Mặc dù hoạt động kinh doanh Bảo hiểm đã xuất hiện, tồn tại và phát triển rất lâu ở trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam thì loại hình kinh doanh này mới được biết đến và phát triển rất lớn mạnh trong những năm gần đây. Hoạt động kinh doanh Bảo hiểm ở nước ta hiện nay đang có bước chuyển biến đáng kể và đã thực sự đi vào hoạt động theo cơ chế thị trường. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại hình Doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và những hoạt động kinh doanh này đã góp một phần đáng kể vào nguồn thu nhập của Nhà nước. Chính nhờ những bước phát triển đó nên để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh Bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển kinh tế- xã hội, ổ định đời sống nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nên Quốc hội nước Cộng Hoà XHCN Việt nam khoá X, kì họp thư 8 đã soạn thảo và ban hành Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã được thông qua ngày 9/12/2000 và có hiệu lực kể từ ngày 01/4/2001.
68 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Mô hình pháp luật về Kinh doanh Bảo hiểm ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà nước( do các doanh nghiệp Nhà nước đóng góp) cũng hơn 80%.
1.7.3. Công ty liên doanh bảo hiểm.
Gồm có những công ty sau đây:
Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt nam (VIA) thành lập ngày 05/8/1996, vốn điều lệ 6.000.000 USD. Đây là Công ty liên doanh giữa bên Việt Nam là Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) và bên nước ngoài gồm một Công ty bảo hiểm lớn nhất của Nhật Bản là Tokio Marine anh Fire Insurance Co. Ltd và Công ty bảo hiểm lớn của Anh là Commercial Union. Chức năng chính của Công ty liên doanh bảo hiểm này là Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, phục vụ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Công ty bảo hiểm Liên hiệp (U.I.C – United Insurace Company của Việt Nam), thành lập ngày 01/11/1997, vốn điều lệ 6.000.000 USD. Đây là Công ty Liên doanh giữa bên Việt Nam là Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) và bên nước ngoài gồm có hai Doanh nghiệp bảo hiểm lớn của Nhật Bản là Yasuda Fire anh Marine Insurance Co. Ltd và Mitsui Marine anh Fire Insurance Co. Ltd. Chức năng của Công ty liên doanh bảo hiểm này Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, phục vụ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt chú trọng đến các nhà doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam.
1.7.4. Công ty môi giới bảo hiểm.
Hiện mới chỉ có Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm Aon Inchinbrok, thành lập năm 1993, vốn điều lệ là 250.000 USD. Đây là Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm giữa bên Việt Nam là Tổng Công ty bảo hiểm Việt nam (BAOVIET) và bên nước ngoài là tập đoàn Môi giới bảo hiểm Aon của Mĩ. Chức năng của Công ty môi giới bảo hiểm là người đại diện cho khách hàng bảo hiểm tiến hành giao dịch lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm đáng tin cậy nhất để thu xếp hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của của khách hàng cần bảo hiểm, lựa chọn những điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm phù hợp và có lợi cho khách hàng bảo hiểm. Hơn nữa theo tập quán quốc tế, những nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam thường tham gia bảo hiểm thông qua môi giới bảo hiểm. Công ty môi giới bảo hiểm này hiện nay đã hoạt động tương đối ổn định. Tát cả các dịch vụ bảo hiểm do công ty này môi giới với các doanh nghiệp bảo hiểm của nước ta đều là các công trình có vốn đầu tư nước ngoài.
1.7.5. Công ty Tái bảo hiểm.
Hiện chỉ có một công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE), doanh nghiệp nhà nước thành lập ngày 27/9/1994 vốn điều lệ 40 tỷ đồng. Chức năng của Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam là Kinh doanh tái bảo hiểm đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và nước ngoài.
Ngoài những doanh nghiệp bảo hiểm kể trên ra, hiện nay đã có tới hơn 40 doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm của các nước Anh, Mĩ, Pháp, Đức, Nhật, Thuỵ Sĩ, Australia, Singapore, Hàn Quốc... đặt văn phòng đại diện tại nước ta.
2. Qui chế pháp lý của đại lý và người môi giới bảo hiểm.
1.2. đại lý bảo hiểm.
Đại lý bảo hiểm là một tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền trên cơ sở hợp đồng đai lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của luật và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 86 Luật Kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000 quy định: “ Cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây;
\ Là công dân Việt Nam, thường trú tại Việt Nam.
\ Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
\ Có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm hoặc Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cấp.”
Yêu cầu đối với đại lý bảo hiểm hoạt động tại nước ta hiên nay cần phải có:
“-Thức hiên đúng các cam kết trong hợp đồng đại lý đã ký với doanh nghiệp bảo hiểm.
-Không được đồng thời làm đại lý cho một doanh nghiệp bảo hiểm khác nếu không có sự chầp thuận bằng văn bản của doanh nghiệp bảo hiểm mà mình đang làm đại lý.
- Không được phép tiến hành đồng thời các hoạt động khác có quyền lợi đối lập với quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm mà mình đang làm đại lý” (Thông tư số 28/1998/TT – BTC ngày 04/03/1998 của Bộ Tài chính quy định về hoạt động đại lý, cộng tác viên bảo hiểm).
Việc xây dựng chế độ đại lý bảo hiểm rất quan trọng đối với hoạt động bảo hiểm hiện đại. Bởi vì thức hiện nghiệp vụ bảo hiểm được nhiều hay ít, sẽ có ảnh hưởng tới sự sống còn của doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể khai thác được thật nhiều nghiệp vụ bảo hiểm mới xây dựng được quỹ bảo hiểm lớn mạnh, tăng thêm sức cạnh tranh cho doanh nghiệp mình. Doanh nghiệp bảo hiểm của nhiều nước trên thế giới ngoài việc dựa vào lực lượng nhân viên, viên chức của bản thân doanh nghiệp trực tiếp khai thác nghiệp vụ bảo hiểm ra còn phải sử dụng rộng rãi lực lượng đại lý bảo hiểm để khai thác nghiệp vụ bảo hiểm. Trên thị trường bảo hiểm các nước phương tây, phần lớn nghiệp vụ bảo hiểm đều thực hiện qua khâu trung gian này, họ giữ một vai trò rất quan trọng trong kinh doanh bảo hiểm. Một số nước còn dựa vào pháp luật để quy định một cách chặt chẽ tư cách và vai trò pháp lý của đại lý bảo hiểm. Thông qua đại lý bảo hiểm để triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vì thế có thể nêu ra một số ưu điểm trong các mặt sau đây.
