏi phải xác định một cơ cấu hợp lý giữa các vùng lãnh thổ và các thành phần kinh tế. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có sự đóng góp của KTTN bằng sự tham gia của nó đã xác lập lại cơ cấu đầu tư theo thời kỳ được phát triển góp phần nâng cao tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân. Bảng 2. 9: Tỷ trọng các ngành thuộc khu vực tư nhân trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh (%). Ngành Thương mại và dịch vụ Sản xuất công nghiệp Các ngành khác Giai đoạn 91 – 96 39 35 26 97—98 49 22 29 99—2000 54 15 31 2001—2003 65 10 25 Nguồn: Niên gián thống kê 2003. Trình độ sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân ngày càng tiến bộ. Số lượng hàng hoá thay thế hàng hoá nhập khẩu tăng lên. Khu vực tư nhân còn tham gia nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu trực tiếp của khu vực phi nông nghiệp trong KTTN đến nay đã tăng khá nhanh, năm 2001 nhập khẩu 3.336 tỷ USD xuất khẩu đạt 2.851 tỷ USD. Năm 2003 nhập khẩu đạt 4,112 tỷ USD, xuất khẩu đạt 3,111 tỷ USD. Theo số liệu thống kê cuả Bộ Thương mại, đến năm 2002, khu vực KTTN trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. KTTN là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, mở rộng thị trường xuất khẩu. Một số doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh trên thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng. Ở một số địa phương, KTTN là khu vực đóng góp chủ yếu về xuất khẩu (Hà Giang: 60%,Bình Thuận: 45%, Quảng Ngãi: 43%). Bảng 2. 10: Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Lĩnh vực sản xuất Số lượng doanh nghiệp Tỷ lệ xuất khẩu so với số lượng(%) Dệt may 159 80. 5 Sản phẩm da 34 85 Cao su nhựa 22 75 Thực phẩm đồ uống 71 63. 2 Chế biến gõ 65 75. 1 Các sản phẩm phi kim loại khác 39 73. 1 Các sản phẩm kim loại 9 Các sản phẩm hoá chất 9 20 Các sản phẩm khác 49 74. 4 Tổng 457 75. 3 Nguồn:Thời báo kinh tế Việt Nam năm 2004 Trong số 457 doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động thì có tới 3/4 số lượng sản xuất ra được xuất khẩu. Trong đó hàng dệt may và da giầy chiếm tỷ lệ xuất khẩu cao nhất 80,5% và 85%, thúc đẩy cạnh tranh. Trước đổi mới, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung thị trường rất đơn điệu và chỉ mang tính hình thức cạnh tranh không phải là yếu tố quan trọng do các doanh nghiệp không phải cạnh tranh với nhau để mua các yếu tố sản xuất và bán sản phẩm quan hệ cung cầu, giá cả cũng mang tính mệnh lệnh chỉ huy các thị trường không được thừa nhận. Kể từ khi đổi mới, quan hệ hàng hoá, tiền tệ mới thực sự phát triển các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh với nhau trên thị trường cho nên các loại thị trường dần dần được thừa nhận và mở rộng. Nhìn chung thị trường hàng hoá và dịch vụ phát triển khá mạnh ngày càng phong phú đa dạng hàng hoá trên thị trường được tự do lưu thông, đã có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển. Khu vực KTTN là một khu vực kinh tế năng động, phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường, nó thúc đẩy sức cạnh tranh của nền kinh tế, làm cho các doanh nghiệp phải đổi mới để có thế đứng vững trên thị trường. Chính sự ra đời của khu vực tư nhân đã làm cho thị trường hoạt động sôi nổi hơn. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau trên cả đầu vào và đầu ra.Tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế. Như vậy, với sự ra đời của khu vực tư nhân đã kích thích việc ra đời và phát triển nó sẽ thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Với xu thế hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam đang mở rộng hợp tác kinh tế với tất cả các quốc gia trên thế giới theo nguyên tắc đa phương hoá, đa dạng hoá . Trong quá trình hội nhập kinh tế các doanh nghiệp tư nhân không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn cạnh trạnh với các thành phần kinh tế khác đặc biệt cả với doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực và kinh nghiệm hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước. Tạo nên một môi trường cạnh tranh năng động không chỉ cạnh tranh trên thị trường hàng hoá mà trên mọi mặt. Để thu hút được vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm … của nước ngoài để mở rộng sản xuất. 2.2.2.4 Kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy phát triển thể chế kinh tế thị trường, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển của KTTN là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế mới. Các loại thị trường bắt đầu hình thành và phát triển(thị trường hàng hoá --dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường khoa học –công nghệ). Quá trình hội nhập kinh tế của nước ta sẽ không thể thực hiện nếu không có sự tham gia của khu vực KTTN. Có thể nói, từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, đội ngũ doanh nghiệp dân doanh đã phát triển cả về số lượng, quy mô và tham giavào hầu hết vào các ngành lĩnh vực của nền kinh tế. Nhờ đó, đã huy động được ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư trực tiếp phát triển kinh doanh: là nguồn cung chủ yếu tạo công ăn việc làm cho người lao động, đóng đáng kể vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Vì vậy, quy mô của khu vực doanh nghiệp dân doanh và vai trò, vị trí của khu vực kinh tế này đang tăng lên với tốc độ tương đối nhanh. Sự bùng nổ tức thời trong 5 năm qua của khu vực này là khá dữ dội. Đến nay, tuy chưa thể khẳng định kết quả cuối cùng (hiệu quả) của “cú dội phá” này, song thực tế cho thấy rõ là các điều kiện hành chính – pháp lý (sự bảo vệ của pháp luật) và điều kiện kinh tế (tiếp cận thị trường). Đa số