- Tăng thêm khối lượng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm: có lợi cho việc phân tán rủi ro, giữ vững ổ định kinh doanh.
- Sử dụng kiến thức chuyên môn của đại lý bảo hiểm, người đại lý bảo hiểm có thể góp phần thiết thực xây dựng mới hoặc hoàn chỉnh loại hình bảo hiểm đang áp dụng, bù đắp phần thiếu hụt kiến thức về một loại hình bảo hiểm nào đó của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Đại lý bảo hiểm có mối liên hệ chặt chẽ với khách hàng, thuận tiện cho việc thường xuyên kiểm tra, tìm hiểu tình hình an toàn của đối tượng bảo hiểm và tình hình thực hiên hợp đồng của người được bảo hiểm.
-Doanh nghiệp bảo hiểm trả hoa hồng đại lý dựa theo kết quả khai thác bảo hiểm của người đại lý bảo hiểm, giảm bớt các khoản chi phí kinh doanh, có lợi cho việc hạ giá thành bảo hiểm.
Tóm lại: Đại lý bảo hiểm là một loại hình đại lý đặc biệt. Về bản chất đại lý bảo hiểm là loại hình đại lý dân sự, chứ không phải là đại lý thương mại. Tính chất dân sự của đại lý bảo hiểm được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
-Về mặt luật pháp, đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm được coi là cùng một bên. Doanh nghiệp bảo hiểm được hưởng mọi quyền lợi và thực hiện mọi nghĩa vụ đã ghi trong hợp đồng bảo hiểm do đại lý bảo hiểm với danh nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm ký với người tham gia bảo hiểm. Dù rằng hành động của đại lý bảo hiểm đã gây tổn hại lợi ích của người khác, cũng có sự ràng buộc đối với doanh nghiệp bảo hiểm.
Ví dụ: Đại lý bảo hiểm đã ký kết hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp chưa được sự đồng ý của doanh nghiệp bảo hiểm, thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không được phủ nhận hiệu lực của hợp đồng này vì đại lý bảo hiểm đã vượt quá quyền hạn cho phép. Nhưng loại trừ trường hợp nếu như đại lý bảo hiểm đã có sự thoả thuận đối với người tham gia bảo hiểm .
- Những sự việc mà đại lý bảo hiểm đã biết, đều coi như doanh nghiệp bảo hiểm đã biết, doanh nghiệp bảo hiểm không được từ chối trả tiền bồi thường bảo hiểm với lý do người tham gia bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ khai báo cho doanh nghiệp biết đúng sự thật.
- Đại lý bảo hiểm phải áp dụng hình thức bằng văn bản. Đó là vì đại lý bảo hiểm là một loại hành vi pháp luật dân sự quan trọng. Trong giấy uỷ quyền phải ghi rõ họ và tên của người đại lý, những công việc làm đại lý, phạm vi quyền hạn, thời hạn hoạt động và phải do người uỷ quyền ký tên, đóng dấu.
2.2 .người Môi giới bảo hiểm.
Bên môi giới bảo hiểm là người căn cứ vào lợi ích của người tham gia bảo hiểm để đứng ra làm công việc trung gian phục vụ cho người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo hiểm, sau đó được nhận tiền hoa hồng theo đúng pháp luật. Nếu người tham gia bảo hiểm thông qua môi giới bảo hiểm để ký kết hợp đồng bảo hiểm, tuy rằng môi giới bảo hiểm phục vụ cho người tham gia bảo hiểm , nhưng doanh nghiệp bảo hiểm lại phải trả tiền hoa hồng cho người môi giới. Chẳng những thế, người tham gia bảo hiểm còn uỷ quyền môi giới bảo hiểm đòi các doanh nghiệp trả tiền bồi thường( trả tiền bảo hiểm).
Thông thường, người môi giới bảo hiểm có trình độ hiểu biết rất phong phú về nghiệp vụ bảo hiểm và thị trường bảo hiểm, có thể cung cấp cho người tham gia bảo hiểm những phương án hợp lý nhất, có hiệu quả nhất để người tham gai bảo hiểm lựa chọn. Đồng thời còn có những dịch vụ tư vấn phục vụ cho người tham gia bảo hiểm. Đối với thị trường bảo hiểm không có môi giới bảo hiểm hoạt động thì chỉ là thị trường hoạt động bảo hiểm sơ khai, hiệu quả thấp. Như vậy, không thể phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN. ở nước ngoài, chế độ môi giới bảo hiểm rất phát triển.
Ví dụ: Như nghiệp vụ bảo hiểm của Lloyds’, việc ký hợp đồng bảo hiểm phải thông qua người môi giới bảo hiểm sắp xếp và đề nghị, sau khi xảy ra rủi ro thuộc trách nhiệm bảo hiểm, người môi giới bảo hiểm cũng phải chịu trách nhiệm bảo hiểm giải quyết vấn đề bồi thường. Hầu như mỗi người dân Nhật Bản đều hiểu rõ về môi giới bảo hiểm. Trong điều kiện kinh tế thị trường XHCN, bảo hiểm đã trở thành hàng hóa thì cần phải bán bảo hiểm cho mọi người trong xã hội. Tuy vậy, khi xây dựng sách lược kinh doanh bán bảo hiểm, nhà kinh doanh bảo hiểm chẳng những cần phải xét tới lợi ích của doanh nghiệp bảo hiểm mà còn phải xét tới lợi ích của người được bảo hiểm. Nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không thể biết rõ tình hình thật đầy đủ trên thị trường bảo hiểm, nhất là yêu cầu bảo hiểm, tâm trạng của người được bảo hiểm... Chỉ có cách thông qua hoạt động của người môi giới bảo hiểm trên khắp mọi nơi, phản ánh lại cho doanh nghiệp bảo hiểm biết được những tin tức đó, để bán ra được những sản phẩm bảo hiểm thích hợp, tạo đà cho doanh nghiệp bảo hiểm phát triển không ngừng. Vì vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường XHCN, cần phải xây dựng chế độ môi giời bảo hiểm cho phù hợp với nhu cầu phát triển không ngừng các hoạt động bảo hiểm ở nước ta, đưa thị trương bảo hiểm nhanh chóng hoà nhập với thị trường bảo hiểm Quốc tế.
II. Những qui định pháp lý đối với các giao dịch trên thị trường bảo hiểm .
Các giao dịch trên thị trường kinh doanh bảo hiểm chủ yếu là được lập thành Hợp đồng.
“ Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” Điều 571 của Bộ Luật dân sự.
Trên thị trường bảo hiểm có rất nhiều loại giao dịch hợp đồng khác nhau. Sau đây là một số loại giao dịch chủ yếu phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
1. Giao dịch hợp đồng Bảo hiểm gốc.
Giao dịch bảo hiểm gốc là giao dịch hợp đồng bảo hiểm, phát sinh giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng theo đó doanh nghiệp bảo hiểm đảm nhận trách nhiệm bồi thường trực tiếp ngay từ lúc ban đầu cho những thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm đối với người được bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm thương mại được coi là hợp đồng bảo hiểm gốc.
Khái niệm hợp đồng bảo hiểm thương mại: “ Hợp đồng bảo hiểm thương mại là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm (bên bảo hiểm) chấp nhận rủi ro trên cơ sở thu phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) để nhận trách nhiệm bồi thường hay trả tiền khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.”
Cũng như bất kỳ một loại hình hợp đồng nào, hợp đồng bảo hiểm thương mại là sự thoả thuận thồng nhất ý chí của các bên. Tuy nhiên sự thoả thuận và thống nhất ý chí của các bên trong hợp đồng bảo hiểm thương mại có tính đặc thù so với các hợp đồng khác. Điều này thể hiện ở chỗ, tuỳ vào từng loại bảo hiểm thương mại mà có sự khác nhau về mức độ của sự thoả thuận hay thống nhất ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng.
Vệ mặt pháp lý thì hợp đồng bảo hiểm thương mại có thể mang bản chất pháp lý của hợp đồng kinh tế hoặc của hợp đồng dân sự. Cơ cấu chủ thể và mục đích tham gia hợp đồng của chủ thể là những yếu tố qui định bản chất pháp lý của hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Căn cứ Bộ Luật dân sự được thông qua tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá IX và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 thì bản chất pháp lý của hợp đồng bảo hiểm thương mại được xác định như sau:
Thứ nhất: Hợp đồng bảo hiểm thương mại ký kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm thương mại với các pháp nhân cá nhân có đăng ký kinh doanh nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh được coi là hợp đồng kinh tế.
Thứ hai: Hợp đồng bảo hiểm thương mại ký kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm thương mại, không hội đủ các điều kiện để coi là hợp đồng kinh tế thì được coi là hợp đồng dân sự.
Hợp đồng bảo hiểm thương mại thuộc loại hình hợp đồng song vụ. Tính song vụ của hợp đồng bảo hiểm thương mại thể hiện ở chỗ các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm đều có quyền và nghĩa vụ. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm và quyền này gắn liền với các nghĩa vụ bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Còn đối với những người tham gia bảo hiểm, họ có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm (mua bảo hiểm) tương ứng với quyền yêu cầu Doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Về tính đền bù, hợp đồng bảo hiểm thương mại thuộc loại hợp đồng lưỡng tính. Chỉ trong các trường hợp cụ thể mới xác định được một hợp đồng bảo hiểm thương mại là hợp đồng có đền bù hay không có đền bù. Bởi vì, trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm thương mại người được bảo hiểm chỉ được đền bù khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng không xảy ra sự kiện bảo hiểm thì người được bảo hiểm sẽ không được đền bù. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp đặc biệt thì hợp đồng bảo hiểm thương mại luôn luôn mang tính có đền bù, như trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, người mua bảo hiểm được trả tiền bảo hiểm khi gặp các rủi ro thuộc diện bảo hiểm và cả khi gặp rủi ro nhưng do hợp đông bảo hiểm hết hạn.
Dựa vào các tiêu chuẩn khác nhau mà hợp đồng bảo hiểm thương mại được phân làm nhiều loại:
Thứ nhất: Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm thương mại gồm hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Thứ hai: Căn cứ vào phân loại được quy định tại Điều 572 của Bộ Luật dân sự, hợp đồng bảo hiểm thương mại gồm hợp đồng bảo hiểm tự nguyện và hợp đồng bảo hiểm bắt buộc.
1.1.Chủ thể của Hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Khi nói đến hợp đồng thì bao giờ cũng có hai bên chủ thể thoả thuận và ký kết. Vì thế chủ thể của hợp đồng bảo hiểm thương mại là bên bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm.
1.1.1. Bên bảo hiểm.
Bên bảo hiểm là Doanh nghiệp bảo hiểm tham gia hợp đồng bảo hiểm với tư cách là một bên chủ thể.
Doanh nghiệp bảo hiểm gồm có:
Doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh bảo hiểm là tổ chức kinh doanh bảo hiểm do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, thực hiện kinh doanh bảo hiểm theo nhiệm vụ nhà nước giao.
Công ty cổ phần kinh doanh bảo hiểm là doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm được thành lập theo Luật công ty.
Công ty bảo hiểm Tương hỗ là công ty hoạt động bảo hiểm cho các thành viên của mình theo nguyên tắc tương hỗ không nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Công ty Liên doanh bảo hiểm là công ty bảo hiểm được thành lập trên cơ sở góp vốn của bên Việt nam và bên nươc ngoài.
Công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài là công ty bảo hiểm do tổ chức bảo hiểm nước ngoài đầu tư 100% vốn thành lập tại Việt Nam.
1.1.2.Bên tham gia bảo hiểm.
Bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) là các tổ chức và cá nhân có nhu cầu bảo hiểm hoặc có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật, là một bên chủ thể giao kết hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Trong xã hội có nhiều loại hình tổ chức như: Các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị... Tất cả những tổ chức này đều có thể trở thành một bên chủ thể của hợp đồng bảo hiểm thương mại mà không phụ thuộc họ có tư cách pháp nhân hay không có tư cách pháp nhân, là tổ chức trong nước hay tổ chức nước ngoài.