các doanh nghiệp tư nhân bị “mất đà” ngay sau khi thành lập do chính phủ không tạo ra được các thể chế, chính sách “yểm trợ” đồng bộ đi kèm với Luật doanh nghiệp để phát huy cao nhất hiệu quả của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, khu vực KTTN ở Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng chưa được phát huy đúng mức. Trong xu hướng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và triển vọng phát triển kinh tế trong thời kỳ tới, chúng ta hoàn toàn có khả năng phát triển kinh tế trong thời kỳ tới, chúng ta hoàn toàn có khả năng phát triển hơn nữa số lượng và quy mô doanh nghiệp, tăng gấp đôi số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, phấn đấu đưa tổng số doanh nghiệp từ 15 vạn như hiện nay lên 50 vạn vào năm 2010 và động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và giải quyết việc làm cho xã hội. Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của KTTN trong thời gian tới, cần phải tập trung tháo gỡ những rào cản và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho khu vực KTTN đầy tiềm năng. 2.3 CÁC KHÓ KHĂN CẢN TRỞ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHU VỰC KTTN 2.3.1. Kinh tế tư nhân khó khăn trong tiếp cận vốn: Ở Việt Nam hầu hết các doanh nghiệp tư nhân thuộc các khu vực vừa và nhỏ, bình quân vốn của doanh nghiệp đăng ký kinh doanh là 1.2 tỷ đồng cho nên việc quay vòng vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh là rất khó khăn. Mà vốn là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự phát triển của khu vực KTTN trong thời gian vừa qua đã sử dụng tốt hơn nguồn vốn đầu tư trong xã hội.Tuy nhiên với tiềm năng phát triển của khu vực kinh tế này thì vẫn đang là vấn đề đặt ra cho KTTN đa số các doanh nghiệp tư nhân là thiếu vốn. Hiện tại các doanh nghiệp đăng ký thành lập phải dựa chủ yếu vào vốn của bản thân chủ doanh nghiệp người thân, bạn bè…nguồn vốn huy động của các tổ chức tài chính là rất khó khăn. Có 60% doanh nghiệp sử dụng vốn tự tích luỹ, 45% doanh nghiệp là vay vốn từ ban bè người thân. . . và chỉ có 21% doanh nghiệp vay vốn từ các ngân hàng thương mại quốc doanh, 11% vay từ các ngân hàng cổ phần. Bảng 2. 11 . Cách thức huy động vốn của các doanh nghiệp hãng tư nhân. Nơi Vay % Ngân hàng quốc doanh 21 Vay ngân hàng thương mại cổ phần 11 Vay mượn và có sự đầu tư của các DN khác 3 Vốn riêng mình 69 chính phủ tài trợ 0. 2 Vay các tổ chức tài chính không phải là ngân hàng 4 Vay bạn bè người quen 45 Vay mượn của Việt Kiều 3 Các nguồn khác 14 Nguồn: Tạp chí kinh tế phát triển tháng 5/2005. Ta thấy nguồn vốn vay của các ngân hàng thường yếu và tương đối nhỏ. Chỉ có 30% vốn tồn đọng của khu vực tư nhân là vốn vay trung và dài hạn. Như vậy việc tiếp cận thị trường tín dụng chính thức là rất khó. Do các doanh nghiệp tư nhân vẫn không đủ tin cậy để các ngân hàng cho khu vực này vay vốn. Tỷ trọng vốn huy động được từ các thị trường không chính thức của các công ty cổ phần là 43%, công ty TNHH là 37%, doanh nghiệp tư nhân là 29%, hộ kinh doanh là 29%. Tuy nhiên chi phí cho khoản vay lại rất lớn. Lãi suất cao gấp 2.3 lần lãi ngân hàng. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp và làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.3.2.Khó khăn trong tiếp cận nguồn nhân lực: Mặc dù trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã hội. Nhưng nguồn lao động chất lượng kém, thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao. Trình độ học vấn của lao động còn rất thấp. Một lượng lao động phổ thông lớn đang làm việc trong khu vực tư nhân trình độ kỹ năng lao động còn thiếu. Trong 1475. 716 lao động thì có 1.097.598 lao động. Chiếm 74. 4% là lao động hầu như không có trình độ chuyên môn. Số lao động có trình độ chuyên môn là 369.118 chiếm 25.3%trong đó chỉ có 90.042 lao động có trình độ cao đẳng, đại học chiếm 6.18% tổng lao động khu vực tư nhân. Bản thân chủ doanh nghiệp cũng thiếu trình độ, kiến thức về quản lý kinh doanh chủ doanh nghiệp có trình độ đại học trở lên thấp. Bảng:2. 12.Trình độ của đội ngũ chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân(%). Trình độ DNTN CTTNHH CTCP Đại học trở lên 1. 9 8. 6 1. 3 Trung học 6. 9 10. 3 3. 4 Công nhân kỹ thuật 6. 6 3. 1 1. 7 Không bằng cấp 84. 6 78 93. 6 Nguồn: Giáo trình kinh tế tư nhân , khoa kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội,PGS-TS Trịnh Thị Hoa Mai Sự phát triển của khu vực KTTN trong những năm gần đây tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ, dịch vụ lại phát triển mạnh ở những nơi tập trung dân, điều này đã dẫn tới sự mất cân đối giữa các vùng trong quá trình phát triển. Khu vực KTTN chủ yếu tập trung ở ba khu vực đó là đồng bằng Sông Hồng (28. 4%), Đông Nam Bộ (17.4%), Sông Cửu Long (17.8%) nơi tập trung của những thành phố lớn : Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương . 2.3.3.Khó khăn trong việc tiếp cận mặt bằng sản xuất kinh doanh: Như chúng ta đã biết khu vực KTTN hiện nay rất thiếu đất đai để sử dụng làm mặt bằng sản xuất. Tình trạng thiếu đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là vấn đề chung của khu vực KTTN. Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhà Nước được ưu đãi về đất đai hơn. Năm 2000 đất giao cho doanh nghiệp nhà nước là 42,6 triệu m2 đất với 42 dự án còn khu vực tư nhân là 1.4 triệu m2 đất cho 30 dự án. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN không đủ vốn lớn để đầu tư vào đất đai nên phải đi thuê đất của các doanh nghiệp nhà nước hoặc các tổ chức với giá cao hơn nhiều, 51% số các doanh nghiệp sử dụng đất tự có để tiến hành sản xuất kinh doanh, 49% là thuê của doanh nghiệp nhà nước hoặc các tổ chức khác. Không ít doanh nghiệp sau khi đã có mặt bằng sản xuất kinh doanh thì không còn vốn đầu tư mua sắm thiết bị, xây dựng như dự kiến ban đầu. Chính do những vấn đề trên khiến giá thành sản phẩm tăng cao, bởi bên cạnh thuế đất phải trả cho Nhà nước, nhà đầu tư tư nhân còn phải bỏ thêm nhiều khoản chi phí khác cho các tổ chức doanh nghiệp nhà nước mà họ thuê đất. Hiện tượng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có một số nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, do thủ tục thuê và chuyển nhượng đất phức tạp, có những quy định không rõ ràng gây khó khăn cho các nhà đầu tư, làm mất nhiều thời gian, chi phí có khi làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của họ. Theo quy định thì nhà nước giao cho các tỉnh thành trực tiếp giải quyết thủ tục cấp đất, giao đất và cho thuê nhưng việc quản lý đất đai vẫn do nhà nước quyết định cho nên không đáp ứng kịp thời cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó quy trình giao đất, cho thuê còn nhiều phức tạp, còn nhiều khâu, cấp chính quyền…Đã từ lâu khung giá đất áp dụng trên cả nước không đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn do sự phức tạp địa lý, khác biệt kinh tế giữa các vùng và do nền kinh tế thị trường mang tính quá độ thường xuyên. Thứ hai, do hậu quả cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, do quy hoạch đất không rõ ràng, nhiều nơi diện tích đất không sử dụng, đất hoang hoá, đất sử dụng sai mục đích còn lớn, trong khi khu vực tư nhân lại thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh. Cho đến nay, cả nước có 3,5 triệu m2 đất bị hoang hoá và sử dụng sai mục đích, riêng Hà Nội có 472.800 m2. Thứ ba, do quy mô vốn của doanh nghiệp còn nhỏ không đủ khả năng để thuê đất ở những địa điểm có lợi vì ở những địa điểm đó giá đất cho thuê cao làm tăng chi phí đầu vào. Thứ tư, sự không phân biệt một cách rõ ràng giữa phạm vi áp dụng thuế trên đất Nhà nước với phạm vi áp dụng thuế đối với đất cư trú ở nông thôn dẫn tới sự chồng chéo. 2.3.4.Khó khăn trong việc thu hút và đào tạo nguồn nhân lực: Khó khăn chung của khu vực tư nhân là thiếu lao động có trình độ, kỹ năng, tay nghề cao. Điều này do khu vực tư nhân chưa thực sự tạo được niềm tin để xoá bỏ những định kiến trong xã hội. Do vậy, chỉ có những lao động có trình độ thấp, cần công việc, ít có cơ hội lựa chọn nơi làm việc mới chấp nhận làm việc trong khu vực này. Một nguyên nhân nữa là trong khi các doanh nghiệp nhà nước đều được hưởng chính sách của nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực miễn phí thì khu vực tư nhân khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ này. Hiện tại, nền giáo dục của ta chưa chú tâm vào đào tạo theo nhu cầu của xã hội, có những ngành, những lĩnh vực còn thiếu quá nhiều trong khi đó có một số ngành đào tạo tràn lan. Chương trình đào tạo còn nặng nề về lý thuyết, ít thực hành, nội dung đào tạo chậm không bắt kịp với công việc thực tế. 2.3.5 Khó khăn trong việc tiếp cận khoa học công nghệ. Trên phương diện tổng thể thì công nghệ của khu vực KTTN phần lớn lạc hậu, chắp vá và kém đổi mới. Nguyên nhân là do thời gian phát triển của khu vực KTTN chưa lâu, vốn ít, nên KTTN có ít khả năng thay đổi công nghệ. Việc tiếp cận công nghệ là một yếu tố rất quan trọng đối với khu vực kinh tế tư nhân, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển mạnh mẽ thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp, trong cuộc cạnh tranh này người thắng sẽ là người tiếp thu kịp thời được khoa học công nghệ hiện đại để áp dụng trong sản xuất sản phẩm của mình cho ra đời sản phẩm của mình với giá rẻ và chất lượng. Tuy nhiên với chúng ta nguồn vốn chưa đủ lớn do vậy việc tiếp cận khoa học công nghệ là rất hạn chế, mặt khác trình độ lao động của các doanh nghiệp còn hạn chế nên rất khó trong việc chuyển giao công nghệ. 2.3.6.Một số khó khăn khác: * Thiếu cơ chế cung cấp thông tin thị trường cho kinh tế tư nhân.. Không ít các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân muốn mở rộng thị trường trong nước mà còn muốn vươn ra thị trường quốc tế. Để sản phẩm của các doanh nghiệp có mặt trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp phải nắm bắt được những thông tin về cung cầu, giá cả, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, thông tin về pháp luật… Khả năng nắm bắt thông tin của các doanh nghiệp còn yếu do không đủ kinh phí để đầu tư cho công tác thông tin như đào tạo cán bộ, trang thiết bị hiện đại…Các thông tin doanh nghiệp thu thập được thường không đầy đủ và chính xác do thu được từ nhiều nguồn khác nhau. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn và xác định thông tin đúng. * Chính sách thuế chưa hợp lý: Ở bất kỳ quốc gia nào, chính sách thuế đều có vai trò đòn bẩy khuyến khích và điều chỉnh sản xuất. Song, chính sách thuế của Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có tác dụng tích cực thúc đẩy sản xuất và khuyến khích doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp tư nhân. Đôi khi có loại thuế lại kìm hãm sản xuất. Cụ thể là: Thứ nhất: sự không nhất quán trong việc xác định chi phí hợp lý và chi phí thực để tiến hành khấu trừ từ hàng hoá chịu thuế và thuế lợi nhuận bổ sung gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp tư nhân. Thứ hai: mức lương tại các doanh nghiệp Nhà nước được xem là chi phí thực phù hợp với mức giá thống nhất ban hành. Thứ ba: Trong trường hợp có thu nhập phụ phải nộp thuế bổ sung, điều này doanh nghiệp Nhà nước có lợi thế hơn. Thứ tư: Bên cạnh các pháp lệnh và luật về thuế còn nhiều quy định văn bản