Đối với cá nhân để có thể trở thành một bên chủ thể của hợp đồng bảo hiểm thương mại khi họ có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và phải thoả mãn các điều kiện được quy định trong từng chế độ bảo hiểm cụ thể. Cá nhân tham gia hợp đồng bảo hiểm có thể là người Việt Nam hoặc người nước ngoài.
Trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm thương mại, bên mua bảo hiểm có thể thực hiện hành vi giao kết hợp đồng vì lợi ích của chính mình hoặc của người khác. Do đó, có thể có sự đồng nhất hoặc không đồng nhất giữa bên mua bảo hiểm với người được bảo hiểm.
Người được bảo hiểm là người có lợi trực tiếp bị rủi ro xâm hại.
Thông thường, người tham gia bảo hiểm là người có quyền được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Tuy nhiên trong một số trường hợp người tham gia bảo hiểm và người có quyền được hưởng quyền lợi bảo hiểm lại khác nhau.
Ví dụ: Chế độ bảo hiểm trách nhiệm các quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn thì người tham gia bảo hiểm là các quỹ tín dụng nhân dân, còn người có quyền được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm là người gửi tiền có kỳ hạn ở quỹ tín dụng nhân dân.
trong hầu hết các trường hợp, người có quyền được hưởng quyền lợi bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm là đồng nhất, nhưng trong một số trường hợp thì hai người này lại khác nhau.
Ví dụ: Chế độ bảo hiểm con người, nếu người có quyền được hưởng quyền lợi bảo hiểm chết thì người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm là người thừa kế.
1.2. Nguyên tắc giao kết Hợp đồng bảo hiểm.
Do bản chất pháp lý của hợp đồng bảo hiểm thương mại có thể là hợp đồng bảo hiểm dân sự hoặc có thể là hợp đồng kinh tế nên các nguyên tắc áp dụng cho việc giao kết phụ thuộc vào bản chất pháp lý của từng hợp đồng bảo hiểm thương mại cụ thể.
Đối với hợp đồng bảo hiểm thương mại mang bản chất pháp lý của hợp đồng dân sự thì nguyên tắc giao kết tuân theo các nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự.
Điều 395 Bộ luật dân sự quy định việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc sau:
\ Tự do giao kết hợp đồng, nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
\ Tự nguyện, bình dẳng, thiện chí hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Đối với hợp đồng bảo hiểm thương mại mang bản chất pháp lý của hợp đồng kinh tế thì việc giao kết hợp đồng bảo hiểm phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ban hành ngày 25/9/1989. Các nguyên tắc đó gồm có:
\ Nguyên tắc tự nguyện.
\ Nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi.
\ Nguyên tắc trực tiệp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật.
Trong chế độ bảo hiểm thương mại có loại hình bảo hiểm bắt buộc, việc giao kết hợp đồng và nội dung cơ bản của hợp đồng do pháp luật quy định và các bên chủ thể có nghĩa vụ thực hiện.
Khi đã xác định được chủ thể tham gia hợp đồng, nguyên tắc giao kết hợp đồng thì hai bên chủ thể thoả thuận đến nội dung của hợp đồng.
1.3. Nội dung của Hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Quan hệ hợp đồng bảo hiểm thương mại được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật và trở thành quan hệ pháp luật bảo hiểm thương maị. Nội dung của quan hệ pháp luật bảo hiểm thương mại gồm quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể được thể hiện ở các quy định của nhà nước về các chế độ bảo hiểm thương mại và ở các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Các điều khoản là các điều khoản cấu thành hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm thương mại được chia thành 3 loại:
- Điều khoản chủ yếu.
- Điều khoản thường lệ.
- Điều khoản tuỳ nghi.
1.3.1. Điều khoản chủ yếu.
Là những điều khoản không thể thiếu của hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Các điều khoản được coi là chủ yếu vừa thể hiện các quyền và nghĩa vụ chủ yếu vừa là cơ sở để xác lập và thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ của các bên cụ thể trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm thương mại. Do đó, nếu các bên không ghi các điều khoản chủ yếu vào văn bản hợp đồng thì các thoả thuận khác của các bên không có cơ sở để thực hiện và vì thế hợp đồng không có giá trị.
Trong các loại điều khoản chủ yếu có những điều khoản bắt buộc mang tính phổ biến áp dụng thì các thoả thuận khác của các bên không có cơ sở để thực hiện và vì thế hợp đồng không có giá trị.
Trong các loại điều khoản chủ yếu có những điều khoản bắt buộc mang tính phổ biến áp dụng cho mọi loại hợp đồng bảo hiểm thương mại. Các điều khoản này gồm:
\ Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng.
\ Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, người được bảo hiểm và người hưởng quyền lợi bảo hiểm.
\ Đối tượng bảo hiểm (phạm vi bảo hiểm).
\ Phí bảo hiểm.
\ Số tiền bảo hiểm.
1.3.2. Điều khoản thường lệ.
Là những điều khoản thể hiện một số quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng đã được pháp luật quy định.
Khi giao kết hợp đồng các bên có thể lựa chọn việc ghi hay không ghi các điều khoản này vào văn bản hợp đồng. Tuy không ghi các điều khoản thường lệ thì các bên vẫn phải tuân theo các quyền và nghĩa vụ đươc ghi nhận trong các văn bản pháp luật.
1.3.3. Điều khoản tuỳ nghi.
Là những điều khoản ghi nhận sự thoả thuận của các bên về một số quyền và nghĩa vụ.
Các điều khoản tuỳ nghi không ảnh hưởng tới giá trị pháp lý của toàn bộ hợp đồng bảo hiểm thương mại. Tuy vậy, các thoả thuận của các bên trong điều khoản tuỳ nghi không được trái với quy định của pháp luật.
1.4. Hình thức Hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Điều 574 của Bộ luật dân sự và các quy định của các văn bản pháp luật hiện hành về hợp đồng bảo hiểm thương mại thì hình thức của hợp đồng bảo hiểm thương mại là một văn bản hợp đồng. Đơn bảo hiểm hoặc Giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm cấp khi thiết lập quan hệ hợp đồng.
1.4.1. Đơn bảo hiểm.
Đơn bảo hiểm phải xác định rõ nội dung tương tự như một bản dự thảo hợp đồng, gồm các yếu tố chủ yếu như: Ngày, tháng, năm lập đơn; tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, người được bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm; những rủi ro được bảo hiểm; điều kiện bảo hiểm, số tiền bảo hiểm; phí bảo hiểm; ngày bắt đầu bảo hiểm và thời hạn bảo hiểm...
Khi đơn bảo hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận và bên tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm thì cam kết bảo hiểm phát sinh hiệu lực.
1.4.2. Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Là một loại chứng chỉ pháp lý do doanh nghiệp bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm, xác nhận hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, đơn bảo hiểm đã được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận.
1.5. Cách thức kí kết Hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Tuỳ vào từng loại hình bảo hiểm, bản chất pháp lý của từng loại quan hệ hợp đồng mà pháp luật quy định các cách thức ký kết hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì có mấy cách thức ký kết chủ yếu sau:
1.5.1. Phương pháp ký trực tiếp.
Là phương pháp mà theo đó các bên trực tiếp gặp nhau để thoả thuận về các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm thương mại và cùng ký vào văn bản hợp đồng.
1.5.2. Phương pháp ký gián tiếp.
Là phương pháp mà theo đó người tham gia bảo hiểm gửi văn bản đề nghị giao kết hợp đồng và các hồ sơ liên quan đến việc ký kết hợp đồng cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm nhận được văn bản đề nghị của người tham gia bảo hiểm, phải có quyết định chấp thuận hay không chấp thuận đề nghị bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm.
Nếu quá thời hạn trên mà doanh nghiệp bảo hiểm không có quyết định từ chối bảo hiểm thì coi như đề nghị bảo hiểm được chấp thuận.
1.5.3. Phương pháp ký theo thủ tục đơn giản.
Là phương pháp mà theo quy định của pháp luật, Hợp đồng bảo hiểm sẽ đương nhiên phát sinh hiệu lực khi người được bảo hiểm thực hiện theo hành vi giao kết một hợp đồng khác có liên quan.
Phương pháp này chỉ áp dụng đối với các loại hình bảo hiểm mà nội dung hợp đồng bảo hiểm đã được pháp luật quy định.
Ví dụ: Bảo hiểm khách du lịch.Đối với trường hợp vé vào cửa khu du lịch có thu phí bảo hiểm thì hành vi mua vé và kiểm soát để vào khu du lịch của khách du lịch được coi là hành vi giao kết hợp đồng bảo hiểm.
2. Giao dịch Hợp đồng Tái bảo hiểm.
Hợp đồng tái bảo hiểm là sự thoả thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm khác hoặc với doanh nghiệp bảo hiểm chuyên doanh tái bảo hiểm (bên nhận tái bảo hiểm), theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chuyển một phần rủi ro mà họ chịu trách nhiệm cho bên nhận tái bảo hiểm tương ứng với số phí tái bảo hiểm, còn bên nhận tái bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm trong phạm vi trách nhiệm tương ứng với số phí tái bảo hiểm đã nhận khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
3. Giao dịch hợp đồng đại lý bảo hiểm và hợp đồng môi giới bảo hiểm.
3.1. Hợp đồng đại lý bảo hiểm.
Hợp đồng đại lý bảo hiểm là sự thoả thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm với bên đại lý, theo đó bên đại lý theo sự uỷ quyền và nhân danh doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện một số công việc mà doanh nghiệp bảo hiểm giao, còn doanh nghiệp bảo hiểm trả một khoản tiền tương ứng với công việc giao cho bên đại lý.
Việc làm đại lý bảo hiểm phải được xác lập bằng hợp đồng.
Hợp đồng đại lý bảo hiểm phải có các nội dung chủ yếu sau:
Tên, địa chỉ của bên đại lý bảo hiểm;
Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm;
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm;
Nội dung và phạm vi hoạt động đại lý bảo hiểm;
hoa hồng đại lý bảo hiểm;
Thời hạn hợp đồng;
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp.
3.2. Hợp đồng môi giới bảo hiểm.
Hợp đồng môi giới bảo hiểm là sự thoả thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm với bên môi giới (người đóng vai trò trung gian giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm), theo đó bên môi giới thực hiện một số công việc để nhằm thiết lập quan hệ bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, còn doanh nghiệp bảo hiểm trả một khoản tiền tương ứng với công việc mà bên môi giới thực hiện.
Việc môi giới bảo hiểm phải được lập thành hợp đồng.
Hợp đồng môi giới phải được lập thành văn bản với các nội dung chủ yếu sau đây:
\ Tên địa chỉ của các bên.
\ Nội dung cụ thể về việc môi giới.
\ Mức thù lao.
\ Thời hạn hiệu lực của hợp đồng môi giới.
\ Trong hợp đồng môi giới phải ghi rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên.
III. Những qui định pháp lý về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói riêng cũng như bất kỳ một loại hình kinh doanh khác nói chung, đều cần có sự điều chỉnh và quản lý của Nhà nước. Nhà nước thực hiện việc quản các hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh bảo hiểm nói riêng bằng pháp luật. Hiện nay, nhà nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường nên các quy định pháp luật cũng thay đổi theo cơ chế quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, trong đó kinh doanh bảo hiểm. Đó là sự thay đổi từ sự quản lý ở tầm vĩ mô bằng mệnh lệnh hành chính, bằng hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh sang sự quản lý ở tầm vĩ mô bằng kế hoạch định hướng. Trong cơ chế quản lý mới, các doanh nghiệp được trao quyền tự do kinh doanh, vốn là tiềm năng cơ bản và quan trọng nhất của một chủ thể kinh doanh. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, doanh nghiệp bảo hiểm dù tồn tại dưới bất cứ hình thức sở hữu nào cũng có quyền tự do kinh doanh. Đặc điểm này đã chi phối các quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Đó là phải đảm bảo được sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này xuất phát từ đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời vẫn duy trì quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm tạo điều kiện phát triển thị trường bảo hiểm nói riêng và các nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Thông thường, ở các nước cũng như ở Việt Nam các vi phạm về quản lý bảo hiểm, chủ yếu được áp dụng đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Trước hết, vì doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh trên cơ sở quỹ bảo hiểm do các bên tham gia bảo hiểm đóng góp, cho nên nhà nước cần tăng cường quản lý đối với doanh nghiệp bảo hiểm.
1. Cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm.
Cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm được quy định tại Điều 121 Luật Kinh doanh Bảo hiểm bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước sau đây:
1,Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Kinh doanh bảo hiểm.
2,Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.
3,Các Bộ, cơ quan ngang bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm theo quy định của Pháp luật.
4,Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại địa phương theo quy định của pháp luật.
2. Thẩm quyền quản lý nhà nước về Kinh doanh bảo hiểm.
Các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm có những quyền và nghĩa vụ sau:
- Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy định pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam.
- Cấp và thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam.
- ááp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm.
- Tổ chức thông tin và dự báo tình hình thị trường bảo hiểm.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm.
- Chấp thuận việc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt động ở nước ngoài.
- Quản lý hoạt động của văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt nam.
- Tổ chức việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm.
- Thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Các quy định hiện hành về cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm cũng như thẩm quyền của các cơ quan quản lý này khá toàn diện và cụ thể.
3. Các hành vi vi phạm pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm và chế tài sự vi phạm.
Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, vốn dĩ là hoạt động dễ xảy ra gian lận và vi phạm pháp luật nên việc chi tiết hoá các hành vi vi phạm pháp luật sẽ tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước có thể xử lý tốt và kịp thời các vi phạm xảy ra.
3.1. Các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
- Kinh doanh bảo hiểm không có giấy phép thành lập và hoạt động hoặc không đúng với nội dung giấy phép thành lập và hoạt động.
- Vi phạm quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động, thanh tra, kiểm tra và giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Cạnh tranh bất hợp pháp.
- ép buộc giao kết hợp đồng bảo hiểm.
- Vi phạm quy định về bảo hiểm bắt buộc.
- Vi phạm nghĩa vụ giữ bí mật về thông tin có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm do bên mua bảo hiểm cung cấp.
- Cung cấp thông tin, số liệu, báo cáo sai sự thật.
- Kinh doanh trong điều kiện không đảm bảo yêu cầu về tài chính, vi phạm quy định về vốn pháp định, dự trữ, ký quỹ, trích lập, quản lý và sử dụng dự phòng nghiệp vụ.
- Vi phạm quy định về đầu tư vốn.
- Các hành vi khác vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
- Khi đã xác định được hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì cần phải áp dụng các chế tài để xử lý những hành vi vi phạm đó.
3.2. Chế tài sự vi phạm.
Theo luật định các hình thức chế tài áp dụng để xử lý vi phạm pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
- Người nào vi phạm quy định của pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt nam, quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm thì tuỳ theo tính chất mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật và bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
chươngiii
một số kiến nghị và kết luận.
Như tên gọi của nó, Khoá luận này nghiên cứu Mô hình pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi. Qua những nội dung đã được đề cập ở trên ta có thể rút ra một số kết luận sau.
Kinh doanh bảo hiểm ra đời trong nền kinh tế hàng hoá trên nhu cầu cơ sở được đảm bảo về mặt tài chính của các tổ chức cá nhân đối với những thiệt hại có thể có do rủi ro gây ra. Trong xã hội hiện đại, bảo hiểm không chỉ góp phần xử lý ngăn chặn rủi ro mà còn là một trung gian tài chính, một công cụ phát triển kinh tế quan trọng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, trước những yêu cầu của việc mở rộng thị trường kinh doanh bảo hiểm cũng như trước những yêu cầu tự hoàn thiện của hện thồng pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế nên Quốc hội nước ta đã ban hành Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã được ra đời để kịp thời điều chỉnh ngành hoạt động kinh doanh này.
Mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay phần nào đã được hoàn thiện khi đã có hẳn một văn bản Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Luật Kinh doanh Bảo hiểm ra đời thay thế cho Nghị định 100/CP trước kia và bổ xung thêm những phần còn thiếu sót mà những văn bản luật trước chưa đáp ứng được. Nên Luật Kinh doanh Bảo hiểm ra đời rất đúng lúc để điều chỉnh cho ngành luật kinh doanh còn mới này ở nước ta. Mặc dù Luật Kinh doanh Bảo hiểm mới ra đời những vẫn còn những điều bất cập cho nên em mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện hơn mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Các quan hệ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm không chỉ chịu sự tác động của các quy phạm Luật Kinh doanh Bảo hiểm mà còn chịu sự tác động của các văn bản pháp luật khác. Nếu các văn bản trên có những quy định gây cản trở lẫn nhau trong việc thực hiện thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hiệu qủa của văn bản Luật Kinh doanh Bảo hiểm.
Hiện nay, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhà nước ta thực hiên nguyên tắc “Một cửa một dấu” với thủ tục thành lập của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này thể hiện ở qui định Giấy phép đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có giá trị là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Điều 60 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Ngoài ra, trong quá trình xét duyệt dự án đầu tư, bên nước ngoài chỉ tiến hành các thủ tục đối với một cơ quan cấp giấy phép đầu tư là Bộ Kế hoạch và Đầu tư hay UBND cấp tỉnh (Điều 59 Luật Đầu tư nước ngoài). Tuy nhiên, do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm nên điều kiện tiên quyết cho việc thành lập mọi doanh nghiệp bảo hiểm trong đó có doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài là Giấy chứng nhận do Bộ Tài Chính cấp. Như vậy quy định trên đã phá vỡ nguyên tác “Một cửa, một dấu” đối với việc thành lập doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, để đảm bảo được tính thống nhất trong hệ thống pháp luật nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cần phải có những quy định để khắc phục tình trạng trên.