khác, chính sách thuế thường xuyên thay đổi ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ năm: Thực tế áp dụng thuế VAT ở nhiều nước cũng như ở Việt Nam chỉ ra rằng quá nhiều mức thuế sẽ tạo ra khó khăn bất tiện khi xác định mức thuế đối với mỗi mặt hàng và đối tượng chịu thuế cũng như khi tính thuế. Thứ sáu: Thực tế của việc thu lệ phí được quy định ở nhiều văn bản thuộc nhiều cấp khác nhau và việc thu bất hợp pháp đang gây rối cho hoạt động của các doanh nghiệp. * Thiếu cơ chế tạo sự ủng hộ của xã hội đối với KTTN. Các quan điểm, văn kiện Đại hội Đảng đều thể hiện sự nhất quán trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Song, trên thực tế vẫn tồn tại sự e ngại với sự phát triển của KTTN, do các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này chưa thực sự tạo được lòng tin cho xã hội. Những hiện tượng doanh nghiệp làm ăn phi pháp, kinh doanh không hiệu quả vẫn còn khá phổ biến. Trong khi đó nhận thức cũ về KTTN vẫn tồn tại trong dân, chưa thể sớm khắc phục. * Thủ tục hành chính chưa thực sự cởi mở, môi trường thể chế chưa tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Môi trường thể chế có tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng nhất định tới quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó thể chế chính trị giữ vai trò quan trọng nhất, nó định hướng, chi phối toàn bộ hoạt động trong xã hội, trong đó có hoạt động kinh doanh. Hệ thống pháp luật được xây dựng trên nền tảng định hướng chính trị nhằm chi phối những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ Hiện nay, môi trường kinh doanh còn thiếu lành mạnh, cạnh tranh thiếu bình đẳng, tồn tại nhiều hoạt động gian lận thương mại cũng như tiêu cực do bộ máy quản lý kém gây ra đã đẩy khu vực KTTN vào tình thế bất lợi. Hệ thống pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Tình trạng văn bản pháp luật còn thiếu đồng bộ, không nhất quán đã làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không tốt, luôn luôn lo sợ sự thay đổi cơ chế, chính sách nên không dám đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, những quy định còn phức tạp, chồng chéo gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Tóm lại, sau một thời gian hình thành và phát triển, KTTN đã đạt được những thành tựu nhất định đóng góp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, công bằng xã hội…Từ đó khảng định vị trí vai trò của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, thực trạng phát triển kinh tế tư nhân cũng thấy rõ những xu hướng vận động chủ yếu và những yếu kém của thành phần kinh tế này. Do đó, để phát triển thành phần kinh tế này cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường thông thoáng cho sự phát triển của khu vực KTTN. CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM 3. 1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI. 3. 1. 1. Bối cảnh kinh tế mới: * Trong nước: Sau gần 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao, giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người dân, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, đặc biệt Việt Nam đã thoát ra khỏi các nước nghèo đói trên thế giới, đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, từng bước xây dựng cơ sở vật chất ngày càng hiện đại. Đảng và Nhà nước ta đang trong chủ trương tích cực hội nhập kinh tế khu vực để tranh thủ được nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển. Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, tính đến nay nước ta đã có quan hệ với 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Vai trò, vị thế của nước ta ngày càng tăng lên trên chính trường thế giới. Đây là thành tựu to lớn mà Đảng và Nhà nước ta đạt được trong thời gian vừa qua. Mặc dù đã đạt được những thành công to lớn, song nền kinh tế Việt Nam còn nhiều những yếu tố hạn chế gây cản trở cho sự phát triển kinh tế. Tuy tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam hàng năm là khá cao nhưng sự tăng này vẫn chưa ổn định, chưa thật vững chắc. Hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, đặc biệt là khả năng thâm nhập vào thị trường ngoại của Việt Nam chưa cao, khả năng huy động vốn chưa cao, các vấn đề chính trị xã hội vẫn chưa được giải quyết triệt để, cơ chế chính sách còn rất phức tạp gây cản trở cho sự phát triển kinh tế. Đây là những rào cản cần được khắc phục, hạn chế càng sớm càng tốt để có thể đưa nền kinh tế nước ta vững chắc đi lên , bắt kịp với kinh tế thế giới. *Bối cảnh quốc tế: Hiện nay nền kinh tế thế giới đang trong xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá. Nền kinh tế thế giới có những biến động mạnh mẽ, ảnh hưởng đến từng quốc gia. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay đem đến cho Việt Nam những cơ hội cũng như những thách thức rất lớn. Hiện tại Việt Nam chuẩn bị trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Điều này có nghĩa hàng hoá Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt với hàng hoá các nước khác. Ngoài ra khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế như (WTO), AFTA… Việt Nam sẽ phải xoá bỏ rất nhiều thuế nhập khẩu, đây là một trở ngại lớn do thuế hàng nhập khẩu của Việt Nam hiện nay chiếm một vị trí quan trọng trong tỷ trọng ngân sách quốc gia. Ngoài ra, hàng nội địa sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của hàng nhập ngoại. Có thể rất nhiều mặt hàng, nhiều doanh nghiệp sẽ phải đóng cửa do giá thành sản xuất cao. Việc tham gia vào các thị trường này đem đến cho kinh tế Việt Nam những cơ hội cũng như những thách thức to lớn. Khi tham gia vào các thị trường này doanh nghiệp nước ngoài có rất nhiều điểm mạnh như: có thị trường phát triển, có kinh nghiệm trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, có sản phẩm đa dạng, chi phí sản xuất thấp, có cơ chế thanh toán thuận lợi…tất cả các mặt này doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế nhiều. Đây là những điểm mạnh của doanh nghiệp nước ngoài đồng nhất với các điểm hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn, hạn chế đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có rất nhiều lợi thế nếu biết khai thác, tận dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế trong các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ, các mặt hàng có giá nhân công rẻ…Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần chú trọng thị trường trong nước, cần đáp ứng những sản phẩm thiết yếu như những sản phẩm chế biến , hàng tiêu dùng…. đặc biệt, Trung Quốc ra nhập tổ chức thương mại quốc tế đã và sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta. Thực tế cho thấy, các ngành nghề như dệt, giày da, gốm, hoá chất…. cơ cấu hàng xuất khẩu hay bố cục thị trường của Trung Quốc là khá giống với Việt Nam. Sau khi nước này ra nhập tổ chức thương mại quốc tế, quốc gia này được hưởng các chính sách ưu đãi mậu dịch đa phương của tổ chức này, nhất là ưu đãi mậu dịch đa phương của tổ chức này như thuế quan và cắt bỏ hạn ngạch. Điều này sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc so với hàng hoá Việt Nam trên cùng một thị trường. Gần đây,Trung Quốc đã tiến hành một số chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, đãi ngộ thị trường ngày càng lớn, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, trong khi đó ở Việt Nam còn rất chậm chạp trong các chính sách ưu đãi, các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các yếu tố này sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam vào những thách thức lớn lao. Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng sức mạnh trên thị trường quốc tế, chúng ta phải thấy được vai trò quan trọng của KTTN trong nền kinh tế. Để nền kinh tế phát triển cần phải thúc đẩy KTTN phát triển để có thể đáp ứng nhu cầu hội nhập nền kinh tế. 3.1.2. Quan điểm định hướng Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân: Quan điểm, đường lối phát triển kinh tế đất nước được Đảng ta xác định khá cụ thể, rõ ràng trong Đại hội Đảng IX. Cụ thể Đại hội đã vạch ra: “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ năng lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực nước ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường”. Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã xác định phương hướng phát triển KTTN trong thời gian tới là “ khuyến khích KTTN phát triển mạnh mẽ không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo thêm nhiều việc làm, có sức tăng trưởng cao hơn bình quân hiện nay, đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, tham gia ngày càng nhiều vào hoạt động công ích, hợp tác liên doanh với nhau, với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”. Các chính sách đường lối KTTN trong thời gian tới của Đảng có thể cụ thể hoá bằng các quan điểm cụ thể sau: Thứ nhất, KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm này thì thành phần KTTN cũng giống như các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Việt Nam. Để thực hiện nhất quán quan điểm này cần làm tốt các công việc sau: Cần tự do hoá khu vực tư nhân một cách thực sự và hoàn toàn. Về mặt pháp lý, cần xác lập quan hệ giữa Nhà nước và tư nhân một cách hợp lý. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Phải thực sự tôn trọng quyền sở hữu tư nhân. Phải hình thành một môi trường kinh doanh ổn định. Có như vậy, KTTN mới thực sự là một khu vực độc lập, là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, phát triển KTTN trong khuôn khổ luật pháp. Do đây là thành phần kinh tế có những hạn chế tồn tại là làm ăn manh mún, tự phát…. , thường gây khó khăn trong việc quản lý Nhà nước như trốn thuế, buôn lậu…thành phần KTTN phát triển tốt hơn trong thời gian tới đòi hỏi chính thành phần kinh tế này phải nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Thứ ba, quá trình phát triển KTTN cần gắn hiệu qủa KTTN với hiệu quả xã hội. Mục đích cuối cùng của mọi sự phát triển là vì con người cho nên cách thức lựa chọn sản xuất kinh doanh của chủ sở hữu phải gắn với mục tiêu của nền kinh tế, của xã hội, đảm bảo tăng trưởng ổn định, giảm thất nghiệp và nâng cao dần mức sống dân cư. Đảng và Nhà nước ta luôn có những chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn chân chính, có lợi cho xã hội. Với những quan điểm nêu trên thì KTTN thực sự đã có được môi trường tốt để phát triển. Từng bước khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế. 3. 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 3.2.1. Về phía Nhà nước: Để khu vực KTTN của Việt Nam ngày một phát triển, ngày một khẳng định được vai trò to lớn của mình, bên cạnh những cố gắng từ chính các doanh nghiệp, chính khu vực KTTN thì Nhà Nước cũng cần có những chính sách, chiến lược, những phương hướng, giải pháp mới trong giai đoạn hiện nay và sắp tới để khu vực KTTN thực sự khẳng định mình. Dưới đây là một số giải pháp từ phía Nhà nước. Cải cách doanh nghiệp Nhà nước: Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một mục tiêu cần phải đạt được: tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không được biến thành tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước. Đối tượng cổ phần hoá là những doanh nghiệp nhà nước hiện có mà nhà nước không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước hiện có thành công ty cổ phần, trong đó nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp, hoặc nhà nước không giữ cổ phần. Hình thức cổ phần hoá bao gồm: giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn; bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho các cổ đông; cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh các bộ phận còn lại của doanh nghiệp. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách với các doanh nghiệp nhà nước là một điều rất cần thiết và quan trọng cho nền kinh tế hiện tại của chúng ta. Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành vùng các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế. Thực hiện triệt để luật cạnh tranh bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh một cách lành mạnh bình đẳng . Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước. Đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức:giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích doanh nghiệp nhà nước đã giao, bán được chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Đây là một trong tác động tích cực và cần thiết để thúc đẩy KTTN phát triển đúng với tiềm năng của nó, mà khu vực kinh tế nhà nước tác động được. *Nhanh chóng sửa đổi và hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân nhằm từng bước tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng và ổn định. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy KTTN phát triển, đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Cần phải thực hiện nhất quán, triệt để luật doanh nghiệp cho các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước. Phải đơn giản hoá các thủ tục giấy phép làm cản trở đối với việc gia nhập thị trường kinh doanh làm ăn của các nhà doanh nghiệp. Phải tạo lập đựơc một môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng bằng việc xây dựng, hoàn chỉnh các bộ luật. Cần giúp các doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN như thiết lập quỹ tài trợ để phát triển các doanh nghiệp tư nhân, thiết lập cơ chế bảo hành rủi ro tín dụng và cải tổ chế độ về điều kiện vay linh hoạt và không phân biệt đối xử, đặc biệt là về thế chấp, bảo lãnh của các ngân hàng thương mại. Loại bỏ tính chất áp đặt, lãi suất trần trong vay tín dụng giúp doanh nghiệp tư nhân vay ngân hàng với lãi suất cho vay thường giành cho doanh nghiệp Nhà nước. * Cải cách hành chính: Chính Phủ nên sớm có quyết định thành lập một cơ quan đầu mối chuyên lo về mặt quản lý nhà nước để hỗ trợ chính sách cho khu vực KTTN phát triển. Điều này sẽ làm giảm thủ tục hành chính của Nhà nước trong quá trình quản lý các doanh nghiệp tư nhân. Cơ quan này sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và chính phủ, sẽ tạo điều kiện cho nhà nước vừa quản lý chặt chẽ, vừa nắm thông tin kịp thời và đưa các đối sách, giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp linh hoạt và hiệu quả hơn. *Xúc tiến mở rộng thị trường trong và ngoài nước: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện nay là đang tăng cường, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, Nhà nước cần có các chính sách, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận với thị trường thế giới, bởi như vậy doanh nghiệp mới có điều kiện để khẳng định mình, học hỏi trao đổi thông tin, kinh nghiệm quản lý, cơ hội, tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài…. Để thực hiện nhiệm vụ này Nhà nước có thể sử dụng các chính sách thuế quan ưu đãi, giới thiệu làm cầu nối… giúp các doanh nghiệp tư nhân dễ dàng tiếp cận, quan hệ đối tác với nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần phát triển thị trường nội địa, cần có các công cụ kinh tế để kích cầu nội địa, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ kinh tế nói chung và KTTN nói riêng, cần cung cấp, đảm bảo về điều kiện sản xuất kinh doanh như cung cấp thông tin, điện nước,…. . *Cần hỗ trợ quá trình đổi mới và chuyển giao kỹ thuật công nghệ đối với các doanh nghiệp: Kỹ thuật, công nghệ là yếu tố quan trọng cho mỗi một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, đặc biệt là kỹ thuật công nghệ hiện đại, tiên tiến. Việc các doanh nghiệp tự tiếp cận được với các loại công nghệ kỹ thuật này là rất khó. Nhà nước cần giúp đỡ, hỗ trợ về vốn, về kỹ năng… cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có khả năng tiếp cận và sử dụng được các công nghệ mới đạt năng suất và hiệu quả cao hơn. Với điều kiện, hoàn cảnh nước ta hiện nay cần chú ý đến việc nhập các loại kỹ thuật, công nghệ cần nhiều lao động, kết hợp việc cải tiến để nâng cao năng suất và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh nhằm tăng thu nhập và giải quyết nạn thất nghiệp nhưng cũng cần tránh biến Việt Nam thành một bãi thải công nghiệp tức là tránh nhập những loại công nghệ kỹ thuật đã cũ, đã lỗi thời hoặc hiệu quả kinh tế không cao. Ngoài ra, cũng cần chú trọng phát triển công nghệ trong nước để doanh nghiệp có thể dễ dàng có được với giá rẻ… *Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp bằng việc đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp, đội ngũ nguồn lực để phát triển doanh nghiệp. Do điều kiện đất nước ta còn khó khăn về mọi mặt nên trình độ của các nhà kinh tế, các chủ doanh nghiệp vẫn còn hạn chế cùng với đội ngũ những người lao động còn thấp kém. Theo kết quả khảo sát của MDPF thì 48% chủ doanh nghiệp đã tốt nghiệp đại học, 75% giám đốc không biết làm bảng kế toán tài chính, tri thức kinh nghiệm vẫn là phổ biến, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn dựa nhiều vào thế mạnh truyền thống gia đình, nhất là các ngành gốm