Đầu năm 1999, Luật thuế giá trị gia tăng( VAT) đã có hiệu lực thi hành. Theo Điều 4 của Luật thuế giá trị gia tăng, các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm cây trồng vật nuôi và các loại hình bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh không thuộc diện chịu thuế VAT. Những dịch vụ bảo hiểm này sẽ không được khấu trừ và hoàn thuế VAT đầu vào. Như vậy đối với mỗi doanh nghiệp bảo hiểm việc xác định và hạch toán riêng các khoản thu từ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh , bảo hiểm cây trồng vật nuôi và các loại bảo hiểm không nhằm mục kinh doanh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng thuế VAT với doanh nghiệp bảo hiểm cũng như việc kiểm tra các chế độ tài chính, hạch toán, báo cáo của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Vì các lý do nêu trên, cần phải có những quy định cụ thể về việc hạch toán, kê khai thuế với các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm bảo đảm sự đồng bộ giữa Luật Kinh doanh Bảo hiểm với các Luật thuế khác.
Theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng, đối tượng không thuộc diện chịu thuế VAT phải là những hàng hoá và dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh, và đối tượng nộp thuế VAT là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh. Đồng thời, Luật thuế giá trị gia tăng cũng xếp các loại bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh vào đối tượng không thuộc diện chịu thuế. Quy định như trên đã tạo ra sự mâu thuẫn không đáng có. Các loại bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh (theo nghĩa thông thường) thực chất không phải là hàng hoá và dịch vụ. Vì vậy các loại bảo hiểm này không thuộc diện điều chỉnh của Luật Thuế giá trị gia tăng và không cần quy định trong luật thuế này. Ngược lại nếu có một loại hình “Bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh” là hàng hoá dịch vụ thì sẽ dẫn đến một kết luận vô lý là những có sở sản xuất, kinh doanh những dịch vụ “Bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh”. Do đó cần phải có những quy định cụ thể hoá các loại bảo hiểm không thuộc diện chịu thuế VAT để khắc phục khiếm khuyết trên.
Trong Luật thuế giá trị gia tăng, dịch vụ môi giới bảo hiểm xếp vào nhóm có thuế xuất cao (20%). Đây là quy định làm hạn chế hoạt động của các công ty môi giới bảo hiểm từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, các tố chức, các cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài thường thông qua các công ty môi giới bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm tại Việt Nam. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty môi giới bảo hiểm thì
cần phải có những quy định về thuế xuất hợp lý với dịch vụ môi giới bảo hiểm.
Trên thực tiễn cho thấy Luật Kinh doanh Bảo hiểm có thể phát huy hiệu lực thì phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện vật chất phục vụ cho việc thực thi văn bản Luật Kinh doanh Bảo hiểm mới ban hành.
Nhiệm vụ trước mắt hiên nay là phải củng cố và tăng cường cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh Bảo hiểm., đảm bảo có đủ cán bộ với trình độ chuyên môn đủ khả năng chỉ đạo và giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường. Trong tương lại có thể chuyển cơ quan quản lý trực tiếp hoạt kinh doanh bảo hiểm từ cấp phòng quản lý bảo hiểm thuộc Vụ Tài chính ngân hàng và các tổ chức tài chính lên cấp Vụ quản lý bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu phát triển phong phú và đa dạng của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới.
Ngoài ra, để các doanh nghiệp bảo hiểm không bỡ ngỡ trước các quy định của Luật Kinh doanh Bảo hiểm thì nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp thông tin tuyên truyền về nội dung của văn bản luật. Đồng thời tiềp thu những kiến nghị từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm để có được những quy định phù hợp với thực tế.
Trên đây là một số kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo cho Luật Kinh doanh Bảo hiểm phát huy được vai trò của mình trong đời sống xã hội. Mặc dù đã được sự hướng dẫn chu đáo của thầy giáo nhưng với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian nghiên cứu thực tế chưa dài nên một số kiến nghị còn chưa phù hợp và chưa có tính khả thi. Em rất mong được sự đóng góp và hướng dẫn thêm của các thầy cô và các bạn để được hoàn thiện hơn các giải pháp và kiến nghị của Khoá luận này.
lời cám ơn
Khoá luận được hoàn thành với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy Nguyễn Tuyến. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người thầy đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết của mình. Nhân đây em cũng tỏ lòng biết ơn đến Ban giám hiệu, phòng Đào tạo trường Đại Học DL Đông Đô, ngành Tư vấn pháp luật cùng gia đình và bạn bè đã, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và thực hiện khoá luận tốt nghiệp của mình.
mở đầu
“ Người nông dân ngày xưa gắn bó với trang trại nếu nó bị cháy ông ta sẽ khốn khổ; con người ngày nay gắn bó với chiếc xe hơi và nếu người ta phá huỷ nó, anh ta buồn. Anh ta chỉ buồn vì đã có Bảo hiểm... Anh ta sẽ khốn khổ, nếu không có bảo hiểm!” Cựu Tổng thống Pháp Geoger Pompidou đã phát biểu như vậy, khi nói đến vai trò của bảo hiểm trong xã hội hiện đại. Với những đặc thù riêng vốn có của mình, Bảo hiểm không chỉ là công cụ phát triển kinh tế mà còn mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. ở Việt nam, việc phát triển hoạt động kinh doanh Bảo hiểm đã tạo ra sự phát triển toàn diện của thị trường tài chính, và góp phần thực hiện chủ trương xây dựng nề kinh tế theo định hướng “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
Mặc dù hoạt động kinh doanh Bảo hiểm đã xuất hiện, tồn tại và phát triển rất lâu ở trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam thì loại hình kinh doanh này mới được biết đến và phát triển rất lớn mạnh trong những năm gần đây. Hoạt động kinh doanh Bảo hiểm ở nước ta hiện nay đang có bước chuyển biến đáng kể và đã thực sự đi vào hoạt động theo cơ chế thị trường. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại hình Doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và những hoạt động kinh doanh này đã góp một phần đáng kể vào nguồn thu nhập của Nhà nước. Chính nhờ những bước phát triển đó nên để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh Bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển kinh tế- xã hội, ổ định đời sống nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nên Quốc hội nước Cộng Hoà XHCN Việt nam khoá X, kì họp thư 8 đã soạn thảo và ban hành Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã được thông qua ngày 9/12/2000 và có hiệu lực kể từ ngày 01/4/2001. Khi em viết luận văn này thì Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã được đưa vào áp dụng. Đây là một văn bản luật hoàn chỉnh về kinh doanh bảo hiểm nhưng với lòng ham mê nghiên cứu em đã chọn đề tài cho luận văn của em có tên là “ Mô hình pháp luật về Kinh doanh Bảo hiểm ở Việt nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường” với mong muốn hiểu biết thêm về hoạt động kinh doanh Bảo hiểm ở nước ta hiện nay.