sứ, đồ gỗ, may mặc, đan dệt…. Do đó, để các nhà doanh nghiệp có điều kiện quản lý sản xuất kinh doanh tốt hơn đòi hỏi Nhà nước cần có những chính sách hợp lý nâng cao trình độ cho đội ngũ doanh nghiệp và đội ngũ công nhân viên như mở các lớp đào tạo ngắn hạn phù hợp và có chất lượng…. . *Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ về việc mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuế cho các doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân khi bước vào làm ăn kinh doanh đều gặp phải khó khăn về mặt bằng kinh doanh. Các doanh nghiệp đều thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh thường phải đi thuê của các cơ quan, các tổ chức kinh tế và các chủ kinh tế khác là chủ yếu. Có thể nói khó khăn về mặt bằng sản xuất kinh tế của các doanh nghiệp là một trở ngại lớn ảnh hưởng đến quá trình, khả năng làm ăn của doanh nghiệp. Cho nên, Chính phủ cần có những chính sách ưu đãi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể có được mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp. Bên cạnh đó, các chính sách thuế cần đến việc giảm nguồn thu và sắc thu, tạo cho các doanh nghiệp có điều kiện tích tụ và tập trung vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Tránh tình trạng tận thu, lạm thu hoặc các tiêu cực các bộ phận thu thuế. Ngược lại phải kiên quyết xử lý các tình trạng trốn thuế, lậu thuế và nợ thuế trong khu vực KTTN. *Nhà nước nên hỗ trợ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp một cách nhanh nhất và chính xác. Đảm bảo hệ thống cung cấp thông tin nhanh và đầy đủ thông tin trong thị trường là yếu tố quyết định sự thành công của các doanh nghiệp, vì vậy Nhà nước phải thấy được điều này để có thể đảm bảo cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp một cách chính xác nhất, cập nhật nhất thông qua việc phát triển các trung tâm thông tin, các trung tâm xúc tiến thương mại, phát triển đa dạng các hình thức cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp về sản phẩm, thị trường, chiến lược ngoại thương, hợp đồng, giá cả…. Bằng các hình thức như: truyền hình, đài báo, sách… * Thay đổi quan điểm xã hội tích cực hơn với kinh tế tư nhân:: Để phát triển KTTN cần có thái độ xã hội đúng đắn về KTTN, phải thấy được vai trò to lớn của thành phần kinh tế này. Tránh các quan điểm về kinh doanh là “ bóc lột”, là “ chụp giật”…. Cần coi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là cần thiết, là không thể thiếu. Cần thấy được vai trò của các doanh nghiệp làm ăn giỏi; cần có những quan điểm mới nhìn nhận một cách tích cực về các doanh nhân; cần nêu cao và phát huy tinh thần kinh doanh, khuyến khích các hoạt động kinh doanh trong xã hội, khuyến khích các lớp trẻ đi vào kinh doanh. Thường xuyên có những trương trình trên truyền hình, đài, báo về doanh nhân, doanh nghiệp điển hình….vv. Cần coi trọng kinh doanh, kinh doanh ra nhiều của cải cho xã hội qua đó đem lại công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động, là động lực phát triển đất nứơc không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị xã hội . Cần phải có các hình thức khen thưởng, khuyến khích các doanh nhân làm ăn kinh tế giỏi, động viên, giúp đỡ những doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản…. Tóm lại, phải thấy được KTTN là một thành phần kinh tế quan trọng, có vị trí không thể thiếu trong nền kinhn tế nói chung. Vì vậy, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển hết khả năng, năng lực của nó. Tuy nhiên bên cạnh những mặt mạnh thì thành phần kinh tế này cũng bộc lộ những mặt hạn chế nên trong quá trình phát triển cần khắc phục, hạn chế những yếu kém của nó để đạt hiệu quả cao nhất. 3. 2. 2. Về phía doanh nghiệp: - Để KTTN Việt Nam phát triển mạnh hơn, hiệu quả hơn trong thời gian tới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự nỗ lực đổi mới và hoàn thiện mình phù hợp với sự phát triển, phải không ngừng nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh doanh, đảm bảo uy tín, xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp, biết gắn kết lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của người tiêu dùng. Để cụ thể hoá của những giải pháp này các doanh nghiệp cần thực hiện các nhiệm vụ sau: * Không ngừng cải tiến kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã bao bì, gắn chặt chiến lược tiếp thị với tâm lý nhu cầu của người tiêu dùng, tiến tới hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường tạo vị thế trong nền kinh tế. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải quan tâm, có chiến lược trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ quan trọng này. * Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý, xây dựng chiến lược đầu tư, phát triển lâu dài, thường xuyên điều chỉnh hợp lý, đồng thời phải có chính sách, chiến lược đối phó với sự cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài. Phải ưu tiên tối đa mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trong ngắn hạn đưa mục tiêu lợi nhuận trong dài hạn lên hàng đầu. Các ưu tiên đầu tư của doanh nghiệp phải là chủ đầu tư phát triển như: Đầu tư công nghệ mới, đào tạo mới…. . * Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phải biết tổ chức kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất, thích nghi với môi trường kinh doanh, tạo cơ chế nhịp nhàng, phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo của mỗi cá nhân. Cơ cấu tổ chức phải gọn nhẹ, đảm bảo tính năng động, ổn định lâu dài. Phải nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên, cần tạo điều kiện học tập, nâng cao nghiệp vụ thông qua hỗ trợ kinh phí và sắp xếp thời gian làm việc. Cần phải phát huy tinh thần học tập sáng tạo của nhân viên…. Ngoài ra, cần áp dụng những kiến thức mới cho họ. * Xây dựng văn hoá kinh doanh trong kinh doanh của các doanh nghiệp, các doanh nhân qua việc nâng cao năng lực văn hoá kinh doanh là một nhiệm vụ cũng rất quan trọng. Bởi văn hoá nói chung và văn hoá kinh doanh nói riêng đã chứng minh là một bản sắc của sự phát triển của các quốc gia công nghiệp hoá nói riêng và thành công. Văn hoá kinh doanh mới gồm các đặc điểm: - Biết dùng tri thức để tạo ra những tri thức mới vào việc tìm ra giải pháp và đưa ra quyết định kịp thời. - Năng lực tài trí để giữ vốn và phát triển vốn. - Biết ứng dụng công nghệ mới, phương pháp và công cụ hiện đại cuả công nghệ thông tin vào kinh doanh, quản lý doanh nghiệp. - Biết khai thác, phát triển các mối quan hệ không chỉ bên ngoài doanh nghiệp mà ngay cả nội bộ doanh nghiệp như: Nâng cao trình độ đội ngũ nhân lực, chăm lo đời sống người lao động. - Biết tôn trọng bảo vệ môi trường, quan tâm đến các lợi ích xã hội công cộng. - Tôn trọng pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh đối với nhà nước như: Thuế, bảo hiểm … đồng thời biết đấu tranh xây dựng nền hành chính dân chủ, văn minh thuận lợi cho kinh doanh và thị trường. - Khả năng tìm kiếm và có quan hệ bạn hàng tốt đẹp KẾT LUẬN Trong giai đoạn hiện nay, khi mà đất nước đang gấp rút chuẩn bị cho công cuộc đổi mới nền kinh tế, đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cùng với bối cảnh chung của nền kinh tế Thế giới là đang tăng cường hội nhập khu vực và Thế giới, để hoàn thành tốt kế hoạch mà Đảng và nhà nước đưa ra thì yêu cầu mọi thành phần kinh tế phải nỗ lực, phải không ngừng cải thiện, hoàn thiện mình để đạt được vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế. Sau gần 20 năm đổi mới KTTN đã có những đóng góp lớn cho nền kinh tế như giải quyết việc làm, huy động nguồn vốn lớn trong dân, thêm thu nhập cho người dân, tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển….vv. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng của KTTN vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có và qui mô của nó. Khu vực này còn ở trình độ thấp, khả năng huy động vốn còn nhiều hạn chế, trình độ công nghệ thấp, khả năng quản lý yếu kém. Ngoài ra tính liên kết, hợp tác trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp còn thấp nên khó tạo được sức mạnh trên cơ sở phát huy lợi thế. Bên cạnh đó, việc phát triển KTTN còn gặp nhiều cản trở: Thứ nhất: môi trường pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa hoàn thiện nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa nhất quán, phức tạp và chồng chéo. Thứ hai: Thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh vẫn luôn là trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp. Thứ ba: Thiếu vốn là vấn đề nổi cộm thường xuyên khi các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn nhỏ bé, tài sản sử dụng làm tài sản thế chấp đề vay vốn quá hạn hẹp. Hơn nữa, hệ thống ngân hàng thương mại mà khách hàng của họ chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, rất ngại cho các doanh nghiệp tư nhân vay. Thứ tư: chính sách thuế còn quá nhiều bất cập và có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Từ thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua, các giải pháp đưa ra là: Cần thay đổi quan niệm, tư duy chính trị về kinh tế tư nhân, xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách định hướng phát triển của kinh tế tư nhân, hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế tư nhân; bổ sung sửa đổi một số cơ chế chính sách về phát triển kinh tế tư nhân như chính sách đầu tư, tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuế, tài chính, kế toán, kiểm toá, chính sách đào tạo nguồn nhân lực, tiền lương thu nhập và bảo hiểm xã hội… Vì vậy tiếp tục phát triển KTTN là một nhiệm vụ của quá trình CNH - HĐH đất nước đồng thời cũng là yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Do đó những biện pháp nhằm hoàn thiện môi trường ,thể chế chính sách ,nhằm cụ thể hoá luật doanh nghiệp sửa đổi (có hiệu lực 1/1/2000) thực sự tạo ra điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng hợp tình hình phương hướng giải pháp phát triển KTTN, ban kinh tế TW 26/11/2004. 2. Các nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng kháo IX, Nxb chính trị quốc gia 3. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 4. Kinh tế Việt Nam và thế giới số 175/2002, số177. 5 . Kolnai já nos con đường dẫn tới kinh tế thị trường, Nxb Hội tin học Việt Nam. 6. Giáo trình kinh tế tư nhân, PGS. TS >Trịnh Thị Hoa Mai. 7. Giáo trình kinh tế học David Beeg. Nxb Giáo Dục. 8. GS. TS Nguyễn văn Nam , “ về thực trạng phát triển KTTN ở Việt Nam”. 9. Nghiên cứu kinh tế số 318-- tháng 11/2004 10. Niên giám thống kê 2000—2001 11. Niên giám thống kê 2001—2002 12. Niên giám thông kê 2002—2003 13. Niên giám thống kê 2003—2004 14. Niên giám thống kê 2004—2005 ,Nxb Thống kê. 15. Nghị quyết TW 5 khoá IX năm 2002. 16. PGS. TS. Đào Duy Huân , “ bốn năm thực hiện luật doanh nghiệp mới, thực trạng và giải pháp đến năm 2001”.Nxb Chính Trị Quốc Gia 17. Tạp chí cộng sản 2004 18. Tạp chí kinh tế 2004 19. Tạp chí kinh tế và dự báo tháng 6/2004 và 6/2005. 20. Thời báo kinh tế Sài Gòn các số. 21. Thời báo kinh tế Việt Nam tháng 6/2005 22. Tạp chí kinh tế phát triển tháng 5/2005 23. Tạp chí ngân hàng 6/2004 24. Trang Wed.MPDF.ORG 25. Văn kiện Đại Hội Đảng VI, VII, VIII, IX, Nxb Chính Trị Quốc Gia Hà Nội MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThS04.docx
Tài liệu liên quan