Khoá luận gồm có 64 trang được chia làm 3 chương:
Chương I : nói về hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Từ đó giúp cho người đọc hiểu được khái niệm, các đặc trưng và vai trò, hình thức hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam. Những ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với Nhà nước và nền kinh tế xã hội từ đó thấy được sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Nội dung chính của luận văn được trình bày ở chương II.
Chương II trình bày về, Mô hình pháp luật về Kinh doanh Bảo hiểm ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Phần I chương II đề cập đến Những qui định pháp lý đối với chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường bảo hiểm. Chủ thể tham gia vào giao dịch Kinh doanh Bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo hiểm, nên các doanh nghiệp bảo hiểm
phải tuân theo những qui chế pháp lý do pháp luật qui định như về thành lập, cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động... của doanh nghiệp bảo hiểm. Phần II chương II trình bày về những qui định pháp lý đối với giao dịch trên thị trường bảo hiểm. Mỗi loại hoạt động kinh doanh đều có các loại hình giao dịch và được pháp luật qui định. Vì vậy trong phần này em nêu ra các loại hình giao dịch chủ yếu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đang được áp dụng ở Việt nam. Phần III chương II, nói đến qui định pháp lý về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong phần này nêu rõ ,Cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước về bảo hiểm và thẩm quyền quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Kinh doanh bảo hiểm. Các hành vi vi phạm pháp luật và các chế tài sự vi phạm pháp luật về bảo hiểm.
Chương III: là phần cuối cùng của Khoá luận.
Qua việc nghiên cứu và phân tích ở trên em đã rút ra kết luận và mạnh dạn đưa ra một số kết luận của mình để hoàn thiện hơn Mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm ở nước ta hiện nay.
Mặc dù đã cố gắng song còn hạn chế về trình độ lý luận cũng như thực tiễn nên Khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong có sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để khoá luận được tốt hơn.
Mục lục.
Chương I: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm............................................3
I. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường ....................3
1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên Thế giới và ở Việt Nam..............................................................................................3
1.1.Trên thế giới..............................................................................................3
1.2.ở Việt Nam...............................................................................................6
2. Khái niệm, vai trò và đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm.............9
2.1.Khái niệm.................................................................................................9
2.1.Vai trò.......................................................................................................9
2.3.Các đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm................................11
3. Các hình thức hoạt động kinh doanh bảo hiểm.............................................12
3.1.Kinh doanh bảo hiểm gốc.......................................................................12
3.2. Kinh doanh tái bảo hiểm........................................................................13
3.3.Kinh doanh môi giới bảo hiểm...............................................................14
II. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm..................................................................................................................15
1. Những ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với Nhà nước, nền kinh tế- xã hội .................................................................................................15
2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm..................................................................................................................18
Chương II: Mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay ..............................................................19
I. Những quy định pháp lý đối với chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường bảo hiểm..................................................................................................................19
1.Quy chế pháp lý của Doanh nghiệp bảo hiểm...............................................19
1.1.Khái niệm Doanh nghiệp bảo hiểm........................................................19
1.2.Các đặc điểm của Doanh nghiệp bảo hiểm.............................................19
1.3.Thành lập và đăng ký kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm.............21
1.4.Cơ cấu tổ chức, quản trị và điều hành Doanh nghiệp bảo hiểm..............22
1.5.Hoạt động chủ yếu của Doanh nghiệp bảo hiểm....................................29
1.6.Giả thể, phá sản, thanh lý Doanh nghiệp bảo hiểm................................35
1.7.Các loại hình Doanh nghiệp bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.........................................................................................................................43
2. Quy chế pháp lý của đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm........................45
2.1.Đại lý bảo hiểm......................................................................................45
2.2.Môi giới bảo hiểm..................................................................................48
II. Những quy định pháp lý đối với các giao dịch trên thị trường bảo hiểm.........................................................................................................................49
1.Giao dịch hợp đồng bảo hiểm gốc.................................................................49
2.Giao dịch hợp đồng tái bảo hiểm...................................................................56
3.Giao dịch hợp đồng đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm...........................56
3.1.Giao dịch hợp đồng đại lý bảo hiểm.......................................................56
3.2.Giao dịch hợp đồng mội giới bảo hiểm..................................................57
III. Những quy định pháp lý về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm......................................................................................................57
1.Cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước về bảo hiểm................................58
2.Thẩm quyền quản lý Nhà nước về bảo hiểm.................................................59
3.Các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm và chế tài sự vi phạm................59
3.1.Các hành vi vi phạm pháp luật ...............................................................59
3.2.Chế tài sự vi phạm...................................................................................60
Chương III: Một số kiến nghị và kết luận........................................61
tài liệu tham khảo.
1. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2001, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2. Bộ Luật dân sự 9/11/1995, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
3. Luật thương mại 10/5/1997.
4. Giáo trình Luật Tài chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân (1999).
5. Giáo trình Bảo hiểm, Trường Tài chính kế toán, nhà xuất bản Tài chính (1999).
6. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Giáo dục (1998).
7. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ( sửa đổi) 12/11/1996.
8. Một số điều cần biết về pháp lý trong Kinh doanh bảo hiểm, GS.TS. Trương Mộc Lâm, Lưu Nguyên Khánh, Nhà xuất bản Thống Kê (2000).
9. Bảo hiểm Nguyên Tắc và Thực Hành, Biên soạn Tiến sĩ Divid Bland Học viện Bảo hiểm Hoàng Gia Anh, Nhà xuất bản Tài Chính.
10. Tìm hiểu Luật phá sản Doanh nghiệp và Hướng dẫn thi hành, Nhà xuất bản Lao Động (2000).
11. Nghị Định 100/CP của Chính Phủ ngày 18/12/1993, Quy định về Kinh doanh bảo hiểm.
12. Thông tư liên tịch số 119/TTLT ngày 04/6/1997 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án, Nhà xuất bản Lao Động (2000).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33524.doc